Tải bản đầy đủ (.pdf) (100 trang)

(Luận văn thạc sĩ) quản lý công tác giáo dục sức khỏe sinh sản cho học sinh các trường trung học cơ sở trên địa bàn thành phố quy nhơn, tỉnh bình định

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.9 MB, 100 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC QUY NHƠN

PHAN THỊ PHƯƠNG NAM

QUẢN LÝ CÔNG TÁC GIÁO DỤC SỨC KHỎE SINH SẢN
CHO HỌC SINH CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ SỞ
TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ QUY NHƠN, TỈNH BÌNH
ĐỊNH

Chuyên ngành: Quản lý giáo dục
Mã số : 8140114

Người hướng dẫn: PGS.TS. PHAN MINH TIẾN


LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của riêng tôi, các số liệu
và kết quả nghiên cứu ghi trong luận văn là trung thực, được các đồng tác giả
cho phép sử dụng và chưa từng được cơng bố trong bất kỳ một cơng trình nào
khác.
Tác giả luận văn

Phan Thị Phương Nam


LỜI CẢM ƠN
Được học tập, được nghiên cứu và hoàn thành luận văn, tác giả đã nhận sự
động viên, sự giúp đỡ tận tình và tạo mọi điều kiện thuận lợi của các cấp lãnh đạo,
quý thầy cô và các bạn đồng nghiệp. Với tình cảm chân thành và lịng kính trọng,
tơi xin được bày tỏ lịng biết ơn sâu sắc đến:


Ban Giám hiệu trường Đại học Quy Nhơn;
Lãnh đạo Phòng Đào tạo sau đại học;
Lãnh đạo khoa Khoa học xã hội trường Đại học Quy Nhơn đã tạo mọi điều
kiện thuận lợi nhất cho tơi hồn thành luận văn tốt nghiệp.
Quý Thầy (Cô) tham gia giảng dạy lớp cao học Khóa 2018-2020, chuyên ngành
Quản lý giáo dục đã tận tình hướng dẫn dạy dỗ, giúp đỡ tơi trong suốt khóa học.
Đặc biệt, tơi xin được bày tỏ lịng kính trọng và biết ơn Thầy PGS.TS.Phan
Minh Tiến, người trực tiếp hướng dẫn, dạy dỗ, giúp đỡ tôi trong suốt quá trình thực
hiện và hồn thành luận văn tốt nghiệp.
Xin chân thành cảm ơn Lãnh đạo Phòng Giáo dục và Đào tạo thành phố Quy
Nhơn, Ban giám hiệu, quý thầy cô giáo và các em học sinh các trường THCS trên
địa bàn thành phố Quy Nhơn, tỉnh Bình Định đã quan tâm giúp đỡ tơi trong q
trình nghiên cứu đề tài.
Dù đã hết sức cố gắng trong quá trình thực hiện đề tài, nhưng chắc chắn luận
văn không thể tránh khỏi những thiếu sót, kính mong được đón nhận những lời chỉ
dẫn ân cần của quý thầy cô, ý kiến trao đổi xây dựng của quý đồng nghiệp để luận
văn được hoàn thiện hơn.
Xin chân thành cám ơn!
Tác giả luận văn

Phan Thị Phương Nam


1

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Từ những năm 20 của thế kỷ XX, V.I. Lênin đã từng nhấn mạnh: “ Cùng với
việc xây dựng chủ nghĩa xã hội, vấn đề quan hệ giới tính, vấn đề hơn nhân gia đình
cũng được coi là cấp bách”.

Trong chỉ thị 176A ngày 24/12/1974 do nguyên chủ tịch Hội đồng Bộ
trưởng Phạm Văn Đồng kí đã nêu rõ: “Bộ giáo dục, Bộ Đại học và Trung học
chuyên nghiệp, Tổng cục dạy nghề phối hợp với các tổ chức có liên quan xây dựng
chương trình chính khóa và ngoại khóa nhằm bồi dưỡng cho học sinh những kiến
thức về khoa học giới tính, về hơn nhân gia đình và ni dạy con cái”.
Trong xu thế đổi mới, con người Việt Nam vừa là mục tiêu, vừa là động lực
thúc đẩy sự phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội. Vấn đề con người là một trong
những vấn đề luôn được xã hội coi trọng và quan tâm ở mọi thời đại. Trong giai
đoạn đổi mới hiện nay của đất nước ta, việc coi trọng chất lượng cuộc sống của con
người Việt Nam đã và đang trở thành mục tiêu, động lực của chiến lược phát triển
kinh tế xã hội.
Xã hội phát triển kéo theo các mặt khác của xã hội cùng phát triển, đặc biệt
là nền văn hóa, nhất là trong q trình hội nhập. Nền văn hóa tác động nhiều mặt
tới sự phát triển của con người nói chung và học sinh nói riêng. Bên cạnh những
mặt tích cực cũng có những ảnh hưởng tiêu cực, vấn đề đang được xã hội quan
tâm đó là sự du nhập của văn hóa phương Tây đã có ảnh hưởng đến học sinh
THCS - Lứa tuổi đang có sự thay đổi mạnh mẽ về thể chất cũng như giới tính. Vì
vậy, vấn đề giáo dục sức khỏe sinh sản vị thành niên ( GDSKSSVTN) cho học
sinh đang được ghành giáo dục quan tâm.
Ở nước ta, trẻ VTN ( dưới 19 tuổi) chiếm khoảng 24,8% triệu người, tức là
khoảng 27% dân số. Tuy nhiên thanh thiếu niên Việt Nam đang phải đối mặt với
nhiều thách thức: mang thai ngoài ý muốn, các bệnh lây lan qua đường tình dục,
nhiễm HIV, ma túy, cờ bạc, rượu chè. Theo thống kê của Hội kế hoạch hóa gia đình
thì Việt Nam là một trong những nước có tỷ lệ nạo phá thai cao nhất thế giới, trong


2

đó 20% thuộc lứa tuổi VTN. Chính vì vậy, các em cần được quan tâm và giáo dục
SKSS ngay từ khi còn ngồi trên ghế nhà trường để tạo nền tảng vững chắc về mọi

mặt để các em có đủ hành trang bước vào cuộc sống tương lai.
Ở thành phố Quy Nhơn, tỉnh Bình Định trong khi những vấn đề phát sinh của
một bộ phận lứa tuổi VTN, thanh niên đang trở nên nhức nhối thì hệ thống truyền
thơng và cung cấp dịch vụ chăm sóc SKSS lại ở mức gần như “chạm đáy”. Tồn
thành phố chỉ có duy nhất Trung tâm chăm sóc SKSS tỉnh Bình Định .
Trong xu thế hội nhập và mở rộng giao lưu giữa các quốc gia, các luồng văn
hóa bên ngồi có điều kiện xâm nhập vào nước ta nói chung và thành phố Quy
Nhơn nói riêng ngày càng mạnh mẽ. Bên cạnh những yếu tố văn hóa có tác động
giáo dục lành mạnh, trong sáng, phù hợp với phong cách, lối sống của dân tộc và
tuổi trẻ Việt Nam, khơng ít những yếu tố có ảnh hưởng tiêu cực đến thanh thiếu
niên nước ta và HS THCS ở thành phố Quy Nhơn cũng khơng nằm ngồi trào lưu
trên.
Từ thực tế cho thấy, vấn đề giáo dục (GD) SKSS cho HS THCS là một việc
làm cần thiết và cấp bách, nhưng hiện nay còn nhiều bất cập và hạn chế, đặc biệt là
công tác quản lý.
Xuất phát từ những lý do trên, chúng tôi nghiên cứu đề tài: “ Quản lý công tác
giáo dục sức khỏe sinh sản cho học sinh các trường THCS trên địa bàn thành phố
Quy Nhơn, tỉnh Bình Định”.
2. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và khảo sát, đánh giá thực trạng của vấn đề
nghiên cứu, đề xuất các biện pháp quản lý công tác GD SKSS cho HS các trường
THCS trên địa bàn thành phố Quy Nhơn, tỉnh Bình Định.
3. Khách thể nghiên cứu
Cơng tác GD SKSS cho HS trường THCS.
4. Đối tượng nghiên cứu
Công tác GD SKSS cho HS các trường THCS thành Quy Nhơn, tỉnh Bình
Định.


3


5. Giả thuyết khoa học
Công tác quản lý GD SKSS cho HS các trường THCS thành phố Quy Nhơn
tỉnh Bình Định hiện nay chưa được quan tâm đúng mức, chưa thường xuyên và
chưa có một hệ thống biện pháp quản lý chặt chẽ; nhận thức của HS về vấn đề này
còn nhiều hạn chế nên chất lượng GD SKSS còn thấp chưa đáp ứng được yêu cầu
của giáo dục hiện nay. Nếu xác lập được cơ sở lý luận khoa học, đánh giá được thực
trạng thì có thể đề xuất được các biện pháp quản lý công tác GD SKSS cho HS góp
phần nâng cao chất lượng GD SKSS cho HS các trường THCS thành phố Quy
Nhơn tỉnh Bình Định.
6. Nhiệm vụ nghiên cứu
6.1. Nghiên cứu cơ sở lý luận về công tác GD SKSS cho HS ở trường THCS.
6.2. Khảo sát, đánh giá thực trạng quản lý công tác GD SKSS cho HS các
trường THCS thành phố Quy Nhơn, tỉnh Bình Định.
6.3. Đề xuất các biện pháp quản lý công tác GD SKSS cho HS các trường
THCS thành phố Quy Nhơn, tỉnh Bình Định.
7. Phương pháp nghiên cứu
7.1. Các phương pháp nghiên cứu lý luận: Sử dụng các phương pháp phân tích
- tổng hợp tài liệu; phân loại tài liệu; hệ thống và khái quát hóa tài liệu liên quan
nhằm xây dựng cơ sở lý luận về công tác GD SKSS cho HS THCS.
7.2. Các phương pháp nghiên cứu thực tiễn: Sử dụng các phương pháp điều
tra;phương pháp quan sát; phương pháp lấy ý kiến chuyên gia nhằm khảo sát, đánh
giá thực trạng quản lý công tác GD SKSS cho HS ở trường THCS thành phố Quy
Nhơn và thu thập thêm các thơng tin có liên quan đến vấn đề nghiên cứu.
7.3. Phương pháp thống kê toán học: nhằm xử lý kết quả nghiên cứu.
8. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu biện pháp quản lý công tác GD SKSS cho HS các trường
THCS thuộc thành phố Quy Nhơn, tỉnh Bình Định.
9. Đóng góp của đề tài
9.1. Về lý luận



4

Hệ thống hóa cơ sở lý luận của cơng tác GD SKSS cho HS THCS.
9.2. Về thực tiễn
- Làm rõ thực trạng quản lý công tác GD SKSS cho HS các trường THCS
thành phố Quy Nhơn, tỉnh Bình Định.
- Đề xuất các biện pháp quản lý công tác GD SKSS cho HS các trường THCS
thành phố Quy Nhơn, tỉnh Bình Định.
10. Cấu trúc luận văn
Luận văn gồm 3 phần chính:
 Phần mở đầu: Đề cập đến những vấn đề chung của đề tài.
 Phần nội dung: Gồm 3 chương.
- Chương 1: Cơ sở lý luận về quản lý công tác GD SKSS cho HS ở trường
THCS.
- Chương 2: Thực trạng quản lý công tác GD SKSS cho HS ở các trường
THCS thành phố Quy Nhơn, tỉnh Bình Định.
- Chương 3: Các biện pháp quản lý công tác GD SKSS cho HS ở các trường
THCS thành phố Quy Nhơn, tỉnh Bình Định.
 Phần kết luận và khuyến nghị:
Tài liệu tham khảo.
Phụ lục.


5

Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ CÔNG TÁC GIÁO DỤC
SỨC KHỎE SINH SẢN CHO HỌC SINH Ở TRƯỜNG

TRUNG HỌC CƠ SỞ
1.1. Khái quát lịch sử nghiên cứu vấn đề
GDDS SKSS xuất hiện như là một hình thức GD sáng tạo với trách nhiệm
hướng tới các vấn đề DS cách đây vài thập kỷ và hiện nay đã có mặt ở hàng trăm
quốc gia trên thế giới. So với các ngành khoa học khác, GDDS SKSS là một ngành
khoa học mới mẻ, nó ra đời nhằm giải quyết những bức bách do xã hội đặt ra.
Ý tưởng đưa GDDS lần đầu tiên xuất hiện tại Thụy Điển năm 1935, tại Mỹ
năm 1937. Năm 1954, hội nghị Quốc tế về DS tổ chức tại Rôme (Italia), là cuộc họp
kỹ thuật các chuyên gia DS nhằm tổng hợp thông tin về nhân khẩu học.
Trong kế hoạch hành động của Quỹ DS Liên hiệp quốc, SKSS bao gồm 6 nội
dung chính có liên quan mật thiết với nhau. Tuy nhiên, ở mỗi khu vực, quốc gia
ngoài những nội dung trong hội nghị đề cập cịn có những nội dung bổ sung và ưu
tiên tùy thuộc vào từng điều kiện của mỗi quốc gia, khu vực đó.
Năm 1994, Hội nghị DS Thế giới lần thứ IV tại Cai - rô (Ai Cập) với sự tham
gia của 179 nước trên thế giới đã đề cập đến việc triển khai GDDS ở các quốc gia
trên toàn thế giới. Từ đây, khái niệm về SKSS, một vấn đề hết sức rộng lớn đã được
tất cả mọi người quan tâm [13, tr.3].
Chương trình hành động của Hội nghị này đã khẳng định: "Để đạt hiệu quả cao
nhất, GDDS phải được bắt đầu ngay từ tiểu học và tiếp tục ở tất cả các cấp của GD
chính quy, cũng như khơng chính quy, đồng thời có tính đến các quyền, trách nhiệm
của cha mẹ và tính đến các nhu cầu của trẻ em và trẻ tuổi VTN"; “Các chính phủ,
phối hợp với các tổ chức phi chính phủ cần đáp ứng nhu cầu đặc biệt của VTN và
thiết lập các dịch vụ thích hợp, bao gồm KHHGĐ, tư vấn và dịch vụ cho các VTN có
hoạt động tình dục; tư vấn về quan hệ giới, hành vi tình dục có trách nhiệm, SKSS và
phịng chống bệnh lây nhiễm qua đường tình dục (BLNQĐTD) và nhiễm HIV; phịng
và điều trị các trường hợp bị xâm hại tình dục và loạn luân” [20, tr.1].


6


Các chương trình SKSS đều được tiến hành theo những phương pháp linh
hoạt, tuỳ từng quốc gia, từng nền văn hóa khác nhau. Tuy vậy, các phương pháp
GD đều có mục đích chính và rõ ràng nhằm hướng đến lứa tuổi VTN. GDDS SKSS
được hầu hết các nước trên thế giới và trong khu vực coi là một bộ phận khơng thể
tách rời của các chính sách và kế hoạch phát triển của mỗi quốc gia.
Như vậy, có thể thấy, việc GDDS SKSS đã và đang được hầu hết các quốc gia
trên thế giới quan tâm đặc biệt vì nó gắn với sự phát triển kinh tế xã hội. Các lực
lượng tham gia quá trình GD này rất phong phú, trong đó, việc tổ chức GDDS
SKSS trong trường học được chú trọng đúng mức, đồng thời, huy động nhiều lực
lượng trong cộng đồng tham gia với nhiều mơ hình và phương pháp khác nhau
nhưng đều nhằm vào một mục tiêu chung.
Trong nhiều năm qua, Đảng và Nhà nước ta đã quan tâm đến vấn đề SKSS
VTN. Nhiều hoạt động nhằm tăng cường SKSS VTN đã được tiến hành như: Luật
hôn nhân gia đình đã được sửa đổi và cơng bố; Công ước Quốc tế về Quyền trẻ em
đã được Việt Nam ký kết và nhiều chương trình phịng chống tệ nạn xã hội, bảo vệ
chăm sóc trẻ em... Song song với hoạt động này, việc nghiên cứu về SKSS VTN đã
được nhiều cơ quan nghiên cứu và cá nhân thực hiện. Tuy vậy, SKSS VTN hiện nay
là vấn đề bức xúc cần được quan tâm đúng mức.
Vào thập niên 60 của thế kỷ XX, Việt Nam đã có những văn bản pháp quy về
dân số - kế hoạch hóa gia đình (DS - KHHGĐ). Quyết định số 216/CP ngày 26
tháng 12 năm 1961 của Hội đồng Bộ trưởng thể hiện sự quan tâm về vấn đề giảm
sinh. Quyết định số 217/TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 18 tháng 12 năm 1961
hướng tới vấn đề sinh đẻ có kế hoạch. Như vậy, ngay từ những năm 60 của thế kỷ
trước, Việt Nam đã gắn công tác giảm sinh với việc bảo vệ sức khỏe nhân dân nhằm
giảm tỷ lệ tử vong của bà mẹ và trẻ em, từng bước nâng dần chất lượng dân số.
Tiếp đến, vào những năm cuối thập kỷ 80 ( thế kỷ XX), Quốc hội nước ta
thông qua Luật bảo vệ sức khỏe nhân dân vào ngày 30 tháng 06 năm 1989. Điều
này sẽ tạo ra được hành lang pháp lý để thực hiện chính sách dân số – KHHGD,
thực hiện quan điểm của Đảng về bảo vệ sức khỏe bà mẹ trẻ em trên toàn lãnh thổ.



7

Bước vào thế kỷ XXI, chiến lược quốc gia về sức khỏe sinh sản và vấn đề sức
khỏe sinh sản cho thanh niên ở nhà trường Việt Nam cụ thể hóa nội dung nghị quyết
trung ương 4 ( Khóa VII). Chiến lược xác định mục tiêu chung là: “ Bảo đảm đến
năm 2010 tình trạng sức khỏe sinh sản được cải thiện rõ rệt và giảm được sự chênh
lệch giữa các vùng và các đối tượng bằng cách đáp ứng tốt hơn những nhu cầu đa
dạng về chăm sóc sức khỏe sinh sản phù hợp với điều kiện của các cộng đồng ở
từng địa phương, đặc biệt chú ý đến các vùng và các đối tượng khó khăn”. Cùng với
7 mục tiêu cụ thể, văn bản này đề ra trách nhiệm của Bộ Giáo dục về giới, về sức
khỏe sinh sản và sức khỏe tình dục cho học sinh các cấp phổ thông, cao đẳng, đại
học, trung học chuyên nghiệp và dạy nghề và các loại hình giáo dục khác”.
Dự thảo báo cáo công tác dân số giai đoạn 2011-2020 ( tổng cục dân số) xác
định rõ 9 mục tiêu quan trọng. Trong đó, đáng quan tâm là mục tiêu 6,7,8,9 về chất
lượng và quản lý dân số. Để thực hiện các mục tiêu quan trọng đó, báo cáo nêu lên
5 giải pháp quan trọng: tăng cường chỉ đạo công tác dân số, hoàn thiện tổ chức bộ
máy và chuyên mơn hóa cán bộ, xã hội hóa và hồn thiện chính sách, đầu tư nguồn
lực có hiệu quả, hợp tác quốc tế. Cho đến nay, dự thảo báo cáo này là văn bản đầu
tiên đề cập đến vấn đề dân số mang tầm chiến lược giao đoạn 2011 - 2020
Nhận thức được tầm quan trọng và ý nghĩa của việc GD SKSS VTN, được sự
hỗ trợ của các tổ chức quốc tế như UNFPA, UNICEF, UNESCO, GDDS đã được
thực hiện từ đầu những năm 80 của thế kỷ XX. UNFPA đã giúp đỡ Bộ GDĐT thực
hiện GDDS qua 5 chu kỳ (1984-1987, 1988-1991, 1994-1996, 1997-2000, 20012005) với quy mô ngày càng mở rộng, mức độ thực hiện ngày càng sâu. Các tài liệu
về GDDS, sách hướng dẫn GV tiến hành GDDS ở các cấp học đã được biên soạn.
GDDS đã được lồng ghép vào một số môn học như: Sinh học, Địa lý, Văn học,
Giáo dục công dân. Công tác đào tạo GV giảng dạy GDDS - SKSS bước đầu đã
được thực hiện.
Hiện tại, các nội dung GDDS vẫn tiếp tục được giới thiệu trong chương trình
dạy học ở các trường THCS, trong đó ưu tiên các nội dung GD SKSS VTN. Đây là

những nội dung mang nhiều ý nghĩa quan trọng nhưng cũng là các vấn đề mới và


8

khó dạy đối với giáo viên [22, tr.9].
Một số cơng trình nghiên cứu liên quan đến SKSS VTN và vấn đề GD SKSS
VTN, như:
- Trong khuôn khổ dự án “Hỗ trợ chương trình Giáo dục - Đào tạo về SKSS và
dân số-phát triển” mã số VIE/97/P13 (với sự tài trợ kinh phí của Quỹ dân số Liên
Hiệp Quốc), dưới sự chỉ đạo của Bộ GDĐT đã xây dựng tài liệu bồi dưỡng giáo
viên các trường Trung học cơ sở và THPT về “Phương pháp giảng dạy các chủ đề
nhạy cảm về SKSS VTN” [22].
Uỷ ban dân số, Gia đình và trẻ em được sự hỗ trợ về tài chính và kỹ thuật của
Quỹ dân số Liên hiệp quốc, đã tổ chức biên soạn bộ chương trình đào tạo truyền
thơng DS - SKSS gồm 13 cuốn [29].
- Uỷ ban quốc gia về DS phối hợp với ĐTNCSHCM biên soạn “Sổ tay hướng
dẫn tuyên truyền thảo luận nhóm về SKSS VTN dành cho tuyên truyền viên và cán
bộ đoàn cơ sở”[28].
- Hội KHHGĐ Quốc tế và Hội KHHGĐ Việt Nam đã tổ chức biên soạn cuốn
sách “Sức khoẻ sinh sản vị thành niên” xuất bản năm 2002 [14].
- Chiến lược Dân số và chăm sóc SKSS – Uỷ ban Quốc gia DS – KHHGĐ –
Trường Đại học Y khoa Hà Nội, 1997.
- Tun truyền lồng ghép Kế hoạch hóa gia đình trong SKSS – Bộ Y tế, NXB
phụ nữ 2000.
- GDSKSS vị thành niên – Bộ GD & ĐT và UNFPA, 2001.
- Chiến lược Quốc gia về SKSS giai đoạn 2001 – 2010, Bộ Y tế, NXB Quân
đội, Hà Nội, 2001.
- Bình đẳng giới trong chăm sóc SKSS và chống bạo lực trong gia đình, hội kế
hoạch hóa gia đình Việt Nam, Hà Nội, 2002.

- Chương trình hành động giáo dục sức khỏe sinh sản và phòng, chống
HIV/AIDS cho học sinh trung học giao đoạn 2007-2010, Bộ GD&ĐT, Hà Nội,
2007.
- “Hành trang tuổi hồng”, “ Thế giới tuổi hoa” Sở GD&ĐT TP. Đà Nẵng,


9

ĐHSP Đà Nẵng và tổ chức Rutgers WPF.
Bên cạnh đó, cịn có các cơng trình nghiên cứu khác về GD SKSS VTN như:
Nguyễn Quang Vinh - Viện khoa học GD “Đưa GD tình dục và GD SKSS VTN
vào nhà trường THPT,1997 [25]; Nguyễn Công Cừu “Các biện pháp quản lý hoạt
động GD SKSS VTN cho HS trường Trung cấp Y tế tỉnh Đồng Tháp [7]; Huỳnh
Sơn, Bùi Thị Kim Yến ở lĩnh vực quản lý và GD SKSS cho sinh viên [21];
Có thể nói, GDDS - SKSS là một vấn đề vừa có ý nghĩa chiến lược lâu dài,
vừa có tính cấp bách. Thanh thiếu niên đang độ tuổi VTN trong các nhà trường cần
được tiếp cận GDDS - SKSS một cách có hệ thống với mục tiêu và nội dung xác
định từ dễ đến khó, từ đơn giản đến phức tạp, phù hợp với đặc điểm lứa tuổi của
HS. Làm được như vậy, công tác GD&ĐT trong nhà trường sẽ tạo ra những điều
kiện vững chắc cho việc thực hiện mục tiêu GD nhân cách toàn diện cho thế hệ trẻ
và thực hiện mục tiêu chính sách DS quốc gia.
Kết quả của việc thực hiện GDDS - SKSS những năm qua cho thấy nhu cầu
cần được GDDS - SKSS trong nhà trường là bức thiết, được sự đồng thuận ngày
càng cao của những lực lượng đang tham gia vào q trình GDDS - SKSS.
Tuy vậy, chưa có nghiên cứu nào về quản lý công tác GD SKSS cho HS các
trường THCS ở thành phố Quy Nhơn, tỉnh Bình Định.
1.2. Các khái niệm cơ bản
1.2.1. Quản lý
Khái niệm “quản lý” là khái niệm rất chung, tổng quát. Nó dùng cho cả q
trình quản lý xã hội, quản lý giới vơ sinh cũng như quản lý giới sinh vật. Dưới các

góc độ tiếp cận khác nhau, có nhiều quan niệm khác nhau về quản lý.
Công tác quản lý là tất yếu đối với tất cả các hình thức lao động của nhân loại.
Vì thế, Các - Mác là người thầy vĩ đại của cách mạng vô sản thế giới đã khẳng định
“Bất cứ lao động xã hội trực tiếp hay lao động chung nào mà tiến hành trên một quy
mô khá lớn đều yêu cầu cần phải có một sự chỉ đạo để điều hoà những hoạt động cá
nhân. Sự chỉ đạo đó phải là những chức năng chung, tức là những chức năng phát
sinh từ sự khác nhau giữa sự vận động chung của cơ thể sản xuất với những vận


10

động cá nhân của những khí quan độc lập hợp thành cơ thể sản xuất đó. Một nhạc sĩ
độc tấu thì tự điều khiển lấy mình, nhưng một dàn nhạc thì cần phải có một nhạc
trưởng” [15, tr.5].
Trong các hoạt động của con người, quản lý là một trong những loại hình lao
động quan trọng nhất. Một khi con người đã nhận thức được quy luật, vận động
theo quy luật và sẽ đạt được những thành cơng to lớn có nghĩa là con người được
quản lý đúng. Nghiên cứu về quản lý sẽ giúp cho con người có được những kiến
thức cơ bản nhất, chung nhất đối với các hoạt động quản lý.
Ngày nay, quản lý đã được nhiều người thừa nhận và trở thành một nhân tố
của sự phát triển của xã hội. Quản lý trở thành một hoạt động phổ biến, diễn ra
trong mọi lĩnh vực, ở mọi cấp độ và liên quan đến mọi người.
Dưới góc độ chính trị - xã hội và góc độ hành động “ QL là hoạt động có ý
thức để chỉ huy, điều khiển các quá trình xã hội và hành vi hoạt động của con người
nhằm đạt đến mục tiêu đúng ý chí của người quản lý và phù hợp với quy luật khách
quan.
Theo Henry – Fayol ( 1841 – 1925), đại diện tiêu biểu của thuyết quản lý hành
chính, thì “quản lý tức là lập kế hoạch, tổ chức, chỉ huy, phối hợp và kiểm tra”[15].
Theo F.W.Taylor (1856- 1915) người đề xướng thuyết quản lý quan niệm:
“Quản lý là biết được chính xác điều bạn muốn người khác làm và sau đó hiểu

được rằng họ đã hồn thành cơng việc một cách tốt nhất và rẻ nhất” [15].
Từ điển Tiếng Việt định nghĩa quản lý là: “Tổ chức và điều khiển các hoạt
động theo những nhu cầu nhất định” [30, tr.800].
Theo Hà Sĩ Hồ, “Quản lý là tác động có định hướng, có tổ chức, lựa chọn
trong số các tác động có thể có, dựa trên các thơng tin về tình trạng của đối tượng
và mơi trường, nhằm giữ cho sự vận hành của đối tượng được ổn định và làm cho
nó phát triển tới mục đích đã định” [12, tr.34].
Tác giả Trần Kiểm cho rằng: “Quản lý là những tác động của chủ thể quản lý
trong việc huy động, phát huy, kết hợp sử dụng, điều chỉnh, điều phối các nguồn lực
(nhân lực, vật lực, tài lực) trong và ngoài tổ chức (chủ yếu là nội lực) một cách tối


11

ưu nhằm đạt mục đích của tổ chức với hiệu quả cao nhất”[15.tr8].
Quản lý có phạm vi tác động lên khách thể rất rộng (vốn, nguồn lực lao động,
khoa học kỹ thuật, tài nguyên và quản lý). Do đó, ngày nay nó được xem là nhân tố
quan trọng nhất trong các nhân tố quyết định sự thành công của sự phát triển kinh tế
xã hội.
Như vậy, có thể hiểu, quản lý là một quá trình hoạt động của xã hội lồi
người, nó là một q trình tác động có mục đích, có tổ chức của chủ thể quản lý lên
khách thể quản lý bằng việc vận dụng các chức năng và phương tiện quản lý, nhằm
sử dụng có hiệu quả nhất các tiềm năng và cơ hội của tổ chức để đạt được mục tiêu
đề ra.
1.2.2. Quản lí giáo dục
Quản lý GD đảm bảo sự hoạt động của tổ chức trong điều kiện hệ thống GD
và mơi trường có sự biến đổi liên tục, là chuyển hệ thống đến trạng thái mới thích
ứng với hồn cảnh mới.
Tác giả Trần Kiểm đưa ra quan niệm về quản lý vĩ mô trong GD là quản lý một
nền/ hệ thống GD và quản lý vi mô trong GD là quản lý một nhà trường [15.tr36].

Quản lý GD cấp vĩ mô được hiểu là những tác động tự giác (có ý thức, có mục
đích, có kế hoạch, có hệ thống, hợp quy luật) của chủ thể quản lý đến tất cả các mắt
xích của hệ thống (từ cấp cao nhất đến các cơ sở GD là nhà trường) nhằm thực hiện
có chất lượng và hiệu quả mục tiêu GD, đào tạo thế hệ trẻ mà xã hội đặt ra cho
ngành GD [15, tr. 36].
Quản lý GD (cấp vi mô) được hiểu là hệ thống những tác động tự giác (có ý
thức, có mục đích, có kế hoạch, có hệ thống, hợp quy luật) của chủ thể quản lý đến
tập thể GV, công nhân viên, tập thể HS, cha mẹ HS và các lực lượng xã hội trong và
ngồi nhà trường nhằm thực hiện có chất lượng và hiệu quả mục tiêu GD của nhà
trường [15, tr. 37].
Quan niệm trên phù hợp với cách tiếp cận của tổ chức UNESCO cho rằng,
“Quản lý giáo dục là cách thức điều hành hệ thống GD, nhất là cách thức mà chúng
ta áp dụng quyết định sự vận hành của hệ thống GD và tất cả các cấu phần và hoạt


12

động của hệ thống” [27, tr.102].
Đặc trưng của quản lý GD về cơ bản là quản lý con người, nên địi hỏi phải có
tính khoa học và tính nghệ thuật cao. Hiệu quả quản lý GD được đo bằng kết quả
thực hiện các mục tiêu quản lý, trong đó, mục tiêu GD là cơ bản.
Theo tác giả Phạm Minh Hạc: “Quản lý GD là quản lý trường học, thực hiện
đường lối GD của Đảng trong phạm vi trách nhiệm của mình, tức là đưa nhà trường
vận hành theo nguyên lý GD để tiến tới mục tiêu GD, mục tiêu đào tạo đối với
ngành GD, với thế hệ trẻ và từng HS” [18, tr.4].
Tác giả Đặng quốc Bảo cho rằng, “Quản lý GD là hoạt động điều hành, phối
hợp với các lực lượng xã hội nhằm đẩy mạnh công tác đào tạo thế hệ trẻ theo yêu
cầu phát triển của xã hội... Quản lý GD còn được hiểu là sự điều hành hệ thống GD
quốc dân, các trường trong hệ thống GD quốc dân” [1, tr.101].
Như vậy, có thể hiểu: Quản lý GD là một hiện tượng xã hội, là hệ thống

những tác động có mục đích, có ý thức, có kế hoạch phù hợp với quy luật của chủ
thể quản lý đến khách thể quản lý nhằm đạt được các mục tiêu đề ra, ở các cấp độ
(vĩ mô và vi mô) quản lý GD đều hướng tới hiệu quả cao nhất cả về chất lượng và
số lượng.
Hay nói cách khác, quản lý GD là hoạt động tự giác của chủ thể quản lý nhằm
huy động, tổ chức, điều phối, điều chỉnh, giám sát... một cách có hiệu quả các
nguồn lực GD (nhân lực, vật lực, tài lực) phục vụ cho mục tiêu phát triển GD, đáp
ứng yêu cầu phát triển kinh tế- xã hội [15, tr.37].
1.2.3. Sức khoẻ sinh sản, sức khỏe sinh sản vị thành niên
1.2.3.1. Vị thành niên
Theo quy ước của Tổ chức Y tế thế giới (WHO): Vị thành niên là người chưa
trưởng thành độ tuổi 10 - 19.
Sự qui định tuổi VTN trên được phân thành các giai đoạn nhỏ như sau:
- Giai đoạn đầu VTN (10 - 13).
- Giai đoạn giữa VTN (14 - 16).
- Giai đoạn cuối VTN (17 - 19).


13

Sự phân chia các giai đoạn như vậy là dựa trên sự phát triển thể chất, tâm lý xã
hội của từng thời kỳ. Song sự phân chia đó chỉ là tương đối, vì trong thực tế, yếu tố
tâm sinh lý, phát triển thể lực của mỗi người lại có những đặc điểm riêng biệt khơng
hồn tồn theo đúng như sự phân định. Tuy nhiên, luật hơn nhân và gia đình ở các
nước khác nhau có qui định về tuổi VTN khác nhau.
Theo từ điển Tiếng Việt ( NXB khoa học và xã hội - Hà Nội 1997) thì “VTN
là những người chưa đến tuổi trưởng thành để chịu trách nhiệm về những hành động
của mình”. Trong các văn bản hiện hành của nhà nước ta như Bộ luật dân sự, Bộ
luật hình sự, Bộ luật lao động có sử dụng thuật ngữ “Người chưa thành niên” và có
quy định rõ hơn về độ tuổi, mức độ mà người “Chưa thành niên” phải chịu trách

nhiệm đối với hành động của mình.
VTN là thời kỳ chuyển tiếp từ trẻ con thành người lớn, được đánh dấu bằng
những thay đổi đan xen lẫn nhau về thể chất, trí tuệ và mối quan hệ xã hội chuyển
từ giản đơn sang phức tạp [13, tr.48].
Căn cứ vào tình hình thực tế của Việt Nam, năm 1995, Vụ Bảo vệ sức khỏe
bà mẹ, trẻ em và KHHGĐ – Bộ Y tế đã đưa ra đề nghị xếp tuổi VTN thành hai
nhóm tuổi:
- Nhóm 10-14 tuổi [28, tr.7].
- Nhóm 15-19 tuổi [28, tr.7].
Khái niệm VTN được thừa nhận về mặt văn hóa xã hội là một giai đoạn
chuyển tiếp giữa tuổi ấu thơ và tuổi trưởng thành. Con người trong độ tuổi này thay
đổi rất nhiều, tuỳ theo các dân tộc và nhiều yếu tố khác nữa.
Độ tuổi 15-19 là giai đoạn thay đổi một cách toàn diện cả về tâm sinh lý và
tình cảm của một cá nhân, sự xuất hiện tình yêu, tình dục ở VTN Việt Nam hiện nay
chủ yếu rơi vào nhóm tuổi 15-19.
Sự thay đổi đặc trưng nhất của VTN nam và nữ ở tuổi dậy thì là thời kỳ khơng
cịn là trẻ con nhưng vẫn chưa là người lớn. Đây là thời kỳ mà bất cứ một thiếu niên
nào cũng phải trải qua những biến đổi quan trọng về cơ thể cũng như về tâm hồn.


14

1.2.3.2. Sức khỏe sinh sản
Tại hội nghị Quốc tế về dân số và phát triển họp tại Cairô (Ai Cập) tháng 9
năm 1994 đã đưa ra khái niệm về SKSS:
“SKSS là tình trạng thoải mái hồn tồn về thể chất, tinh thần và xã hội, không
chỉ đơn thuần là không có bệnh tật hoặc tàn phế của hệ thống sinh sản. Điều này
cũng hàm ý là mọi người, kể cả nam và nữ, đều có quyền được nhận thơng tin và
tiếp cận các dịch vụ chăm sóc sức khoẻ, các biện pháp KHHGĐ an tồn, có hiệu
quả và chấp nhận được theo sự lựa chọn của mình, bảo đảm cho người phụ nữ trải

qua quá trình thai nghén và sinh đẻ an toàn, tạo cho các vợ chồng cơ may tốt nhất
để sinh được đứa con lành mạnh” [29, tr.3].
Có nghĩa là SKSS là trạng thái khỏe mạnh hoàn toàn hài hòa về mặt xã hội,
tinh thần và thể chất trong tất cả những vấn đề có liên quan đến hệ thống sinh sản,
chức năng và quá trình hoạt động của nó. Điều này cũng có nghĩa là quyền của phụ
nữ và nam giới được thông tin và tiếp cận các biện pháp KHHGĐ an toàn, hiệu quả,
dễ dàng và thích hợp nhằm điều hịa việc sinh đẻ khơng trái với pháp luật; quyền
được tiếp cận với các dịch vụ chăm sóc sức khỏe thích hợp giúp cho người phụ nữ
trải qua thai nghén và sinh đẻ an toàn, và tạo cho các cặp vợ chồng những điều kiện
tốt nhất để có đứa con khỏe mạnh.
Như vậy, SKSS là: cả nam lẫn nữ đều có quyền biết và tiếp cận với các vấn đề
về SKSS, mọi người đều có thể thỏa mãn cuộc sống tình dục của mình một cách an
toàn, đồng thời có thể chủ động sinh đẻ và tự do quyết định việc có con khi nào,
khoảng cách giữa hai lần sinh ra sao.
1.2.3.3. Sức khỏe sinh sản vị thành niên
Hội nghị Quốc tế về Dân số và phát triển ở Cairô (Ai Cập) đã đưa ra khái
niệm về SKSS:
SKSS là tình trạng thoải mái hồn tồn về thể chất, tinh thần và xã hội,
không chỉ đơn thuần là khơng có bệnh tật hoặc tàn phế của hệ thống sinh sản. Điều
này cũng hàm ý là mọi người, kể cả nam và nữ, đều có quyền được nhận thơng tin
và tiếp cận các dịch vụ chăm sóc sức khỏe, các biện pháp KHHGĐ an tồn, có hiệu


15

quả và chấp nhận được theo sự lựa chọn của mình, bảo đảm cho người phụ nữa trãi
qua quá trình thai nghén và sinh đẻ an toàn, tạo cho các vợ chồng cơ may tốt nhất
để sinh được đứa con lành mạnh [29, tr.3].
SKSS VTN là những nội dung nói chung của SKSS nhưng được ứng dụng phù
hợp cho lứa tuổi VTN [14, tr.9].

SKSS VTN là những nội dung về SKSS liên quan, tương ứng với lứa tuổi
VTN, đó là tình trạng khỏe mạnh của VTN về thể chất, tinh thần và xã hội trong
mọi vấn đề liên quan đến hệ thống sinh sản, chức năng và quá trình hoạt động
của nó.
Tất cả những vấn đề về sức khỏe trong thời kỳ VTN đều liên quan đến sự phát
triển tự nhiên của thể chất và tinh thần, về giới tính, nó tác động một cách cực kỳ
sâu sắc và mạnh mẽ tới sự phát triển của cá thể trong giai đoạn tiếp theo, hình thành
một con người hồn thiện với các chức năng đầy đủ, đặc biệt là các chức năng về
tình dục, sinh sản và các lĩnh vực tâm sinh lý.
1.2.4. Quản lý giáo dục sức khỏe sinh sản
1.2.4.1. Giáo dục sức khỏe sinh sản
Trong nhà trường , mục tiêu và nội dung cụ thể của chương trình GDSKSS
VTN phải dựa trên cơ sở HS hiểu biết và có những quyết định đúng đắn đối với
những vấn đề này.
GD SKSS cho VTN có ý nghĩa rất quan trọng trong việc hình thành và phát
triển nhân cách cơng dân, đảm bảo cho việc thực hiện mục tiêu chính sách DS quốc
gia đạt được một cách bền vững.
Quá trình GD SKSS cho VTN là trang bị cho các em những kiến thức về
SKSS, những sự thay đổi về chất cũng như tinh thần, cảm xúc của tuổi dậy thì cho
cả hai đối tượng nam và nữ về các biện pháp tránh thai. Những nguyên nhân và hậu
quả khi mắc các BLNQĐTD; bệnh nhiễm kh̉n đường sinh sản (BNKĐSS); cách
phịng ngừa. Thơng qua nhận thức đúng đắn về các vấn đề trên giúp HS nhận thức
đúng đắn và có thái độ đúng mực đến những vấn đề liên quan đến SKSS, từ đó hình
thành cho HS có được những hành vi đúng đắn về đạo đức, lối sống, giúp các em


16

xử lý các vấn đề tình bạn, tình u, hơn nhân, chủ động có trách nhiệm trong quan
hệ lành mạnh, an tồn với bạn khác giới, hình thành kỹ năng sống, kỹ năng giao

tiếp, kỹ năng ứng xử trong gia đình, nhà trường, xã hội và bạn bè. VTN cần được
định hướng để có nhận thức đúng đắn về tình bạn, tình u và tình dục để từ đó
hình thành lối sống lành mạnh, có văn hóa.
Việc GD SKSS cho trẻ giai đoạn VTN có rất nhiều thuận lợi và sẽ đạt hiệu
quả cao nhất so với các giai đoạn khác của cuộc đời vì cơ thể đang phát triển, nhất
là thời kỳ dậy thì (giai đoạn giữa của VTN) diễn ra sự phát triển hết sức mạnh mẽ
và hoàn thiện thể chất [31, tr. 177].
Công tác GD SKSS VTN là một bộ phận quan trọng trong chiến lược về chăm
sóc SKSS VTN và có mối quan hệ chặt chẽ với chiến lược tạo nguồn nhân lực của
đất nước. Nói một cách khái quát, vấn đề này thuộc phạm trù chiến lược về con
người, vì vậy, cơng tác GD SKSS VTN có ý nghĩa và tầm quan trọng đặc biệt.
1.2.4.2. Quản lý giáo dục SKSS cho HS THCS
Quản lý GD SKSS VTN là q trình tác động có kế hoạch, có tổ chức, có mục
đích của chủ thể quản lý với khách thể quản lý nhằm đẩy mạnh công tác GD SKSS
đạt hiệu quả cao nhất theo mục tiêu mà tổ chức đặt ra.
1.3. Đặc điểm tâm sinh lý của HS THCS và GD SKSS
1.3.1. Sự phát triển về thể chất
HS tại các trường THCS nằm trong độ tuổi ( 12-15). Tuổi VTN, trong đó có
một giai đoạn gọi là tuổi dậy thì. Tuổi dậy thì là thời kỳ xảy ra những biến động
mãnh liệt về tâm lý của mỗi con người, cũng là thời kỳ then chốt của phát triển tâm
lý. Đương nhiên, quá trình phát triển tâm lý có quan hệ chặt chẽ với điều kiện kinh tế
xã hội, văn hóa mà các em đang sống và cũng liên quan đến quá trình phát dục, thành
thục về sinh lý. Bước vào năm đầu của tuổi này, số đông HS chuyển từ tiểu học lên
trung học, các em phải đối phó với những thay đổi to lớn trong mơi trường học tập và
rất nhiều những yêu cầu mới của xã hội. Con người đứng trước những thay đổi sinh
lý hình thái rất đột ngột, như phát triển chiều cao, sức mạnh cơ bắp, kinh nguyệt, dị
tinh, vỡ giọng…,tất nhiên điều đó sẽ dẫn đến hàng loạt biến động về tâm lý.


17


Ở các em gái tuổi dậy thì thường đến sớm hơn. Biểu hiện quan trọng của giai
đoạn này là các em bắt đầu có kinh nguyệt, có nghĩa là đã có hiện tượng rụng trứng
và nếu sinh hoạt tình dục với người khác giới khơng được bảo vệ sẽ có thai, sinh
con. Ở các em trai tuổi dậy thì thường bắt đầu từ 13 đến 16 tuổi ( muộn hơn nữ giới)
nhưng hiện nay vẫn cịn có những em dậy thì sớm hơn. Biểu hiện của dậy thì là hiện
tượng xuất tinh và nếu sinh hoạt tình dục khơng được bảo vệ thì cũng có thể làm
cho nữ giới mang thai, sinh con. [2, tr.29].
1.3.2. Những biến đổi về tâm sinh lý ở tuổi VTN
Cùng với những biến đổi về cơ thể ở tuổi dậy thì, đời sống tâm lý của các em
Cũng có những thay đổi sâu sắc. Các em dần dần tự chủ về tâm lý và tình cảm, tìm
hiểu và có cảm xúc về giới tính, đồng thời suy nghĩ về vai trò tương lai của các em
trong xã hội. Qúa trình này diễn ra dần dần , đem đến nhiều cảm xúc đôi khi không
ổn định. Một số em cảm thấy thất vọng, vỡ mộng và bị tổn thương, nhưng trong
chốc lát lại có thể trở nên sơi nổi, lạc quan.
Ý thức tự trọng, tính độc lập trong suy nghĩ và hành động: Ở tuổi này, các
em có xu hướng tách ra, ít phụ thuộc vào cha mẹ. Các em có tâm lý “ muốn làm
người lớn, coi mình là người lớn”; các em khơng cịn đòi đi chơi cùng cha mẹ,
muốn tự chọn bạn, ăn mặc theo ý thích. Các em muốn độc lập trong suy nghĩ và
hành động nên nhiều khi chống đối lại cha mẹ, và chuyển từ sinh hoạt gia đình
sang sinh hoạt bạn bè, ngưỡng mộ thần tượng [2, tr.39].
Trong lĩnh vực liên quan đến SKSS VTN, VTN là lứa tuổi dễ có nguy cơ
phát triển tuy khơng lớn nhưng nghiêm trọng và đáng lo ngại.
Những biến đổi thể chất ở thời điểm này là một “giai đoạn khổ ải”. Cơ thể
thay đổi, VTN phải chịu nhiều áp lực có tính xung năng – nhất là xung năng tình
dục. Chính vì vậy nhiều trẻ VTN rơi vào tình trạng hoang mang, dao động, mất
phương hướng, có thể có những rối nhiễu tâm lý: Hoài nghi, coi thường các giá
trị. Trẻ muốn phá vỡ những ước muốn bỏ tuổi ấu thơ để tạo nên một phương
thức quan hệ mới với xã hội. Bị lạm dụng tình dục, nhiều trẻ VTN đã có quan hệ
tình dục, VTN ít được tiếp cận với những phương diện bảo vệ họ chống lại



18

những vấn đề về tình dục. Giải pháp cho việc phòng ngừa là cung cấp cho VTN
những kiến thức về SKSS và tình dục an tồn.
Sự mất cân bằng tạm thời trong tâm lý và tình cảm:
Do sự phát triển cơ thể đã tạo ra sự mất cân bằng trong tâm lý, tình cảm của
các em. Các quá trình hưng phấn của võ não mạnh chiếm ưu thế, các quá trình ức
chế có điều kiện bị suy giảm, do đó, có nhiều em khơng làm chủ được cảm xúc
của mình, không kiềm chế được các xúc động mạnh hưng phấn của võ não lại
mang tính chất lan tỏa nhiều hơn, nên các em thường có những cử chỉ, tác động
phụ của tay, chân, đầu, mình mỗi khi có một phản ứng nào đó, nhất là các em trai
[20, tr.41].
Những sự mất cân bằng trên là điển hình cho tuổi VTN, nhưng cũng chỉ tạm
thời và sẽ theo đi trong sự trưởng thành dần lên của các em. Tuy nhiên, một số hành
vi và sự lựa chọn của tuổi VTN có thể gây hậu quả suốt đời nếu các em thiếu sự
hướng dẫn và hỗ trợ của người lớn, đồng thời thiếu kiến thức và kỹ năng tự bảo vệ.
Tự ý thức và đánh giá về bản thân:
Do muốn làm người lớn và muốn được đối xử như người lớn, nên VTN
thường có những hành vi bắt chước người lớn, dễ tự ái dễ bị kích động . Các em
có khuynh hướng muốn đi sâu vào bản thân mình, đồng thời lại muốn tỏa ra ngoài
xã hội. VTN thường đặt ra câu hỏi: Ta là ai? Ta có thể làm được cái gì? Các em
bắt đầu chú ý đến hình thức bên ngồi, có những lúc ngắm nghía hồi lâu qua
gương.. Lịng tự ái thường khơng chỉ giới hạn ở sự tơn sùng bản thân mà cịn biểu
hiện ở tính ganh đua, hiếu thắng trong giao tiếp với người khác ( như trong thi đấu
thể thao, văn nghệ..). Các em thường bận tâm phải làm thế nào để mọi người để ý
đến mình . Vì vậy, nếu là nữ sẽ có biểu hiện thích làm dáng, trang điểm; là con trai
thích tỏ ra dáng “ mày râu” hay khoe khoan, ăn nói kiểu khác đời [ 2, tr.42].
Đối với HS THCS, lứa tuổi thích làm người lớn những thay đổi thể chất và

biến đổi tâm sinh lý trẻ con không ra trẻ con, người lớn không ra người lớn không
ra người lớn là những dấu hiệu rõ rệt nhất. VTN nhìn chung là thế hệ cơng dân khỏe
mạnh, có những cơ hội và sự lựa chọn ngày càng cao. Vì vậy, họ là một lực


19

lượng mạnh mẽ để tạo ra sự thay đổi. Tuy nhiên, bên cạnh đó một số lớn VTN
vẫn bị đe dọa bởi những nguy cơ về phương diện sức khỏe và sự phát triển để
hoàn thiện bản thân.
Tuổi VTN là giai đoạn quan trọng để hình thành tính cách và bản sắc. Đây là
giai đoạn nhiều thanh thiếu niên tham gia vào cuộc sống xã hội và có đóng góp dưới
nhiều hình thức khác nhau với sự chín muồi cả về thể chất và tâm lý. Vì vậy, việc
GDSKSS cho HS THCS có ý nghĩa rất quan trọng, tạo suy nghĩ chín chắn cho các
em trước những cám dỗ khơng lành mạnh trong xá hội ngày nay.
1.4. Lý luận về GD SKSS cho HS THCS
1.4.1. Mục đích của GD SKSS cho HS THCS
GD SKSS cho HS THCS nhằm trang bị cho các em những kiến thức, hình
thành nên thái độ, hành vi đúng đắn trong các mối quan hệ xã hội, với bạn bè khác
giới; những kiến thức về phòng tránh bệnh tật thơng thường; các biện pháp tránh
thai, phịng chống nhiễm HIV/AIDS và các BLNQĐTD. Đồng thời, giúp HS vượt
qua những khó khăn của tuổi VTN được an tồn, xây dựng cuộc sống lành mạnh,
bắt đầu hình thành sự tự ý thức về thế giới quan, sự chuẩn bị và sự lựa chọn nghề
nghiệp để bước vào tương lai.
GDSKSS cho lứa tuổi VTN là một bộ phận quan trọng trong chiến lược chăm
sóc SKSS VTN. Mục đích của việc GDSKSS cho HS nhằm trang bị cho các em
những kiến thức, hình thành những thái độ hành vi đúng đắn trong các mối quan hệ
với bạn bè khác giới; những kiến thức về phịng tránh bệnh tật thơng thường; các
biện pháp tránh thai, phòng chống nhiễm HIV/AIDS và các BLNQĐTD. Đồng thời,
giúp HS vượt qua những khó khăn của tuổi VTN để an toàn xây dựng cuộc sống

lành mạnh, bắt đầu hình thành sự tự ý thức về thế giới quan, sự chuẩn bị và sự lựa
chọn nghề nghiệp để bước vào tương lai.
1.4.2. Nội dung chủ yếu của GD SKSS cho HS THCS
1.4.2.1. Giáo dục tình dục học
GD tình dục bao gồm việc GD về mọi khía cạnh của hoạt động tình dục, gồm
cả thơng tin về KHHGĐ, khả năng sinh sản, tránh thai và thông tin về mọi khía


20

cạnh đời sống tình dục của một cá nhân gồm: khuynh hướng tình dục, cảm xúc tình
dục, thơng tin, hẹn hò, các mối quan hệ, các bệnh lây truyền qua đường tình dục và
cách phịng tránh, các biện pháp kiểm sốt sinh sản.
GD tình dục nhằm giúp VTN chủ động trì hỗn quan hệ tình dục hoặc nếu có
quan hệ tình dục thì cũng quan hệ một cách an tồn và có trách nhiệm.
GD tình dục khơng làm cho VTN có hoạt động tình dục sớm hay mạnh mẽ
hơn. Theo WHO, dựa trên 1050 bài báo khoa học viết về GD giới tính đã khẳng
định điều này [21].
Các chương trình GD SKSS VTN sẽ giúp các em HS hình thành kỹ năng
truyền thơng; thảo luận về áp lực văn hố - xã hội, tự trang bị kiến thức về tình dục.
Một khi các em đã có những kiến thức khoa học nhất định trong quan hệ tình dục,
tự các em sẽ biết giữ gìn SKSS, phịng BLNQĐTD.
Phịng ngừa nạo phá thai và giải quyết những hậu quả nạo phá thai:
Nạo phá thai đang diễn ra rất phổ biến trên thế giới nói chung và ở Việt Nam
nói riêng. Theo thống kê của tổ chức Y tế thế giới, phá thai đứng vị trí thứ ba trong
số các nguyên nhân gây tử vong cho phụ nữ mang thai và Việt Nam là nước có tỷ
lệ phá thai cao. Phá thai tiềm tàng rất nhiều nguy cơ, những tai biến và ảnh hưởng
xấu đến SKSS như: rách buồng tử cung, sót nhau, thủng tử cung, dính vịi trứng,
nhiễm trùng... có trường hợp có thể bị tử vong.
Cũng cần khẳng định lại rằng hút điều hịa kinh nguyệt hoặc nạo phá thai

khơng phải là một biện pháp tránh thai, mà chỉ là một giải pháp thụ động nhằm giải
quyết những thai nghén ngoài ý muốn và nhiều khi đã dẫn đến tai biến do “nạo phá
thai khơng an tồn”.
Việc sử dụng các biện pháp tránh thai, nạo hút thai an toàn cũng như hướng
dẫn lựa chọn thời điểm sinh nở và khoảng cách sinh nở là một trong những biện
pháp quan trọng nhất để giữ gìn sức khỏe, giảm tử vong cho bà mẹ và trẻ em.
Phòng tránh nhiễm khuẩn sinh sản, các bệnh lây truyền qua đường tình dục
Các bệnh nhiễm khuẩn đường sinh sản: BNKĐSS là bệnh thường gặp nhất ở
phụ nữ, đặc biệt là ở những nước chậm phát triển, không những ảnh hưởng xấu đến


21

sức khoẻ bản thân người phụ nữ mà còn để lại những hậu quả xấu đến con cái họ.
Các nhiễm khuẩn đường sinh sản tác động chủ yếu vào các cơ quan sinh sản
và sinh dục. Bao gồm các bệnh lây qua đường tình dục và các nhiễm khuẩn đường
sinh sản do sự phát triển quá mức của các vi kh̉n bình thường có trong âm đạo,
như viêm âm đạo do trực khuẩn và viêm âm đạo do nấm Candida.
Hầu hết các bệnh lây qua đường tình dục được truyền từ người này sang người
khác qua giao hợp bằng đường hậu môn, miệng và âm đạo; một số bệnh lây qua đường
tình dục có thể truyền qua đường hơn (Herpes, giang mai). Một số trường hợp có thể
lây bệnh qua đường tiêm hoặc truyền máu nếu máu bị nhiễm bệnh (viêm gan B, HIV,
giang mai), lây trong lúc mang thai (HIV, giang mai), lây trong sinh nở (Chlamydia,
sùi mào gà, lậu, viêm gan B, Herpes, HIV) hoặc lây khi cho con bú (HIV).
Làm mẹ an tồn và chăm sóc bà mẹ sau khi sinh
Làm mẹ an tồn và chăm sóc bà mẹ sau khi sinh là chăm sóc sức khỏe cho
bà mẹ trước khi mang thai, trong quá trình mang thai và giai đoạn hậu sản. Như
vậy làm mẹ an toàn là những biện pháp được áp dụng để đảm bảo sự an toàn cho
cả người mẹ và thai nhi (cũng như trẻ sơ sinh). Mục đích là giảm tử vong và
bệnh tật ngay từ khi người phụ nữ trước khi mang thai, mang thai và suốt trong

thời kỳ hậu sản.
Chăm sóc bà mẹ trước khi mang thai: Kiểm tra sức khỏe bà mẹ trước khi
mang thai, để tìm các bệnh lý mạn tính, tiên lượng bệnh lý đó sẽ thay đổi thế nào
khi mang thai, ảnh hưởng ra sao đến thai nhi để đề ra các biện pháp giúp nâng cao
sức khoẻ trước khi mang thai. Kiểm tra khả năng mang thai, khả năng có con bình
thường, dự phịng bất thường thai nhi.
Chăm sóc bà mẹ khi mang thai: Khám thai, tiêm phòng, theo dõi cân nặng;
theo dõi sự phát triển của thai nhi, chế độ lao động và sinh hoạt khi mang thai.
Chăm sóc bà mẹ sau khi sinh: nuôi con bằng sữa mẹ, chế độ dinh dưỡng của
mẹ và con; tiêm chủng cho trẻ; vận động sau khi sinh và những dấu hiệu nguy hiểm
sau khi sinh.


22

Kế hoạch hóa gia đình
KHHGĐ là sự cố gắng có ý thức của một cặp vợ chồng (hoặc một cá nhân)
nhằm tránh những trường hợp có thai ngồi ý muốn, thực hiện quy mơ gia đình từ
một đến hai con, khoảng cách giữa các lần sinh từ 3 đến 5 năm, định thời điểm sinh
con cho phù hợp với tuổi bố mẹ, có điều kiện để gia đình hạnh phúc, văn minh, góp
phần làm giảm tác động đến mơi trường và phúc lợi xã hội.
Thông tin – Giáo dục – Truyền thông về SKSS
Thông tin - Giáo dục - Truyền thơng (TGT) về SKSS: có vai trị hết sức
quan trọng, giúp cho VTN nâng cao trình độ và hiểu biết do thiếu hụt về kiến
thức SKSS, giúp họ thay đổi về nhận thức, hành vi và tạo được kỹ năng sống để
thực hiện tốt những yêu cầu về về chăm sóc SKSS. Cơng tác TGT trong chăm
sóc SKSS là cung cấp những thông tin, tuyên truyền, thuyết phục, tư vấn cho
mọi người làm thế nào để thực hiện mục tiêu, chủ trương của chính phủ, của Bộ
Y tế đề ra, nhằm nâng cao sức khoẻ và chất lượng cuộc sống [13].
1.4.3. Các phương pháp GD SKSS cho HS THCS

Các phương pháp GD SKSS cho HS là cách thức tác động của nhà GD nhằm
đưa nội dung SKSS đến HS, thực hiện trong sự thống nhất nhằm đạt được mục đích
đề ra.
GD SKSS có thể dùng 3 nhóm phương pháp sau:
* Nhóm các phương pháp hình thành ý thức và tình cảm cá nhân.
- Phương pháp đàm thoại: là phương pháp GV sử dụng các đề tài, các chủ đề
có liên quan đến nội dung SKSS đặt hệ thống câu hỏi để HS trả lời nhằm gợi mở
cho HS sáng tỏ những vấn đề mới; tự khai phá những tri thức mới bằng sự tái hiện
những kiến thức đã học hoặc từ những kinh nghiệm đã tích lũy được trong cuộc
sống, nhằm giúp cho HS nắm được các khái niệm về kiến thức SKSS và hình thành
thái độ hành vi đúng đắn trong lĩnh vực chăm sóc SKSS.
- Phương pháp kể chuyện: Là phương pháp sử dụng lời nói, điệu bộ, cử chỉ và
nét mặt để kể lại một câu chuyện liên quan đến GD SKSS VTN. Qua nội dung câu
chuyện có thể hình thành và phát triển cho HS những tư duy tích cực và hình thành


×