Tải bản đầy đủ (.doc) (49 trang)

Tài liệu Các nền văn minh cổ đại - Nền văn minh Lưỡng Hà docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (279.36 KB, 49 trang )

NỀN VĂN MINH LƯỠNG HÀ
Lưỡng Hà nằm giữa hai con sông Tigris và Euphrates là một trong những vùng đất phì nhiêu ở
Tây Á - nơi mà người Hy Lạp cổ đại gọi là Mesopotamia, xuất hiện nhiều quốc gia bao gồm cả
Babylon, Assyria, Phenicia và Palestine - hiện nay đang có nhiều tranh chấp với nước láng
giềng Do Thái về lãnh thổ - có một nền văn minh hội tụ và tổng hợp của nhiều nền văn hóa
tác động lẫn nhau. Nói chung lại đây là nền văn minh Tây Á đã đóng góp không nhỏ vào kho
tàng văn hóa của nhân loại.
Lưỡng Hà là một dải đất phì nhiều, mầu mỡ thuận lợi cho việc canh tác, như trồng các loại hoa
quả như trồng nho, hoặc đại mạch hay olive v.v Ngoài ra người vùng Lưỡng Hà lúc bấy giờ
còn chú trọng về chăn nuôi gia súc cũng như phát triển cả nghề đánh cá, đem lại một nguồn
lợi thiên nhiên không nhỏ cho quốc gia này.
Đặc biệt Lưỡng Hà có được khí hậu nóng ẩm hạp với việc canh tác, sản xuất được các thực vật
có thể nói là đa dạng, lại hàng năm vào tháng Năm hàng năm có nước lũ của hai dòng sông đổ
về phù sa mầu mỡ đổ vào vùng đồng bằng giúp cho hoa màu phong phú. Các cư dân nhiều địa
phương khác hội tụ về đây càng ngày càng nhiều, và cũng
chính vì vậy mà sinh ra nhiều tranh chấp về quyền lợi, tạo ra các mối chia rẽ khiến Lưỡng Hà
khó lòng thống nhất được.
Nền văn minh cổ đại xuất hiện trước nhất ở lưu vực Lưỡng Hà từ người Sumeria từ vùng núi
phương Đông di cư đến vào thiên niên kỷ thứ lV Tr.CN.
Tại vùng Nam Lưỡng Hà bắt đầu vào đầu thiên niên kỷ thứ III Tr. CN. mọc lên những thành thị
xuất hiện tại vùng đồng bằng, kết hợp lại với các vùng đất phù nhiêu chung quanh lập thành
các quốc gia đầu tiên tại ở đây.Người giữ chức vụ tối cao của các bang đó lúc bây giờ gọi là
Patesia. Quốc gia này cai trị bởi các Hội đồng bô lão, Hội Đồng Nhân Dân,coi như là Lưỡng
viện. Các Hội Đồng này bầu ra các nhà lãnh đạo, các viên chức hành chánh để điều hành
guồng máy quốc gia. Thống nhất được vùng Lưỡng Hà này do từ thành bang Lagate vào thế kỷ
thứ XXV Tr. CN., nhưng sau đó thì quyền bá chủ của Sumeria lại lọt vào tay của thành bang
khác : đó là thành bang Uruk.
Dần dà trung tâm kinh tế Lưỡng Hà không còn ở miền Nam Lưỡng Hà nữa do vấn đề địa lý
phải đưa lên miền Bắc nơi lưu vực có hai dòng sông gần nhau nhất mà thành phố Akkad - nơi
tiếp các sự di chuyển đường thủy được xem là thuận lợi cho việc chuyển vận mà Nam Lưỡng
Hà không có điều kiện như vậy.


Thành phố được xem là lớn nhất của miền Bắc Lưỡng Hà là Akkad, gần với Baghdad ngày nay,
trung tâm của các con đường buôn bán vùng Sumeria, Iran, Tiểu Á, Capcase, Địa Trung Hải
Đến năm 2300 Tr. CN Lưỡng Hà thống nhất nhờ thành phố lớn Akkad bắt đầu phát triển được,
từ đó đất nước trở nên giàu mạnh, nhưng thực sự phồn vinh là dưới triều đại Naramine vào
những năm từ 2270 đến 2254 Tr. CN. Tuy nhiên, sự thống nhất và phồn vinh này không được
bao lâu thì Lưỡng Hà bị chia cắt và sự thịnh vượng không còn tồn tại nữa. Và mải đến năm
1950 Tr.CN. Lưỡng Hà lại bị thuộc về Semitic.
Dù Lưỡng Hà trải qua bao nhiêu thời kỳ thăng trầm nền kinh tế vẫn giữ lấy nông nghiệp làm
chính. Các công trình thủy lợi được xây dựng lên để dẫn thủy nhập điền, về ngũ cốc như các
giống lúa lúa mì, lúa mạch, các loại đậu loại vừng v.v cũng như chà là, lê, táo là các loại
trái cây được xem là phát triển nhất của đất nước này vẫn đóng vai trò chủ đạo. Đó là chưa kể
các nông trại nuôi gia súc, như bò,trâu,cừu,lừa v.v đến gia cầm như gà,vịt, ngỗng và cả
nghề đánh cá nữa cũng vẫn được chú trọng.
Ngoài ra Lưỡng Hà cũng đặc biệt chú trọng đến việc sản xuất vũ khí để phòng vệ và chế tạo
đồ trang sức - phục vụ cho nhu cầu làm đẹp của phụ nữ, các nghề thuộc da, canh cửi nhất,
nghề mộc Tuy Lưỡng Hà có gần đủ mọi thứ song về ngành kiến trúc về mặt kỹ thuật vẫn
còn chưa tiến triển.
Về chế độ gia đình Lưỡng Hà thuộc về phụ hệ có quyền đa thê, quyền này được thừa nhận.
Các con cái đều có quyền thừa kế và đối xử như nhau. Xã hội có nhiều giai cấp, giai cấp
thượng tằng là các chủ nô gồm thành phần các nhà quyền quí, các tư sản cũng như các tăng
lữ, có quyền chiếm hữu được ruộng đất và tài sản công cộng có quyền thuê mướn người làm
nô lệ v.v
Về văn hóa, tôn giáo lúc bấy giờ giữ một vị thế quan trọng trong đời sống tâm linh của người
Sumeria, người Akkad Họ thờ cúng đa thần và do đó họ có lắm chuyện thần thoại. Tuy vậy,
đối với cái chết họ quan niệm giản đơn hơn Ai cập.
Chính thời kỳ có tôn giáo ra đời đã đem lại cho nền văn học nghệ thuật một mức độ cao hơn.
Gần như hầu hết các tác phẩm của Lưỡng Hà lúc bấy giờ đều ghi lại những bài thơ, các câu ca
dao nói lên tinh thần dân tộc liên quan đến nền văn minh hoặc cung cách của đời sống v.v
Đặc biệt hai tác phẩm được xem là xuất sắc nhất đó là: tác phẩm Enuma Elit và Anh Hùng Ca
Glingamete mà nội dung của hai tuyệt tác này nói về SỰ SÁNG TẠO CỦA VŨ TRỤ và giải đáp

cái gì sẽ tồn tạn tại vĩnh viễn ở trần gian này.
Các công trình đồ sộ của Lưỡng Hà như cung điện đến đền miếu được cất trên những bệ cao
và tất cả đều dùng bằng vật liệu gạch đá. Cung điện được xem là một công trình vĩ đại nhất
của bang Lagate vào thế kỷ thứ XXll Tr.CN. đó là cung điện của Judea. Judea là vị hoàng đế
của thành Lagate. Thời kỳ này các lịch pháp Âm, Dương lịch cũng đã ra đời và các đài Chiêm
tinh còn rải rác tại nhiều nơi được xem là những di tích lịch sử của một nền văn minh cổ đại ở
Tây Á.
Lịch Sử Chiêm Tinh Học Ai Cập
Chiêm tinh học đã đóng một vai trò quan trọng trong xã hội kể từ khi bắt đầu có nền văn minh
thế giới và thậm chí có thể đã có từ trước đó. Lịch sử chiêm tinh học đã có từ rất lâu; người ta
tin rằng nguồn gốc của nó bắt đầu ở Hy Lạp. Tuy nhiên, theo nghiên cứu mới nhất của các nhà
khoa học, chiêm tinh học đã ra đời trước đó rất nhiều và người Ai Cập cổ đại đã ứng dụng
thuật ''bói toán'' này để tiên đoán hầu hết các vấn đề diễn ra trong cuộc sống thường nhật.
Những người Sumerian là cư dân đầu tiên định cư tại Mesopotamia từ khoảng 4.000 năm trước
Công nguyên và là những người đầu tiên thờ Thần Mặt trời, Thần Mặt trăng và Thần Tình ái.
Họ coi những vị thần này như là những đấng tối cao che chở cho cuộc sống bình yên của họ.
Tên của Thần mặt trăng là Wanna; Thần mặt trời là Utu; và Thần Tình ái là Inanna. Và những
người Sumeria chỉ thờ có 3 vị thần này; nhưng thực tế thì có rất nhiều vị thần khác cũng
không kém phần quan trọng được thờ trong các lăng tẩm của người Sumerian. Người
Akkandoan ở gần khu vực Sumer cũng chọn Thần Mặt trời, Mặt trăng và thần Tình ái để thờ;
và chỉ thay tên của những vị thần này mà thôi. Nói chung hầu hết các bộ lạc đều thờ ba vị
thần này, chỉ có điều với tên gọi khác nhau. Việc đặt tên cho các vị thần do các thành viên của
cộng đồng đó quyết định, gắn với một dấu tích nào đó của cộng đồng.
Thầy tu là những người đầu tiên đảm trách công việc ''giao tiếp'' với các đấng thần linh. Do
vậy mà hệ thống đền thờ miếu mạo được tạo ra và hàng trăm nghìn người với nhiều vai trò
khác nhau đã đến đây theo yêu cầu của các vị linh mục chức cao; nhạc sĩ Một trong những
vị thầy tu này đã trở thành nhà vua. Vị vua này đã lập một ''cung điện'' riêng và đặt dưới sự
cai quản của một nhà chiêm tinh học. Người này sẽ là một nhà ''thông ngôn'' diễn giải về bầu
trời, những dự báo về các hiện tượng tự nhiên như nguyệt thực, nhật thực Và người ta còn
nói rằng ''thầy tu'' là những nhà chiêm tinh học đầu tiên. Để có thể ''giao tiếp'' được với các vị

thần thì phải lập những ''đền thờ'' trên những ngọn núi cao. Những ''đền thờ'' qua thời gian sẽ
ngày một phát triển thành những công trình kiến trúc lớn hơn được gọi là ''ziggurats''.
Những thầy tu người Sumerian được xem là những nhà chiêm tinh học và họ phải có nhiệm vụ
dự đoán chính xác các hiện tượng tự nhiên, mà thời đó người ta còn gọi là các hiện thuộc về
các đấng siêu nhiên. Thời đó, người ta xem việc tiên tri là một loại hình nghệ thuật hơn là
khoa học vì các thày tu đã không đủ tài năng để ''biến hoá tinh xảo'' mọi sự vật hiện tượng.
Tuy nhiên, họ đã có những thành công bước đầu trong việc dự đoán hiện tượng nguyệt thực;
tiếp đó với sự hỗ trợ của toán học dẫn đến việc hình thành và phát triển của luật về thiên văn
học (Đây là đặc điểm để giúp các nhà khoa học phân biệt được sự khác nhau giữa thiên văn
học và chiêm tinh học).
Thiên văn học là những nghiên cứu khoa học về vũ trụ, về các vì sao, về hành tinh và những
chuyển động của chúng. Chiêm tinh học là những nghiên cứu tiền khoa học về những ảnh
hưởng của nó đối với những hoạt động của con người. Các thầy tu thực sự rất chú trọng việc
dự đoán các hiện tượng tự nhiên (thời tiết, vũ trụ) để thể hiện sức mạnh quyền lực của họ.
Tuy nhiên, bằng những nỗ lực của mình; họ tập trung đến sự phát triển của loại hình chiêm
tinh học. Họ đã đặt được lịch, xác định chu kỳ hoạt động của mặt trời, mặt trăng; các hành
tinh và các vì sao. Họ có thể chia một năm thành 12 tháng dựa trên 12 chu kỳ của mặt trăng
trong một năm.
Vào năm 1.300 trước Công nguyên, thuật bói toán dựa vào ngày sinh bắt đầu hình thành.
Thuật bói toán hay còn gọi là ''Tử vi'' là những tiên đoán căn cứ vào thời điểm mà những vì
tinh tú xuất hiện và sự tác động con người.
Kỷ nguyên Assynian đã đánh dấu một bước tiến mới trong sự phát triển của chiêm tinh học.
Giai đoạn này kéo dài từ năm 1.300 đến 600 trước Công nguyên. Người Assynian đã phát hiện
ra các chùm sao; thực tế họ đã định vị được 18 vì sao nằm trong một chùm. Đến năm 600
trước Công nguyên, họ phát hiện ra rằng một số các vì sao hợp lại; một số các vì sao khác
biến mất để hình thành chùm sao có tên là Zodial.
Người Assynian đã chú trọng đến 5 hành tinh và những chuyển động của chúng đối với các
chùm sao này. Lý do vì sao họ lại chú trọng như vậy vì họ tin rằng những hành tinh này là các
vị thần hay ít nhất là ngôi nhà của các vị thần. Tên của những hành tinh này cũng quen như
tên mặt trời hay tên mặt trăng chỉ được thay bằng tên của người Hy Lạp sau đó là tên của

người Roman; cuối cùng là tên tiếng Anh. Tên các hành tinh vào thời Assynian như sau: Sun =
Shamash (Mặt trời); Moon = Sin (Mặt trăng), Venus = Ishtar (Sao Kim), Mercury = Nebo (Sao
Thuỷ), Mar = Nergal (Sao Hoả), Satum = Ninurta (Sao Thổ); Tupite = Marduk (Mộc).
Thời kỳ tiếp theo trong lịch sử của thuật chiêm tinh là thời kỳ Babylon Mới (600 - 300) trước
Công nguyên. Các nhà chiêm tinh học nổi tiếng của thời kỳ này là Kiddinu, Berossus,
Autipatrus, Aichinop và Sudines. Thời kỳ này được biết đến nhờ những lời tiên tri; điểm báo về
những sự kiện chính xuất hiện.
Người Hy Lạp bắt đầu gây nhiều ảnh hưởng lớn đến chiêm tinh học vào thế kỷ thứ 14 và 15
trước Công nguyên. Đây là thời kỳ của những nhà tiên phong nổi tiếng về khoa học hiện đại
như Plato; Pitago, người ta đã khẳng định được thuyết ''trái đất quay xung quanh mặt trời''.
Trong khi đó, nhà khoa học Euduxers lại cho rằng chiêm tinh học là điều nực cười; không ai tin
vào những lời tiên tri về cuộc sống lại dựa vào ngày sinh của mình. Tuy nhiên, các nhà chiêm
tinh học như Gritodemus; Apollognius vẫn tiếp tục công việc nghiên cứu về chiêm tinh hay tử
vi bói toán.
Lịch Sử Chiêm Tinh Học Ai Cập (P2)
Người La Mã cổ đại không chấp nhận thuật ''chiêm tinh'' hoặc bói toán này. Nhưng vào khoảng
năm 250 trước Công nguyên; một số lượng dân cư khá đông trở nên quan tâm đến chiêm tinh
học nhưng nhiều kẻ bảo thủ thì đấu tranh chống lại hầu hết các tín ngưỡng, kể cả Đạo Thiên
chúa. Họ đưa ra nhiều lý lẽ logic để chống lại những người tin vào ''tử vi'' bói toán; và cho
rằng những người sinh ra cùng ngày cùng giờ thì có nhiều số phận khác nhau; những người
sinh ra khác ngày khác giờ thì lại chết cùng giờ.
Tuy nhiên, chiêm tinh học vẫn lan rộng sang khu vực Thành La Mã bất chấp những cố gắng để
trục xuất các nhà chiêm tinh học ra khỏi đế chế.
Nhưng cuối cùng thì chiêm tinh học vẫn được chấp nhận và hầu hết người La Mã cổ đại đã chịu
chấp thuận một khía cạnh của giáo dục từ người Hy Lạp. Nếu người La Mã không cho phép du
nhập chiêm tinh học vào nền văn hóa của mình thì mọi thứ đã khác xa so với những gì đóng
góp của người Ai Cập đối với nghệ thuật.
Vào năm 331 trước Công nguyên, Alexarder đã thiết lập ra thành phố Alexandnia. Đây là mốc
đánh dấu giai đoạn khởi đầu của Graeco Roman trong lịch sử Ai Cập. Alexandnia trở thành một
trong những thành phố Alellnistoc nổi tiếng. Hellnism là một thuật ngữ miêu tả cách sống của

người Hy Lạp. Khi người La Mã bắt đầu quyền cai trị thì Alexandnia đã duy trì tiếng tăm của
mình như trung tâm các hoạt động văn hoá. Cho đến khi Alexandnia bắt đầu quyền cai trị thì
cách mạng khoa học cũng chấm dứt và mọi người đã tin vào chiêm tinh học. Lúc này người ta
bắt đầu biết đến tiếng tăm của Claudine Potelen. Thực chất thì Claudus Potelenry không có gì
nổi tiếng; người ta chỉ biết đến ông là một người Hy Lạp. Nhưng ông là một nhà chiêm tinh
học người Ai Cập; một nhà toán học; một nhà địa lý học đã sống ở gần Alexandnia. ít nhiều thì
những hình ảnh của ông cũng là những thông tin tác động đến cuộc sống của Ptolemy.
Ptolemy nghiên cứu các dữ liệu về những nhà chiêm tinh học trước đó để vẽ ra, phác thảo ra
bản đồ của một nghìn ngôi sao. Ông đã thu thập được 48 chòm sao và miêu tả được các kinh
tuyến, vĩ tuyến, kinh độ, vĩ độ của trái đất. Ptolemaic tin rằng trái đất là trung tâm vũ trụ và
đã nỗ lực để nghiên cứu học thuyết này. Tại sao nhiều hành tinh chuyển động theo thời gian,
theo quỹ đạo xung quanh trái đất. Ông cũng đưa ra lý thyết mỗi hoạt động lại quay theo một
quỹ đạo nhỏ hơn và một quỹ đạo lớn hơn. Lý thuyết này có tên gọi ''epicyle''. Và lý thuyết này
vẫn tồn tại trong vòng 1.400 năm; cho đến thuyết "trái đất quay xung quanh mặt trời" được
tìm ra.
Ptolemy cũng theo đuổi những lĩnh vực nghiên cứu khác nhau. Ông viết sách về địa lý mà ở đó
là bản đồ, kinh tuyến; vĩ tuyến. Ông cũng nghiên cứu về sự khúc xạ ánh sáng trong cuốn sách
Quang học. Ông cũng viết cuốn sách mang tên ''Mathematical Treatise in 4 Books'' và nó là
nền tảng cho sự phát triển của ''chiêm tinh học'' hiện đại đã phổ biến ở Phương Tây lúc bấy
giờ. Tên cuốn sách mà chúng ta dùng cho việc bói toán ngày nay là ''Tetrabiblo'' không còn dữ
liệu nào về việc Ptolemy đã tiến hành nghiên cứu như thế nào; tuy nhiên người ta vẫn cho
rằng tất cả những gì Ptolemy đạt được là nhiều dự đoán chính xác nhất.
Không còn phiên bản gốc nào về việc cuốn Tetrabiblo vẫn còn tồn tại. Tất cả còn lại chỉ là
những bản dịch và các bản sao; cuốn cũ nhất là Arbic có từ năm 900 sau Công nguyên. Vì
những bản dịch tiếng Latinh trở nên quen thuộc đối với người châu Âu. Phiên bản tiếng Anh
cũng được chuyển dịch từ tiếng Hy Lạp vào năm 1940. Có 4 cuốn sách viết về công việc
nghiên cứu này và mỗi cuốn đề cập đến từng khía cạnh khác nhau của chiêm tinh học.
- Cuốn thứ nhất đề cập đến lý do của Ptolemy trong việc áp dụng chiêm tinh học trong cuộc
sống.
- Cuốn thứ 2 Tetrabibalo nói về những mối liên quan của chiêm tinh học các nước.

- Cuốn thứ 3 đề cập đến con người; nói về những khái niệm về ngày sinh
- Cuốn cuối cùng là đề cập đến các vấn đề nghề nghiệp hôn nhân con cái, đi lại
Tetrabiblos bao gồm tất cả những nghiên cứu về chiêm tinh học, việc khía cạnh khác cũng
được đề cập đến nhưng tất cả những gì chúng ta biết đến về chiêm tinh học đều bắt nguồn từ
công việc nghiên cứu này.
Một số nhà phê bình cho rằng, cuốn sách chứa đựng khá nhiều mâu thuẫn ngay trong tư tưởng
của Ptolemy. Hơn nữa ông đã không tính đến hiện tượng sự chồng chéo giữa các chòm sao và
những chòm sao trở nên lớn hơn qua thời gian (5/300 năm) nhưng tại sao ông lại không xác
nhận và giải thích về sự huyền bí này trong nghiên cứu của mình.
Có một số vấn đề về mối tương quan giữa chiêm tinh học và các mùa. Ông tin rằng khái niệm
thời gian là hoàn hảo đối với việc bói toán theo ngày sinh; và khái niệm thời gian đến với mỗi
người là tương đối khó, dẫn đến một số sai sót trong nghiên cứu của ông. Nhưng nhìn chung
các nội dung trong Ietrabiblos không có nhiều giá trị tính đến ngày nay.
Một số nhà chiêm tinh học Ai Cập nối gót Ptolemy nghiên cứu về chiêm tinh học như Paul
Alexandnia, Hephestion Họ nghiên cứu thêm về Tetrabibleo của Ptolemy. Khoảng năm 800
sau Công nguyên; chiêm tinh học bị rơi vào quyên lãng một thời gian. Và sau đó hồi sinh vào
thế kỷ thứ 8 khi người Hồi giáo bắt đầu tin vào ''chiêm tinh học'' Hellenistoc. Đó là Almumasar,
một nhà trí thức theo đạo Hồi, ông đã mang niềm tin về chiêm tinh học như chúng ta đã biết
đến với thế giới phương Tây.
Tóm lại, Ai Cập là đất nước có nhiều đóng góp quan trọng đối với sự phát triển của chiêm tinh
học, những thăng trầm trong lịch sử Ai Cập đã để lại dấu ấn đậm nét trong sự phát triển của
ngành chiêm tinh học. Những đóng góp này thực sự có ý nghĩa đối với sự phát triển và tiến
hoá của nhân loại.
Đế quốc Ai Cập
Tôn giáo Ai-cập
Huân tước Flinders Petrie, nhà Ai-cập học trứ danh, nói rằng tôn giáo nguyên thủy của Ai-cập
là độc thần giáo. Nhưng trước khi thời kỳ lịch sử bắt đầu, đã phát triển một tôn giáo trong đó
mỗi bộ lạc có vị thần riêng, hình dung bằng một con vật.
Ptah (Apis) là thần của thành Mem-phi, hình dung bằng con bò.
Amon, thần của thành Thèbes, hình dung bằng con chiên đực.

Hathor, nữ thần thượng đẳng của Ai-cập, hình dung bằng con bò cái.
Mut, vợ của Amon, hình dung bằng con kên kên.
Horus, thần của từng trời, hình dung bằng con chim ó.
Ra, thần mặt trời, hình dung bằng con diều hâu.
Set (Sa-tan), thần của biên giới phía Ðông, hình dung bằng con cá sấu.
Osiris, thần của kẻ chết, hình dung bằng con dê. Isis, vợ của nó, hình dung bằng con bò cái.
Thoth, thần của trí khôn, hình dung bằng con khỉ không đuôi.
Heka, một nữ thần, hình dung bằng con nhái.
Nechebt, nữ thần của Nam bộ, hình dung bằng con rắn.
Bast, một nữ thần, hình dung bằng con mèo.
Còn nhiều thần khác nữa. Các Pha-ra-ôn được tôn làm thần. Sông Ni-lơ là sông thánh.

Lịch sử Ai-cập đương thời dân Y-sơ-ra-ên làm nô lệ tại Ê-díp-tô
Ðang khi dân Y-sơ-ra-ên kiều ngụ tại Ai-cập, thì nước nầy tiến thành một đế quốc cai trị cả thế
giới (mà người ta biết thời đó). Khi dân Y-sơ-ra-ên ra đi, Ai-cập bèn suy yếu, trở nên một
cường quốc hạng nhì và cứ ở địa vị ấy mãi. Từ thời Giô-sép cho đến sau khi dân Y-sơ-ra-ên ra
khỏi Ai-cập, đã có các triều đại sau nầy:
Triều đại thứ 13,14,17 25 vua. Cai trị ở phương Nam, còn dòng Hyksos cai trị ở phương Bắc.
Ðây là một thời kỳ rất rối loạn.
Triều đại thứ 15,16 11 vua. Dòng Hyksos, hoặc các vua chăn chiên, là một giống Sémitique
từ Á-châu đến chinh phục Ai-cập. Họ là bà con gần với người Do-thái, từ phương Bắc tràn
xuống, thống nhứt quyền cai trị Ai-cập và xứ Sy-ri. Người ta thường cho rằng Apepi đệ nhị,
thuộc triều đại thứ 16, là Pha-ra-ôn đã đại dụng Giô-sép. Ðang khi dòng Hyksos trị vì, thì dân
Y-sơ-ra-ên được địa vị tối huệ trong xứ. Nhưng khi dòng Hyksos bị triều đại thứ 18 đuổi đi, thì
chánh phủ Ai-cập thay đổi thái độ, bắt đầu dùng những biện pháp đàn áp để kéo dân Y-sơ-ra-
ên vào vòng tôi mọi.
Triều đại thứ 18: 13 vua.
Triều đại thứ 19: 8 vua.
Hai triều đại nầy đã đưa Ai-cập lên địa vị đế quốc cai trị cả thế giới (mà người ta biết thời đó).
Dưới đây là tên các vua thuộc hai triều đại nầy:

Amosis (Ahmes, Ahmose) 1580 T.C Ðuổi dòng Hyksos đi. Bắt xứ Pa-lét-tin và xứ Sy-ri làm
chư hầu của Ai-cập.
Amenhotep (Amenophis) 1560 T.C.
Thothmes (Thothmes, Thutmose) 1540 T.C Cầm quyền cai trị tới sông Ơ-phơ-rát. Lăng
tẩm đầu tiên đục trong vầng đá.
Thothmes đệ nhị 1510 T.C Hatshepsut, chị cùng cha khác mẹ và cũng là vợ của ông, thật
đã cầm quyền cai trị. Thường đem quân tấn công miền sông Ơ-phơ-rát.
Thothmes đệ tam 1500 T.C Hoàng hậu Hatshepsut, là chị cùng cha khác mẹ của ông, đã
cầm quyền phụ chánh trong 20 năm đầu đời trị vì của ông. Dầu ông khinh dể bà nầy, nhưng
bà đã hoàn toàn cai trị ông. Sau khi bà qua đời, thì ông một mình trị vì 30 năm. Ông là người
chinh phục oai hùng nhứt trong lịch sử Ai-cập. Ông khắc phục xứ Ê-thi-ô-bi, cai trị đến tận
miền sông Ơ-phơ-rát, tiến đánh xứ Pa-lét-tin và Sy-ri 17 lần. Ông đã tổ chức Hải quân. Ông đã
thâu trữ rất nhiều của cải và thực hiện nhiều công trình kiến trúc vĩ đại. Ông ghi công nghiệp
của mình rất tỉ mỉ trên các bức tường và đài kỷ niệm. Lăng tẩm ông ở tại thành Thèbes, và xác
ướp của ông hiện nay ở tại kinh thành Le Caire (Ai-cập). Nhiều người cho rằng ông là vua đã
hà hiếp dân Y-sơ-ra-ên. Nếu vậy, thì hoàng hậu Hatshepsut trứ danh chính là con gái Pha-ra-
ôn đã cứu vớt, trưởng dưỡng Môi-se, và trở nên người bạn oai quyền của Môi-se.
Hatshepsut Con gái của Thothmes đệ nhứt. Làm phụ chánh cho em cùng cha khác mẹ và
chồng của mình, là Thothmes đệ nhị, và cho em cùng cha khác mẹ của mình là Thothmes đệ
tam trong 20 đầu đời trị vì của vua nầy. Bà là hoàng hậu trứ danh đầu tiên trong lịch sử. Bà là
bậc phụ nữ rất có tiếng tăm, là một trong những người cai trị nước Ai-cập oai hùng hơn hết.
Ðã cho tạc nhiều tượng hình dung mình như một bậc trượng phu. Mở mang đế quốc. Xây cất
nhiều đài kỷ niệm, hai tháp lớn tại Karnak, và miễu thờ đồ sộ tại Deir El Bahri trong đó có bày
nhiều tượng của bà. Thothmes đệ tam ghét bà, và khi bà qua đời, một trong những hành động
đầu tiên của ông là bôi xóa tên bà khỏi mọi đài kỷ niệm và hủy phá hết tượng của bà. Những
tượng của bà ở Bahri bị đập ra từng mảnh, quăng vào một hầm đá gần đó. Tại đây, nó bị cát
bay phủ kín, và mới đây, nhơn viên Bảo-tàng-viện Thủ đô đã tìm được những mảnh tượng
nầy.
Amenhotep đệ nhị 1450 T.C Nhiều học giả cho ông nầy là Pha-ra-ôn đương thời dân Y-sơ-
ra-ên ra khỏi Ai-cập. Ông duy trì đế quốc do Thothmes đệ tam sáng lập. Xác ướp của ông ở

trong lăng tẩm tại thành Thèbes.
Thothmes đệ tứ 1420 T.C Người ta tìm thấy chiếc xe ngựa mà ông đã dùng. Xác ướp của
ông hiện nay ở tại kinh thành Le Caire.
Amenhotep đệ tam 1415 T.C Ðế quốc lên tới cực điểm vinh quang. Luôn luôn xâm lăng xứ
Pa-lét-tin. Xây cất những miễu thờ đồ sộ. Xác ướp của ông hiện nay ở tại kinh thành Le Caire.
Amenhotep đệ tứ Năm 1380 T.C Ông là một nhà cải cách tôn giáo, chớ không phải một
chiến sĩ. Dưới đời trị vì của vua nầy, Ai-cập mất đế quốc ở Á-châu. Ông toan thiết lập độc thần
giáo, là sự thờ lạy mặt trời. Vì các tế sư ở thành Thèbes phản đối chương trình của ông, nên
ông dời thủ đô qua Amarna. Nếu dân Y-sơ-ra-ên ra khỏi Ai-cập dưới đời trị vì của Amenhotep
đệ nhị, mấy chục năm trước, thì phong trào độc thần nầy có thể do ảnh hưởng gián tiếp của
các phép lạ Môi-se đã làm.
Semenka 1362 T.C Một vua nhu nhược.
Tutankhamen 360-1350 T.C Con rể của Amenhotep đệ tứ. Ông là một trong những vua Ai-
cập tầm thường, vào lúc chấm dứt thời kỳ vinh quang nhứt của lịch sử nước ấy. Nhưng ngày
nay ông nổi danh vì cớ những vật báu lạ lùng và sự huy hoàng của lăng tẩm ông, do nhà khảo
cổ Howard Carter khám phá được năm 1922. Xác ướp của ông vẫn ở trong lăng tẩm. Quan tài
phía trong chứa xác ướp làm bằng vàng khối. Xe ngựa và ngai của ông vẫn còn đó. Ðây là lăng
tẩm của một Pha-ra-ôn chưa bị trộm cắp mà người ta khám phá được.
Ay (Eye) và Setymeramen 1350 T.C Hai ông vua nhu nhược.
Harmhab (Harembeb) 1340 T.C Khôi phục sự thờ lạy Amon.
Ramsès đệ nhứt 1320 T.C
Seti (Sethos) đệ nhứt 1319 T.C Xứ Pa-lét-tin được khôi phục. Bắt đầu xây cất lâu đài đồ sộ
tại Karnak. Xác ướp của ông hiện nay ở tại kinh thành Le Caire.
Ramsès đệ nhị 1300 T.C Trị vì 65 năm. Ông là một trong những Pha-ra-ôn oai hùng nhứt,
mặc dầu kém Thothmes đệ tam và Amenhotép đệ tam; nhưng ông là một nhà đại kiến trúc,
một nhà quảng cáo đại tài, và hơi có óc sang đoạt, vì trong một vài trường hợp, ông đã nhận
công nghiệp của các tiên vương của mình. Ông khôi phục đế quốc từ xứ Ê-thi-ô-bi tới sông Ơ-
phơ-rát. Nhiều lần ông đã xâm lăng và cướp phá xứ Pa-lét-tin. Ông hoàn thành lâu đài đồ sộ
tại Karnak cùng nhiều công trình kiến trúc lớn lao khác, như thành lũy, kinh đào, miễu thờ, do
công lao xây cất của bọn tôi mọi bắt được trên chiến trường, hoặc của đoàn lũ người da đen từ

phương Nam xa xôi đem về, và cũng của giai cấp cần lao bổn quốc. Những bọn người nầy làm
lụng khó nhọc tại hầm đá hoặc lò gạch, hoặc kéo tảng đá lớn trên đất mềm.
Merneptah 1235 T.C., có người tưởng ông nầy là Pha-ra-ôn đương thời dân Y-sơ-ra-ên ra
khỏi Ai-cập. Xác ướp của ông ở tại kinh thành Le Caire. Phòng thiết triều của ông tại thành
Mem-phi (Ô-sê 9:6) đã do phái đoàn của Bảo tàng viện Ðại học đường Pennsylvania phám phá
được.
Arnenmeses, Siptah, Seti đệ nhị Ba vua nhu nhược.
Đế quốc Ai Cập (P2)
Ai là Pha-ra-ôn trong sách Xuất Ê-díp-tô ký?
Có hai ý kiến đáng kể hơn hết:
Amenhotep đệ nhị (1450-1430 T.C.), hoặc Merneptah (1235-1220 T.C.).
Nếu dân Y-sơ-ra-ên rời khỏi Ai-cập dưới đời trị vì của Amenhotep đệ nhị, thì Thothmes đệ tam
là vua đã hà hiếp dân Y-sơ-ra-ên rất tàn khốc, còn chị của ông lại trưởng dưỡng Môi-se. Người
chị nầy chính là hoàng hậu Hatshepsut trứ danh. Những thực sự trong đời trị vì của bà ăn hiệp
với truyện tích Kinh Thánh một cách lạ lùng dường nào! Bà chú ý đến các mỏ ở vùng Si-na-i,
và đã trùng tu miễu thờ ở Serabit mà Môi-se có lẽ đã xem thấy khi ông có cơ hội làm quen với
vùng Si-na-i nầy. Lại nữa, khi Môi-se sanh ra, thì Thothmes đệ tam còn thơ ấu, và Hatshepsut
làm phụ chánh. Ðến khi bà qua đời, thì dân Y-sơ-ra-ên càng bị hà hiếp tàn khốc hơn, và Môi-
se chạy trốn. Mấy điều nầy cũng giải thích một phần nào cái uy tín của Môi-se tại Ai-cập.
Nếu dân Y-sơ-ra-ên ra khỏi Ai-cập dưới đời trị vì của Merneptah, thì Ramsès đệ nhị là vua đã
hà hiếp dân Y-sơ-ra-ên rất tàn khốc, còn con gái ông đã trưởng dưỡng Môi-se.
Như vậy, Môi-se đã được trưởng dưỡng hoặc dưới đời trị vì của Thothmes đệ tam, hoặc dưới
đời trị vì của Ramsès đệ nhị, cả hai ông nầy đứng trong hàng các vua danh tiếng nhứt Ai-
cập.
Và Môi-se đã dẫn dân Y-sơ-ra-ên ra khỏi Ai-cập hoặc dưới đời trị vì của Amenhotep đệ nhị,
hoặc dười đời trị vì của Merneptah.
Dầu sao đi nữa, người ta cũng đã tìm được xác ướp của cả bốn vua nầy. Vậy, bây giờ ta có thể
thấy bộ mặt thực của Pha-ra-ôn đương thời Môi-se, với chính Pha-ra-ôn đó, Môi-se đã có
liên quan rất mật thiết.
Khám phá được các xác ướp

Năm 1871, trên một ghình đá chưa từng có ai để chơn tới, ở phía sau thành Thèbes, một
người Ả-rập đã khám phá được một ngôi mộ chứa đầy bửu vật và quan tài chứa 40 xác ướp
của những vua và hoàng hậu Ai-cập. Anh ta giữ bí mật trong 10 năm để bán các bửu vật ấy
cho du khách. Những bửu vật của các vua oai hùng nhứt thời xưa bắt đầu thấy lưu hành. Các
nhà chức trách của Bảo tàng viện Le Caire bèn đi đến thành Thèbes để điều tra. Họ tìm được
người Ả-rập nầy. Bằng cách cho tiền, tra khảo và dọa nạt, họ đã bắt anh ta chỉ chỗ đó cho.
Các xác ướp không ở trong phần mộ nguyên thủy, nhưng bị dời tới một nơi giấu bí mật từ thuở
xưa vì đã sớm xuất hiện những kẻ chuyên nghiệp quật mồ để ăn trộm. Những xác ướp nầy đã
được dời về Le Caire.
Pha-ra-ôn đương thời dân Y-sơ-ra-ên ra khỏi Ai-cập:
Amenhotep đệ nhị hay là Merneptah?
Các bằng cớ tỏ ra là Amenhotep đệ nhị 1. Các thơ tín Amarna gởi cho Amenhotep đệ tam và
Amenhotep đệ tứ, khẩn cấp xin Pha-ra-ôn tiếp viện, tỏ ra rằng thời ấy (theo niên hiệu sớm
hơn của việc dân Y-sơ-ra-ên ra khỏi Ai-cập), xứ Pa-lét-tin đang bị mất về tay người "Habiri."
Ðây là một đoạn trích lục: "Người Habiri đang chiếm thành trì, đô thị của ta, tiêu diệt các quan
cai trị của ta, cướp phá toàn xứ của vua. Xin vua gởi quân sĩ đến mau chóng. Nếu nội năm
nay, không gởi quân sĩ đến, thì toàn xứ sẽ mất khỏi tay vua."
Nhiều học giả cho rằng người "Habiri" tức là người "Hê-bơ-rơ;" như vậy, đây là thơ của người
từ xứ Ca-na-an mô tả cuộc chinh phục xứ ấy bởi tay Giô-suê. Còn các nhà học giả quả quyết
dân Y-sơ-ra-ên ra khỏi Ai-cập nhằm niên hiệu muộn hơn, thì cho rằng người "Habiri" có thể là
những kẻ trước đó đã xâm lăng hoặc di cư (I Sử ký 4:21-22; 7:21).
2. Khảo cổ học chứng thực rằng thành Giê-ri-cô đã sụp đổ khoảng năm 1400 T.C Tấn sĩ John
Garstang, người đã đào bới khắp vùng Giê-ri-cô, tin quyết điểm nầy.
Các bằng cớ tỏ ra là Merneptah Tấm bảng "Y-sơ-ra-ên" của Merneptah Năm 1906, Huân
tước Flinders Petrie tìm thấy một phiến thiểm trường thạch đen có ghi chép những cuộc chiến
thắng của Merneptah, nhằm năm thứ 5 đời trị vì của ông. Phiến đá nầy cao hơn ba thước tây,
và bề ngang hơn một thước rưỡi, hiện nay bày trong Bảo-tàng-viện Le Caire. Chữ "Y-sơ-ra-ên"
được ghi ở giữa dòng thứ hai, tính từ dưới lên. Ðây là bản ký văn: "Ca-na-an bị cướp phá. Y-
sơ-ra-ên bị hoang vu; dòng dõi nó không còn nữa. Ðối với Ai-cập, xứ Pa-lét-tin đã trở thành
một quả phụ." Ký văn nầy dường như ngụ ý nói đến việc dân Y-sơ-ra-ên ra khỏi Ai-cập. Câu:

"Dòng dõi nó không còn nữa" có thể chỉ về sự tiêu diệt những con trai nhỏ tuổi. Vì các vua thời
xưa không hề chép việc chi trừ ra những cuộc chiến thắng của mình, nên sự thực có lẽ là như
vầy: Dầu cố hết sức ngăn cản dân Y-sơ-ra-ên ra đi không được, nhưng ông cũng ghi chép sự
họ ra đi khỏi Ai-cập như là mình đã thắng dân ấy.
Các học giả đã quyết đoán dân Y-sơ-ra-ên ra khỏi Ai-cập nhằm niên hiệu sớm hơn, thì cho
rằng ký văn nầy ngụ ý nói đến việc Merneptah xâm lăng xứ Pa-lét-tin chừng 200 năm sau khi
dân Y-sơ-ra-ên đã định cư trong xứ Ca-na-an .
2. Ramsès đệ nhị tự nhận rằng mình đã xây cất hai thành Phi-thom và Ram-se với nhơn công
Y-sơ-ra-ên (Xuất Ê-díp-tô ký 1:11).
Năm 1883, ông Naville đã tìm ra vị trí thành Phi-thom. Trên cổng thành, ông thấy một bi văn
của Ramsès đệ nhị: "Ta đã xây thành Phi-thom ở cửa phía Ðông của sông Ni-lơ."
Ông tìm thấy một tòa nhà có tường dày phi thường, trên gạch có khắc tên Ramsès đệ nhị. Chỉ
có một lối vào do mái nhà. Ðây là những kho tàng mà dân Y-sơ-ra-ên đã xây cất.
Năm 1905, ông Petrie tìm ra vị trí thành Ram-se. Năm 1922, tại thành Bết-san (I Sa-mu-ên
31:10), thuộc xứ Pa-lét-tin, ông Fisher, nhơn viên Bảo-tàng-viện Ðại học đường Pennsylvania,
đã tìm thấy một tấm bia của Ramsès đệ nhị, cao chừng 2 thước rưỡi, rộng chừng 80 phân,
trên đó ghi khắc rằng ông "xây cất thành Rase với nhơn công của bọn tôi mọi Sémitique thuộc
Á-châu (Hê-bơ-rơ)."
Như vậy, hai bi văn nầy chỉ rõ Ramsès đệ nhị là Pha-ra-ôn đã truyền xây cất hai thành nầy
cho mình, và là kẻ đã hà hiếp dân Y-sơ-ra-ên; và như vậy, cũng chỉ rõ người kế vị ông, là
Merneptah, chính là Pha-ra-ôn đương thời dân Y-sơ-ra-ên ra khỏi Ai-cập. Tuy nhiên, người ta
biết rằng Ramsès đệ nhị là một tay hay sang đoạt, đã nhận một số đài kỷ niệm của các vị tiên
đế là của mình, và truyền ghi khắc tên mình trên những đài kỷ niệm ấy. Các nhà học giả chấp
nhận niên hiệu sớm hơn của việc dân Y-sơ-ra-ên ra khỏi Ai-cập và chấp nhận Thothmes đệ
tam là vua đã xây cất hai thành nầy, đều cho các bi văn trên đây có nghĩa là Ramsès đệ nhị
đã xây cất lại hoặc sửa chữa hai thành nầy với công lao của những người Hê-bơ-rơ không cùng
ra đi với Môi-se.
Về đại cương, chúng tôi nghĩ rằng các bằng cớ chứng rõ hơn rằng Amenhotep đệ nhị chính là
Pha-ra-ôn đương thời dân Y-sơ-ra-ên ra khỏi Ai-cập.
Di tích thành Thèbes

Di tích thành Thèbes mà người Y-sơ-ra-ên đã dự phần xây cất, thật là di tích vĩ đại nhứt thế
giới. Vị trí thành Thèbes ở trên cả hai bờ sông Ni-lơ, trong một đồng bằng hình bán nguyệt,
giữa các ghình đá phía Ðông và phía Tây. Di tích thành Thèbes chiếm một khu vực chừng 5
dặm từ Ðông qua Tây, và 3 dặm từ Bắc xuống Nam. Không một đô thị nào có nhiều miễu thờ,
cung điện và đài kỷ niệm bằng đá như vậy. Ðá chạm những màu lộng lẫy hơn hết và óng ánh
vàng thật. Thèbes trở nên một đô thị lớn dưới triều đại thứ 12, tức là 2000 năm T.C., đương
thời Áp-ra-ham. Thành nầy được vinh quang từ 1600 đến 1300 T.C., là khoảng dân Y-sơ-ra-ên
kiều ngụ tại Ai-cập; chắc nhiều đền đài tráng lệ của nó do công lao khó nhọc, mồ hôi và máu
của bao nhiêu ngàn tôi mọi Y-sơ-ra-ên, không sao đếm xiết. Thành bị quân A-sy-ri hủy phá
năm 661 T.C., rồi được xây cất lại, rồi lại bị quân Ba-tư triệt hạ năm 535 T.C Thành bị hủy
hoại bởi một nạn động đất năm 27 T.C., và từ đó tới nay, chỉ còn là một đống hoang tàn.
Miễu đồ sộ thờ thần Amon
Tại Karnak, thuộc khu phía Ðông thành Thèbes, có một công trình kiến trúc vào hạng đồ sộ
nhứt. Phần chính giữa của công trình kiến trúc nầy gọi là Lâu đài có trụ đỡ; người ta đã tưởng
tượng Lâu đài nầy sừng sững đương thời vinh quang và đã nắn lại kiểu mẫu của nó, đem bày
tại Bảo-tàng-viện Thủ đô. Trên cổng chính đi vào có một vầng đá dài chừng 13 thước tây và
cân nặng 150 tấn. Có 134 cây trụ lớn, mà 12 cây chính giữa cao chừng 24 thước tây và đường
kính gần 4 thước. Trên đỉnh một cây trụ nầy đủ chỗ cho 100 người đứng.
Hai ngọn tháp của hoàng hậu Hatshepsut, mà một còn đứng nguyên, cao chừng 31 thước tây,
cân nặng 150 tấn, có bi văn ghi rằng nó được chở về trên 30 chiếc thuyền ghép lại, gồm 960
tay chèo, từ các hầm đá cách xa 150 dặm.
Bí ẩn Kim tự tháp Mặt trời
Người ta biết đến "Kim tự tháp Mặt trời" chỉ trong 500 năm trở lại đây. Kỳ quan này còn có thể
gọi là "Kim tự tháp Thời đại", vì theo một truyền thuyết cổ xưa của Mexico, kim tự tháp này
đánh dấu nơi thời đại bắt đầu.
Kim tự tháp được dựng lên cách đây gần 2.000 năm như một đài tưởng niệm, một nơi để tôn
thờ những vị thần vĩ đại và có lẽ cũng là lăng mộ của nhà thống trị đã xây dựng công trình.
Cao 60 m so với đồng bằng trong thung lũng Teotihuacan thuộc vùng cao nguyên miền trung
Mexico khí hậu lạnh khô, kim tự tháp là thành tựu kiến trúc tinh xảo nhất ở Teotihuacan,
thành phố lớn đầu tiên của Mexico cổ đại.

Số liệu thực tế
Giai đoạn I: Xây dựng khoảng năm 300 TCN đến năm thứ nhất sau Công nguyên, trên một
móng thấp nằm ngay phía trên phòng trong của hang, móng khác nhỏ hơn ở hướng tây phía
trên và ở phía đông lối vào hang.
Giai đoạn II: Kim tự tháp đầu tiên xây dựng vào khoảng năm thứ 100. Mỗi cạnh đáy khoảng
184 m, chiều cao khoảng 46 m.
Giai đoạn III: Kim tự tháp sau cùng được hoàn thành khoảng năm 50-225 sau CN. Mỗi cạnh
đáy khoảng 226 m, chiều cao khoảng 75 m kể cả ngôi đền trên đỉnh đã bị tàn phá.

Teotihuacan trong thiên nhiên kỷ 1 TCN chỉ là một trong hai thành phố thịnh vượng thuộc
thung lũng Mexico, mỗi thành phố đều nằm trong vùng đồng bằng tựa lưng vào núi. Một vài
trăm năm TCN, Teotihuacan lâm vào tình thế hiểm nghèo, sau cùng chôn vùi thành phố này
dưới dòng dung nham.
Dân tị nạn tìm thấy một quê hương mới ở Teotihuacan, nơi họ cùng con cháu tiếp tục xây
dựng các công trình lớn nhất Mexico cổ đại. Đó là hai kim tự tháp khổng lồ (kim tự tháp "Mặt
trời" và "Mặt trăng"), một đường đắp cao đồ sộ để hành lễ ("Đại lộ tử thần"), một tập hợp các
phức hợp khổng lồ ("Ciudadela", hay Thành lũy, khu "Đại phức hợp") và sau cùng các ngôi nhà
của chính họ cùng các khu phức hợp căn hộ.
Vì thế, thành phố Teotihuacan phát triển bao quanh Kim tự tháp Mặt trời với mạng lưới đô thị
có dân định cư chiếm diện tích 20 km², dân số hơn 100.000 người.
Hình vẽ núi và hang động của Teotihuacan
Giới học giả cho rằng dân tị nạn tự nguyện xây dựng hai công trình này, do các nhà cai trị
Teotihuacan giám sát, và để phục vụ các vị thần linh thiêng của thành phố. Họ cũng cho rằng
phong cảnh đầy rẫy thần linh, ắt hẳn dân tị nạn xem núi và hang động cũng là nơi linh thiêng,
đầy uy lực, trong khi thung lũng Teotihuacan là sự liên kết thuận lợi của các đặc tính này.
Ngay trung tâm thành phố tương lai, một hang động hướng mặt về phía Tây, hướng mặt trời
lặn dựa vào những ngày quan trọng về nông nghiệp và thiên văn nào đó. Trên hang người ta
xây dựng một ngôi đền vào thế kỷ 1 TCN vốn là công trình lâu đời nhất nằm ở địa điểm Kim tự
tháp Mặt trời, gồm nhiều mô đất lớn phía trên lối vào hang và phòng bên trong hang.
Đứng ở lối vào hang, nhìn về hướng Bắc, vuông góc với tầm nhìn phía Tây, có thể nhìn thấy

hẻm núi trên đỉnh núi thiêng của thành phố. Đầu thế kỷ 1 sau CN, lực lượng lao động của
Teotihuacan xây dựng con đường đắp cao ngày nay gọi là Đại lộ tử thần, đầu phía Nam con
đường nằm ở lối vào hang, đầu phía Bắc nằm ở chân núi, nơi đây người ta xây Kim tự tháp
Mặt trăng, công trình kiến trúc đồ sộ đầu tiên của thành phố.
Đến cuối thế kỷ, công việc tập trung vào việc mở rộng ngôi đền trong hang đến tận Kim tự
tháp Mặt trời. Người ta chỉ hiểu biết sơ sài về các giai đoạn xây dựng, các cuộc khai quật sau
này cuối cùng mới tìm ra lời đáp trọn vẹn cho câu hỏi kim tự tháp trải qua bao nhiêu lần tái
xây dựng.
Thế nhưng, ai cũng biết rõ phần móng của kim tự tháp là hình vuông khổng lồ, mỗi cạnh 349
m. Trong chu vi này, phiên bản áp chót của kim tự tháp được xây dựng trên một nền hình
vuông, mỗi cạnh khoảng 184 m, đạt đến độ cao khoảng 46 m. Phần lõi gồm lớp tro núi lửa
đầm chặt, gạch bùn phơi nắng và sỏi núi lửa phủ một lớp vữa dày làm từ nhiều loại sỏi núi lửa,
bên ngoài là lớp vữa đá vôi và lớp sơn.
Trên đỉnh kim tự tháp là ngôi đền, có thể là hai ngôi đền giống hệt nhau, thờ hai vị thần chính
của thành phố, nam thần Bão và nữ thần Lớn. Trung tâm hành lễ của Teotihuacan mở rộng
vào thế kỷ 2 sau CN, đường đi đắp cao mở rộng về phía nam, gia cố bên sườn bằng các ô
vuông khổng lồ.
Trước năm 225 sau CN, Kim tự tháp Mặt trời có hình dạng gần giống hình dạng ngày nay,
không kể sự sụp đổ của phần đỉnh và bề mặt. Kim tự tháp hoàn chỉnh đo được khoảng 226 m
chéo quy cạnh đáy, nhỏ hơn đường chéo góc ở cạnh Kim tự tháp lớn Khufu ở Ai Cập. Chiều
cao, kể cả ngôi đền trên đỉnh khoảng 75 m, bằng một nửa kim tự tháp ở Khufu.
Bổ sung vào kim tự tháp đầu tiên là các thanh giằng cấu trúc, ngày nay có thể nhìn thấy vì bề
mặt bị phá hủy. Các trụ chống tường mở rộng hướng lên tận phía đỉnh, khoảng cách giữa các
trụ chống ắt hẳn đã được lấp đầy, toàn bộ bề mặt được bao phủ bằng một khối xây dài 7 m,
một lớp sỏi núi lửa nghiền, sau cùng là vữa vôi và sơn.
Di chuyển vật liệu xây dựng đền
Để xây dựng đền, phải cần đến một khối lượng vật liệu rất lớn, nhưng vật liệu lấy từ đâu, vận
chuyển ra sao? Nhiều giả thiết, vật liệu kềnh càng như đá bọt, sỏi và đá tảng bằng tro núi lửa
đầm chặt có thể được khai thác từ bên dưới kim tự tháp. Các cuộc nghiên cứu hệ thống hang
động bên dưới Teotihuacan gần đây cho thấy có nhiều hang động từng được cho là mang tính

chất tự nhiên, nhưng thực ra, những mỏ đá sau này sử dụng cho các mục đích hành lễ là hang
động linh thiêng nằm bên dưới Kim tự tháp Mặt trời đã được gọt đẽo và độn đầy công phu.
Để vận chuyển vật liệu xây dựng, các nhà cai trị và quy hoạch sử dụng dân số đang gia tăng
của thành phố Teotihuacan, những người làm việc tích cực nhất ở các thời điểm trong năm khi
rỗi việc canh tác dựa trên hệ thống thủy lợi kéo dài từ thành phố xuống tận hồ.
Nếu ước tính thật chi tiết rằng, một người lớn thông thường có thể tham gia công trình 100
ngày mỗi năm, dân số thành phố vào thời điểm khoảng 100 sau CN là 100.000 người, thì họ
phải góp thêm hàng triệu ngày công mỗi năm, vận chuyển vật liệu bằng thúng và thực hiện
các công việc khác.
Như vậy, việc xây dựng Kim tự tháp mặt trời mất bao lâu? Nếu thử tính toán thể tích kim tự
tháp hơn 1 triệu m3, khoảng 30 triệu thúng, mỗi công nhân mỗi ngày đi năm chuyến từ mỏ đá
đến công trường, cần đến 6 triệu ngày công, có nghĩa 6.000 công nhân hoàn tất công trình
trong 10 năm.
Toàn bộ bề mặt 50.000 m2 được trát vữa, lớp đầu bằng bùn và sỏi núi lửa, sau cùng là lớp vữa
đá vôi từ các thung lũng gần đó. Việc xử lý vôi ngốn hết toàn bộ các khu rừng và vì không thể
thay đổi điều kiện sinh thái trong thung lũng nên sự xói mòn ngày nay vẫn còn nhìn thấy.
Các nhà cai trị thành phố hoàn tất Kim tự tháp Mặt trời với ngôi đền (hay nhiều đền) trên đỉnh
rộng và thiết kế lại phần nền phía trên lối vào hang. Sự bổ sung này mang đến cách thiết kế
kiến trúc dễ phân biệt, trở thành dấu ấn kiến trúc của Teotihuacan: vách tấm móng gồm nhiều
pa-nô dài nằm ngang trên đỉnh các móng nghiêng, gọi là kiểu talud-rablero, không tìm thấy ở
Kim tự tháp Mặt trời.
Sau khi hoàn tất Kim tự tháp Mặt trời, công trình chấm dứt để tu bổ thêm phần trung tâm nghi
lễ dân sự trong thành phố. Truyền thống ban đầu của các nhà cầm quyền Teotihuacan đầy
quyền năng đã mở đường cho một phong cách lãnh đạo mang tính tập thể nhiều hơn, có lẽ là
đại biểu cư dân trong các khu phức hợp căn hộ, vẫn còn người ở trong 400-500 năm sau.
Người lùn Munayi
Năm 1837, ở gần thị trấn Cosaoke của Bang Ohio - Mỹ, người ta đã phát hiện thấy mộ địa của
người lùn. Hài cốt được phát hiện ở đây đều cao không đến 90cm. Nhưng do gần nơi mai táng
không hề phát hiện được bất cứ văn vật nào nên các nhà khảo cổ đã gặp nhiều khó khăn trong
việc xác định nền văn hóa và niên đại sống của những người lùn này. Tuy nhiên, từ số lượng

hài cốt đào được trong huyệt mộ có thể thấy nơi đây dân cư tập trung khá đông đúc.
Khoảng 100 năm sau, ở gần thị trấn Gasper của Bang Wyoming - Mỹ, một đội khảo trắc quặng
vàng khi làm nổ vách đá đã phát hiện thấy một bộ hài cốt Munayi. Bộ hài cốt Munayi này hai
chân xếp vòng, hai tay đặt trên đầu gối sống động như một tượng Phật. Nhìn tướng mạo, bộ
hài cốt giống như một người đàn ông trung niên, da hằn đầy nếp nhăn, mũi cao vút, trán rộng,
miệng rộng nhưng môi mỏng. Tuy nhiên chiều cao của ông chỉ có 37cm. Bộ hài cốt Munayi này
đã thu hút sự chú ý của rất nhiều nhà nhân loại và khảo cổ học.
Họ đã tiến hành nghiên cứu tỷ mỷ bộ hài cốt ấy nhưng không thu được kết quả gì khả quan.
Có người cho rằng, đó là một vị thủ nho. Nhưng từ góc độ sinh lý, có người cho rằng ông ta
không phải là thủ nho mà là một người lùn. Bên cạnh đó, người ta còn tập trung phân tích vấn
đề: Tại sao bộ hài cốt Munayi này lại xuất hiện ở đây? Có người phán đoán đây có thể là tổ
tiên của người Indian. Ý kiến này không được đồng tình vì không có căn cứ. Một vài năm sau,
bộ hài cốt Munayi được một thương gia Mỹ mua và đưa đến New York. Sau khi được Viện bảo
tàng ở Mỹ chụp X-quang và qua chứng minh thế hệ nhân loại học xác nhận đích xác, các
chuyên gia đưa ra phán đoán, đây là một người 65 tuổi. Lúc đó, có người nói: trong lịch sử của
người Indian ở Shosonisi và Crao của Wyoming đã từng có truyền thuyết về sự tồn tại của
người lùn. Vậy Munayi này có thuộc về tộc người lùn đó không?
Các chuyên gia cho rằng, người lùn không phải là thu nhỏ, không phải bị ngừng phát triển vì
khuyết thiếu một yếu tố nào đó của cơ thể mà không đạt được chiều cao bình thường của con
người.
Tương truyền 1.000 năm trước đã có một bộ tộc người lùn tập trung ở một vài khu vực thuộc
Ba Lan. Sau khi nghiên cứu vô số các hài cốt của họ, giáo sư Tylunniya của trường Đại học
Buchis đã cho rằng, dân tộc thấp bé này có lẽ sống vào khoảng thế kỷ I trước Công nguyên.
Về sau, một hài cốt người lùn được phát hiện ở Sayasas nước Pháp đã chứng minh: Những bộ
xương này đều phát dục bình thường, tỷ lệ thích hợp và không hề có vết tích dị dạng nhưng
chiều cao của họ chỉ từ 50-70cm.
Đế quốc Ai Cập (P3)
Sau nạn nước lụt ít lâu, nước Ai-cập được sáng lập bởi Mích-ra-im, con trai của Cham. Nó được
gọi là "xứ của Cham."
Dầu nền văn minh được mở mang tại xứ Ba-by-lôn, dưới đời trị vì của Nim-rốt, Sargon và

Hammurabi, nhưng nó đã tấn triển mau lẹ hơn tại Ai-cập, dưới 12 triều đại đầu tiên, bao gồm
thời kỳ giữa nạn nước lụt và Áp-ra-ham.
31 triều đại của Manetho. Manetho, người Ai-cập, khoảng 250 năm T.C., đã chép lịch sử Ai-
cập, sắp đặt thành 31 triều đại, từ Menes, vua đầu tiên trong lịch sử, đến khi A-lịch-sơn đại
đế, vua Hy-lạp chinh phục Ai-cập, năm 332 T.C Cho tới ngày nay, người ta vẫn thừa nhận
lịch sử Ai-cập thời xưa gồm 31 triều đại; về đại cương, các sự khám phá của khảo cổ học đã
xác chứng thật có 31 triều đại ấy.
Thoạt tiên, Ai-cập gồm một số nhóm gia tộc, hoặc bộ lạc nhỏ, mỗi nhóm gọi là một "nước." Họ
có thời kỳ "tiền sử," nghĩa là một thời kỳ trước khi ghi chép những biến cố thời nay, duy có
những thần, á thần và vua sống lâu trong thời nguyên thủy. Họ biết dùng vàng, bạc, đồng, chì
và đá lửa. Họ có chữ viết và biết đóng tàu.
Ba thời kỳ trọng đại của lịch sử Ai-cập là:
Nước thời cổ: Triều đại thứ 3 tới triều đại thứ 6. Kỷ nguyên xây cất Kim tự tháp. Theo nhiều ý
kiến khác nhau, các triều đại nầy ở vào những khoảng giữa 4000 năm T.C. tới 2000 năm T.C.;
nhưng thường thì cho là vào khoảng 2700 năm T.C
Nước khoảng giữa: Triều đại thứ 11 và 12. Kỷ nguyên đào kinh. Ðây là một thời kỳ rất thạnh
vượng. Khoảng 2000 năm T.C. Thời Áp-ra-ham.
Thời kỳ đế quốc: Triều đại 18 và 19. 1600-1200 T.C. Ðế quốc thứ nhứt cầm quyền cả thế giới
mà người ta biết hồi đó. Cai trị từ xứ Ê-thi-ô-bi đến sông Ơ-phơ-rát. Ðây là thời kỳ dân Y-sơ-
ra-ên kiều ngụ tại Ai-cập.
Niên biểu Ai-cập đã được thành lập khá đúng từ năm 1600 T.C.; nhưng trước đó, thì rất mơ
hồ. Vậy, các nhà Ai-cập-học chỉ định khác nhau về niên hiệu của Menes, vua thứ nhứt của thời
kỳ lịch sử, như sau nầy: Petrie, 5500 T.C.; Mariette, 5000; Brugsch, 4500; Chabas, 4000;
Lepsius, 3900; Bunsen 3600; Hall, 3500; Breasted 3400; Barton 3400; Meyer 3300; Scharff,
3000; Poole 2700; G. Rawlinson 2450; Wilkinson 2320; Sharpe 2000. Như vậy, ta có thể thấy
rằng Petrie và Breasted, là hai nhà Ai-cập-học trứ danh nhứt, sai biệt nhau tới hơn 2000 năm
đối với khởi điểm của lịch sử Ai-cập. Hai ông nầy cũng sai biệt nhau cả ngàn năm về niên hiệu
của các Kim tự tháp, và 700 năm về thời kỳ các Hyksos (dòng vua trị vì đương thời dân Do-
thái kiều ngụ tại Ai-cập). Ngày nay người ta có khuynh hướng hạ thấp các niên hiệu trong niên
biểu Ai-cập và Ba-by-lôn, cho rằng Kim tự tháp Lớn được xây cất khoảng 2400 hoặc 2500 năm

T.C.
Niên biểu của Kinh Thánh và niên biểu của Ai-cập. Người Ai-cập có truyền thuyết rằng nạn
nước lụt xảy ra trong thời tiền sử. Nền văn minh Kim tự tháp phát triển sau nạn nước lụt. Phải
có đủ thì giờ cho gia quyến Nô-ê sanh con đẻ cháu rất đông đúc. Kinh Thánh dường như đặt
nạn nước lụt vào khoảng 2400 T.C.; còn các nhà Ai-cập-học tính đổ đồng rằng thời kỳ lịch sử
Ai-cập bắt đầu khoảng 3000 năm T.C. (xem ở trên); như vậy là đặt ở 600 năm trước nạn nước
lụt những biến cố đáng phải xảy ra lâu lắm sau nạn nước lụt. Ðó dường như là một mâu thuẩn
giữa niên biểu Ai-cập và niên biểu Kinh Thánh. Nhưng dựa vào đoạn luận về niên biểu Ai-cập
trên đây, ta có thể nhận xét rằng một vài nhà Ai-cập học đem khởi điểm của thời kỳ lịch sử Ai-
cập xuống sau 2400 năm T.C.; và ta phải nhớ rằng bản Septante và bản Ngũ kinh Sa-ma-ri
đẩy niên hiệu Kinh Thánh cho nạn nước lụt lui về 3000 T.C. (xem dưới mục "Niên biểu Cựu
Ước"). Như vậy, chỉ có vài hệ thống niên biểu Ai-cập mâu thuẩn với vài hệ thống niên biểu
Kinh Thánh; còn những niên biểu khác thì phù hợp hoàn toàn.
Lịch sử Ai-cập thời kỳ Áp-ra-ham
Thời đại thứ nhứt Menes (Mena), vua lịch sử thứ nhứt, củng cố nhiều bộ lạc khác nhau, và
thống nhứt Thượng-Ai-cập với Hạ-Ai-cập. Ông chiếm cứ vùng Si-na-i và khai thác các mỏ lam
ngọc ở đó. Một vài nhà học giả cho rằng ông là một với Mích-ra-im, con trai của Cham. Có lẽ
ông gần đồng thời với Nim-rốt; đang khi Nim-rốt đặt nền tảng của đế quốc chủ nghĩa giữa các
tiểu bang của xứ Ba-by-lôn, thì Menes cũng làm việc ấy tại Ai-cập. Người ta tìm thấy phần mộ
ông tại Abydos, và trong đó có một cái bình tráng men xanh lá cây có khắc tên ông. Triều đại
nầy có 9 vua.
Triều đại thứ hai 9 vua. Những tên Sémitique chỉ tỏ cuộc giao dịch với Ba-by-lôn. Khai thác
các mỏ ở vùng Si-na-i.
Triều đại thứ ba 5 vua. Tiếp tục khai mỏ ở vùng Si-na-i. Ðóng tàu dài chừng 48 thước để
buôn bán tại vùng Ðịa trung hải; tổ chức hàng hải tới xứ Li-ban. Bắt đầu kỷ nguyên Kim tự
tháp. Zozer xây cất "Kim tự tháp có bậc" tại Sakkarah, cách thành Mem-phi (xem Ô-sê 9:6) 2
dặm về phía Tây, có 6 từng có sân thụt vô trong, gần giống như các miễu tháp của xứ Ba-by-
lôn vậy. Sau đó, Snefru (Seneferu) bắt chước Zozer, nhưng lấp kín các từng có sân thụt vô,
làm thành các sườn phẳng phiu. Ðó thật là Kim tự tháp đầu tiên, tại Meydum, gần Sakkarah.
Triều đại thứ tư 7 vua. Tuyệt điểm của kỷ nguyên Kim tự tháp. Xây cất 3 Kim tự tháp của

Chéops (Khufu), Khafre (Cephren), Menkure (Menkaura) tại Gizeh, cách kinh thành Le Caire 8
dặm về phía Tây. Lớn nhứt là Kim tự tháp của Chéops, một trong những vua hùng mạnh nhứt
của Ai-cập. Rồi tới Kim tự tháp của Khafre, có khắc tượng nhân sư (sphinx) mà mặt là chính
mặt ông. Còn trong Kim tự tháp của Menkure thì người ta tìm thấy chính xác ướp của ông.
Triều đại thứ năm 9 vua. Tiếp tục khai mỏ ở vùng Si-na-i. Cử các phái đoàn thương mại
vượt Ðịa trung hải, tới các xứ Phê-ni-xi, Sy-ri và Ô-phia (ICác Vua 9:28).
Người Ai-cập rất mạnh tin có đời sau. Ở vườn phía Tây Kim tự tháp của hoàng hậu Khent-
Kawes, thuộc triều đại thứ 5, người ta đã thấy một chiếc tàu dài chừng 36 thước, ngang chừng
5 thước, mà bà đã cho khắc sâu vào đá để chở linh hồn bà qua thế giới bên kia. Lăng tẩm của
các Pha-ra-ôn (vua Ai-cập) chứa nhiều vật báu của thế giới nầy mà họ tưởng có thể đem theo
qua thế giới bên kia.
Triều đại thứ sáu 6 vua. Nước thời cổ chấm dứt. Pepi đệ nhị, vua thứ năm, trị vì 90 năm; đó
là đời trị vì lâu dài nhứt trong lịch sử.
Các triều đại thứ bảy, tám, chín, mười 20 vua. Thời kỳ phân tán; nhiều nước giao tranh với
nhau.
Triều đại thứ mười một 7 vua. Khởi đầu nước hùng mạnh ở khoảng giữa; nước nầy tồn tại
suốt triều đại thứ 12.
Triều đại thứ mười hai 8 vua. Amenembet đệ tam xây cất miễu thờ Serabit tại vùng Si-na-i;
tại đây, Petrie mới tìm thấy lối viết có chữ cái cổ nhứt thế giới. Có nhiều cuộc giao dịch với xứ
Sy-ri. Ðào một con kinh từ sông Ni-lơ tới Hồng hải. Senusert đệ nhứt xây tháp hình chóp
(obélisque) tại thành Ôn (Sáng thế ký 41:45), đến nay vẫn còn. Người ta thường nghĩ rằng
Senusert đệ nhị chính là Pha-ra-ôn khi Áp-ra-ham ghé thăm Ai-cập.
Các kim tự tháp Ai-cập không giống những miễu tháp Ba-by-lôn, vì trên chót những miễu tháp
nầy có xây nơi thờ lạy các thần; còn Kim tự tháp chỉ là mộ phần cốt để vĩnh cửu hóa vinh
quang của các Pha-ra-ôn đã xây cất nó. Sự ham mê Kim tự tháp bắt đầu từ triều đại thứ nhứt,
và tới triều đại thứ tư thì lên đến cực độ.
Kim tự tháp lớn của Chéops Ðây là công trình kiến trúc vĩ đại nhứt của các thời đại. Chiếm
một khoảng hơn 5 mẫu tây và cao chừng 155 thước tây (nay còn chừng 145 thước). Tính
phỏng để xây cất nó, phải dùng 2.300.000 phiến đá, mỗi phiến dày đổ đồng gần 1 thước tây
và cân nặng đổ đồng 2 tấn rưỡi. Xây bằng nhiều lớp phiến đá vôi đẽo sơ sài, ngoài cùng là lớp

phiến đá hoa cương chạm trổ tuyệt xảo và ráp nhau rất khít. Những phiến đá của lớp ngoài
cùng nầy đã bị bóc và đem dùng xây cất kinh thành Le Caire. Giữa sườn phía Bắc có một lối đi
rộng gần 1 thước tây, cao chừng 1 thước 25, dẫn vào một phòng đục trong đá nguyên khối, ở
dưới mặt đất chừng 33 thước tây và cách đỉnh Kim tự tháp gần 200 thước tây. Giữa phòng nầy
và đỉnh Kim tự tháp lại có hai phòng khác, có nhiều tranh vẽ và tượng chạm mô tả chiến công
của vua nầy. Xác ướp của Chéops không có ở đó.
Xây cất thể nào? Người ta dùng dụng cụ bằng đá và bằng đồng mà lấy đá từ một hầm đá
cách xa 12 dặm về phía Ðông, thả trôi qua sông Ni-lơ trong mùa lụt, rồi có những đoàn người
vô tận dùng dây kéo trên con đường rất dài thoai thoải mà họ đã đắp cho công cuộc xây cất
nầy. Họ dùng những cái nêm có đáy như cái nôi mà kéo đá lên và đưa tới đúng chỗ; những cái
nêm nầy liên tiếp đưa qua một phía gióng, rồi lại qua phía kia. Tính ra phải có 10 vạn người
làm việc luôn 10 năm để đắp xong đường đất trên đây, rồi phải mất 20 năm nữa mới xây xong
chính Kim tự tháp. Hết thảy là lao công cưỡng bách, giai cấp thợ thuyền và tôi mọi bị kéo đi
làm việc, dưới cái roi da tàn nhẫn, không chút thương xót của bọn đốc công.
Tánh cách quan trọng Ðiểm kỳ lạ của các Kim tự tháp là nó được xây cất ngay lúc khởi đầu
lịch sử. Huân tước Flinders Petrie gọi Kim tự tháp của Chéops là "công trình kiến trúc lớn lao
nhứt và tính đúng nhứt mà thế giới từng mục kích." Bách khoa Từ điển Brilannica luận rằng:
"Sức óc mà Kim tự tháp chứng minh thật lớn bằng sức óc của bất cứ người nào ngày nay."

Nước Ai-cập và Kinh Thánh
Trước hết, Ai-cập có dòng dõi của Cham đến cư ngụ. Áp-ra-ham đã ở Ai-cập ít lâu. Gia-cốp
cũng vậy. Giô-sép cầm quyền nước Ai-cập. Dân tộc Hê-bơ-rơ, trong thời ấu trĩ, đã ở Ai-cập
400 năm. Môi-se là con nuôi của một hoàng hậu Ai-cập, và khi được dự bị làm nhà lập pháp
của nước Y-sơ-ra-ên, ông đã được dạy cho mọi khôn ngoan và tri thức của nước Ai-cập. Sa-lô-
môn đã cưới con gái của một Pha-ra-ôn (vua) Ai-cập. Tôn giáo Ai-cập, là sự thờ bò con, đã trở
thành tôn giáo của nước Y-sơ-ra-ên ở phương Bắc. Giê-rê-mi đã qua đời tại Ai-cập. Từ kỳ Lưu
đày cho đến thời Ðấng Christ, có rất đông người Do-thái ở Ai-cập. Bản dịch Cựu Ước
"Septante" đã được thực hiện tại Ai-cập. Ðức Chúa Jêsus ở Ai-cập ít lâu đương thời thơ ấu. Ai-
cập đã trở nên một trung tâm quan trọng của đạo Ðấng Christ lúc khởi đầu.
Ai-cập

Một thung lũng rộng từ 2 đến 30 dặm, và rộng trung bình chừng 10 dặm, bề dài 750 dặm; có
sông Ni-lơ chảy từ Aswan tới Ðịa-trung-hải, qua đầu phía đông của sa mạc Sahara, mỗi bên
đều có một cao nguyên hoang vu, cao chừng 310 thước.
Ðáy thung lũng có phù sa đen rất tốt lắng xuống đóng kín, từ cao nguyên xứ A-bít-si-ni đổ
xuống; phù sa nầy phì nhiêu vô song, và luôn luôn đổi mới vì sông Ni-lơ tràn lút hằng năm.
Thung lũng nầy được dẫn thủy nhập điền từ lúc khởi đầu lịch sử, do một hệ thống kinh đào
cùng hồ chứa nước rộng lớn và kỹ xảo. Ðập Aswan, do người Anh xây ít lâu nay, hiện chế ngự
sự tràn lụt của sông Ni-lơ, và nạn đói chỉ là chuyện quá khứ.
"Ai-cập được sa mạc bao quanh, cô lập hóa và che chở; tại đây, đại đế quốc thứ nhứt trong
lịch sử đã được phát triển; cũng tại đây, những chứng cớ của nền văn minh thượng cổ đã được
bảo tồn hơn nơi nào hết."
Ngày nay, dân số chừng 16 triệu; đương thời đế quốc La-mã, dân số có 7 triệu; đương thời
dân Y-sơ-ra-ên kiều ngụ, có lẽ cũng chừng đó hoặc kém.
Trung châu là một hình tam giác, và là nơi cửa sông Ni-lơ mở rộng. Miền nầy đo được chừng
100 dặm từ Bắc tới Nam, và chừng 150 dặm từ Ðông tới Tây, tức là từ Port Said tới
Alexandrie. Ðây là miền phì nhiêu nhứt nước Ai-cập, xứ Gô-sen, trung tâm cư trú chính của
người Y-sơ-ra-ên, là phần phía Ðông của trung châu nầy.
La Mã Cổ Đại
La Mã cổ đại là một nền văn minh đã từng tồn tại ở châu Âu, Bắc Phi, và Trung Đông từ năm
753 trước C.N. và sụp đổ vào năm 476 sau C.N Trong nhiều thế kỉ, người La Mã kiểm soát
toàn bộ Tây Âu và tất cả vùng lãnh thổ bao quanh biển Địa Trung Hải và một số vùng đất bao
quanh Biển Đen
Thời kì Quân chủ
Thành phố Rome phát triển từ những khu định cư trên và xung quanh đồi Palatine, xấp xỉ
mười tám dặm từ biển Tyrrhenia (một phần của biển Địa Trung Hải) trên dòng sông Tiber. Tại
vị trí này sông Tiber có một hòn đảo mà ở đó có thể lội qua sông. Do dòng sông và chỗ cạn,
Rome ở vị trí quyết định đối với giao thông và buôn bán. Trong truyền thuyết của người La Mã,
Rome được xây dựng bởi Romulus vào ngày 21 tháng 4 năm 753 trước C.N. Romulus, người
mà tên đã được coi là sinh ra tên của thành Rome, là người đầu tiên trong 7 vị vua của Rome
mà người cuối cùng là Tarquin Kiêu hãnh bị phế truất vào năm 510 hay 509 trước C.N khi La

Mã Cộng hoà được thiết lập. Những vị vua thần thoại hay bán thần thoại là (theo thứ tự thời
gian): Romulus, Numa Pompilius (Vua hiền Numa), Tullus Hostilius, Ancus Marcius, Tarquinius
Priscus, Servius Tullius, và Tarquinius Superbus (Tarquin Kiêu hãnh).
Thời kì Cộng hoà
La Mã Cộng hoà được thành lập vào năm 509 trước C.N, theo những tác giả về sau như Livy,
khi nhà vua bị hạ bệ, và một hệ thống dựa trên những quanh chức hành chính địa phương
được bầu ra hằng năm. Quan trọng nhất là hai quan chấp chính tối cao, những người cùng
nhau áp dụng quyền hành pháp, nhưng phải đấu tranh với Hội đồng Nguyên lão cứ lớn lên về
qui mô và quyền lực cùng với lực lượng của nền Cộng hoà. Các chức vị quan toà lúc đầu chỉ
được giới hạn cho quí tộc nhưng sau này được mở rộng cho cả người bình dân. Người La Mã
dần dần đánh bại những dân tộc khác trên bán đảo Italy, chủ yếu liên quan đến những bộ tộc
Ý khác (thuộc dòng Ấn- Âu) như người Samnite và Sabine, nhưng cũng có cả người Entrusca.
Mối đe doạ cuối cùng cho đế chế La Mã ở Italy đến khi Tarentum, một thuộc địa lớn của Hy
Lạp, nhận được sự giúp đỡ của Pyrrhus thành Epirus vào năm 282 T.C.N. Trong nửa sau của
thế kỉ thứ 3 trước C.N, Rome xung đột với Carthage trong 2 cuộc chiến tranh Punic, xâm
chiếm Sicily và Iberia. Sau khi đánh bại Macedonia và người Seleucid vào thế kỉ thứ 2 T.C.N,
người La Mã trở thành những người chủ không thể chối cãi của vùng Địa Trung Hải. Xung đột
nội bộ giờ đây trở thành mối đe doạ lớn nhất đối với nền Cộng hoà. Hội đồng Nguyên lão, khư
khư giữ lấy quyền lực cho mình, liên tục phản đối những cải cách đất đai quan trọng. Một hậu
quả không lường trước được từ cải cách quân sự của Gaius Marius đó là quân lính thường có
lòng trung thành với chỉ huy của họ nhiều hơn đối với thành phố, và một vị tướng hùng mạnh
như Marius hay đối thủ của ông Lucius Cornelius Sulla, có đủ khả năng uy hiếp buộc thành phố
và Hội đồng Nguyên lão phải nhượng bộ . Vào giữa thế kỉ thứ nhất trước Công nguyên ba
người đàn ông, Julius Caesar, Gnaeus Pompeius Magnus, và Marcus Licinius Crassus, đã nắm
quyền kiểm soát không chính thức của chính phủ cộng hoà thông qua một hiệp uớc bí mật
được biết đến như là Chế độ Tam hùng đầu tiên. Caesar có thể hoà hợp với những đối thủ
Pompey và Crassus, cả hai đều là những người cực giàu với quân đội riêng và sự nghiệp
thượng nghị sĩ, và hành động vì lợi ích của cả hai người khi bầu chọn quan chấp chính tối cao,
trước khi dùng cương vị thống đốc của mình như người cầm quyền của Gaul để tự mình có
được danh tiếng quân sự. Sau cái chết của Crassus và sự sụp đổ của chế độ Tam hùng, một sự

tách biệt giữa Caesar và Hội đồng Nguyên lão đã dẫn tới nội chiến, với Pompey dẫn đầu lực
lượng của Hội đồng. Caesar chiến thắng và được phong làm nhà độc tài suốt đời sau khi từ
chối tước hiệu quốc vương . Tuy nhiên, ông ta chiếm lấy quá nhiều quyền lực quá nhanh đối
với một vài thượng nghị sĩ, và bị ám sát trong một âm mưu được tổ chức bởi Brutus và Cassius
vào ngày 15 tháng 3 năm 44 T.C.N. Một chế độ Tam hùng thứ 2, bao gồm người thừa kế đã
được chỉ định của Ceasar Octavian và những cựu trợ thần Mark Antony và Marcus Aemilius
Lepidus, lên nắm quyền, nhưng những thành viên của nó nhanh chóng rơi vào một cuộc đấu
tranh giành quyền thống trị. Trong nỗ lực cuối giành chính quyền Cộng hoà, Octavian đánh bại
Antony tại trận chiến Actium vào năm 31 T.C.N và thôn tính những vùng lãnh thổ của
Cleopatra, người vợ phương Đông( và ở Rome, bị khinh miệt) của Antony. Octavian giữ lại Ai
Cập như là thuộc địa không chính thức của nhà vua, bảo đảm một thu nhập để lấy lòng những
cư dân thủ đô. Giờ đây ông ta nắm lấy quyền lực gần như tuyệt đối với tư cách là thống soái
quân sư, người bảo vệ duy nhất của quần chúng, và quyền lực tối cao trên lãnh thổ La Mã, và
lấy tên Augustus. Những xác lập hiến pháp trên (đã biến Rome từ một nước cộng hoà thành
một đế quốc. Người kế vị được chỉ định của Augustus, Tiberius, lên nắm quyền mà không có
cuộc đổ máu nào (thậm chí còn không có nhiều sự kháng cự), và như vậy đã hoàn thành công
trình của ông.
Thời kì Đế quốc
Trong thời kì Đế quốc, La Mã đối đầu những cuộc xâm lược của “người dã man” và những khó
khăn khác. Để đối phó tốt hơn với nhiệm vụ giữ cả đế chế lại với nhau, hoàng đế bắt đầu chỉ
định các tướng trấn giữ các vùng, làm xuất hiện các quyền lựa tập trung chia La Mã thành 2
phần Đông và Tây
Sụp đổ
Theo Edward Gibbon, Đế quốc La Mã đã không chống cự được cuộc xâm lược của người dã
man do sự mất lòng tin đối với các cư dân. Họ đã trở nên lười biếng và uỷ mị, giao phó nghĩa
vụ bảo vệ Đế chế của họ cho bọn lính đánh thuê người dã man. Vai trò của lực lượng quân đội
người dã man trở nên dày đặc và ăn sâu đến nỗi họ có thể dễ dàng vượt mặt Đế chế. Những
người La Mã, Gibbon nói, đã trở thành ẻo lả như phụ nữ và không muốn sống theo kiểu quân
sự. Thêm vào đó, Gibbon cũng ám chỉ vai trò của Thiên chúa giáo trong sự sụp đổ của Rome.
Thiên chúa giáo, ông nói, đã tạo ra niềm tin vào một thế giới khác và gợi ý rằng có một cuộc

sống tốt đẹp hơn sau cái chết. Điều này cổ vũ sự thờ ơ giữa những công dân La Mã tin rằng họ
sẽ có một cuộc sống tốt hơn sau khi họ chết, do đó huỷ hoại ý muốn của họ về việc duy trì và
hi sinh vì Đế chế. Thêm nữa , sự nổi lên của Thiên chúa giáo cũng tạo ra một sự xác định tư
hữu quan trọng hơn nhà nước, làm thu nhỏ hơn mong muốn đưa những nhu cầu của nhà nước
lên trên của bản thân. Giải thích này được nhìn nhận với thái độ hoài nghi bởi đế chế chỉ bị tan
rã ở phía Tây, trong khi ở phía Đông, Đế chế vẫn tiếp tục như là Đế quốc La Mã Phương Đông.
Trong Đế quốc La Mã, từ “người dã man” chỉ bất cứ ai không phải là một công dân La Mã, và
được áp dụng chủ yếu cho những bộ tộc Bắc Âu ngoài tầm ảnh hưởng của nền văn hoá Roma.
Tìm thấy dấu tích thành cổ Atlantis

Trên những bức ảnh vệ tinh phía nam Tây Ban Nha, các nhà khoa học đã nhận ra các đặc điểm
trên mặt đất rất phù hợp với mô tả của học giả Hy Lạp cổ đại Plato về thành phố truyền thuyết
Atlantis.
Theo tiến sĩ Rainer Kuehne, thuộc Đại học Wuppertal ở Đức, "hòn đảo" Atlantis mà Plato nói
tới có lẽ đơn giản chỉ là vùng bờ biển phía nam Tây Ban Nha, bị một trận lụt phá huỷ vào giữa
năm 800 đến 500 trước Công nguyên. Trên vùng đầm lầy mặn được gọi là Marisma de
Hinojos, gần thành phố Cadiz này, Kuehne đã nhận ra hai cấu trúc hình chữ nhật trong bùn và
các phần của những vòng đồng tâm có thể từng bao quanh chúng.

Những vòng tròn đồng tâm bao quanh khu vực ngôi đền.
"Plato viết về một hòn đảo có đường kính 5 stade (925 mét), được bao quanh bởi vài cấu trúc
hình tròn - những vòng tròn đồng tâm - một số chứa đất và số khác chứa nước. Trong các bức
ảnh của chúng tôi có các vòng đồng tâm y như vậy", Kuehne nói.
Ông cũng tin rằng những cấu trúc chữ nhật có thể là vết tích của một ngôi đền "bạc" được
hiến cho thần biển Poseidon và một ngôi đền "vàng" dâng tặng cho Cleito và Poseidon - tất cả
đều được mô tả trong tác phẩm Critias của Plato.
Tuy nhiên, kích cỡ "hòn đảo" và các vòng của nó trên vệ tinh lại lớn hơn chút ít so với lời kể
của Plato. Kuehne cho biết có thể có hai cách giải thích cho hiện tượng này: Thứ nhất, Plato có
thể đã đánh giá thấp quy mô của Atlantis. Thứ hai, đơn vị đo đạc cổ đại mà nhà học giả sử
dụng - stade - có thể lớn hơn 20% so với cách lý giải hiện nay.


Hình ảnh tái tạo thành phố Atlantis theo mô tả của Plato.
Nếu lời giải thích thứ hai là đúng, thì một trong những cấu trúc chữ nhật trên "đảo" hầu như
khớp hoàn toàn với kích thước của đền thờ Poseidon trong tài liệu của Plato.
Những cấu trúc này được nhận ra đầu tiên bởi Werner Wickboldt, một nhà văn và là một người
say mê Atlantis, từng nghiên cứu ảnh chụp trên khắp vùng Địa Trung Hải để tìm kiếm vết tích
của thành phố mà Plato ghi lại. "Đây là địa điểm duy nhất dường như phù hợp với mô tả của
Plato", ông nhận định. Wickboldt cũng bổ sung rằng người Hy Lạp có lẽ đã nhầm lẫn một từ Ai
Cập cổ để chỉ bờ biển với một từ có nghĩa "hòn đảo" trong quá trình chuyển ngữ câu chuyện
về thành phố Atlantis.
Ngoài ra, Plato cũng đề cập tới một đồng bằng thuộc Atlantis. Tiến sĩ Kuehne cho biết đó có
thể là đồng bằng mở rộng ngày nay từ bờ biển phía nam Tây Ban Nha tới thành phố Seville.
Những vùng núi cao mà học giả Hy Lạp nói tới có thể là vùng Sierra Morena và Sierra Nevada.
"Plato viết rằng Atlantis rất giàu đồng đỏ và các kim loại khác, trong khi quả thực đồng đỏ
xuất hiện rất nhiều trong các mỏ quặng của vùng Sierra Morena", ông nói thêm.
Kuehne cũng nhận thấy cuộc chiến tranh giữa thành Atlantis và các vùng phía đông Địa Trung
Hải theo mô tả của Plato gần giống với cuộc tấn công vào Ai Cập, Cyprus và vùng cận đông
trong thế kỷ 12 trước Công nguyên, do những kẻ xâm lược bí hiểm còn được gọi là Người từ
biển thực hiện. Từ đó, ông giả thuyết rằng người Atlantis và Người từ biển thực chất là một.
Nếu điều đó là đúng, thì thành phố và xã hội Atlantis có thể trùng với nền văn hoá Tartessos
thời kỳ đồ Sắt ở vùng phía nam Tây Ban Nha, hoặc với một nền văn hoá đồ Đồng khác chưa
được biết tới.
Truyền thuyết về Atlantis đã ăn sâu vào trí tưởng tượng của các học giả trong nhiều thế kỷ.
Tài liệu sớm nhất về vùng đất hư ảo này dường như xuất hiện trong các cuốn sách của Plato
về Critias và Timaios. Mô tả của ông về một vùng đất giàu có đến khó tin, tuyệt đẹp và có nền
văn minh tiến bộ cao đã thu hút nhiều nhà thám hiểm cất công tìm kiếm vị trí của nó. Một giả
thuyết gần đây cho rằng Atlantis chính là hòn đảo Spartel, một bãi bùn nông trong eo biển
Gibraltar đã chìm xuống biển khoảng 11.000 năm trước.
Vì sao đế quốc La Mã bị tiêu diệt? (P1)


Những phế tích của đế chế La Mã có thế này còn rải rác rất nhiều ở châu Âu.
Dĩ nhiên đã có câu trả lời của các nhà sử học. Ở đây, trong một vị thế khác, các nhà xã hội học
và nhân loại học muốn khảo sát vấn đề sụp đổ của đế quốc La Mã dưới góc độ "tính văn hóa"
để nhìn thấy một đáp án khác thuộc về những chiều sâu nhân văn.
Vào thời cổ đại, người La Mã thường thực hiện việc hôn nhân theo 4 hình thức. Một là cướp
đoạt; hai là thể nghiệm; ba là cộng thực; và bốn là mua bán.
Hình thức thứ nhất có tính cưỡng chiếm, xảy ra vào thời nguyên thủy. Khi nhân khẩu tăng
trưởng, hình thức này được chuyển sang dạng thể nghiệm, tức là nam nữ sống chung một
thời, sau đó mới xác định hôn nhân chính thức. Chỉ cần hai bên chung sống liên tục từ một
năm trở lên, gia đình cô gái sẽ không còn quyền gia trưởng, và cô ta sẽ thuộc quyền của
chồng và gia đình chồng. Thế nào là chung sống liên tục? Người La Mã quan niệm nếu rời bỏ
người chồng trên danh nghĩa 3 ngày 3 đêm, coi như cô gái phải làm lại từ đầu.
Thứ ba là hình thức hôn nhân cộng thực (cũng gọi là hôn nhân tôn giáo) được cử hành long
trọng và theo những nghi thức phức tạp. Hôn lễ gồm 3 giai đoạn chính: tống thân (đưa dâu),
nghinh thân (đón dâu) và cộng thực (thành thân). Thứ tư là hình thức hôn nhân mua bán.
Hình thức này coi phụ nữ như một thương phẩm: Người đàn ông chỉ cần 5 người làm chứng và
một người phụ trách chiếc cân là có thể mua được vợ. Trước những nhân chứng, chú rể một
tay cầm một vật có giá trị xác định, một tay cầm khối đồng tuyên bố: "Theo luật pháp La Mã,
vật này là sở hữu của tôi, tôi dùng đồng và chiếc cân để mua lấy". Sau khi đặt đồng lên cân,
anh ta được gia trưởng trao quyền làm chủ người vợ. Đây là hình thức hôn nhân đơn giản được
lưu hành rộng rãi nhất ở La Mã thời đó.
Xã hội La Mã cổ đại tuyệt đối hóa quyền của người chồng. Chồng có thể bỏ vợ bất kỳ lúc nào.
Trái lại, người vợ luôn phải trung thành. Nếu bắt quả tang vợ ngoại tình, chồng có quyền giết
vợ tại chỗ. Thậm chí chỉ cần nghe dư luận đồn đại vợ mình lăng nhăng, người chồng đã có thể
"xử lý".
Đến năm 195 trước Công nguyên, phụ nữ La Mã vùng lên, lập thành đội ngũ vây kín Viện
Nguyên lão, đòi quyền tự do. Từ lúc đó, không khí nghiêm khắc trong gia đình dần dần không
còn nữa và dẫn đến sự phá sản nền đạo đức cũ. Thời này, mục đích chính của người đàn ông
trong việc lập gia đình là để có của hồi môn. Vì thế chỉ cần người vợ không làm phiền mình,
người chồng có thể cho cô ta tùy ý trong cách sống. Do đó đến khoảng thế kỷ thứ II trước CN,

phụ nữ La Mã dần dà thoát khỏi sự ràng buộc của gia đình. Hiện tượng ngoại tình và đời sống
tình dục của họ cũng phóng khoáng không thua đàn ông. Trước đấy người phụ nữ không có
quyền ly hôn, nhưng bây giờ họ có thể ly hôn với bất kỳ lý do nào. Đến nỗi một nhà thơ đương
thời đã mỉa mai:
Trong 5 mùa đông
Nàng thay đến 8 chồng
Và tự hào muốn khắc kỳ công lên bia mộ!
Sự lỏng lẻo của gia đình khiến các ông chồng cực kỳ bất mãn. Vì thế hoàng đế Augustus đã
ban bố pháp lệnh: Nếu phát hiện vợ tư thông, người chồng phải ly hôn, nếu không sẽ bị
nghiêm trị. Theo điều luật này, "dâm phụ" sẽ bị lưu đày đến một hòn đảo không có dấu chân
người và không có quyền tái hôn. Còn "dâm phu" phải lưu đày đến một hòn đảo khác. Thậm
chí đàn ông có vợ dan díu với kỹ nữ chưa đăng ký vẫn bị kết tội. Vì thế, số kỹ nữ đến đăng ký
tăng vọt lên, đến nỗi nhiều danh môn quý phụ cũng xin đăng ký làm kỹ nữ!
Khởi đầu sự phá sản
Vào thời kỳ cuối của chế độ Cộng hòa, kịch viện và đấu trường phát triển rộng rãi ở La Mã
khiến điều kiện gặp gỡ nam nữ dễ dàng hơn. Ở những sân khấu ngoài trời, trai gái có thể ngồi
lẫn lộn để xem kịch hoặc đấu vật. Đây là điều kiện thuận lợi để tình yêu nảy nở tự do.
Vào thời viễn cổ, người La Mã ít bàn về văn hóa do họ dồn hết tinh lực vào chiến tranh. Vì thế
họ thích nói về kỷ luật, trách nhiệm, hơn là về tính văn hóa. Nhưng khi đại đế quốc La Mã kiến
lập, người La Mã trở thành ông chủ của nhiều tài sản kếch xù và các nô lệ, cuộc sống xa hoa
đã làm họ thay đổi. Ý thức về "tính" cũng biến dạng. Để thấy rõ sự chuyển hóa này, chúng ta
có thể khảo sát sự sùng bái các vị thần của người La Mã. Đầu tiên họ sùng bái những hình
tượng lạnh lùng, nghiêm túc, biểu trưng cho đạo đức trừu tượng có ý nghĩa bảo vệ người La
Mã. Tiêu biểu nhất là nữ thần lửa bếp - người bảo vệ cho sự thịnh vượng quốc gia và sự bình
yên của gia đình. Trong nhiều tác phẩm điêu khắc cổ La Mã, vị nữ thần này được tạo hình rất
đoan trang, tư thế chính trực mặc dù hoàn toàn khỏa thân.
Để thờ phụng vị nữ thần, người ta lựa chọn 6 trinh nữ từ những gia đình quyền quý. Từ lúc lên
mười, 6 thiếu nữ trên được đưa vào đền để tuyệt đối hiến thân cho nghi thức thuần túy tôn
giáo trong 30 năm. Đạo đức của những nữ tế nhân được coi là bảo chứng thiêng liêng về sự
hưng vượng của quốc gia.

Vì sao đế quốc La Mã bị tiêu diệt? (P2)
Năm 216 trước Công nguyên, đại quân La Mã thất trận. Cho đây là điềm gở, xuất phát
từ sự băng hoại đạo đức của 6 nữ tế nhân, người ta đã cho xử tử họ. Thế nhưng, sau
khi đã chinh phục được những vùng đất rộng lớn, dân La Mã lại đột nhiên chuyển ra
phóng túng và sùng bái tửu thần Hy Lạp.
Khoảng đầu thế kỷ 2 sau Công Nguyên, người La Mã chuyển sang suy tôn thần Venus. Đây là
vị thần đại diện cho tình yêu và tính dục. Vì thế cuộc sống tình dục của người La Mã đã trở nên
cực kỳ phóng túng.
Thời kỳ này, luật pháp La Mã rất trọng nam khinh nữ. Theo quy định, một cô gái muốn về nhà
chồng phải có của hồi môn là 150 bảng vàng (khoảng 68 kg), và phải nộp cho nhà chồng
trong hạn kỳ 3 năm. Chính vì thế, khi gả con gái út, triết gia Cicero (106 - 45 trước CN) phải
tán gia bại sản, thậm chí phải trù tính kế hoạch ly hôn cho con gái để thu lại của hồi môn. Để
tránh khỏi phí tổn quá lớn, nhiều người La Mã đã chọn cách giết chết con gái. Và chính luật
pháp cũng quy định rằng cha mẹ phải dưỡng dục tất cả các con trai, nhưng trái lại, chỉ có
trách nhiệm nuôi đứa con gái thứ nhất mà thôi. Điều này dẫn tới tình trạng trai thừa gái thiếu.
Phụ nữ trở thành đối tượng săn lùng ráo riết của đàn ông. Vì thế, hiện tượng thiếu nữ thất
trinh rất phổ biến trong xã hội.
Sau khi La Mã chinh phục thế giới, sự tự do tình dục của phụ nữ cũng được nới rộng, nhất là
đối với các quý phụ. Không gian giao tiếp khoáng đạt đã phá vỡ nền tảng đạo đức cũ. Người La
Mã rất thực tế, họ coi tình ái là một hoạt động nhục thể, có liên quan mật thiết đến tiền bạc và
không có ý nghĩa gì về tinh thần. Họ tuyệt đối không có kiểu tình yêu thuần túy tinh khiết của
Plato. Xuất phát từ nhận thức bản chất nhục thể là công cụ của tính ái, và tính giao là hành vi
tự nhiên giữa hai giới, các chàng trai và các cô gái La Mã đã thoải mái hẹn hò và thực hiện ân
ái theo sự tự nguyện đôi bên. Bất kỳ ở đâu, trong phòng, ngoài đồng nội, nơi hành lang, tự
miếu, đấu trường. Nói chung, người La Mã yêu nhau cực kỳ tự nhiên.
Thời đó, các kỹ nữ trang điểm rất công phu, khêu gợi. Họ thường đứng đón khách làng chơi
dưới những "Fornices" (lầu xanh), vì thế đã nảy sinh nguồn gốc của động từ fornicity (tính
giao). Khi phân tích các di tích trên cổ thành Pompeii, các nhà nghiên cứu nhận định: "Trong
số những chữ viết và vết khắc thô thiển nơi tường vách và cột trụ hành lang thành Pompeii,
hai từ felicitas và felix, có nghĩa là vui sướng và khoái lạc, đập vào mắt nhiều nhất".

Khoả thân là mốt của người La Mã cổ đại mà biểu hiện rõ nhất là nhà tắm công cộng. Với lý do
tắm gội, họ thoải mái cởi bỏ trang phục trước mắt mọi người không chút e ngại. Thậm chí phụ
nữ La Mã còn cho phép nam nô lệ thoa dầu, massage thân thể. Đôi khi họ cũng đồng ý cho
những nô lệ của mình khỏa thân và tiến hành "tính giao". Không phải chỉ khỏa thân trong gia
đình, nơi nhà tắm, người La Mã còn buôn bán nô lệ khỏa thân. Nói chính xác hơn, khi mua bán
nô lệ nơi quảng trường, người La Mã cho họ thoát y toàn thân để tiện việc lựa chọn. Trong
những thành thị lớn ở La Mã cổ đại, hầu như ngày nào cũng diễn ra cảnh mua bán như thế.
Bất kể ở điều kiện thời tiết nào, người nô lệ da đen bị đem bày bán cũng hoàn toàn khoả thân.
Họ đứng trên một "khán đài chuyển động" để người mua có thể dễ dàng quan sát, sờ mó, định
giá, trả giá.
Số nô lệ ở La Mã rất nhiều. Trong thành phố, cứ khoảng 3 cư dân lại có 1 nô lệ. Con số nô lệ
còn cao hơn nhiều lần ở khu vực ngoại thành. Trong các gia đình La Mã, nam chủ nhân chiếm
hữu nô lệ như công cụ lao động; nữ chủ nhân biến nam nô lệ thành công cụ hưởng lạc. Hình
ảnh về sự phóng túng của tính dục lan tràn khắp xã hội. Trước khi kết hôn, hầu như cô gái nào
cũng đã từng "tận hưởng" với nô lệ của mình.
Đề phòng việc mang thai, phụ nữ quý tộc yêu cầu nô lệ phải chấp nhận một số hình thức
thiến, hoặc thực hành các hình thức giao hoan mà không gây "hậu quả". Để giữ bí mật cho
mình, phụ nữ La Mã còn bắt những nam nô lệ tình dục phải chịu cảnh bị chọc cho mù mắt.
Tại La Mã cổ đại, thoát y vũ là thú tiêu khiển phổ biến. Cách thoát y của các cô gái La Mã rất
nhẹ nhàng, đôi khi họ chỉ cần di chuyển ngược chiều, y phục sẽ tự động rơi xuống. Kịch trường
La Mã cũng rất phóng khoáng, có thể diễn bất kỳ tác phẩm khêu gợi nào. Mô thức cố định của
kịch là cảnh bắt quả tang cô gái khỏa thân. Bất kỳ nam hay nữ diễn viên đều có thể tùy hứng
biểu diễn những động tác kích thích dục tính. Tuy vậy, trong lĩnh vực kịch nghệ, địa vị của nữ
diễn viên vẫn rất thấp so với nam diễn viên, tương tự vị trí của kỹ nữ, gái bán bar ngoài xã
hội.
Ngoài việc phóng túng nơi kịch trường, người La Mã cổ đại còn có cách thể hiện tính dục nơi
đấu trường. Ví dụ ở các võ trường giác đấu, khán giả có thể xem những tay tử tù biểu diễn
cảnh thần Athis bị thiến đầy máu me, hay cảnh thần Mythi thoát y. Khi Cơ đốc giáo bị bức hại,
nhiều nữ tín đồ đã bị ép đến đấu trường biểu diễn. Trước mắt 2 vạn khán giả, bọ bắt buộc phải
thoát y để giác đấu với bò tót

Vì sao đế quốc La Mã bị tiêu diệt? (P3)
Sự phóng túng tính dục của người La Mã được đẩy lên cao điểm qua hình mẫu một nhân vật
trứ danh thời đó: hoàng hậu Theodore. Từ một diễn viên ca kịch, từng đóng vai khỏa thân,
Theodore đã leo lên địa vị quý tộc, trở thành một nữ hoàng đầy quyền lực và dâm đãng.
Sử gia Procopius (499 - 565), trong cuốn Bí sử, đã viết về người phụ nữ lừng danh này như
sau: "Ở Byzantine có một người tên là Akamas, chuyên quản lý các động vật ở đấu trường.
Mặc dù mạnh như gấu, nhưng đến thời Anasthatus chấp chính, ông ta đã mắc đột bệnh và qua
đời, để lại 3 người con gái: Komith, Theodore và Anasthania, trong đó cô lớn nhất là Komith
mới lên 7. Người vợ cải giá. Sau khi trưởng thành, cả 3 cô gái đều rất xinh đẹp, được mẹ cho
phép đi biểu diễn trên sân khấu. Do không được huấn luyện chuyên nghiệp về ca múa,
Theodore chỉ có thể dựa vào sắc đẹp và tuổi trẻ của mình để chinh phục khán giả. Trong nhiều
vở kịch, nàng chấp thuận đóng vai khỏa thân một cách tự nhiên. Từ đó, trong những buổi yến
tiệc sang trọng của các gia đình quyền quý, Theodore đều được mời tới để vũ thoát y ".
Nhờ sắc đẹp và sự phóng đãng, Theodore nhanh chóng nổi tiếng, và trở thành tình nhân của
hoàng đế Byzantine. Sau khi được "thăng cấp" quý tộc, Theodore kết hôn với vua La Mã
Justinian. Lúc đó nàng mới 16 tuổi. Theodore cùng chấp chính với Justinian trong tư cách
hoàng hậu. Nàng được ghi nhận là một nữ hoàng quyền lực và đầy dục vọng. Cho dù các sử
gia không tiếc lời bình luận về tính dâm đãng của nàng, nhưng họ cũng phải thừa nhận năng
lực của Theodore trong vai trò phụ tá Justinian.
Như vậy, trong đời sống tình ái, người La Mã đã rất coi trọng và tôn vinh khoái lạc. Nhưng họ
lại lơ đãng một nhiệm vụ quan trọng, đó là "duy trì nòi giống". Một trong những nguyên nhân
đẩy La Mã đến chỗ suy vong là hiện tượng giảm thiểu nhân khẩu một cách nghiêm trọng. Vì
thế trong khoảng năm thứ 18 đến năm thứ 9 trước CN, đại đế Augustus (năm 63 trước CN -
14) phải ban bố pháp lệnh mới, quy định quả phụ phải tái giá trong vòng hai năm sau ngày
chồng mất. Bất kể ai ly hôn, đều phải đi bước nữa trong thời hạn 18 tháng. Đàn ông không kết
hôn, không được thừa kế tài sản. Vợ chồng không có con chỉ được hưởng một nửa di sản của
cha ông. Pháp lệnh mới cũng phóng khoáng hơn, cho phép người không cùng giai cấp có thể
kết hôn. Người tự do và các nô lệ đã được trả tự do cũng có thể thành vợ chồng. Hơn nữa,
nguời đông con sẽ được tưởng thưởng.
Nhưng pháp lệnh của Augustus không đạt được hiệu quả mong muốn vì chủ nghĩa hưởng lạc

đã ăn sâu vào đời sống người La Mã. Nhiều người rất sợ có con, và họ dùng biện pháp tránh
thai. Mặt khác, dân số La Mã giảm thiểu còn có một nguyên nhân căn bản nữa, đó là đại đa số
đàn ông La Mã mất khả năng có con, và phụ nữ mắc chứng vô sinh. Có thể kể 3 nguyên nhân
chính sau:
Một là ẩm tửu quá độ. Rượu có thể kích thích tính dục, nhưng lại chế ngự khả năng sinh sản.
Một điều tra mới nhất cho thấy, trong 14.000 người nghiện rượu nặng, có tới 1.400 người hoàn
toàn mất khả năng sinh con. Người La Mã nổi tiếng là dân tộc "túng tửu cuồng hoan", nhiều
người đàn ông có thói quen uống rượu tại nhà tắm công cộng từ trưa hôm trước đến tận ngày
hôm sau.
Hai là tắm gội quá mức. Nhà tắm công cộng La Mã nổi tiếng không phải là nơi tắm đơn thuần
mà còn là không gian giao tiếp xã hội. Đàn ông La Mã thường có mặt hàng ngày tại địa điểm
này, và đôi khi họ tắm từ nửa ngày đến cả ngày. Nghiên cứu cho thấy, việc ngâm mình quá
lâu trong nước nóng làm hạn chế việc sản sinh tinh trùng, ảnh hưởng đến khả năng sinh nở.
Nhiệt độ bình thường của dịch hoàn thấp hơn thân nhiệt và các bộ phận khác trong cơ thể,
trong khi nhiệt độ nước ở nhà tắm La Mã luôn luôn duy trì ở khỏang 43 độ C, nên dịch hoàn bị
ảnh hưởng, dẫn tới nhiều trường hợp vô sinh ở đàn ông.
Ba là nhiễm độc chì mạn tính. Theo nghiên cứu của một nhà xã hội học Mỹ, người La Mã bị
chứng nhiễm độc này khiến đàn ông không có con, còn phụ nữ thường đẻ non hoặc thai nhi
chết khi vừa lọt lòng. Nguyên do là người La Mã thường sử dụng ống dẫn nước, ly tách, nồi
niêu bằng chì. Về phía phụ nữ, họ dùng quá nhiều mỹ phẩm pha bột chì nên rất dễ nhiễm độc.
Vào thời kỳ cuối, do ngâm mình quá lâu trong nước nóng và bị nhiễm độc chì, dân số La Mã
giảm đáng kể. Mặt khác, vì sa đà quá đáng vào chuyện tình dục, họ hoàn toàn mất nhuệ khí,
thiếu vũ dũng. Cuối cùng, binh lực của họ ngày càng suy yếu, đế quốc La Mã đã nhanh chóng
bị tiêu diệt.
Tìm thấy vương quốc Etruscan huyền thoại?

Những bãi đã trắng này có thể là di tích của chợ trung tâm vương quốc
Chamars.
Vương quốc hư ảo của hoàng đế Lars Porsena đang phơi bày dần ra trên những ngọn
đồi Tuscan gần Florence, Italy. Được gọi là Chamars, vùng đất này từng là thành

bang phồn thịnh nhất của nền văn minh Etruscan - nền văn minh thống trị phần lớn
lãnh thổ Italy trước thời đế chế La Mã.
Chamars, nơi hoàng đế Porsena cai trị trong thế kỷ thứ 6 trước Công nguyên, cũng là nơi giới
sử học cho rằng Porsena đã phát động cuộc chiến thành công nhất của mình trước đạo quân
La Mã, nhằm giành lại ngai vàng cho vị hoàng đế đi đày Tarquinius Superbus. Porsena bao vây
thành phố, nhưng sau cùng đã chấp nhận rút lui trong hoà bình.
Nếu được xác nhận là đúng, phát hiện sẽ giúp làm sáng tỏ một trong những nhóm người bí
hiểm nhất châu Âu, đồng thời mở ra khả năng tìm thấy vị trí ngôi mộ của hoàng đế Porsena.
Ngôi mộ này, theo nhà sử học Pliny the Elder, gồm một mê cung rộng 18 mét vuông, với một
kim tự tháp trên đỉnh. Còn truyền thuyết thì cho rằng nó được trang điểm với một cỗ xe vàng,
12 con ngựa vàng, một con gà mái vàng và 5.000 quả trứng vàng.
"Không nói đến truyền thuyết, tôi tin rằng khu vực tìm được chính là Chamars. Đây là thành
phố Italy lớn nhất trước thời đế chế La Mã, đại diện cho toàn bộ nền văn minh Etruscan, từ
điểm khởi nguồn cho đến thời kỳ suy tàn", Centauro nhận định.
Sống trong một liên minh lỏng lẻo các thị trấn rải rác từ sông Po ở phía bắc tới vùng Campania
ở phía nam, người Etruscan đã xây dựng nên nền văn minh tiên tiến nhất của Italy trước thời
La Mã. Họ xuất hiện trong lịch sử Italy khoảng năm 900 trước Công nguyên và dần chiếm lĩnh
hầu hết lãnh thổ này trong khoảng 5 thế kỷ. Vào năm 90 trước Công nguyên, sau nhiều thế kỷ
suy thoái, họ trở thành các công dân La Mã.
Không có tác phẩm văn chương nào ghi lại nền văn hóa của người Etruscan. Cũng rất ít dấu
vết trong ngôn ngữ khó hiểu phi Ấn-Âu của họ còn được lưu lại. Chỉ có những ngôi mộ trang trí
cầu kỳ là cung cấp cho chúng ta đôi nét thoáng qua về thế giới của họ.
Centauro tin rằng Chamars nằm kẹp giữa dãy núi Calvana của vùng Prato và núi Morello của
vùng Florence, trong một vùng ngoại ô xa xôi. Và thực tế, khu vực rộng lớn này đã từng hé lộ
những phát hiện quan trọng.
Hai thế kỷ trước, những công nhân xây nhà đã khai quật được một cổ vật cực kỳ giá trị - bức
tượng đồng về một người đàn ông trẻ có tuổi khoảng 500-800 trước Công nguyên, nay được
đặt tại bảo tàng Anh.
Còn tuần trước, các công nhân khi đào móng để xây dựng một kho hàng đã tình cờ bắt gặp
những dấu vết mà các nhà khảo cổ gọi là "một trong những thành phố Etruscan nguyên vẹn

nhất từng được khám phá ở Tuscany". Có niên đại từ thế kỷ 5 trước Công nguyên, khu định cư
này được xây dựng trên bờ sông Bisenzio, ngay bên ngoài cái mà Centauro khẳng định là
tường thành phòng thủ của Chamars.
"Thành phố chắc chắn đã bị bỏ rơi. Có lẽ nước sông Bisenzio đã tràn vào đó", Gabriella
Poggesi, nhà khảo cổ tham gia đợt khai quật cho biết. Tuy vậy, ông không bình luận về giả
thuyết của Centauro, cho rằng có mối liên hệ giữa thành phố mới tìm được và vương quốc
Chamars.
Centauro tin rằng khu định cư mới tìm thấy chỉ là một trong số vài khu định cư nằm trong
tường bao của vương quốc Chamars. Ông cùng cộng sự đang xem xét chi tiết tất cả những
phát hiện trong khu vực gần thành phố. Nhóm của Centauro đã khám phá ra các bức tường đá
quây quanh một khu vực rộng 18 km2. Trong khu vực này, có rất nhiều mộ, móng nhà rộng
và một hệ thống các kênh dẫn nước phức tạp cũng như bể nước nhân tạo.
Gần cánh phía đông của các bức tường thành này là một vùng thôn quê có tên gọi Chiuso.
Centauro cho rằng đó chính là Clusium, một khu dân cư nằm trong vương quốc Chamars, từng
bị tướng La Mã Silla tấn công và bao vây vào năm 89 trước Công nguyên.
Nếu Centauro đúng, phát hiện này sẽ xác minh cho giả thuyết của Pliny về mộ phần của
hoàng đế Lars Porsena. Pliny viết rằng thi hài hoàng đế được chôn "dưới thành phố Clusium",
với những cái chuông và chuỗi hạt treo khắp nơi, ngân nga lên khi gió thổi qua chúng.
Tuy nhiên, các quan chức địa phương đến nay vẫn từ chối đề nghị cho phép khai quật khu vực
này.
Nhiều chuyên gia nghi ngờ những dấu vết đổ nát mà Centauro tìm thấy là của Chamars, thay
vì thế, họ tin rằng thành phố cổ này nằm ở vùng Chiusi, tây nam Florence ngày nay.
Khám phá hệ thống dẫn nước thời La Mã cổ đại
Một mô hình máy tính đang vén mở bức màn bí mật về kỹ nghệ thuỷ lợi của người La
Mã cổ đại.Những bức tường rào nhiều lỗ bí ẩn còn lại cho đến ngày nay có thể là một
phần trong hệ thống dẫn nước đồ sộ thời đó, có tác dụng làm lưu thông các dòng
chảy.
Vào thế kỷ thứ 3 sau Công nguyên, những kỹ sư La Mã đã xây dựng một hệ thống cống hầm
và bể chứa để đưa nước tới thành phố Aspendos (thuộc Thổ Nhĩ Kỳ ngày nay). Aspendos là
một trung tâm thương mại quan trọng của người La Mã ở Tiểu Á (Asia Minor), nằm ở giao điểm

giữa các tuyến đường quan trọng bên bờ sông đổ ra Địa Trung Hải.
Học giả Vitruvius thời đó đã có một bản miêu tả chi tiết hệ thống dẫn nước này mà ngày nay
không còn nhiều dấu vết. Nhưng một vài khía cạnh trong bản viết của ông vẫn là điều khó
hiểu với người đọc, bởi nhiều thuật ngữ Latin đến nay đã bị mất nghĩa và còn nhiều đặc điểm
của công trình thuỷ lợi thời La Mã này không được ghi chép lại.
Vì vậy các nhà khoa học tại công ty CTC ở Santa Clara, California (Mỹ), đã lập một mô hình
máy tính để tìm hiểu quy trình vận chuyển nước của hệ thống cống hầm ở Aspendos.
Nước theo đường ống được dẫn từ chân một con đập (aqueduct) ở sườn phía bắc một thung
lũng, chảy ngang qua thung lũng rộng 1,5 km, rồi đổ vào một bồn chứa nước ở sườn phía
nam. Đường ống này được tạo bởi một chuỗi những khối đá lớn, có khoét lỗ đường kính 30
cm, gắn kết với nhau bằng một chất keo đặc biệt. Đập ở sườn phía bắc được đặt cao hơn bể
chứa ở sườn phía nam, tạo ra độ chênh cần thiết để dẫn nước chảy theo ống dẫn.
Người ta còn dựng nên hai 2 tháp đá hình vòm trên đường qua thung lũng, dẫn nước lên cao
rồi lại chảy xuống thấp.

Tại sao các kỹ sư La Mã lại xây dựng những chướng ngại vật như vậy? Các nhà khoa học cho
rằng các bức tường vòng đó chia đường dẫn nước thành 3 đoạn ngắn, có tác dụng như những
"hố ga" giữ lại bùn loãng có thể làm tắc dòng chảy hoặc làm hư hại đường dẫn nước.
Cũng từ nghiên cứu, các nhà khoa học đã tìm ra đầu mối cho một bí ẩn khác. Trong bài viết
của mình, Vitruvius nói rằng chìa khoá thành công của hệ thống dẫn hút nước chính là
colliquiaria - một thuật ngữ Latin không còn được biết nghĩa tới ngày nay. Nhóm chuyên gia tin
rằng colliquiara có thể là những lỗ nhỏ, đường kính khoảng 3 cm, chạy xuyên qua các khối đá
của đường dẫn nước. Họ đã tiến hành các cuộc thí nghiệm trên mô hình máy tính và kết luận
rằng những lỗ đó có thể làm giảm nhiễu động của dòng chảy.
Bên cạnh đó, nhóm nghiên cứu cũng đoán rằng hoạt động của hệ thống truyền nước cũng phụ
thuộc mạnh mẽ vào kết cấu của thành ống dẫn nước. Nếu nó quá nhẵn nhụi, nước từ đường
ống đổ vào bồn chứa sẽ tạo thành những con sóng lớn, còn nếu quá thô ráp thì sẽ làm chậm
dòng chảy. Có thể người La Mã đã phải mài giũa bằng tay các khối đá đó để tạo nên một kết
cấu lý tưởng.
Chữ viết cổ của người Maya

Những ký tự tượng hình mới được phát hiện chứng tỏ người Maya đã biết sử dụng
một hệ thống chữ viết phức tạp sớm hơn 150 năm so với các suy đoán trước đây.
Những nét chạm khắc, có từ khoảng năm 250 trước Công nguyên, được tìm thấy nguyên vẹn
trên các bức tường và những mảnh vỡ thạch cao trong cấu trúc hình kim tự tháp nổi tiếng tại
Las Pinturas, ở San Bartolo, Guatemala.
Chữ viết xuất hiện ở vùng Lưỡng Hà, Ai Cập và Ấn Độ khoảng 3.000 năm trước công nguyên.
Tuy nhiên những ký tự hoàn chỉnh đầu tiên - một chuỗi các dấu hiệu rõ ràng kể lại một câu
chuyện - vẫn chưa có mặt ở Tân Thế giới cho đến tận năm 400-300 trước Công nguyên.
Những văn bản phôi thai này là con đẻ của người Zapotecs ở thung lũng Oaxaca, phía nam
miền trung Mexico. Hầu hết chữ viết sớm của người Maya chỉ xuất hiện từ năm 150-250 sau
Công nguyên.
Vì hệ chữ Zapotec nổi lên sớm hơn nhiều nên các nhà nghiên cứu tin rằng người Maya đã bị
ảnh hưởng của nó.
Những nét chạm khắc đơn sớm nhất của người Maya - có thể biểu thị tên người hoặc là một ký
hiệu trên lịch - có niên đại khoảng năm 600 trước Công nguyên. Tuy nhiên, chúng không được
coi là chữ viết. Những chữ tượng hình mới được tìm thấy phức tạp hơn nhiều, trưởng dự án
William Saturno từ Đại học New Hampshire cho biết.
"Đây là chữ viết phát triển hoàn chỉnh nhất và rõ ràng nhất", Saturno nhận định. "Nó không
nói rằng người Maya đã phát minh chữ viết và không phải là người Zapotec, nhưng nó dẫn
chúng tôi tới câu hỏi về nguồn gốc và tính phức tạp về những nguồn gốc này".
Một điều dường như chắc chắn: Hệ chữ Maya không bị ảnh hưởng bởi người Zapotec.
Mặc dù chữ viết rất rõ ràng, song các nhà khoa học vẫn không thể 'dịch' được gì ở phát hiện
mới.
Truyền thuyết thành Rome
Truyền thuyết kể lại rằng thành Rome ra đời vào năm 753 trước Công nguyên, do
Romulus và Remus, 2 cậu con trai sinh đôi của thần chiến tranh Mars, sáng lập. Lúc
mới sinh, hai anh em được một con sói cái cho bú trong rừng sâu.
Nay các nhà khảo cổ tin rằng họ đã tìm ra bằng chứng cho thấy ít nhất khoảng thời gian trong
truyền thuyết đó là đúng: Dấu vết của một cung điện hoàng gia mới được phát hiện ở quảng
trường La Mã được xác định là có niên đại trùng với thời điểm hình thành nên thành phố bất

tử.
Andrea Carandini, giáo sư khảo cổ tại Đại học Sapienza, đã thực hiện các cuộc khai quật tại
quảng trường trong hơn 20 năm. Ông cho biết đã tìm thấy công trình vào tháng trước tại điểm
mà ngôi đền Romulus đứng ngày nay. Nó nằm bên cạnh Điện thờ Vesta - nữ thần gia đình -
bên ngoài thành Palatine, nơi có dấu vết đầu tiên về nền văn minh ở thành Rome.
Tại nơi mà trước kia các nhà khảo cổ chỉ tìm thấy các ngôi nhà lụp xụp có từ thế kỷ 8 trước
Công nguyên, Carandini và nhóm của mình đã khai quật được dấu vết của một công trình
nguy nga tráng lệ: một cung điện rộng 344 m2, diện tích sử dụng là 105 m2, còn lại là sân.
Tại đó còn có một chiếc cổng thành, các đồ vật trang trí tinh xảo và nhiều đồ gốm.
Tường nhà được làm bằng gỗ và đất sét, sàn bằng gỗ bào và đất nén. Các nhà khảo cổ đã xét
nghiệm đất sét và tìm ra tuổi của công trình. Theo Carandini, công trình có không gian rất
rộng lớn, trước đó chưa từng thấy. "Đó chỉ có thể là một cung điện hoàng gia", ông nói.
Ông cũng bổ sung rằng vào thời đó, một nơi ở trung bình chỉ to bằng 1/10 khu vực này. Ông
cũng tìm thấy một căn nhà có thể là nơi các trinh nữ thắp ngọn lửa thiêng.
Eugenio La Rocca, người trông nom các công trình tại thành Rome, nhận xét lời lý giải của
Carandini là chính xác.
"Tôi cho rằng những gì Carandini tìm thấy được từ cuộc khai quật là rất hợp lý", La Rocca nói.
"Bất cứ ai tạo ra truyền thuyết này đều biết rằng đằng sau nó là một nền móng lịch sử. Nó
không nhất thiết có nghĩa rằng câu chuyện của Romulus và Remus đã xảy ra đúng như vậy,
nhưng có nghĩa rằng những ký ức được truyền lại qua các tác giả Latin không chỉ là một giả
thuyết".
Theo truyền thuyết về thành Rome, vị vua Numitor đã bị người em trai của mình đoạt ngôi và
cô con gái của ông là Rhea Silvia bị buộc trở thành trinh nữ để không thể sinh con. Nhưng
Rhea Silvia lại mang thai với con của thần Mars. Khi cặp trẻ bị phát hiện, công chúa bị giam
vào tù còn lũ trẻ thì bị bỏ trong giỏ trôi trên dòng sông Tiber. May mắn là 2 anh em đã cập bờ
sống sót và được một con sói cái cho bú cho đến khi chúng được một người chăn cừu cưu
mang.
Khi biết được câu chuyện quá khứ của mình, 2 anh em đã giết kẻ chiếm ngôi Amulus, khôi
phục lại ngôi vị cho Numitor và trở lại nơi được con sói nuôi dưỡng để xây dựng một thành
phố.

Hình ảnh 2 đứa trẻ trần truồng ngửa mặt bú sữa từ một con sói cái đã trở thành chủ đề xuyên
suốt trong nghệ thuật La Mã, và các bức điêu khắc minh họa truyền thuyết này đều xuất hiện
tại các bảo tàng trong khu vực.
Tục giết người hiến tế của bộ lạc Aztec và
Maya
Từ lâu người ta đã tranh cãi liệu người Aztec và Maya có hủ tục giết người tế thần dã
man như các cuốn sách lịch sử đã ghi hay không. Nay các nhà khảo cổ đã thu thập
nhiều bằng chứng khẳng định sự thật ghê rợn này
Bằng những công cụ pháp y tiên tiến, các nhà khảo cổ đã chứng minh rằng những cuộc hiến tế
thời xưa bao gồm hàng loạt thủ tục giết người man rợ, trong đó trẻ con là nạn nhân chính yếu.
Trong hàng thập kỷ nay, nhiều nhà nghiên cứu cho rằng người Tây Ban Nha chiếm đóng châu
Mỹ từ thế kỷ 16-17 đã bóp méo sự thật để hạ thấp nền văn minh của thổ dân da đỏ. Một số lại
cho rằng các cuộc hiến tế đó chỉ nhằm vào tù binh. Những người khác thừa nhận người Aztec
có thể khát máu, nhưng người Maya thì không.
"Giờ chúng tôi đã có bằng chứng cụ thể để chứng thực cho những tài liệu ghi chép", nhà khảo
cổ Leonardo Lopez Lujan tại Đại học Harvard, Mỹ, tuyên bố.
Những bản ghi chép có hình minh hoạ của người da đỏ cùng với lời kể lại của người Tây Ban
Nha đã miêu tả các hình thức tế người dã man. Các nạn nhân bị chặt đầu, moi tim, bắn tên,
cào xé, ném đá, nghiền nát, phanh thây, xẻ thịt, lột da, chôn sống hoặc ném từ trên đỉnh đền.
Trẻ em là nạn nhân chủ yếu bởi chúng được coi là trong sạch và thuần khiết.
Hơn một thập kỷ trước, nhà nhân chủng học Carmen Pijoan tuyên bố đã tìm thấy một trong
những bằng chứng đầu tiên về việc ăn thịt người ở một nền văn hoá tiền Aztec: xương người
với những vết cắt xẻ.

2 bộ xương người Aztec được khai quật ở Ecatepec, Mexico.
Tháng 12 năm ngoái, trong khi khai quật vùng đất có từ thời Aztec ở Ecatepec, phía bắc thành
phố Mexcio, nhà khảo cổ Nadia Velez Saldana đã miêu tả nghi lễ tế người dâng thần chết.
"Những nạn nhân bị thiêu chết hoặc đốt cháy một phần", Velez Saldana nói. "Chúng tôi tìm
thấy một hố chôn có những mảnh xương của 4 đứa trẻ bị thiêu một phần, và dấu tích của 4
đứa trẻ khác bị cháy hoàn toàn".

Mặc dù những dấu vết này chưa chứng tỏ được nạn nhân bị thiêu sống, song có những bức
hoạ vẽ cảnh người sống bị trói và thiêu.
Cuộc khai quật này cũng làm lộ ra những đầu mối khác chứng thực cho một bức hoạ có từ
khoảng năm 1600 - 1650, miêu tả những bộ phận cơ thể được chất đầy trong các chảo lớn và
mọi người ngồi xung quanh đánh chén, trong khi thần chết quan sát.
"Chúng tôi đã tìm thấy những dụng cụ nấu nướng như vậy. Bên cạnh các bộ xương người hoàn
chỉnh, còn có những mảnh xương bị chặt, cắt", nhà nghiên cứu Luis Manuel Gamboa nói.
Năm 2002, nhà khảo cổ Juan Alberto Roman Berrelleza đã công bố kết quả cuộc khám nghiệm
xương của 42 trẻ em, hầu hết là bé trai 6 tuổi, bị hành lễ ở đền Mayor thuộc thời Aztec, ở
Mexico City. Tất cả đều chung một đặc điểm: những lỗ hổng, vết rỗ hoặc tiêm chích trên
xương, có vẻ bọn trẻ đã phải gào khóc vì đau đớn.
"Tiếng kêu khóc của trẻ con trong suốt buổi lễ sẽ báo hiệu điềm lành. Nó có thể được tạo ra
bằng cách rạch họng", Roman Berrelleza cho biết.
Nền văn minh Maya thịnh vượng khoảng 400 năm trước khi người Aztec thiết lập Mexico City
vào năm 1325, cũng có hủ tục hiến tế người tương tự, nhà nhân chủng học David Stuart tại
Đại học Harvard nhận định.
Vào cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20, các nhà nghiên cứu đã cố gắng tách biệt người Maya hoà
bình và người Aztec man rợ. Họ còn cố gắng chứng minh việc giết người hiến tế là rất hiếm ở
xã hội Maya.
Nhưng trong các bức hoạ và hình khắc, Stuart nói, "chúng tôi đã tìm thấy ngày càng nhiều sự
tương đồng giữa người Aztec và Maya. Trong đó có một buổi lễ Maya mà vị tu sĩ trong trang
phục lố bịch đang moi ruột từ một người sống".
Một số văn bản của người Tây Ban Nha trùng hợp với những vật chứng tìm thấy, trong đó
miêu tả các tu sĩ Aztec giết trẻ em và người lớn bằng cách nhốt họ trong hang động hoặc dìm
chết.
"Vấn đề bây giờ chỉ là số lượng", Lopez Lujan nhận định. Ông cho rằng người Tây Ban Nha đã
phóng đại số nạn nhân để viện cớ cho cuộc chiến tranh bài trừ hủ tục, trong đó có trường hợp
80.400 người bị giết để hiến tế trong một lễ khánh thành ngôi đền vào năm 1487.
Các nhà nghiên cứu đã đồng loạt loại bỏ giả thuyết rằng việc hiến tế và ăn thịt đồng loại bắt
nguồn từ sự khan hiếm thức ăn ở thời Aztec. Các nền văn hoá tiền Tây Ban Nha tin rằng thế

giới sẽ diệt vong nếu không có các nghi lễ hiến tế. Trong khi đó, nạn nhân bị hiến tế lại được
coi là thánh trước khi bị giết.
"Thật khó để chúng ta có thể tưởng tượng được. Với họ - những người bị hiến tế - đó gần như
là một niềm vinh dự", Lujan nhận định
Đế quốc Cival
Hơn 2.000 năm trước, trong khi người La Mã đang tàn phá Carthage và người
Hopewell đang xây dựng những công trình ở Ohio, thì một nền văn hoá rộng lớn đã
nảy nở tại một khu vực ở Guatemala ít được biết tới, gọi là Cival
"Thật thú vị khi chúng ta lật ngược lại một số quan điểm đã tồn tại từ lâu. Mọi người vẫn cho
rằng Maya thời tiển cổ điển là một xã hội tương đối đơn giản, nhưng không hề như vậy. Đã
xuất hiện một nền văn minh thịnh vượng mà bây giờ chúng ta mới bắt đầu khám phá",
Francisco Estrada-Belli tại Đại học Vanderbilt, đứng đầu cuộc khai quật, phát biểu.
Cival là một trong những thành phố lớn nhất của Maya thời tiền cổ điển, có thể chứa tới
10.000 người vào thời điểm cao nhất. Nó đã phát triển song song cùng Holmul, nơi đạt thời kỳ
hoàng kim vào gần 1.000 năm sau trong giai đoạn Maya cổ điển.
Nền văn minh Maya cổ điển bắt nguồn từ khoảng năm 300 sau Công nguyên, trong khi Cival
thịnh vượng vào khoảng năm 500 trước Công nguyên tới 100 sau Công nguyên. Sau đó nó đã
bị bỏ hoang một cách bí ẩn và không bao giờ được tái sinh nữa.
Theo Estrada-Belli, trục trung tâm của các công trình và quảng trường ở Cival hướng về phía
mặt trời mọc tại điểm phân (xuân phân hoặc thu phân). Một trong những hiện vật quan trọng
được tìm thấy là bức tượng khuôn mặt khổng lồ của một vị thần Maya còn nguyên vẹn. Bức
tượng làm bằng vữa xtuco có kích thước 4,5 x 2,7 m, có một con mắt, một cái miệng vuông và
nanh rắn ở chính giữa.
"Tình trạng nguyên vẹn của nó thật là đáng kinh ngạc. Cứ như là ai đó vừa làm ra nó từ hôm
qua", Estrada-Belli nói.
Trong tháng 4, người ta đã tìm ra bức tượng khuôn mặt thứ hai giống y hệt. Con mắt của nó
được trang trí vỏ ngô và có từ khoảng năm 150 trước Công nguyên.
Cival còn những kim tự tháp và một khu liên hợp nằm xung quanh một quảng trường trung
tâm. Phía trước một toà nhà dài nằm ở phía tây khu liên hợp, các nhà khảo cổ tìm thấy một
tấm bia khắc bằng đá có từ năm 300 trước Công nguyên. Đó có thể là vật khắc sớm nhất được

tìm thấy tại Maya.
Tại một cái hốc trên quảng trường, nhóm khảo cổ còn tìm thấy một cái bát đỏ, vỏ sò, một
chiếc ống bằng ngọc bích và một mẩu hematit. Đằng sau đó là một chỗ lõm xuống hình chữ
thập có chứa 5 cái bình đã bị vỡ, mỗi cái nằm trên một cạnh của chữ thập và cái còn lại ở
chính giữa. Trong chiếc bình trung tâm có 120 miếng ngọc bích hầu hết hình tròn, màu xanh
lá cây và xanh lam, sáng bóng. Nằm gần đó là 5 chiếc rìu bằng ngọc bích có lưỡi hướng lên
trời. Những tạo vật này có thể phục vụ nghi thức đăng quang của một vị tân hoàng đế.
Ngoài ra, còn có dấu tích của những bức tường thành được dựng lên một cách vội vàng quanh

×