KÍNH CHÀO
Q THẦY CƠ VÀ CÁC BẠN HỌC SINH
NHỮNG THÀNH TỰU VĂN
HÓA VIỆT NAM TỪ THẾ KỈ X
ĐẾN NỬA ĐẦU THẾ KỈ XIX
TÔN GIÁO
TƠN GIÁO
Nho giáo ( 儒教 ), cịn gọi là đạo Nho hay đạo Khổng là
một hệ thống đạo đức, triết học xã hội, triết lý giáo
dục và triết học chính trị do Khổng Tử đề xướng và được
các môn đồ của ông phát triển với mục đích xây dựng
một xã hội thịnh trị. Nho giáo rất có ảnh hưởng tại ở các
nước châu Á là Trung Quốc, Đài Loan, Nhật Bản, Triều
Tiên, Hàn Quốc và Việt Nam. Những người thực hành
theo các tín điều của Nho giáo được gọi là các nhà
Nho, Nho sĩ hay Nho sinh
TƠN GIÁO
Phật giáo (chữ Hán: 佛教 ) là một loại tơn giáo bao gồm
một loạt các truyền thống, tín ngưỡng và phương pháp tu
tập dựa trên lời dạy của một nhân vật lịch sử là Tất-đạt-đa
Cồ-đàm ( 悉達多瞿曇 ). Tất-đạt-đa Cồ-đàm thường được
gọi là Phật hay Bụt. Theo sách vở Phật giáo cũng như các
tài liệu khảo cổ đã chứng minh, Tất-đạt-đa Cồ-đàm đã
sống và giảng đạo ở vùng đông Ấn Độ từ khoảng thế kỉ
thứ 6 TCN đến thế kỉ thứ 4 TCN.
TỪ THẾ KỈ X-XV
Bước sang thời độc lập, Nho giáo, Phật giáo, Đạo
giáo vốn được du nhập vào nước ta từ thời Bắc thuộc,
có điều kiện phát triển
Nho giáo dần dần trở thành hệ tư tưởng chính của giai
cấp phong kiến thống trị, được đặt thành nguyên tắc
cơ bản trong các mối quan hệ và chi phối nội dung
giáo dục, thi cử.
Đạo phật cịn giữ một vị trí đặc biệt quan trọng và rất
phổ biến.
Đạo giáo tuy khơng phổ cập nhưng hịa lẫn với các tín
ngưỡng dân gian.
Nhưng vào cuối thế kỉ XVI, Phật giáo và Đạo giáo suy
dần. Thời Lê sơ, Nho giáo được nâng lên địa vị độc
tơn và vị trí đó được duy trì cho đến thế kỉ XIX.
TỪ THẾ KỈ XVI-XVIII
Nho giáo từng bước suy yếu. Phật giáo, Đạo giáo có
điều kiện khơi phục vị trí của mình nhưng khơng
được như thời Lý, Trần.
Thiên chúa giáo bắt đầu xuất hiện và lan truyền ở
nước ta
Thế kỉ XVII, chữ Quốc ngữ được sáng tạo nhưng
không được truyền bá rộng rãi
NỬA ĐẦU THẾ KỈ XIX
Nhà Nguyễn chủ trương độc tôn Nho giáo, hạn chế
hoạt động của các tôn giáo, đặc biệt là Thiên chúa
giáo. Tín ngưỡng dân gian tiếp tục phát triển
GIáo dục Nho giáo được củng cố. Năm 1807, đã diễn
ra khoa thi Hương đầu tiên dưới triều Nguyễn và năm
1822, khoa thi Hội đầu tiên được tổ chức nhưng số
người đi thi và đỗ đạt không nhiều so với các thế kỉ
trước.
GIÁO DỤC
THẾ KỈ X - XV
Hình thức thi cử:
+) Thời Lê sơ, quy chế thi cử được ban hành rõ ràng:
cứ 3 năm một kì thi Hội chọn Tiến sĩ.
+) Riêng thời vua Lê Thánh Tông (1460-1497), đã tổ
chức 12 khoa thi Hội.
GIáo dục Đại Việt từng bước được hoàn thiện và phát
triển, trở thành nguồn đào tạo, quan chức và người tài
cho đất nước
THẾ KỈ X - XV
Văn Miếu - Quốc Tử Giám là quần thể di tích đa dạng và
phong phú hàng đầu của thành phố Hà Nội, nằm ở phía
Nam kinh thành Thăng Long. Văn Miếu được xây dựng từ
năm 1070 tức năm Thần Vũ thứ hai đời Lý Thánh
Tông. Năm 1076, Lý Nhân Tông cho lập trường Quốc Tử
Giám ở bên cạnh Văn Miếu có thể coi đây là trường đại
học đầu tiên ở Việt Nam.
THẾ KỈ X - XV
Giáo dục Đại Việt từng bước được hoàn thiện và phát
triển, trở thành nguồn đào tạo quan chức và người tài
cho đất nước.
Năm 1484, nhà nước quyết định dựng bia, ghi tên tiến
sĩ. Nhằm:
+) Khuyến khích nhân tài
+) Giúp nhân dân noi gương hiền tài, ngăn ngùa điều ác
+) Làm cho đất nước hưng thịnh, bền vững lâu dài.
THẾ KỈ X - XV
Sách giáo khoa
Chính sách giáo dục
Tứ thư, Ngũ kinh, Bắc sử, Nội dung học tập được
Nam sử và sách của bách quy định chặt chẽ. Mở
nhiều cuộc thi Hội chọn
gia chư tử
người tài
THẾ KỈ X - XV
Tứ thư
Bách gia chư tử
THẾ KỈ XVI - XVIII
Chính sách giáo dục
Sách giáo khoa
Tứ thư, Ngũ kinh,
Ngọc Đường văn
phạm, văn hiến,
thông khảo, văn
tuyển, Cương mục,
Bắc sử.
• Tổ chức đều đặn các kì thi 3 năm 1
lần
• Đưa chữ Nơm vào khoa thi cử và
mở rộng hệ thống trường học đến
địa phương cấp xã
• Dịch sách chữ Hán
NỬA ĐẦU THẾ KỈ XIX
Sách giáo khoa
Chính sách giáo dục
• Sách chuyên đề về Bắc Sử,
• Trường học thời
Nam sử, cổ thi
Nguyễn là nơi học
• Sách người Việt: Nhất thiên
sinh đến học chữ
tư, tam thiên tự, ngũ thiên
Nho và Nho giáo
tự, sơ học vân tân, ấu học
• Chữ
Nơm
phát
ngũ ngơn thi
triển, xuất hiện các
• Sách Trung Quốc: Thiên tự
tác phẩm văn học
văn, hiếu kinh, Minh tâm
chữ Nôm
bảo giám, Minh đạo gia
huấn, tam tự kinh
• Học thêm: Tứ thư, Ngũ kinh
THẾ KỈ XVI - XVIII
Sách giáo khoa trng các khoảng thời
gian có gì giống và khác nhau?
VĂN HỌC
TỪ THẾ KỈ X – XV
Sự phát triển của nên giáo dục đã góp phần tạo nên sự phát
triển của văn học thế kỉ này
Ban đầu văn học mang nặng tư tưởng phật giáo. Từ thời
Trần, văn học dân tộc ngày càng phát triển, đó là khi hàng
loạt những bài thơ, bài hịch bài phú nổi tiếng như: Nam
Quốc sơn hà, Hịch tướng sĩ, Phú sông Bạch Đằng cùng
nhiều những tập thơ Hán ra đời
Vừa thể hiện tài năng văn học vừa toát lên niềm tự
hào dân tộc và lịng u nước
Ở thế kỉ XV, văn học chữ Hán và chữ Nơm đều phát triển
với sự xuất hiện của hàng loạt tập thơ của Nguyễn Trãi, lê
Thánh Tơng, Lý Tử Tấn,.. Có nội dụng ca ngợi đất nước