Tải bản đầy đủ (.pdf) (16 trang)

Tài liệu Đề tài " Kinh tế vĩ mô dựa trên hành vi và hành vi kinh tế vĩ mô" Phần 2 pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (247.79 KB, 16 trang )

KINH TẾ VĨ MÔ DỰA TRÊN HÀNH VI và HÀNH VI KINH TẾ VĨ MÔ
Bài diễn thuyết đoạt giải, ngày 8 tháng 12 năm 2001
GEORGE A. AKERLOF*
Khoa kinh tế, Đại học Berkeley, California, CA 94720-3880, Hoa Kỳ.
ĐƯỜNG PHILLIPS VÀ NAIRU
Có lẽ mối quan hệ vĩ mô riêng lẻ quan trọng nhất là đường Phillips. Đường
Phillips "giá-giá" liên kết tỷ lệ lạm phát với tỉ lệ thất nghiệp, tỉ lệ lạm phát mong
đợi, và những biến số ảnh hưởng tới tổng cung, như là giá dầu lửa hoặc lương
thực. Sự cân bằng giữa lạm phát và thất nghiệp ẩn trong mối quan hệ này định rõ
"tình trạng khả thi" cho chính sách tiền tệ và vì thế đóng vai trò quyết định trong
công thức của nó. Đường Phillips lần đầu tiên được đánh giá cho nước Anh,
39
sau
đó là cho Hoa Kỳ
40
và nhiều nước khác nữa.
41
Nền tảng của Đường Phillips là đường cung và đường cầu. Phillips chỉ ra rằng khi
cầu cao và tỉ lệ thất nghiệp thấp, thì công nhân có thể thương lượng để mức lượng
danh nghĩa tăng cao hơn so với khi cầu giảm và thất nghiệp thì tăng. Chính sách
giá cả của các công ty chuyển lạm phát tiền lương (được điều chỉnh cho phù hợp
với năng suất) thành lạm phát giá cả. Vì vậy, đối với những người hoạch định
chính sách, sự cân bằng lâu dài tồn tại giữa lạm phát và thất nghiệp.
Vào cuối những năm 60, Milton Friedman (1968) và Edmund Phelps (1968) đã
thêm vào một lời khuyên mới vô cùng quan trọng. Họ chỉ ra rằng những công
nhân quan tâm và thoả thuận về mức lương thực tế, chứ không phải là mức lương
danh nghĩa: những công nhân thường hy vọng và nhận được bồi thường cho lạm
phát mong đợi sau đó thoả thuận từ đó, họ yêu cầu mức lương thực tế cao hơn khi
tỉ lệ thất nghiệp giảm. Một lần nữa, chính sách giá cả chuyển lạm phát tiền lương
thành lạm phát giá cả.
Kết quả của sự chuyển đổi nhỏ này theo kết luận - khi công nhân đòi tăng mức


lương thực tế, không phải danh nghĩa - là rất lớn: thay thế cho sự cân bằng kéo dài
giữa thất nghiệp-lạm phát, hiện tại chỉ có một tỉ lệ thất nghiệp "tự nhiên" duy nhất
phù hợp với lạm phát ổn định. Cùng với việc thương lượng "mức lương thực tế",
đường Phillips dài hạn - sự kết hợp giữa thất nghiệp/ lạm phát phù hợp với sự cân
bằng giữa lạm phát thực tế và lạm phát mong đợi - thẳng đứng bởi vì có một và
chỉ một tỷ lệ thất nghiệp - "tỉ lệ tự nhiên" - mà tại đó lạm phát thực tế và lạm phát
mong đợi phù hợp
Để hiểu được tại sao đường Phillips dài hạn lại thẳng đứng, hãy tưởng tượng rằng
một ngân hàng trung ương cố gắng thông qua chính sách tiền tệ để giữ cho tỉ lệ
thất nghiệp dưới tỉ lệ tự nhiên. Cung với thị trường lao động chặt chẽ một cách
khác thường, những công nhân yêu cầu tăng mức lương danh nghĩa cao hơn lạm
phát mong đợi (cộng số lương thực tế thông thường vào sự tăng năng suất. Các
công ty lần lượt thông qua việc tăng giá trị liên đới đối với giá cả, cốt để lạm phát
vượt quá những gì công nhân lúc đầu tham gia khi họ thương lượng. Với tỉ lệ thất
nghiêpẹ dưới mức tự nhiên, lạm phát thực tế vì thế vượt quá lạm phát mong đợi.
Trước kia, những công nhân đã bị lừa gạt. Bởi vậy, thời gian qua, lạm phát mong
đợi và lạm phát lần lượt tăng mạnh. Với tỉ lệ thất nghiệp được giữ dưới mức tỉ lệ
tự nhiên, kết quả là lạm phát tăng hơn hết. Giống như vậy, mô hình Friedman-
Phelps dự đoán rằng một ngân hàng trung ương cố gắng giữ tỉ lệ thất nghiệp trên
mức tỉ lệ tự nhiên một cách vô hạn định cuối cùng thường gây ra lạm phát tăng
nhanh chóng. Chỉ có tỉ lệ thất nghiệp tự nhiên là gây ra lạm phát ổn định.
Các nhà kinh tế chấp nhận giả thuyết tỉ lệ tự nhiên một cách đặc biệt ngay sau khi
nó được đưa ra bởi Friedman và Phelps vào cuối những năm 60. Ba lý do khiến
giả thiết này được ưu ái là: Đầu tiên, nó đã giải thích một cách xuất sắc lạm phát
và thất nghiệp vào những năm 60 và 70. Tại thời điểm tỉ lệ thất nghiệp thấp vào
cuối những năm 60, lạm phát tăng tới mức lạm phát mong đợi, thay đổi lạm phát
thất nghiệp ngắn hạn cân bằng. Vì thế những năm 70 bắt đầu bằng một cân bằng
lạm phát thất nghiệp ít thuận lợi hơn nhiều so với những năm 60.
(Các nhà phân tích đã bỏ qua những lời giải thích hợp lý là khi lạm phát tăng, như
nó đã từng tăng vào cuối những năm 60, việc thương lượng tiền lương và định giá

cả bắt đầu lưu tâm tới lạm phát mong đợi, điều này trước kia đã bị bỏ qua.)
42
Thứ
hai là những đánh gia theo lối kinh nghiệm của đường Phillips đã đưa ra những hệ
số của những lạm phát trước kia mà tổng của chúng không khác về mặt thống kê
so với số 1. Kết luận được đưa ra là những điều kiện lạm phát trễ trong bản đánh
giá như thế phù hợp với lạm phát mong đợi, điều này tự động đi ngược lại với
trung bình của lạm phát trước kia, và một kết luận nữa là hệ số của lạm phát mong
đợi trong việc quyết định tỉ lệ lạm phát hiện tại là bằng 1.
43
Cuối cùng là các nhà
kinh tế học có khuynh hướng chấp nhận những giả thuyết dựa vào lý trí không có
giá trị, mặc dù chỉ chấp nhận bằng những thử nghiệp với sức mạnh tương đối thấp.
44
Các nhà kinh tế học không nên chấp nhận giả thuyết tỉ lệ tự nhiên quá vội vã. Có
rất nhiều lý do cả về mặt lý thuyết cũng như thực hành để nghi ngờ về giả thuyết
này. Về mặt lý thuyết, giả thuyết tỉ lệ tự nhiên nhắc tôi nhớ tới một cuốn sách với
quy tắc tự đặt về cách ăn kiêng thông thường. Theo như quy tắc tự đặt đó, đối với
mỗi 3200 calo dư thừa chúng ta ăn, chúng ta tăng lên 1 pound. Và với mỗi 3200
calo chúng ta thiếu thì chúng ta giảm đi 1 pound. Điều này khiến tôi tưởng tượng
ra hai anh em sinh đôi. Một trong hai anh em ăn vừa đủ để giữ cho trong lượng
của anh ta đều đều. Còn người kia ăn nhiều hơn 100 calo bánh quy mỗi ngày. Nếu
như quy tắc tự đặt là đúng thì sau một năm người ăn bánh quy sẽ năng hơn người
kia 11 pound. Sau một thập kỷ anh ta sẽ nặng hơn 110 pound. Và năm mươi năm
sau, nếu anh ta có thể sống lâu như thế, anh ta sẽ nặng hơn 550 pound.
Như tất cả mọi người mong đợi, quy tắc tự đặt đã bị sụp đổ khi được áp dụng suốt
một khoảng thời gian dài: sự thể hiện chính xác hơn của mối quan hệ giữa trọng
lượng và calo chỉ ra rằng việc duy trì cân nặng cao hơn đòi hỏi phải có một lượng
calo dư thừa. Thật may mắn là trọng lượng của hai anh em sinh đôi sẽ không khác
nhau mãi mãi. Cũng giống như vậy, phỏng đoán của tôi là ít nhất đối với tỉ lệ thất

nghiệp, lạm phát sẽ tiệm cận với giá trị bất biến hơn là tăng hay giảm một cách vô
hạn định. Lý luận như vậy hoàn toàn có thể sai, nhưng sai sót từ phép loại suy của
cuốn sách ăn kiêng theo quy luật tự đặt đã cảnh báo cho chúng ta biết rằng giả
thuyết tỉ lệ tự nhiên có vẻ hơi kỳ cục. Tại tỷ lệ thất nghiệp rất thấp, dự đoán của
Friedman/Phelps về lạm phát tăng nhanh dường như hoàn toàn hợp lý và thích
hợp.
45
Nhưng tôi nghi ngờ về tính khả thi của lý thuyết khi tỉ lệ thất nghiệp cao.
Sự nghi ngờ của tôi liên quan tới giả thuyết tỉ lệ tự nhiên được ủng hộ bởi một
thực tế mang tính kinh nghiệm chỉ ra rằng tính khả thi của nó không thể áp dụng
được ở khắp mọi nơi. Tỉ lệ thất nghiệp tại Hoa Kỳ trong những năm 30 hiển nhiên
là vựơt quá - chắc chắn là vượt quá - tỉ lệ tự nhiên hợp lý. Theo như giả thuyết tỉ lệ
tự nhiên, giảm phát giá cả tăng nhanh trong suốt cả một thập kỷ. Điều đó đã không
xảy ra.
Giá cả giảm xuống một thời gian, nhưng lạm phát ngừng lại sau năm 1932; không
có lạm phát nào đáng kể trong suốt mười năm qua, mặc dù tỉ lệ thất nghiệp rất cao.
Bằng chứng này chỉ ra rằng, ít nhất sau một thời gian, khi tỉ lệ lạm phát thấp trong
khi mức độ thất nghiệp lại cao, thì giả thuyết tỉ lệ tự nhiên sẽ bị sụp đổ. Một thất
bại như thế sẽ không quá quan trọng đối với một lý thuyết bắt nguồn từ những
quan sát thực tế, nhưng nó tạo ra một vết rạn cho mối quan hệ bắt nguồn từ những
yếu tố cơ bản, những yếu tố được chấp nhận bởi vì chúng được cho rằng sẽ tồn
mãi mãi và tồn tại ở khắp mọi nơi.
Bằng chứng của những năm 30 không phải là duy nhất. Nền kinh tế hiện đại để lộ
ra những đặc tính giống nhau. Ví dụ, Pierre Fortin ước lượng là từ năm 1992 tới
năm 2000, nền kinh tế Canada trải qua gần 12 điểm của tỉ lệ thất nghiệp nhiều hơn
ước lượng 8% của NAIRU.
46
Cùng thời gian đó, lạm phát trung bình rất thấp 1 ½
phần trăm một năm. Theo như lý thuyết tỉ lệ tự nhiên, trung tâm của lạm phát giảm
nên giảm xuống khoảng chừng 6 phần trăm vì đánh giá cơ bản của đường Phillips

là ½. Thay vào đó, lạm phát vào thời kỳ đó giảm xuống chỉ còn 0.1 phần trăm.
Bằng chứng thuộc toán kinh tế chỉ ra rằng lý thuyết tỉ lệ tự nhiên nằm ở bãi cát
hơn là năm ở trong đá. Đánh giá tại những thời điểm khác nhau về tỉ lệ tự nhiên
chỉ ra rằng nó thay đổi theo thời gian; nhưng thậm chí ngay cả khi tính tới những
thay đổi đó, những đánh giá của quá trình tỉ lệ tự nhiên đã đưa ra những lỗi lầm có
chất lượng cao. Staiger, Stock và Watson (1997) ước tính một khoảng tin cậy 95%
cho tỉ lệ tự nhiên Hoa Kỳ lên tới 5 phần trăm; tỉ lệ này cao gấp ba lần sự chênh
lệch chuẩn của tỉ lệ thất nghiệp tại Hoa Kỳ suốt 50 năm qua.
Trong những nghiên cứu gần đây, William Dickens, George Perry và tôi đã phát
hiện ra hai giả thuyết dựa trên hành vi, trái ngược lại với mô hình tỉ lệ tự nhiên, đã
đưa ra một sự cân bằng ổn định giữa thất nghiệp và lạm phát tại thời điểm thất
nghiệp đủ cao và tỉ lệ lạm phát thấp. Giả thuyết đầu tiền là "Keynes thuần tuý":
công nhân phản đối và các công ty hiếm khi lợi dụng, cắt giảm mức lương danh
nghĩa. Giả thuyết thứ hai liên quan tới vai trò của lạm phát kỳ vọng trong thương
lượng mức lượng: chúng ta tranh luận rằng, tại thời điểm lạm phát rất thấp, môt số
lượng rất lớn các công nhân không coi lạm phát đủ quan trọng để ảnh hưởng tới
những quyết định của họ. Tuy vậy, khi lạm phát tăng, những tổn hại của việc bỏ
qua nó cũng tăng lên, và vì thế một số lượng lớn các công ty và công nhân lưu tâm
tới nó khi thương lượng mức lương.
Kết luận của Keynes rằng những công nhân phản đối việc cắt giảm mức lương
danh nghĩa là hoàn toàn phù hợp với sự hiểu biết theo trực giác của họ về tâm lý.
Kết luận cũng đồng ý với lý thuyết tâm lý học và các bằng chứng. Lý thuyết triển
vọng thừa nhận rằng những cá nhân đánh giá những thay đổi trong hoàn cảnh của
họ theo lợi ích hay thiệt hại của họ dựa theo một số điểm nhất định. Bằng chứng
chỉ ra rằng những cá nhân đó đã quan tâm quá nhiều vào việc làm thế nào để tránh
thiệt hại chứ không hề quan tới việc làm sao để tăng thêm lợi ích. Kahneman và
Tversky đã chứng minh rằng rất nhiều kết quả thực nghiệm trái ngược với việc
tăng lợi nhuận tới tột cùng có thể làm hợp lý hoá bằng lý thuyết kỳ vọng.
Phía sau sự không linh động của tiền lương là một mối liên hệ tự nhiên của lý
thuyết kỳ vọng nếu như tiền lương hiện tại được chấp nhân bởi công nhân sau khi

họ đã liệu tính những mất mát và lợi nhuận. Ủng hộ quan điểm này, Shafir,
Diamond và Tversky (1997) tìm thấy trong một bản thăm dò ý kiến rằng, cơ cấu
tinh thần của từng cá nhân không chỉ được định nghĩa theo ngôn ngữ thực tế được
đưa ra bởi những nhà kinh tế học cổ điển mà còn thể hiện một vài ảo ảnh tiền tệ.
Rất nhiều tài liệu nghiên cứu theo lối kinh nghiệm chỉ ra rằng tiền lương thực tế là
rất khó khăn. Sử dụng những dữ liệu theo báo cáo,
Card và Hyslop (1997) và
Kahn (1997) nhận ra rằng những thay đổi trong phân bổ tiền lương danh nghĩa
không đối xứng xung quanh số 0. Fortin tìm thấy những thay đổi tiền lương rất lạ
tại điểm không theo dữ liệu của Canada. Từ năm 1992 tới 1994, khi lạm phát tại
Canada là 1.2 phần trăm và tỉ lệ thất nghiệp trung bình khoảng 11.0 phần trăm, chỉ
có khoảng 5.7 phần trăm của hiệp định hợp nhất không điều chỉnh theo giá sinh
hoạt có mức lương năm đầu tiên bị cắt giảm, trong khi đó 47 phần trăm có mức
tiền lương ổn định.
47
Trong những cuộc phỏng vấn chi tiết tại Connecticut, Bewley nhận ra rằng những
người quản lý chỉ sẵn sàng cắt giảm mức lượng danh nghĩa như là một phương
sách cuối cùng.
48
Để điều tra xem liệu các công ty có cắt giảm tổng bồi thường
thông qua việc cắt giảm lợi nhuận trái ngược lại với cắt giảm tiền lương, Lebow,
Saks và Wilson kiểm tra ngành kinh doanh của từng cá nhân được kiểm soát bởi
Chỉ số chi phí của việc thuê nhân công: họ nhận ra rằng cắt giảm lợi nhuận chỉ là
một sự thay thế rất nhỏ đối với việc cắt giảm tiền lương.
49
Sử dụng số liệu của
Thuỵ Sỹ Fehr và Goette phát hiện ra rằng thậm chí lạm phát thấp trong một
khoảng thời gian 7 năm và tăng năng suất thấp không làm tăng tính thường xuyên
của việc cắt giảm tiền lương.
50

Tại thời điểm lạm phát thấp, sản lượng và lạm phát sẽ cân bằng trong một thời
gian dài nếu như có một sự phản đối với việc cắt giảm tiền lương. Không giống
như mô hình của Friedman-Phelps, trong đó sự cân bằng như thế này là rất ngắn
ngủi, việc lạm phát tăng trong một thời gian dài (nếu nó gần tới điểm không) sẽ
dẫn đến tình trạng thất nghiệp giảm đáng kể và sản lượng tăng nhiều hơn.
51
Trình
tự đi như sau:
Trong cả thời điểm tốt cũng như không tốt, một vài công ty và ngành kinh doanh
làm việc tốt hơn những người khác. Tiền lương cần phải được điều chỉnh lại để
phù hợp với sự khác nhau trong vận mệnh kinh tế. Trong thời gian lạm phát vừa
phải và sản lượng tăng, tiền lương có thể dễ dàng điều chỉnh cho phù hợp. Những
công ty không may mắn có thể tăng tiền lương họ trả ít hơn mức trung bình, trong
khi đó những công ty may mắn khác có thể trả cho công nhân của họ trên mức
trung bình. Tuy nhiên, nếu sản lượng tăng ít (như thời kỳ từ đầu những năm 70
cho tới giữa những năm 90 tại Hoa Kỳ) và không có lạm phát thì các công ty cần
cắt giảm tiền lương thức tế của họ , việc này chỉ có thể làm được bằng cách cắt
giảm tiền lương của những người làm công cho họ.
Dưới những kết luận thực tế về tính dễ thay đổi và sự tương quan theo chuỗi của
những đột biến trong cầu thông qua các công ty, tính thường xuyên cần thiết của
việc cắt giảm tiền lương tăng cũng nhanh như việc lạm phát giảm. Ác cảm về phía
công ty khi lạm dụng việc cắt giảm mức lương theo danh nghĩa dẫn tới việc tăng tỉ
lệ thất nghiệp lâu dài. Bởi vì mức lượng thực tế tại điểm lao động được cung cấp
cao hơn mức việc làm thì lạm phát sẽ thấp, tỉ lệ thất nghiệp phù hợp với lạm phát
ổn định tăng khi lạm phát giảm xuống những mức độ thấp hơn.
Spillovers đưa ra một tác động của việc làm chung thay đổi trong những công ty
đó bị ép buộc bởi sự bất lực của họ trong việc cắt giảm tiền lương. Vì thế, lợi ích
của giảm phát ít là nó "bôi thêm dầu nhớt cho bánh xe của thị trường lao động".
Sự bắt chước của một mô hình với những đột biến và ác cảm về phía công ty đối
với việc cắt giảm tiền lương danh nghĩa gợi ý rằng, với những thông số thật được

lựa chọn, sự cân bằng giữa lạm phát và thất nghiệp rất khó khăn tại thời điểm lạm
phát thấp, trong khi đó sản lượng tăng cũng thấp.
Ví dụ, một sự giảm sút lâu dài trong lạm phát từ hai phần trăm một năm xuống tới
điểm không sẽ dẫn tới một sự tăng lâu dài trong tỉ lệ thất nghiệp xấp xỉ hai phần
trăm.
52
Đánh giá của đường Phillips đối với Hoa Kỳ sau Thế chiến thứ II, tương
xứng với mô hình bắt chước vưa được mô tả, đưa ra những kết quả giống nhau.
Khi đường Phillips được đánh giá được sử dụng để mô phỏng theo lạm phát đã trải
qua vào những năm 30, sự việc này rất giống với lạm phát thực sự mà Hoa Kỳ đã
trải qua trong thời kỳ kinh tế trì trệ.
53
Sự đóng giả có thể so sánh được về mô hình
tỉ lệ tự nhiên, trái lại, chỉ ra lạm phát tăng rất nhanh vào những năm 30.
Một giả thuyết khác về thái độ cũng tạo ra sự cân bằng ổn định giữa lạm phát và tỉ
lệ thất nghiệp ở mức làm phát thấp. Giả thuyết này dựa trên quan điểm rằng lạm
phát không tăng vọt khi ở mức thấp, những sự thay đổi mức giá có thể xảy ra trong
tương lai được bỏ qua trong khi thoả thuận tiền công.
54
Với sự cạnh tranh độc
quyền và tiền lương hiệu dụng, việc bỏ qua lạm phát khi nó đang ở mức thấp là
hợp lý.
55
Nghiên cứu tâm lý học về những sự khác nhau nổi trội cũng như ngiên
cứu về nhận thức tâm lý đều cho thấy con người thường bỏ qua những sự thay đổi
không quan trọng đối với quyết định của họ.
56
Các nhà kinh tế lượng ước tính
bước thay đổi của Phillips mà tạo khả năng cho lạm phát trong quá khứ ảnh hưởng
tới lạm phát hiện tại khi lạm phát ở mức cao nhiều hơn khi làm phát ở mức thấp

phù hợp với giả thuyết rằng: ở mức lạm phát cao, tổng hệ số của lạm phát xảy ra
trong quá khứ gần với một.
57
Ở mức lạm phát thấp, tổng hệ số gần với
không.Cũng giống như vậy phép phân tích hồi quy sử dụng kết quả tính toán của
cuộc điều tra về lạm phát kỳ vọng như một chỉ sổ độc lập đưa ra hệ số về lạm phát
kỳ vọng ở mức cao sẽ cao hơn khi lạm phát ở mức thấp.
58
Rõ ràng, khi thời kỳ
lạm phát ở mức cao và thấp kết hợp để ước tính một mô hình phi tuyến của ảnh
hưởng của lạm phát kỳ vọng chúng ta thấy rằng ảnh hưởng của chúng phụ thuộc
vào những thời kỳ lạm phát trước đó.
Một biểu hiện của việc nghiên cứu kinh tế vĩ mô dựa trên hành vi về mức lạm phát
rất thấp dẫn tới hậu quả lâu dài là mức thất nghiệp cao và mức năng suất thâp, có
mối quan hệ mật thiết với các chinh sách tiền tệ. Hầu hết chúng ta đều cho rằng
ngân hàng trung ương rất cẩn trọng, bảo thủ và an toàn. Nhưng tôi lại thấy rất
nhiều ngân hàng trung ương giống như nhưng tay lái xe liều lĩnh: dể tránh những
nguy cơ lạm phát trong hiện tại, họ lái xe sát vào lề đường, giữ mức lạm phát quá
thấp và mức thất nghiệp quá cao. Trong những năm 1990, Canada có mức lạm
phát rất thấp và một khoảng cách thất nghiệp chưa từng thấy - gần bốn phần trăm -
với Mỹ.
59
Châu Âu cũng có tỉ lệ thất nghiệp cao và mức lạm phát rất thấp. Nhật
Bản còn tiến xa hơn với giảm phát. Các ngân hàng trung ương làm theo những
quyển sách giáo khoa về giả thuyết tỉ lệ tự nhiên cần nghe theo lời khuyên của
Oliver Cromwell của Quốc Hội thuộc nhà thờ Scotland:" Tôi van xin những người
trong lòng Chúa hãy nghĩ có thể các bạn đã mắc sai lầm." Đây không phải là một
sự trùng hợp ngẫu nhiên khi mà cuộc điều tra đầu tiên về nhận thức tâm lý sử dụng
lời trích dẫn này để chứng minh cho một sai lầm phổ biến: đó là quá tư tin.
60

TIẾT KIỆM
Việc mọi người thường tiết kiệm quá ít là một chuyện phổ biến. Để bù vào thiệt
hại này, hầu hết chính phủ các nước phát triển đều dành một khoản lớn cho người
già lúc về hưu. Thêm vào đó, rất nhiều ông chủ đòi hỏi và bao cấp đóng góp lương
hưu cho người làm công. Thậm chí với những bước tiến này, hầu hết mọi người
vãn cho rằng tài sản tài chính của hầu hết các hộ gia đình đều ít hơn rất nhiếu so
với mức họ cần để duy trỉ mức tiêu dùng khi về hưu.
Đối với ngành Tân kinh tế học cổ điển, tiết kiệm quá nhiều hay qua ít, giống như
thất nghiệp không tự nguyện, là một việc không thể thực hiện được, một sự trái
ngược rõ ràng với các giả thuyết của kinh tế học hiện đại. Bởi vì tiết kiệm là kết
quả của sự tối đa hoá độ thoả dụng của từng cá nhân, nó phải, do thiếu các ngoại
hưởng, đúng. Ngược lại, kinh tế học vĩ mô dựa trên hành vi đã phát triển các công
cụ lý thuyết và các chiến lược dựa trên kinh nghiệm để nâng cao hiểu biết về hành
vi thay đổi theo thời gian kiểu như thế này.
Một cuộc cải cách mang tính lý thuyết then chốt cho phép những phân tích hệ
thống về hành vi thay đổi theo thời gian là một sự công nhận rằng các cá nhân có
thể tổi đa hoá hàm thoả dụng mà đã được tách ra khỏi những gì được coi là tượng
trưng cho " phúc lợi thực sự". Một khi sự phân biệt này được chấp nhận, "tiết kiệm
quá ít" trở thành một khái niệm có nghĩa. Tư tưởng này được minh hoạ bằng
huyền thoại những con lemmut. Người ta tin rằng cứ một vài năm một lần những
con lemmut lại tập họp đông đủ để tham gia vào một cuộc tử hành mà kết thúc
bằng việc chúng đều nhảy xuống biển.62 Những hành vi của lemmut chứng tỏ một
sự phân biệt chung giữa các nhà tâm lý học, nhưng sự phân biệt này không xảy ra
giữa các nhà kinh tế. Trừ phi Chúa hiển linh bất ngờ trong lần nhảy xuống nước,
độ thoả dụng và phúc lợi được đưa ra bởi mỗi hàm, nhưng chúng tối đa hoá lấn
nhau.
Nghĩ về điều này: quan điểm phổ biến về tiết kiệm, rằng mọi người tiết kiệm quá ít
cũng được miêu tả tương tự. Việc quyết định liệu mọi người tiết kiệm quá nhiều
hay quá ít liên quan tới việc hỏi xem liệu con người, giống như nhưng con
lemmut, có một chức năng có ích miêu tả lợi ích của chúng, nhưng tối đa hoá lợi

ích của những con khác. 63 Những dẫn chứng này đưa ra những khác biệt lớn lao
giữa hai khái niệm. Những tỉ lệ phủ định cao của việc giảm thời gian là cần thiết
cho việc giải thích tỉ lệ thu nhập. 64 Tuy nhiên, kết quả các phiếu điều tra về việc
cân bằng tiết kiệm tiêu dùng cho thấy mọi người cho rằng họ cần phải tiết lộ về tỉ
lệ giảm giá ở mức có lợi trên trung bình một chút.65
Hàm triết khấu hyperbolic được sử dụng trong ngiên cứu sự lựa chọn tiết kiệm
theo thời gian, có thể được sử dụng để hình thức hoá sự phân biết giữa hàm thoả
dụng miêu tả hành vi tiết kiệm thực sự và hàm thoả dụng tính toán lợi ích thu được
từ những hành vi trên. Hàm hyperbolic giải quyết những khó khăn con người gặp
phải khi điều khiển bản thân.
Ngược lại, theo tỉ lệ chiết khấu giảm theo hàm mũ mà được coi là học thuyết tân
cổ điển, hàm hyperbolic cho rằng tỉ lệ chiết khấu từng được sử dụng để đánh giá
sự đánh đổi giữa sự suy giảm của các thời kỳ cận nhau khi cột thời gian kéo dài:
các cá nhân sử dụng tỉ lệ chiết khấu cao để đánh giá những sự lựa chọn mà yêu
cầu một sự đánh đổi, hi sinh ngay lập tức để đạt được thành quả trong tương lai và
tỉ lệ chiết khấu thấp hơn khi một sự hi sinh như vậy bị trì hoãn tới tương lai. Vì
vậy, họ kiên nhẫn khi đưa ra những quyết định đòi hỏi việc trì hoãn tiền thù lao
khi những sự hi sinh này bị trì hoãn; nhưng lại thiếu kiên nhẫn trong việc trì hoãn
tiền thù lao trong một thời gian ngắn. Bởi vì mức tiêu thụ hiện tại tăng vọt nhanh
hơn trong mức tiêu thụ trong tương lai, các cá nhân chần chừ đối với việc tiết
kiệm. Hàm hyperbolic thống nhất với những phát hiện có tính thử nghiệm: Chủ
thể con người và con vật thường muốn trì hoãn tiền thù lao trong tương lai hơn là
thực hiện điều nay ngay lập tức.
Hai hình thức của việc trì hoãn này gây ra bới chiết khấu hyperblic. "Trì hoãn
ngây thơ" xảy ra khi các cá nhân nhận định không chinh xác là hàm thoả dụng của
họ sẽ khác đi trong tương lai. Họ cũng dự đoán một cách sai lầm rằng mặc dù hôm
nay tăng vọt nhưng ngày mai sẽ khác. Họ không thể thấy rằng bản thân ngày mai
và hôm nay khác nhau, vì vậy ngày mai cũng sẽ tăng vọt như hôm nay một khi nó
đã tiến gần thêm một bước. Những người hay chần chừ một cách ngây thơ tin
tưởng một cách sai lầm rằng họ sẽ an toàn (ăn kiêng, tập thể dục, bỏ thuốc lá…)

ngày mai, mặc dù họ không làm như vậy hôm nay và họ thấy ngạc nhiên rằng
những sự hi sinh bị trì hoãn hôm nay cũng sẽ lại bị trì hoãn ngày mai. Theo như hệ
thống những từ chuyên ngành của O'Donoghue và Rabin (1999), những người
chần chừ ở dạng phức tạp hơn gọi là preproperation. Những người này có những
sự kỳ vọng đúng đắn về tương lai của họ. Họ nói với bản thân: không có lý do nào
để trì hoãn việc phải làm trong ngày hôm này nếu như ngày mai sẽ đặc biệt tăng
vọt. Nếu ngày mai đặc biệt tăng vọt thì tôi sẽ sử dụng tất cả những gì tôi đã gác
sang một bên ngày hôm nay khi nó cũng đã đặc biệt tăng vọt. Vì vậy tôi sẽ không
thực hiện việc hi sinh trong ngày hôm nay.
Laibson sử dụng chiết khấu hyperbolic như là một yếu tố căn bản của một chương
trình điều tra về hành vi tiết kiệm và chính sách. Với đồng tác giả Repettp và
Tobacman (1998) ông đã mô phỏng những ảnh hưởng của các chương trình ưu đãi
thuế khác nhau trong một thể giới mà những người tiêu dùng là những người hay
trì hoãn. Họ đánh giá rằng những ảnh hưởng tích cực đối với phúc lợi xã hội có
được do những thay đổi nhỏ trong ưu đãi để giữ lại những gì đã làm giảm sự trì
hoãn. Do công trình này, những quy định về thuế thúc đẩy các kế hoạch tiết kiệm
401 (k) đã thay đổi. Nếu các công ty lựa chọn, công nhân hiện tại có thể tự động
được nhận và tự động và mặc nhiên được công nhận sự đóng góp. Việc thực hiện
những kế hoạch này đã giúp tăng đáng kể tỉ lệ tham gia và kế hoạch và nhiều công
nhân tiếp tục duy trỉ những đóng góp của họ ở mức ngầm định.67
Bên cạnh sự phổ biến của chương trình bảo trợ xã hội và một số chương trình khác
mà "bắt buộc" người tiêu dùng phải tiết kiệm, bằng chứng rõ ràng nhất của việc
tiết kiệm ít có lẽ là việc quan sát thấy rằng, khi nghỉ hưu, trung bình các cá nhân
giảm đáng kể mức tiêu dùng.68, Trên thực tế, mức tiêu dùng sau khi nghỉ hưu
giảm không liên tục.69 Những người có nhiều của cải hơn và thu nhập cao hơn
giảm mức tiêu dùng ít hơn rất nhiều. Phát hiện này khó lý giải với vòng mức sống
và mô hình chiết khấu theo hàm mũ.70
Thaler và Benartzi (2000) đã xem xét lại một kế hoạch tiết kiệm để vượt qua xu
hướng hay trì hoãn của công nhân và kiểm tra điều này qua thí nghiệm ở công ti
cỡ trung bình: người làm công được mời tham gia một kế hoạch tiết kiệm mà theo

đó họ được chọn trước khoản tiền lấy tử khoản tăng lương để cho vào tiết kiệm.
Thống nhất với chiết khấu hyperbolic nhưng không thống nhất với mô hình hàm
mũ tiêu chuẩn, các công nhân chọn khoản tiết kiệm tương đối khiêm tốn từ khoản
tăng lương tương lai. Trong một thời gian ngắn, tỉ lệ tiết kiệm trung bình đã tăng
gấp đôi.71
THỊ TRƯỜNG TÀI SẢN
Học Thuyết Chung của Keynes là tác phẩm khởi xướng viết về quan điểm tài
chính hiện đại dựa trên hành vi của thị trường tài sản. Theo phép ẩn dụ của Keynes
" đầu tư chuyên nghiệp có thể cũng giống như những cuộc thi trên báo ở đó những
đối thủ cạnh tranh phải chọn ra sáu khuôn mặt đẹp nhất từ một trăm bức ảnh, giải
thưởng được trao cho người mà có lựa chọn gần với sự lựa chọn của phần lớn
những người tham gia và cuộc thi nói chung."72 Vì vậy thị trường chứng khoán
thay đổi rất nhanh và cũng phản ứng nhanh với tin tức. Quan điểm này về thị
trường chứng khoán ngượi với mô hình thị trường có hiệu quả ở đó giá cổ phiếu
đo lường giả trị hiện tài của những sư trở lại trong tương lại phù hợp với rủi ro.
Đầu những năm 1980 Robert Shiller tiến hành một bài kiểm tra trực tiếp về giả
thuyết về tính không ổn định quá mức của Keynes. Ông lý luận rằng nếu giả cố
phiếu thực sự là giá trị dự báo của lợi tức kỳ vọng trong tương lai, chúng sẽ ít đa
dạng hơn những lợi tức được chiết khấu. Suy nghĩ của Shiller là một ứng dụng
trực tiếp của nguyên tắc số liệu đơn giản. Nếu dự báo thới tiết có quá nhiều sai
lệch so với thời tiết thực sự thì dự báo thới tiết đó cần bị loại bỏ. 73 Sử dụng số
liệu về giá cổ phiếu và cổ tức của Mỹ trong 100 năm qua, 74 ông tìm thấy chính
xác những gỉ mà Keynes đã mong muốn: độ lệch chuẩn của giả cố phiếu (đã được
giảm khuynh hướng) lớn hơn năm lân so với độ lệch chuẩn của cổ tức được chiết
khấu (đã được giảm khuynh hướng). Những kết quả này được tái khảng định trong
những bài kiểm tra phức tạp hơn mà cho phép chính xác tính chất không tĩnh tại
của cả giả cổ phiếu và giá trị triết khấu hiện tại của cổ tức.75
Bất chấp những kết quả của những bài kiểm tra có phương sai, sự tin tưởng vào thị
trường hiệu quả được củng cố bằng những kết quả dựa trên kinh nghiệm như việc
tìm ra một loạt sự tương quan không nổi bật của lợi tức dựa trên số liệu hàng

tháng.76 Việc phủ nhận giả thuyết rằng lợi tức có sự tương quan theo sê-ri với
nhau cho thấy thị trường chứng khoán chuyển biến theo những yếu tố gần với
bứơc ngẫu nhiên. Để đáp lại, Summers (1986) đưa ra một mô hình về "thị hiếu
nhất thời" - vói một loạt độ lệch có tương quan vói nhau của thị trường hoàn hảo -
những bài kiểm tra về tương quan hàng loạt có luỹ thửa rất thấp: luỹ thừa của
những bài kiểm tra này thấp tới mức phải cần tới số kiệu của 5000 năm trước khi
nó có thể phân biệt 50 phần trăm của thời gian với giả thuyết bước ngẫu nhiên và
một thị hiếu nhất thời có thể đẩy giá cổ phiếu lên 30 phần trăm so với mức 35
phần trăm cơ bản của thời gian.77
Vượt xa việc xác lập của sự tồn tại của tính dễ biến động cao, Shiller cũng kiểm
tra những nguyên nhân có thể. Trong Irrational Exuberance (1999), ông kiểm tra
những tin tức về sự sôi sục của thị trường cổ phiếu những năm 1990 và giải thích
tại sao ý tưởng về một "thời đại mới" ở cả thị trường tại chính và nền kinh tế thực
sự được phổ biến rộng rãi. Khi giá cổ phiếu tăng, mantra của "nền kinh tế mới"
được chuyển từ người này sang người khác, các nhà đầu tư cá nhân hành động
theo quan điểm của giới truyền thông, giới truyền thông luôn luôn khuếch đại ảnh
hưởng của những quy tắc kinh tế cơ bản như là internet lên năng suất. Những ảo
tưởng về thị trường cổ phiếu như thế rất phổ biến; chúng xảy ra ở rất nhiều nước
khác nhau và thường qua một quá trình lịch sử.
Thực chất, bản ghi chép của Kindleberger về chứng cuồng loạn và hoang mang và
lịch sử của Galbraith về tác phẩm
Great Crash năm 1929 được coi như là một tác
phẩm tiền nhiệm xuất sắc sau
Irrational Exuberance
Thực chất, bản tường trình về chứng điên cuồng và thần kinh không ổn định của
Kindleberger và lịch sử của tác phẩm
Great Crash của Galbraith vào năm 1929 là
tác phẩm tiền nhiệm lỗi lạc trước tác phẩm
Irrational Exuberance. Chuyên đề thứ
hai theo kinh nghiệm chỉ ra rằng những nghi ngờ về tính hợp lý của thị trường cổ

phiếu vẫn là một câu hỏi khó trả lời về lợi tức cổ phần . Trong suốt hai trăm năm
qua, lợi tức trên cổ phần cao hơn đáng kể so với lợi tức của trái phiếu. Ví dụ, từ
năm 1802 tới năm 1998 lợi tức thực tế của chỉ số cổ phần thị trường là 7.0 phần
trăm so với 2.9 phần trăm đối với một sự đảm bảo tương đối an toàn.
78
Trong suốt
75 năm qua, từ năm 1926 tới năm 2000, lợi tức thực tế là 8.7 phần trăm đối với cổ
phần trái ngược lại với 0.7 phần trăm đối với trái phiếu, một khoảng cách là 8.0
phần trăm.
Khoảng cách này rất lớn: Siegel và Thaler (1998) tính toán rằng một sự đầu tư $
1,000 thực hiện cách đây 75 năm sẽ sinh lợi lên tới $12,400 đối với trái phiếu và
$884,000 đối với cổ phần. Khoảng cách này quá lớn tới mức sự bác bỏ hợp lý là
một món súp vịt: Cùng với việc tăng lợi nhuận tới tột cùng, lợi nhuận cận biên của
tiêu dùng ngày nay nên bằng với lợi nhuận phụ thêm mong đợi ngày mai từ những
dữ liệu của ngày hôm nay. Điều kiện này ngụ ý nói rằng tiền lãi cổ phần nên bằng
với tích số của hệ số rủi ro và hiệp phương sai giữa sự tăng trưởng của tiêu dùng
và lợi tức lên giá cổ phần. Tuy nhiên, đối với một vài giá trị của hệ số rủi ro, tích
số này nhỏ hơn rất nhiều so với lợi nhuận cổ phần, vì thế nó đã loại bỏ hành vi tiêu
dùng theo lý trí. Sự loại bỏ này được biết tới như là một câu đố về lợi nhuận của
cổ phần.
79
Một bằng chứng khác về tính không hợp lý của giá cổ phần lấy từ dữ liệu phân
tích chéo. Cũng giống với việc tìm ra chuỗi dữ liệu theo thời gian của Shiller về
tình không ổn định dư thừa gắn liền với nghịch đảo số trung bình của tỉ số giá
cả/tiền lãi cổ phần, De Bondt và Thaler (1987) đã tìm ra nghịc đảo số trung bình
của tiền lãi cổ phần theo cách phân tích chéo: một danh mục vốn đầu tư được tạo
bởi 50 người chiến thắng cao nhất cách đây năm năm góp phần không nhỏ giới
thiệu nên chỉ số trung bình thị trường, trong khi đó, danh mục vốn đầu tư của 50
người thất bại thảm hại lại có ích hơn là chỉ số thị trường. Những sự việc bất bình
thường khác trong thị trường cổ phiếu, như là việc giá cổ phần giảm 20% chỉ trong

một ngày vào tháng Mười năm 1987 khi thiếu những thông tin quan trọng cũng
khiến cho moi người nghi ngờ về giả thuyết thị trường hiệu quả.
80
Tài sản không chỉ là quan trọng vì lợi ích của chính nó, chúng còn quan trong bời
vì chunggs ảnh hưởng tới nền kinh tế vĩ mô, thông qua ít nhất là ba kênh.
Đầu tiên, giá trị của của cải ảnh hưởng tới sự giàu có, và vì thế ảnh hưởng tới tiêu
dùng.
Thứ hai, giá của của cải đang hiện hành liên quan tới giá của tư bản mới - chỉ số q
của Tobin - ảnh hưởng tới đầu tư vì đầu tư có thể coi như là một sự buôn chứng
khoán giữa vốn cổ phần mới và những tuyên bố đối với những tài sản hiện hành
tương đương.
81
Cuối cùng, giá trị tài sản ảnh hưởng tới những may rủi mà các công ty có thể phá
sản. Những công tư gần tới ngưỡng phá sản nhận thấy thật sự khó khăn, nếu không
muốn nói là không thể, mượn tiền, và vì vậy thường tìm trước những cơ hội đầu tư
mang lại lợi nhuận cao.
82

×