Tải bản đầy đủ (.pdf) (20 trang)

Bài tiểu luận về đường lối đảng cộng sản việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (305.38 KB, 20 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC GIAO THƠNG VẬN TẢI TP. HỒ CHÍ MINH

KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

BÙI VĂN QUÂN - 1751080164 - 010100500306

TIỂU LUẬN KẾT THÚC HỌC PHẦN ĐƯỜNG LỐI CÁCH
MẠNG CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM

TÊN ĐỀ TÀI
NHẬN THỨC CỦA ĐẢNG VỀ KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
TỪ ĐẠI HỘI IX ĐẾN ĐẠI HỘI XI VÀ BÀI HỌC RÚT
RA TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
Giảng viên hướng dẫn: Nguyễn Thị Quế


Mục Lục
Mở đầu......................................................................................................................... 1
Chương 1.Nhận thức của đảng về kinh tế thị trường từ đại hội IX đến đại hội
XI.................................................................................................................................. 2
1.1. Tình hình thế giới và trong nước trước khi diễn ra đại hội lần thứ IX đến lần thứ
XI...................................................................................................................................2
1.1.1. Tình hình thế giới............................................................................................. 2
1.1.2. Tình hình trong nước.......................................................................................... 2
1.2 Nhận thức của đảng về kinh tế thị trường tại đại hội lần thứ IX........................... 5
1.3 Nhận thức của đảng về kinh tế thị trường tại đại hội lần thứ X............................ 6
1.4 Nhận thức của đảng về kinh tế thị trường tại đại hội lần thứ XI........................... 8
Chương 2. Một số bài học kinh nghiệm trong quá trình phát triển Việt Nam
hiện nay...................................................................................................................... 11
2.1. Bài học kinh nghiệm rút ra từ Đại hội lần thứ IX............................................... 11
2.2. Bài học kinh nghiệm rút ra từ Đại hội lần thứ X................................................ 11


2.2. Bài học kinh nghiệm rút ra từ Đại hội lần thứ XI............................................... 13
2.3. Bài học kinh nghiệm rút ra từ Đại hội lần thứ XI đến đại hội thứ XI để phát đất
nước trong giai đoạn hiện nay.................................................................................... 14
Kết luận......................................................................................................................17
Tài liệu tham khảo:...................................................................................................18


Mở đầu
Sau 20 năm đổi mới có những bước tiến bộ vượt bậc. Đường lối và chính sách
đổi mới từ Đại hội VI (1986) của Đảng đã đặt cơ sở, nền tảng ban đầu cho giai
đoạn chuyển đổi mạnh mẽ của nền kinh tế nước ta. Đảng đã đề ra đường lối đổi
mới tồn diện, sâu sắc, trong đó có đổi mới tư duy về kinh tế, đây là bước đột phá
cho công cuộc đổi mới các lĩnh vực tiếp theo.
Bước đổi mới trong tư duy kinh tế của Đảng là: Nước ta đã chuyển đổi thành
công từ thể chế kinh tế kế hoạch hóa tập trung quan liêu – bao cấp sang thể chế
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đường lối đổi mới của Đảng đã
được thể chế hóa thành pháp luật, tạo hành lang pháp lý cho nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa hình thành và phát triển. Mà thành tựu nổi
bật nhất là cơ cấu kinh tế nhiều thành phần được hình thành: từ sở hữu tồn dân
và tập thể, từ kinh tế quốc doanh và hợp tác xã là chủ yếu đã chuyển sang nhiều
hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế đan xen, hỗn hợp, trong đó sở hữu
tồn dân những tư liệu sản xuất chủ yếu và kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo.
Điều đó đã tạo ra động lực và điều kiện thuận lợi cho giải phóng sức sản xuất,
khai thác tiềm năng trong và ngoài nước vào phát triển kinh tế - xã hội.
Để đạt được những mục tiêu đó bên cạnh phải tận dụng những ngồn lực vốn có
như tài nguyên thiên nhiên, nguồn nhân lực, khoa học kỹ thuật, vốn đầu tư …thì
Đảng ta cần có tư duy đổi mới đúng đắn nhất là về lĩnh vực phát triển kinh tế. Đó
là nhiệm vụ đặt ra vơ cùng cấp bách và khó khăn, bởi lẽ trong bối cảnh hiện nay
bên cạnh tình hình kinh tế cịn nhiều biến động nước ta phải đối mặt với vấn đề
an ninh chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ diễn ra rất phức tạp và khó lường trước .

Sau khi tìm hiểu và tiếp thu môn học “ Đường lối Cách mạng của Đảng Cộng
sản Việt Nam ” em đã phần nào hiểu được tầm quan trong về những quyết sách
đúng đắn của Đảng về công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong. Chính vì
vậy em đã quyết định chọn đề tài “ Nhận thức của đảng về kinh tế thị trường từ
đại hôi IX đến đại hội XI và bài học rút ra trong giai đoạn hiện nay ”

1


Chương 1. Nhận thức của đảng về kinh tế thị trường từ đại hội IX đến đại hội
XI
1.1. Tình hình thế giới và trong nước trước khi diễn ra đại hội lần thứ IX đến
lần thứ XI
1.1.1. Tình hình thế giới
Thế kỷ XXI có nhiều biến đổi. Khoa học và cơng nghệ sẽ có bước tiến nhảy vọt.
Kinh tế tri thức có vai trị ngày càng nổi bật trong q trình phát triển lực lượng sản
xuất.
Tồn cầu hố kinh tế là một xu thế khách quan, lôi cuốn ngày càng nhiều nước
tham gia; xu thế này đang bị một số nước phát triển và các tập đoàn kinh tế tư bản
xuyên quốc gia chi phối, chứa đựng nhiều mâu thuẫn, vừa có mặt tích cực vừa có
mặt tiêu cực, vừa có hợp tác vừa có đấu tranh.Tri thức và sở hữu trí tuệ có vai trị
ngày càng quan trọng. Trình độ làm chủ thơng tin, tri thức có ý nghĩa quyết định sự
phát triển. Chu trình luân chuyển vốn, đổi mới công nghệ và sản phẩm ngày càng
được rút ngắn; các điều kiện kinh doanh trên thị trường thế giới ln thay đổi địi
hỏi các quốc gia cũng như doanh nghiệp phải rất nhanh nhạy nắm bắt, thích nghi
Do đó xu thế hợp tác và cạnh tranh trên thế giới đang dần thay thế xu thế đối đầu
và xung đột. Trước tình hình đó, các quốc gia đều phải thay đổi về tư duy, chính
sách phát triển kinh tế đặc biệt là đường lối đối ngoại giữa các nước với nhau.
Chính vì vậy, mở cửa và hội nhập kinh tế quốc tế là yêu cầu bắt buộc, là đòi hỏi của
chính yêu cầu phát triển đối với nền kinh tế Việt Nam

1.1.2. Tình hình trong nước
Những thành tựu kinh tế nước ta đã đạt được trước khi diễn ra đại hội lần thứ
IX đên đại hội thứ XI:
Đất nước đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội. Tổng sản phẩm trong nước
(GDP) sau 10 năm tăng hơn gấp đơi (2,07 lần). Tích lũy nội bộ của nền kinh tế từ
mức không đáng kể, đến năm 2000 đã đạt 27% GDP. Từ tình trạng hàng hố khan
hiếm nghiêm trọng, nay sản xuất đã đáp ứng được các nhu cầu thiết yếu của nhân
2


dân và nền kinh tế, tăng xuất khẩu và có dự trữ. Kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội phát
triển nhanh. Cơ cấu kinh tế có bước chuyển dịch tích cực. Trong GDP, tỷ trọng
nơng nghiệp từ 38,7% giảm xuống 24,3%, công nghiệp và xây dựng từ 22,7% lên
36,6%, dịch vụ từ 38,6% tăng lên 39,1%
Quan hệ sản xuất đã có bước đổi mới phù hợp hơn với trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất và thúc đẩy sự hình thành nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa. Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế; doanh nghiệp
nhà nước được sắp xếp lại một bước, thích nghi dần với cơ chế mới, hình thành
những tổng cơng ty lớn trên nhiều lĩnh vực then chốt. Kinh tế tập thể có bước
chuyển đổi và phát triển đa dạng theo phương thức mới. Kinh tế hộ phát huy tác
dụng rất quan trọng trong nông nghiệp; kinh tế cá thể, tư nhân, kinh tế có vốn đầu tư
nước ngồi phát triển nhanh. Cơ chế quản lý và phân phối có nhiều đổi mới, đáp
ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội.
Từ chỗ bị bao vây, cấm vận, nước ta đã phát triển quan hệ kinh tế với hầu khắp các
nước, gia nhập và có vai trị ngày càng tích cực trong nhiều tổ chức kinh tế quốc tế
và khu vực, chủ động từng bước hội nhập có hiệu quả với kinh tế thế giới. Nhịp độ
tăng kim ngạch xuất khẩu gần gấp ba nhịp độ tăng GDP. Thu hút được một khối
lượng khá lớn vốn từ bên ngồi cùng nhiều cơng nghệ và kinh nghiệm quản lý tiên
tiến.
Đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân được cải thiện rõ rệt. Trình độ dân trí,

chất lượng nguồn nhân lực và tính năng động trong xã hội được nâng lên đáng kể.
Đã hoàn thành mục tiêu xoá mù chữ và phổ cập giáo dục tiểu học trong cả nước; bắt
đầu phổ cập trung học cơ sở ở một số thành phố, tỉnh đồng bằng. Số sinh viên đại
học, cao đẳng tăng gấp 6 lần. Đào tạo nghề được mở rộng. Năng lực nghiên cứu
khoa học được tăng cường, ứng dụng nhiều công nghệ tiên tiến. Các hoạt động văn
hố, thơng tin phát triển rộng rãi và nâng cao chất lượng.
Cùng với những nỗ lực to lớn của lực lượng vũ trang nhân dân trong xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc, những thành tựu phát triển kinh tế - xã hội đã tạo điều kiện tăng
cường tiềm lực, củng cố thế trận quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân, giữ
3


vững độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, bảo đảm ổn định chính trị
và trật tự an tồn xã hội.
Kết luận : Để có được những thành tựu trên nhà nước đường lối đổi mới đúng đắn
của Đảng cùng những cố gắng và tiến bộ trong công tác quản lý của Nhà nước đã
phát huy được nhân tố có ý nghĩa quyết định là ý chí kiên cường, tính năng động,
sáng tạo và sự nỗ lực phấn đấu của nhân dân
Bên cạnh đó chúng ta cũng có những mặc tiêu cực như:
Nền kinh tế kém hiệu quả và sức cạnh tranh cịn yếu. Tích luỹ nội bộ và sức mua
trong nước còn thấp. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch chậm theo hướng cơng nghiệp hố,
hiện đại hố, gắn sản xuất với thị trường; cơ cấu đầu tư cịn nhiều bất hợp lý. Tình
trạng bao cấp và bảo hộ còn nặng. Đầu tư của Nhà nước còn thất thốt và lãng phí.
Nhịp độ thu hút đầu tư trực tiếp của nước ngoài giảm mạnh. Tăng trưởng kinh tế
những năm gần đây giảm sút, năm 2000 tuy đã tăng lên nhưng cịn thấp hơn mức
bình qn của thập kỷ 90.
Quan hệ sản xuất có mặt chưa phù hợp, hạn chế việc giải phóng và phát triển lực
lượng sản xuất. Chưa có chuyển biến đáng kể trong việc đổi mới và phát triển
doanh nghiệp nhà nước. Kinh tế tập thể phát triển chậm, việc chuyển đổi các hợp
tác xã theo Luật ở nhiều nơi cịn mang tính hình thức, hiệu quả thấp. Các thành

phần kinh tế khác chưa phát huy hết năng lực, chưa thực sự được bình đẳng và yên
tâm đầu tư kinh doanh. Cơ chế quản lý, chính sách phân phối có mặt chưa hợp lý,
chưa thúc đẩy tiết kiệm, tăng năng suất, kích thích đầu tư phát triển; chênh lệch giàu
nghèo tăng nhanh.
Kinh tế vĩ mơ cịn những yếu tố thiếu vững chắc. Hệ thống tài chính, ngân hàng,
kế hoạch đổi mới chậm, chất lượng hoạt động hạn chế; mơi trường đầu tư, kinh
doanh cịn nhiều vướng mắc, chưa tạo điều kiện và hỗ trợ tốt cho các thành phần
kinh tế phát triển sản xuất, kinh doanh.
Giáo dục, đào tạo còn yếu về chất lượng, cơ cấu đào tạo chưa phù hợp, có nhiều
tiêu cực trong dạy, học, và thi cử... Khoa học và công nghệ chưa thật sự trở thành
4


động lực phát triển kinh tế - xã hội. Cơ sở vật chất của các ngành y tế, giáo dục,
khoa học, văn hố, thơng tin, thể thao cịn nhiều thiếu thốn. Việc đổi mới cơ chế
quản lý và thực hiện xã hội hóa trong các lĩnh vực này triển khai chậm.
Đời sống của một bộ phận nhân dân còn nhiều khó khăn, nhất là ở vùng núi, vùng
sâu, vùng thường bị thiên tai. Số lao động chưa có việc làm và thiếu việc làm còn
lớn. Nhiều tệ nạn xã hội chưa được đẩy lùi, nạn ma tuý, mại dâm, lây nhiễm
HIV-AIDS có chiều hướng lan rộng. Tai nạn giao thơng ngày càng tăng. Môi
trường sống bị ô nhiễm ngày càng nhiều.
Kết luận: Những mặt yếu kém, bất cập nói trên nguyên nhân chủ yếu là do những
khuyết điểm trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành
1.2 Nhận thức của đảng về kinh tế thị trường tại đại hội lần thứ IX
Đại hội IX của Đảng (4-2001) xác định nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa là “mơ hình kinh tế tổng qt của nước ta trong thời kỳ quá độ đi lên
chủ nghĩa xã hội. chủ nghĩa”1.
Xác định kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa là:
“ Một kiểu tổ chức kinh tế vừa tuân theo quy luật của kinh tế thị trường vừa dựa
trên cơ sở và chịu sự chi phối bởi các nguyên tắc và bản chất của chủ nghĩa xã hội”.

Trong nền kinh tế đó, các thế mạnh của “ thị trường” được sử dụng cơ sở vật chất
kỹ thuật – của chủ nghĩa xã hội, nâng cao đời sống nhân dân”, còn tính “định hướng
xã hội chủ nghĩa” được thể hiện trên cả ba mặt của quan hệ sản xuất: sở hữu, tổ
chức quản lý và phân phối, nhằm mục đích cuối cùng là “dân giàu, nước mạnh, tiên
tiến hiện đại trong xã hội do dân làm chủ, nhân ái, có văn hóa, có kỷ cương, xóa bỏ
áp bức bất cơng, tạo điều kiện cho mọi người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh
phúc”

1

Giáo trình Đường lối cách mạng của Đảng cộng sản Việt Nam. Chương v.Tr 152

5


Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có nhiều hình thức sở hữu, nhiều
thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trị chủ đạo; kinh tế nhà nước
cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc.
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có sự quản lý của Nhà nước. Nhà
nước ta là Nhà nước xã hội chủ nghĩa, quản lý nền kinh tế bằng pháp luật, chiến
lược, quy hoạch, kế hoạch, chính sách, sử dụng cơ chế thị trường, áp dụng các hình
thức kinh tế và phương pháp quản lý của kinh tế thị trường để kích thích sản xuất,
giải phóng sức sản xuất, phát huy mặt tích cực, hạn chế và khắc phục mặt tiêu cực
của cơ chế thị trường, bảo vệ lợi ích của nhân dân lao động, của toàn thể nhân dân.
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thực hiện phân phối chủ yếu theo
kết quả lao động và hiệu quả kinh tế, đồng thời phân phối theo mức đóng góp vốn
và các nguồn lực khác vào sản xuất, kinh doanh và thơng qua phúc lợi xã hội.
Mục đích của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là:
Phát triển lực lượng sản xuất, phát triển kinh tế để xây dựng cơ sở vật chất - kỹ
thuật của chủ nghĩa xã hội, nâng cao đời sống nhân dân. Phát triển lực lượng sản

xuất hiện đại gắn liền với xây dựng quan hệ sản xuất mới phù hợp trên cả ba mặt sở
hữu, quản lý và phân phối.
Kết luận: Đại hội lần thứ IX xác định: Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ

nghĩa là nói đến kinh tế không phải là kinh tế tự nhiên, tự cấp tự túc, cũng không
phải kinh tế kế hoạch hóa tập trung, cũng khơng phải là kinh tế thị trường tư bản
chủ nghĩa và cũng chưa hoàn toàn là kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa vì chưa
có đầy đủ các yếu tố xã hội chủ nghĩa. Tính “định hướng xã hội chủ nghĩa” làm
cho mơ hình kinh tế thị trường ở nước ta khác với kinh tế thị trường tư bản chủ
nghĩa.
1.3 Nhận thức của đảng về kinh tế thị trường tại đại hội lần thứ X
Đại hội X đã làm sáng tỏ thêm nội dung cơ bản của Định hướng xã hội chủ nghĩa
trong phát triển kinh tế thị trường ở nước ta, thể hiện ở bốn tiêu chí là:
6


Về mục đích phát triển:
Mục đích của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta nhằm thực
hiện “ dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ, văn minh”2, giải phóng
mạnh mẽ lực lượng sản xuất và không ngừng nâng cao đời sống nhân dân; đẩy
mạnh xóa đói giảm nghèo, khuyến khích mọi người vươn lên làm giàu chính đáng,
giúp đỡ người khác thốt khỏi nghèo và từng bước khá giả hơn.
Mục tiêu trên thể hiện rõ mục đích phát triển kinh tế vì con người, giải phóng lực
lượng sản xuất, phát triển kinh tế để nâng cao đời sống cho mọi người, mọi người
đều được hưởng những thành quả phát triển. Ở đây thể hiện sự khác biệt với mục
đích tất cả vì lợi nhuận phục vụ lợi ích của các nhà tư bản, bảo vệ và phát triển chủ
nghĩa tư bản.
Về phương hướng phát triển:
Phát triển các thành phần kinh tế, trong đó kinh tế Nhà nước giữ vai trị chủ đạo,
kinh tế Nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc

của nền kinh tế quốc dân.
Phát triển nền kinh tế với nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế là
nhằm giải phóng mọi tiềm năng để phát triển trong mọi thành phần kinh tế, trong
mỗi cá nhân và mọi vùng miền… phát huy tối đa nội lực để phát triển nhanh nền
kinh tế.
Về định hướng xã hội và phân phối:
Thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước đi và từng chính sách
phát triển; tăng trưởng kinh tế gắn kết chặt chẽ và đồng bộ với phát triển xã hội, văn
hóa, giáo dục và đào tạo, giải quyết tốt các vấn đề xã hội vì mục tiêu phát triển con
người.

2

Giáo trình Đường lối cách mạng của Đảng cộng sản Việt Nam. Chương v. Tr 154

7


Quan tâm giải quyết các vấn đề xã hội vừa đảm bảo sự phát triển bền vững, vừa
thể hiện rõ định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế, hạn chế tác động tiêu cực
của kinh tế thị trường, thực hiện mục tiêu phát triển con người.
Trong lĩnh vực phân phối, định hướng xã hội chủ nghĩa được thể hiện qua chế độ
phân phối chủ yếu theo kết quả lao động, hiệu quả kinh tế, phúc lợi xã hội. Đồng
thời để huy động mọi nguồn lực kinh tế cho sự phát triển cịn thực hiện phân phối
theo mức đóng góp vốn và các nguồn lực khác.
Về quản lý:
Phát huy vai trò làm chủ xã hội của nhân dân, bảo đảm vai trò quản lý, điều tiết
nền kinh tế của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng là
sự thể hiện rõ rệt định hướng xã hội chủ nghĩa và cũng là sự khác biệt cơ bản giữa
kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa với kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ

nghĩa. Sự quản lý, điều tiết nền kinh tế của nhà nước xã hội chủ nghĩa bằng pháp
luật đảm bảo mục đích của nền kinh tế, sự vận động của chế độ sở hữu, phân phối
theo định hướng xã hội chủ nghĩa, phát huy mặt tích cực, hạn chế mặt tiêu cực của
kinh tế thị trường, đảm bảo quyền lợi chính đáng của mọi con người.
Kết luận: Đại hội lần thứ X Đảng đã khẳng định:” Kinh tế nhà nước giữ vai trò
chủ đạo, là lực lượng quan trọng nhất để nhà nước định hướng và điều tiết nền kinh
tiết nền kinh tế, tạo môi trường và điều kiện thúc đẩy các thành phần kinh tế cùng
phát triển. Kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng
vững chắc của nền kinh tế quốc dân. Kinh tế tư nhân có vai trị quan trọng là một
trong những động lực của nền kinh tế ”

3

1.4 Nhận thức của đảng về kinh tế thị trường tại đại hội lần thứ XI
Về mục đích phát triển:

3

Giáo trình Đường lối cách mạng của Đảng cộng sản Việt Nam. Chương V.Tr 156

8


Phát triển kinh tế nhanh, bền vững; nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân
dân; giữ vững ổn định chính trị - xã hội; tăng cường hoạt động đối ngoại; bảo vệ
vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ; tạo nền tảng để đến
năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại.
Về phương hướng phát triển:
Phát triển các hình thức sở hữu, các thành phần kinh tế, các loại hình doanh nghiệp.
Tiếp tục thể chế hố quan điểm của Đảng về phát triển đa dạng các hình thức sở

hữu, các thành phần kinh tế, các loại hình doanh nghiệp; bảo hộ các quyền và lợi ích
hợp pháp của chủ sở hữu tài sản thuộc các hình thức sở hữu, các loại hình doanh
nghiệp trong nền kinh tế; xây dựng, hoàn thiện luật pháp về sở hữu đối với các loại
tài sản mới như sở hữu trí tuệ, cổ phiếu, trái phiếu, tài nguyên nước..., quy định rõ
quyền, trách nhiệm của các chủ sở hữu đối với xã hội.
Đổi mới, hồn thiện luật pháp, cơ chế, chính sách về sở hữu đối với đất đai, tài
nguyên, vốn và các loại tài sản công khác để tài nguyên, vốn và các tài sản cơng
được quản lý, sử dụng có hiệu quả, khắc phục tình trạng thất thốt, lãng phí.
Đẩy mạnh đổi mới, sắp xếp và nâng cao hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp
nhà nước. Đẩy mạnh đổi mới tổ chức, cơ chế hoạt động của các đơn vị dịch vụ công
phù hợp với kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đẩy mạnh phát triển
kinh tế tập thể với nhiều hình thức đa dạng, mà nịng cốt là hợp tác xã.
Hồn thiện cơ chế, chính sách để phát triển mạnh kinh tế tư nhân trở thành một
trong những động lực của nền kinh tế. Khuyến khích phát triển các loại hình doanh
nghiệp với hình thức sở hữu hỗn hợp như: công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu
hạn nhiều thành viên, công ty hợp danh, hợp tác xã cổ phần.
Về định hướng xã hội và phân phối:
Giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế thị trường. “Nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta là nền kinh tế hàng hoá nhiều thành
phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước dưới sự lãnh đạo
của Đảng Cộng sản. Đây là một hình thái kinh tế thị trường vừa tuân theo những
9


quy luật của kinh tế thị trường, vừa dựa trên cơ sở và được dẫn dắt, chi phối bởi
các nguyên tắc và bản chất của chủ nghĩa xã hội”.4
Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, cơ chế thị trường phải
được vận dụng đầy đủ, linh hoạt để phát huy mạnh mẽ và có hiệu quả mọi nguồn
lựcPhát huy quyền tự do kinh doanh theo pháp luật của mọi công dân để làm giàu
cho bản thân và đóng góp cho xã hội. Mọi thành phần kinh tế, các chủ thể tham gia

thị trường đều được coi trọng, cùng phát triển lâu dài, hợp tác, cạnh tranh bình đẳng,
lành mạnh và văn minh, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo.
Phát triển kinh tế thị trường, chủ động, tích cực hội nhập quốc tế, đồng thời giữ
vững, tăng cường tính độc lập, tự chủ của nền kinh tế. Nâng cao hiệu lực, hiệu quả
quản lý kinh tế của Nhà nước.
Về quản lý:
Nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng, hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước đối
với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.Tiếp tục đổi mới tư duy kinh
tế, nâng cao năng lực lãnh đạo kinh tế của các tổ chức đảng; tăng cường, sử dụng
hợp lý các tổ chức, cán bộ nghiên cứu để tham mưu cho Đảng trong việc xây dựng,
lãnh đạo và kiểm tra việc thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng về phát triển
kinh tế - xã hội. Đảng và Nhà nước phải thật sự nâng cao vai trò lãnh đạo, quản lý
kinh tế thị trường, chú trọng đào tạo đội ngũ cán bộ quản lý có đủ phẩm chất, năng
lực, trình độ cơng tác.
Đổi mới, nâng cao vai trị và hiệu lực quản lý kinh tế của Nhà nước phù hợp với
yêu cầu phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, chủ động, tích
cực hội nhập quốc tế trong giai đoạn mới trên cơ sở tôn trọng và vận dụng đầy đủ,
đúng đắn các quy luật và cơ chế vận hành của kinh tế thị trường.

4

Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội

10


Nâng cao vai trò của các cơ quan dân cử, tổ chức chính trị - xã hội, các tổ chức xã
hội - nghề nghiệp và của nhân dân trong phát triển kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa.
Kết luận: Đại hội XI xác định kinh tế Nhà nước giữ vai trị chủ đạo, kinh tế tập thể

khơng ngừng được củng cố và phát triển. Về lâu dài kinh tế Nhà nước cùng với kinh
tế tập thể trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân. Trong 5, 10 năm
tới không xác định thành phần kinh tế nào đóng vai trị nền tảng. Kinh tế tư nhân là
một trọng những động lực quan trọng của nền kinh tế.
Chương 2. Một số bài học kinh nghiệm trong quá trình phát triển Việt Nam
hiện nay.
2.1. Bài học kinh nghiệm rút ra từ Đại hội lần thứ IX.
Đại hội IX của Đảng đã khẳng định: 15 năm đổi mới (1986-2000) đã cho chúng ta
nhiều kinh nghiệm quý báu. Những bài học đổi mới do các Đại hội VI, VII, VIII
của Đảng nêu lên đến nay vẫn cịn có giá trị lớn, nhất là những bài học chủ yếu sau:
Một là, trong quá trình đổi mới phải kiên trì mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa
xã hội trên nền tảng Chủ nghĩa Mác-Lênin và Tư tưởng Hồ Chí Minh.
Hai là, đổi mới phải dựa vào nhân dân, vì lợi ích của nhân dân, phù hợp với thực
tiễn, ln luôn sáng tạo.
Ba là, đổi mới phải kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại.
Bốn là, đường lối đúng đắn của Đảng là nhân tố quyết định thành công của sự
nghiệp đổi mới.
2.2. Bài học kinh nghiệm rút ra từ Đại hội lần thứ X.
Đại hội X của Đảng tiến hành tổng kết một số vấn đề lý luận - thực tiễn qua 20 năm
đổi mới (1986-2006), đã khẳng định từ thực tiễn 20 năm đổi mới, Đảng và Nhà
nước ta càng tích lũy thêm nhiều kinh nghiệm lãnh đạo và quản lý. Có thể rút ra một
số bài học lớn sau đây:
Một là, trong quá trình đổi mới phải kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ
11


nghĩa xã hội trên nền tảng chủ nghĩa Marx-Lenin và tư tưởng Hồ Chí Minh . Đổi
mới khơng phải từ bỏ mục tiêu chủ nghĩa xã hội mà là làm cho chủ nghĩa xã hội
được nhận thức đúng đắn hơn và được xây dựng có hiệu quả hơn. Đổi mới không
phải xa rời mà là nhận thức đúng, vận dụng sáng tạo và phát triển Chủ nghĩa

Mác-Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh, lấy đó làm nền tảng tư tưởng của Đảng và kim
chỉ nam cho hành động cách mạng.
Hai là, đổi mới tồn diện, đồng bộ, có kế thừa, có bước đi, hình thức và cách làm
phù hợp. Phải đổi mới từ nhận thức, tư duy đến hoạt động thực tiễn; từ kinh tế,
chính trị, đối ngoại đến tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội; từ hoạt động lãnh
đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước đến hoạt động cụ thể trong từng bộ phận của
hệ thống chính trị. Đổi mới tất cả các mặt của đời sống xã hội nhưng phải có trọng
tâm, trọng điểm, có những bước đi thích hợp; bảo đảm sự gắn kết chặt chẽ và đồng
bộ giữa ba nhiệm vụ: phát triển kinh tế là trung tâm, xây dựng Đảng là then chốt và
phát triển văn hóa - nền tảng tinh thần của xã hội.
Ba là, đổi mới phải vì lợi ích của nhân dân, dựa vào nhân dân, phát huy vai trò chủ
động, sáng tạo của nhân dân, xuất phát từ thực tiễn, nhạy bén với cái mới. Cách
mạng là sự nghiệp của nhân dân, vì nhân dân và do nhân dân. Những ý kiến, nguyện
vọng và sáng kiến của nhân dân có vai trị quan trọng trong việc hình thành đường
lối đổi mới của Đảng. Dựa vào nhân dân, xuất phát từ thực tiễn và thường xuyên
tổng kết thực tiễn, phát hiện nhân tố mới, từng bước tìm ra quy luật phát triển, đó là
chìa khóa của thành cơng.
Bốn là, phát huy cao độ nội lực, đồng thời ra sức tranh thủ ngoại lực, kết hợp sức
mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại trong điều kiện mới. Phát huy nội lực, xem đó
là nhân tố quyết định đối với sự phát triển; đồng thời coi trọng huy động các nguồn
lực, thông qua hội nhập và hợp tác quốc tế, tranh thủ các nguồn lực bên ngoài để
phát huy nội lực mạnh hơn, nhằm tạo ra sức mạnh tổng hợp để phát triển đất nước
nhanh và bền vững, trên cơ sở giữ vững độc lập dân tộc và định hướng xã hội chủ
nghĩa.
Năm là, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, không ngừng đổi
mới hệ thống chính trị, xây dựng và từng bước hồn thiện nền dân chủ xã hội chủ
nghĩa, bảo đảm quyền lực thuộc về nhân dân . Xây dựng Đảng trong sạch, vững
12



mạnh là khâu then chốt, là nhân tố quyết định thắng lợi của sự nghiệp đổi mới. Xây
dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân,
vì nhân dân là yêu cầu cần thiết của xã hội; Nhà nước phải thể chế hóa và tổ chức
thực hiện có hiệu quả quyền cơng dân, quyền con người. Phát huy vai trò của mặt
trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân trong việc tập hợp các tầng lớp nhân dân,
phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc để thực hiện thành công sự
nghiệp đổi mới.
2.2. Bài học kinh nghiệm rút ra từ Đại hội lần thứ XI.
Từ thực tiễn lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện Nghị quyết Đại hội X, tại Đại hội XI, Đảng
ta rút ra một số kinh nghiệm sau:
Một là, trong bất kỳ điều kiện và tình huống nào, phải kiên trì thực hiện đường lối
và mục tiêu đổi mới, kiên định và vận dụng sáng tạo, phát triển Chủ nghĩa
Mác-Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ
nghĩa xã hội.
Hai là, phải thực sự coi trọng chất lượng, hiệu quả tăng trưởng và phát triển bền
vững , nâng cao chất lượng và hiệu quả của nền kinh tế, đồng thời duy trì tốc độ
tăng trưởng hợp lý, giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô.
Ba là, phải coi trọng việc kết hợp chặt chẽ giữa tăng trưởng kinh tế với thực hiện
tiến bộ và công bằng xã hội.
Bốn là, đặc biệt chăm lo củng cố xây dựng Đảng cả về chính trị, tư tưởng và tổ
chức.
Năm là, trong cơng tác lãnh đạo và chỉ đạo phải rất nhạy bén, kiên quyết, sáng tạo¸
bám sát thực tiễn đất nước; chú trọng công tác dự báo, kịp thời đề ra các giải pháp
phù hợp với tình hình mới; tăng cường cơng tác tuyên truyền, tạo sự đồng thuận cao,
phát huy sức mạnh của cả hệ thống chính trị, của tồn xã hội.

13


2.3. Bài học kinh nghiệm rút ra từ Đại hội lần thứ XI đến đại hội thứ XI để

phát đất nước trong giai đoạn hiện nay.
Một là, trong quá trình đổi mới phải chủ động, không ngừng sáng tạo trên cơ
sở kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, vận dụng sáng tạo
và phát triển Chủ nghĩa Mác-Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh, kế thừa và phát
huy truyền thống dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, vận dụng kinh
nghiệm quốc tế phù hợp với Việt Nam.
Đối với nước ta, đổi mới là yêu cầu bức thiết của sự nghiệp cách mạng, là vấn đề
có ý nghĩa sống cịn. Q trình đổi mới, bên cạnh những cơ hội, luôn xuất hiện
những vấn đề mới, những khó khăn, thách thức mới, địi hỏi Đảng, Nhà nước và
nhân dân phải chủ động, không ngừng sáng tạo.
Đổi mới không phải là từ bỏ mục tiêu của chủ nghĩa xã hội, mà là làm cho chủ
nghĩa xã hội được nhận thức đúng đắn hơn và được xây dựng có hiệu quả hơn. Xây
dựng đất nước theo con đường xã hội chủ nghĩa trong bối cảnh ngày nay là một sự
nghiệp vơ cùng khó khăn, phức tạp và lâu dài, nhưng đó là con đường hợp quy luật
để có một nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, dân chủ, cơng bằng, văn minh. Sự
nghiệp cách mạng đó địi hỏi Đảng, Nhà nước và nhân dân ta phải kiên định, kiên trì
mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Đổi mới không phải là xa rời Chủ nghĩa Mác-Lênin và Tư tưởng Hồ Chí Minh, mà
là nhận thức đúng, vận dụng và không ngừng phát triển sáng tạo học thuyết, tư
tưởng đó, lấy đó làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động của Đảng,
làm cơ sở phương pháp luận quan trọng nhất để phân tích tình hình, hoạch định và
hồn thiện đường lối đổi mới. Kế thừa, phát huy truyền thống dân tộc, tiếp thu tinh
hoa văn hóa nhân loại, vận dụng kinh nghiệm quốc tế phù hợp với Việt Nam.
Hai là, đổi mới phải luôn luôn quán triệt quan điểm "dân là gốc", vì lợi ích của
nhân dân, dựa vào nhân dân, phát huy vai trò làm chủ, tinh thần trách nhiệm,
sức sáng tạo và mọi nguồn lực của nhân dân; phát huy sức mạnh đoàn kết toàn
dân tộc.
Cách mạng là sự nghiệp của nhân dân, vì nhân dân và do nhân dân. Đổi mới phải
vì lợi ích của nhân dân. Xa rời, đi ngược lợi ích của nhân dân, đổi mới sẽ thất bại.
14



Những ý kiến, nguyện vọng và sáng kiến của nhân dân nảy sinh từ thực tiễn là một
nguồn gốc hình thành đường lối đổi mới của Đảng. Nhân dân là người làm nên
những thành tựu của đổi mới. Đổi mới phải dựa vào nhân dân. Vì thế, đổi mới phải
ln ln qn triệt quan điểm "dân là gốc," phải vì lợi ích của nhân dân, dựa vào
nhân dân.
Dân chủ xã hội chủ nghĩa là bản chất của chế độ ta, vừa là mục tiêu, vừa là động
lực của sự phát triển đất nước. Xây dựng và phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo
đảm tất cả quyền lực thuộc về nhân dân để nhân dân thật sự là chủ thể tiến hành đổi
mới và thụ hưởng thành quả đổi mới. Đổi mới là sự nghiệp khó khăn, phức tạp cần
phải phát huy quyền làm chủ, sức sáng tạo và mọi nguồn lực của nhân dân; phát huy
sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc. Để phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa và sức
mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, cần phòng, chống đặc quyền, đặc lợi, chống suy
thối, biến chất.
Ba là, đổi mới phải tồn diện, đồng bộ, có bước đi phù hợp; phải tơn trọng quy
luật khách quan, xuất phát từ thực tiễn, bám sát thực tiễn, coi trọng tổng kết
thực tiễn, nghiên cứu lý luận, tập trung giải quyết kịp thời, hiệu quả những vấn
đề do thực tiễn đặt ra.
Thực tiễn đã chỉ rõ, phải đổi mới toàn diện, đồng bộ trên tất cả các lĩnh vực của
đời sống xã hội; từ nhận thức, tư tưởng đến hoạt động thực tiễn; từ hoạt động lãnh
đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước đến hoạt động trong từng bộ phận của hệ
thống chính trị; từ hoạt động của cấp trung ương đến hoạt động của địa phương và
cơ sở.
Trong quá trình đổi mới phải tổ chức thực hiện quyết liệt với bước đi, hình thức,
cách làm phù hợp, hiệu quả; khắc phục tình trạng nóng vội, chủ quan, hấp tấp sẽ
gây mất ổn định, thậm chí rối loạn, tạo cơ hội cho các thế lực thù địch chống phá
công cuộc đổi mới; đồng thời phải chủ động, năng động, khơng ngừng sáng tạo,
khắc phục tình trạng bảo thủ, trì trệ, bỏ lỡ cơ hội phát triển.
Phải tôn trọng quy luật khách quan. Coi sự phát triển của thực tiễn là yêu cầu và cơ

sở để đổi mới tư duy lý luận, đường lối, chủ trương, cơ chế, chính sách. Mọi đường
lối, chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước đều phải xuất phát từ
15


thực tiễn. Phải bám sát thực tiễn, coi trọng tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận để
điều chỉnh, bổ sung, phát triển đường lối đổi mới.
Để dân tin, dân ủng hộ, dân tích cực thực hiện đường lối đổi mới, đòi hỏi Đảng,
Nhà nước phải giải quyết kịp thời, hiệu quả những vấn đề do thực tiễn đặt ra; kịp
thời điều chỉnh, bổ sung các thể chế, thiết chế, cơ chế, chính sách khơng cịn phù
hợp, cản trở sự phát triển; thực hiện nói đi đơi với làm.
Bốn là, phải đặt lợi ích quốc gia - dân tộc lên trên hết; kiên định độc lập, tự chủ,
đồng thời chủ động và tích cực hội nhập quốc tế trên cơ sở bình đẳng, cùng có
lợi; kết hợp phát huy sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại để xây dựng và
bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Ln ln coi lợi ích quốc gia - dân tộc là tối thượng. Trong bất cứ hoàn cảnh nào
cũng cần kiên định độc lập, tự chủ đồng thời chủ động và tích cực hội nhập quốc tế.
Kết hợp phát huy sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, sức mạnh trong nước với
sức mạnh quốc tế nhằm tạo ra sức mạnh tổng hợp để phát triển đất nước nhanh và
bền vững. Phát huy sức mạnh toàn dân tộc là cơ sở để kết hợp sức mạnh thời đại,
làm cho sức mạnh toàn dân tộc mạnh hơn, dựa trên nguyên tắc tôn trọng độc lập,
chủ quyền, thống nhất, tồn vẹn lãnh thổ, khơng can thiệp vào cơng việc nội bộ của
nhau, bình đẳng, cùng có lợi, xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã
hội chủ nghĩa.
Năm là, phải thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn, nâng cao năng lực lãnh
đạo và sức chiến đấu của Đảng; xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là đội ngũ cán
bộ cấp chiến lược, đủ năng lực và phẩm chất, ngang tầm nhiệm vụ; nâng cao
hiệu lực, hiệu quả hoạt động của Nhà nước, mặt trận Tổ quốc, các tổ chức
chính trị - xã hội và của cả hệ thống chính trị; tăng cường mối quan hệ mật
thiết với nhân dân.

Công cuộc đổi mới là sự nghiệp vĩ đại, sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố
quyết định thành công của công cuộc đổi mới. Tăng cường sự lãnh đạo và năng lực
cầm quyền của Đảng; xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh là nhiệm vụ then chốt.
Đảng phải thường xuyên tự chỉnh đốn, tự đổi mới, nâng cao năng lực lãnh đạo và
sức chiến đấu của mình.
16


Cán bộ là nhân tố quyết định sự thành bại của cách mạng, là khâu then chốt trong
công tác xây dựng Đảng. Xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là đội ngũ cán bộ cấp chiến
lược, đủ năng lực và phẩm chất, ngang tầm nhiệm vụ có ý nghĩa quyết định đến
công tác xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, lãnh đạo thành cơng sự nghiệp đổi
mới.
Thường xun kiện tồn tổ chức, nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của Nhà
nước. Phát huy vai trò mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân trong việc tập
hợp các tầng lớp nhân dân, phát huy sức mạnh của khối đại đồn kết tồn dân tộc để
thực hiện thành cơng sự nghiệp đổi mới.
Sức mạnh của cả hệ thống chính trị dưới sự lãnh đạo của Đảng được bắt nguồn và
nhân lên từ sức mạnh của nhân dân. Củng cố, bồi dưỡng quan hệ mật thiết giữa các
tổ chức trong hệ thống chính trị, trước hết là mối quan hệ máu thịt giữa Đảng với
nhân dân, là vấn đề trọng đại, cấp thiết, có ý nghĩa sống cịn đối với cách mạng Việt
Nam.
Kết luận
Kinh tế thị trường không phải là cái riêng của chủ nghĩa tư bản mà là thành tựu
phát triển chung của nhân loại . Kinh tế thị trường cũng tồn tại khách quan trong
thời kì quá độ lên chủ nghĩa Xã hội. Kinh tế thị trường xét dưới góc độ “một kiểu tổ
chức kinh tế” là phương thức tổ chức, vận hành nền kinh tế, là phương tiện điều tiết
nền kinh tế lấy cơ chế thị trường làm cơ sở để phân bổ các nguồn nhân lực kinh tế
và điều tiết mối quan hệ giữa người với người. Kinh tế thị trường chỉ đối lập với
kinh tế tự nhiên, tự cấp, tự túc chứ không đối lập với các chế độ xã hội. Bản thân

kinh tế thị trường không phải là đặc trưng bản chất cho chế độ kinh tế cơ bản của xã
hội. Kinh tế thị trường tồn tại và phát triển ở nhiều phương thức sản xuất khác nhau.
Kinh tế thị trường vừa có thể liên hệ với chế độ công hữu và phục vụ cho chúng.
Kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam là một phạm trù nghiên cứu
rộng lớn. Quá trình nghiên cứu nó cần nhiều thời gian, tư liệu và sự tham gia của
các nghiên cứu có chun mơn. chắc chắn em khơng tránh khỏi những thiếu sót

do trình độ cịn hạn chế, thời gian khơng cho phép nghiên cứu sâu rộng, điều
17


kiện để thu thập thơng tin cịn khó khăn... Kính mong nhận được sự đóng góp
ý kiến của cơ để bài tiểu luận của em được hoàn chỉnh hơn.
Tài liệu tham khảo:

[1]

Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ IX,

Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

[2]

Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ X,

Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

[3]

Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ XI,


Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội

[4]

Giáo trình Đường lối cách mạng của Đảng cộng sản Việt Nam. Chương v:

đường lối xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.

[5]

PGS, TS. Nguyễn Viết Thông - Tổng Thư ký Hội đồng Lý luận Trung

ương (10:00 06/01/2016).Một số bài học qua 30 năm Đảng lãnh đạo đổi mới đất
nước . Trang web báo tạp chí tài chính online:
/>-hoi-dang-lan-xii/mot-so-bai-hoc-qua-30-nam-dang-lanh-dao-doi-moi-dat-nuoc-103
767.html

18



×