Đường nét và nhịp độ
Người phương Đông, nhất là người Nhật Bản có biệt tài chỉ dùng
vài đường nét đơn sơ mà gợi lên được bất cứ vật thể gì, bất cứ động tác
gì không kém gì một bức tranh cổ điển. Nói như vậy có nghĩa đường
nét thực sự là cái xương sống của hình ảnh.
Đối tượng có một số đường nét cơ bản, tức là không thể tránh
được và không thể thiếu được: những đường nét bao bọc các vật thể,
tách biệt các sắc độ và các sắc thái của các mầu, tách biệt phần tối với
phần sáng. Đường chân trời tách biệt phần gì thuộc về đất và phần gì
thuộc về trời, và dưới một hình thức tượng trưng, gợi lên cái vô cực bởi
vì mọi đường nằm ngang của đối tượng đều qui tụ vào đấy.
Những đường khác, đường thẳng, đường cong hay đường gãy
khúc, thẳng đứng, xiên hay nằm ngang, đường đơn giản hay phức tạp,
bao giờ cũng có một vai trò quan trọng trong hình dáng của hình ảnh.
- Đường cong gợi lên sự mềm mại, dịu dàng, sự đầy đặn, sự uyển
chuyển, sự hoà hợp, một cái gì thuộc về nữ giới.
- Đường thẳng gợi ngay cho ta sự mạnh mẽ, kiên quyết, cứng rắn.
- Đường gãy khúc biểu hiện sự mờ rối, hỗn độn.
Phương hướng của các đường cũng là một yếu tố cơ bản, nhất là
khi nó được lặp đi lặp lại nhiều lần:
- Đường nằm ngang lặp đi lặp lại nhiều lần gợi cho ta vẻ yên tĩnh,
nghỉ ngơi: mặt nước phẳng lặng của ao hồ, cánh đồng thẳng cánh cò
bay.
- Đường thẳng đứng lặp đi lặp lại nhiều lần, như những chiếc cột
trong nhà thờ, những thân cây trong một khu rừng gợi cho ta những
cảm giác về cái vĩ đại lớn lao, sự cao quí tinh thần, v.v
- Các đường chéo góc hội tụ vào nhau không thể gợi cho ta cái gì
khác là sự xa vời, vô tận
Nhà nhiếp ảnh chỉ cần quan sát sơ quacũng nhận thấy rõ vai trò
tượng trưng của các đường nét. Ngoài ra, người chụp còn phải nắm
được nhịp độ gây nên bởi sự lặp đi lặp lại của các đường. Như trong
một bản nhạc, nhịp độ có thể đều đều, buồn tẻ, hoặc dồn dập, giật
giọng: việc lặp đi lặp lại những yếu tố giống nhau tập hợp lại theo một
cách nào đó, tạo ra một thứ "đời sống nội tâm" cho hình ảnh, gần như
một "động tác vĩnh cửu" như hàng dương liễu lẫn dần bên bờ sông.
Khi ta ngắm một bức ảnh tốt (trong nguyên văn-NH, theo bác
NTL phải dịch là bức ảnh đẹp), con mắt của ta được các đường nét
hướng dẫn để phân tích hình ảnh, từ chủ đề chính là nơi con mắt bị giữ
lại trước tiên, rồi lần lượt đến tất cả mọi điểm của bức ảnh. Đó là vai trò
mà người chụp ảnh phải đem lại cho các đường nét trong bố cục.
6. Mảng tối và mảng sáng
Ảnh chỉ là mặt chiếu một mặt phẳng hai chiều cả một thế giới ba
chiều, một thế giới có chiều sâu, có nhiều tầng lớp khác nhau, từ mắt ta
đến tận chân trời, đến vô cực.
Để cho từ mặt phẳng đó chúng ta có được cảm giác về hình khối,
về chiều sâu, riêng phối cảnh hình học không đủ. Phối cảnh còn cần
kèm theo sự "biến điệu" của các lớp cảnh khác nhau, về mặt tương phản
và về mặt ánh sáng. trong một phong cảnh chẳng hạn, không khí đượm
hơi nước và bụi làm cho các lớp cảnh ở xa bị chìm trong một làn sương
mờ trên đó nổi bật lên những lớp cảnh ở gần hơn: hiệu ứng đó gọi là
phối cảnh không trung.
Những bức ảnh chụp trên mặt trăng làm cho ta thấy lạ không phải
chỉ do trên mặt trăng gồ ghề, tương phản, mà còn là vì những tảng đá ở
xa nhất cũng nổi lên sắc nét trên bầu trời đen như những tảng đá ở gần.
Trên mặt đất, hiện tượng các lớp cảnh càng xa càng mờ và nhạt dần là
do hiệu ứng của việc chiếu sáng. Ánh sáng, tuỳ theo hướng chiếu của
nó, làm cho các lớp cảnh của đối tượng nổi lên một cách khác nhau và
làm cho hình dáng sắc hoặc dịu một cách khác nhau.
- Ánh sáng trực diện làm cho mọi hình khối đều chìm như nhau
do đó hình ảnh bị dẹt.
- Trái lại ánh sáng chếch 45 độ so với đối tượng làm cho hình
dáng và hình khối được nổi lên. Đó là loại ánh sáng cổ điển.
- Ánh sáng bên, đi lướt qua mặt tiền cảnh, làm nổi bật một cách
hết sức mạnh mẽ cấu trúc và chất liệu của các vật thể: đá, gỗ, vải cho ta
thấy cấu trúc đặc biệt của chúng.
- Ánh sáng ngược làm nổi vệt các vật thể nhưng chỉ thể hiện
chúng thành những bóng đen.
Với một loại ánh sáng nhất định, chiếu sáng đối tượng theo một
góc độ nào đó, ta có cả một loạt bóng tối rất có ý nghĩa. Bóng tối kéo
dài trong bức tranh mùa đông hay cảnh trời chiều gợi lên một bầu
không khí khác hẳn với bóng ngắn và gay gắt của mặt trời ban trưa.
Bóng tối, những điểm sáng đối lập, giữ một vai trò nổi bật trong hình
dáng của hình ảnh.
Sự tương phản của ánh sáng cũng quan trọng không kém gì
hướng chiếu của nó. Chính sự tương phản này tạo nên bầu không khí
của một phong cảnh, một tĩnh vật, một chân dung. Ta hãy so sánh ánh
sáng dịu ở các nước miền cực bắc với ánh sáng gắt ở các nước nhiệt đới
và ánh sáng trong sáng vào mùa xuân hay mùa thu ở các nước ôn đới.
Từng vật thể nằm trong khuôn hình, ở xa hay gần máy ảnh, ở vào
những hướng khác nhau đối với hướng của ánh sáng, sẽ có một sắc độ
xám khác nhau trên hình ảnh.
Vẻ đẹp của một bức ảnh đen-trắng là bằng cả một loạt các sắc độ
xám khác nhau, từ trắng toát đến đen kịt, gợi lên cho ta những chất liệu
khác nhau, những hình dáng khác nhau của các yếu tố tạo nên một thể
hoàn chỉnh.