Tải bản đầy đủ (.pdf) (121 trang)

Chuẩn hóa địa danh việt nam trong xuất bản bản đồ ở nước ta hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.58 MB, 121 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ - HÀNH CHÍNH
QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH

HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN

KIM QUANG MINH

CHUẨN HÓA ĐỊA DANH VIỆT NAM
TRONG XUẤT BẢN BẢN ĐỒ Ở NƯỚC TA HIỆN NAY
Ngành

: Xuất bản

Mã số

: 60.32.04.01

LUẬN VĂN THẠC SĨ XUẤT BẢN

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. Phạm Văn Thấu

HÀ NỘI - 2013


LỜI CẢM ƠN
Trong suốt q trình học tập và hồn thành luận văn này, tôi đã nhận
được sự hướng dẫn, giúp đỡ quý báu của các thầy, cô và các bạn. Với lịng
kính trọng và biết ơn sâu sắc tơi xin được bày tỏ lời cảm ơn chân thành tới:
Ban giám đốc Học viện Báo chí và Tun truyền, Phịng Đào tạo sau


đại học, Khoa Xuất bản đã tạo mọi điều kiện thuận lợi giúp đỡ tơi trong q
trình học tập và hoàn thành luận văn.
Tiến sĩ Phạm Văn Thấu, người thầy kính mến đã hết lịng giúp đỡ, dạy
bảo, động viên và tạo mọi điều kiện thuận lợi cho tơi trong suốt q trình học
tập và hồn thành luận văn tốt nghiệp.
Xin chân thành cảm ơn các thầy cô trong hội đồng chấm luận văn đã
cho tơi những đóng góp q báu để hồn chỉnh luận văn này.


MỤC LỤC
Trang
Danh mục các ký hiệu, các chữ viết tắt
1

MỞ ĐẦU

Chương 1: ĐỊA DANH VÀ VẤN ĐỀ CHUẨN HÓA ĐỊA DANH TRONG
1.1. Một số khái niệm cơ bản
1.2. Các loại địa danh

9
9
16

1.3. Những nguyên tắc cơ bản trong nghiên cứu địa danh
1.4. Về vấn đề chuẩn hóa địa danh trong xuất bản bản đồ

20
27


Chương 2: THỰC TRẠNG SỬ DỤNG ĐỊA DANH Ở VIỆT NAM
2.1. Tình hình sử dụng địa danh nói chung

33
33

2.2. Tình hình sử dụng địa danh trên các bản đồ

42

XUẤT BẢN BẢN ĐỒ

Chương 3: QUY TẮC VÀ QUY TRÌNH CHUẨN HĨA ĐỊA DANH VIỆT
NAM TRONG XUẤT BẢN BẢN ĐỒ

3.1. Những quy tắc chung và riêng trong việc chuẩn hóa địa danh bản
đồ hiện nay
3.2. Quy trình chuẩn hóa địa danh - kèm sơ đồ (phân tích, đánh giá)
3.3. Kết quả cuối cùng của chuẩn hóa địa danh

53
53
59
70

Chương 4: MỘT SỐ GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ VỀ CHUẨN HÓA ĐỊA
DANH TRONG XUẤT BẢN BẢN ĐỒ

71


4.1. Về quản lý nhà nước
4.2. Hoàn thiện quy chuẩn kỹ thuật Quốc gia về chuẩn hóa địa danh
phục vụ cơng tác thành lập bản đồ QCVN37:2011/BTNMT
4.3. Về đầu tư, đào tạo với những cơ chế chính sách hỗ trợ
4.4. Về hợp tác quốc tế
4.5. Ý kiến về tầm nhìn cho chuẩn hóa địa danh

71

KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO

88
91
95

PHỤ LỤC

75
80
84
85


DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CÁC CHỮ VIẾT TẮT
Ký hiệu,

Viết đầy đủ

viết tắt

BTNMT

Bộ Tài nguyên và Môi trường

CSDL

Cơ sở dữ liệu

DMĐD

Danh mục địa danh

LHQ

Liên Hiệp Quốc

Nxb

Nhà xuất bản

QCVN

Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về chuẩn hóa địa danh phục vụ cho
công tác thành lập bản đồ, mã số QCVN 37:2011/BTNMT.

TP.

Thành phố

Tr


Trang

UBND

Ủy ban nhân dân

UNGEGN

WTO

Nhóm chuyên gia về địa danh của Liên Hiệp Quốc
(United nations group of experts on geographical names)
Tổ chức Thương mại Thế giới
(World trade organization)


1

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Hiện nay, địa danh hành chính ở Việt Nam đã được sử dụng thống
nhất trong cả nước theo nghị quyết của Quốc hội và nghị định của Chính phủ
về việc thành lập các đơn vị hành chính. Cịn lại các địa danh khác được sử
dụng rất không thống nhất kể từ địa danh thuần Việt, địa danh Hán Việt, địa
danh ngôn ngữ các dân tộc hay địa danh ngoại lai. Việc không thống nhất trên
có nhiều nguyên nhân trong đó có cả nguyên nhân xã hội và lịch sử lẫn
nguyên nhân ngôn ngữ. Vấn đề đặt ra là: đâu sẽ là địa danh chuẩn và có cơ sở
pháp lý nào để người sử dụng tuân theo. Ở nước ta, điều này còn khá mới mẻ
và xa lạ mặc dù rất quan trọng nhưng lại ít người quan tâm tới.

Trong cuộc sống, việc sử dụng địa danh chưa đúng, chưa chuẩn sẽ có
rất nhiều phức tạp, phiền tối và dễ gây lầm lẫn, sai sót. Q trình chuẩn hóa
địa danh sẽ góp phần làm phong phú và chính xác thêm tiếng Việt, thúc đẩy
phát triển ngơn ngữ góp phần hội nhập quốc tế, xác định thương hiệu hàng
hóa, chủ quyền lãnh thổ, phục vụ các công tác như cứu hộ, cứu nạn…
Địa danh xuất hiện, thay đổi, mất đi hoặc tồn tại đều gắn với những sự
kiện nhất định. Địa danh liên quan đến vấn đề ngơn ngữ, địa lý, lịch sử, văn
hóa, dân tộc, các quá trình phát triển tự nhiên và xã hội, biến động chính trị
thường rất dễ làm thay đổi địa danh. Địa danh do con người đặt ra và gửi gắm
vào đó sự mong muốn, mơ tả đặc điểm… nói chung đều có ý nghĩa xác định
được biểu thị trong ngữ nghĩa.
Địa danh do những dân tộc bản địa đặt ra nên có những cách phát âm
riêng tuỳ thuộc vào ngữ âm. Nếu ghi âm lại không chuẩn dẫn đến sai nghĩa,
thậm chí phản cảm, ảnh hưởng đến những vấn đề lớn như tập qn, phong
tục, tín ngưỡng, tơn giáo. Địa danh cũng chịu ảnh hưởng của sự xâm cư giữa


2

các dân tộc trong tiến trình phát triển. Do đó, có những địa danh quen dùng và
địa danh gốc cần được chuẩn hóa bảo vệ.
Chuẩn hóa địa danh cũng là nhằm xác định tính duy nhất của địa danh do
mỗi địa danh đều được gắn với toạ độ cụ thể. Trong đó, bản đồ là một cơng cụ
rất hữu hiệu cho việc chuẩn hóa địa danh.
Các tài liệu, giáo trình khoa học về địa danh, địa danh học, địa danh bản
đồ học còn chưa đầy đủ và thiếu rất nhiều từ cơ sở lý luận, định nghĩa đến
thực tiễn chuẩn hóa địa danh.
Những mâu thuẫn và tồn tại trong cách gọi tên và viết địa danh hiện nay
là rất nhiều bởi các quy định khơng thống nhất của Văn phịng Quốc hội,
Chính phủ hay trong Từ điển Bách khoa… Đó đều chỉ là các quy định mang

tính tạm thời và có giá trị riêng biệt, chỉ sử dụng trong từng ngành, lĩnh vực
riêng. Nước ta hiện chưa có sự quản lý và chỉ đạo thống nhất về địa danh dẫn
đến việc có những địa danh tưởng chừng rất đơn giản nhưng có thể có nhiều
cách viết và gọi tên khác nhau, cách hiểu và cách đọc cũng khác nhau với một
địa danh. (Ví dụ: Daclac, Đăclăc, Đaklak, hay Dak-lak…).
Vì sử dụng các địa danh khác nhau và chưa thống nhất đó thậm chí ngay
trên một phương tiện, một đơn vị truyền thơng... nên địi hỏi phải hướng tới
việc hình thành một cơ quan chuyên trách về địa danh ở Việt Nam (Ủy ban
Quốc gia về Địa danh) theo thông lệ Quốc tế. Từ đó, việc đánh giá đúng thực
trạng của việc sử dụng địa danh hiện nay và chuẩn hóa địa danh là việc làm
hết sức cần thiết bên cạnh việc xác định lại hệ thống cơ sở lý luận khoa học về
địa danh nói chung và địa danh bản đồ nói riêng.
Thực tế hiện nay nước ta chưa có danh mục địa danh (DMĐD) chính
thức (kết quả cuối cùng của chuẩn hóa) để cơng bố và trình nộp cho LHQ,
nên những nghiên cứu đóng góp cho việc chuẩn hóa địa danh là hết sức cần
thiết, mang tính thời sự cao xuất phát từ nhu cầu thực tiễn của Việt Nam.


3

Việc chọn đề tài này là phù hợp với chuyên môn của chúng tôi đã được
đào tạo là kỹ sư bản đồ và hiện đang phụ trách quản lý tại Nhà xuất bản Tài
Nguyên Môi trường và Bản đồ Việt Nam.
Đề tài phù hợp với khả năng chuyên môn của bản thân (Về bản đồ học,
về ngôn ngữ, khả năng hợp tác với các chuyên gia trong lĩnh vực).
2. Tình hình nghiên cứu
Hiện nay, nước ta chưa có cơ quan quản lý chung về địa danh cấp Quốc
gia cho nên mỗi bộ, ngành đều làm công tác địa danh riêng để phục vụ mục
đích riêng, từ đó dẫn đến tồn tại các quy định, chuẩn riêng.
Các nhà nghiên cứu địa danh và ngơn ngữ cũng đã có nhiều cơng trình

nghiên cứu được cơng bố rộng rãi, điển hình như:
- “Các nước trên thế giới”, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1990.
- “Địa danh nước ngoài” Nguyễn Văn Khang và Nguyễn Trung Thuần
Nxb Văn hóa Thơng tin, Hà Nội, 1995.
- “Sổ tay địa danh nước ngoài”, Nguyễn Dược, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 1998.
- “Sổ tay địa danh Việt Nam”, Đinh Xuân Vịnh, Nxb Đại học Quốc gia,
Hà Nội, 1996.
- “Lược khảo nguồn gốc địa danh Nam Bộ”, Nxb TP. Hồ Chí Minh.
- “Khảo cứu ngơn ngữ các nhóm dân tộc Việt Nam”, Trần Chí Dõi, Nxb
Đại học Quốc gia, Hà Nội, 1999.
- “Từ điển bách khoa nhân danh - địa danh Anh - Việt”, Nxb Văn hóa
Thơng tin, Hà Nội, 2000.
- “Việt Nam những thay đổi địa danh và địa giới hành chính (1945 2002)”, Nguyễn Quang Ân, Nxb Thơng tin, Hà Nội, 2003.
- Báo cáo kết quả đề tài nghiên cứu “Xây dựng cơ sở chọn và ghi địa
danh cho bản đồ địa hình Việt Nam”, Tổng cục Địa chính, 1994.


4

- Báo cáo kết quả đề tài nghiên cứu “Phiên âm địa danh dung cho Atlas
và bản đồ tỷ lệ nhỏ”, Viện Nghiên cứu Địa chính, Tổng cục Địa chính, 1995.
- “Tiến tới chuẩn hóa việc viết địa danh của các dân tộc thiểu số trên các tài
liệu Việt Nam”, Tóm tắt các nghiên cứu của Hội ngơn ngữ Việt Nam, 2001.
- “Xuất bản bản đồ ở Việt Nam - Thực trạng và giải pháp", Biện Thị
Lan, Luận văn thạc sĩ chuyên ngành Xuất bản, Học viện Báo chí và Tuyên
truyền, 2011.
- “Quản lý nhà nước về hoạt động xuất bản bản đồ", Đỗ Thị Phương
Hoa, Luận văn thạc sĩ chuyên ngành Xuất bản, Học viện Báo chí và Tuyên
truyền, 2012.
- Quy chuẩn kỹ thuật Quốc gia về chuẩn hóa địa danh phục vụ công tác

thành lập bản đồ QCVN 37:2011/BTNMT do Cục Đo đạc và Bản đồ Việt Nam
biên soạn, Vụ Khoa học và Cơng nghệ trình duyệt, Bộ Tài nguyên và Môi trường
ban hành theo Thông tư số 23/2011/TT-BTNMT ngày 06 tháng 7 năm 2011.
Các nghiên cứu trên mới chỉ có những giá trị riêng biệt nhất định, thiếu
tính tổng quát, chưa thể phối hợp đồng bộ để giải quyết những vấn đề lớn của địa
danh và địa danh trên bản đồ, có cả quy chuẩn mới ban hành chưa qua thực tiễn
và rất cần sự bổ sung đánh giá chỉnh sửa mới áp dụng được cho nhu cầu thực
tiễn cũng như việc hội nhập quốc tế đồng thời cũng thiếu chế tài áp dụng.
Trực trạng về công tác chuẩn hóa địa danh bản đồ cịn thiếu những nghiên
cứu về cơ sở lý luận, hệ thống công tác chuẩn hóa tồn cục và những ý nghĩa,
ngun tắc pháp lý thực hiện.
Như vậy, có thể thấy sự khác biệt của đề tài là tập trung nghiên cứu tổng
hợp, hệ thống các khía cạnh cơ sở lý luận của địa danh học và ngôn ngữ bản đồ,
hướng tới sự chuẩn hóa địa danh một cách có cơ sở khoa học vững chắc, phù
hợp cho việc áp dụng vào các bộ môn khoa học khác đồng thời cũng đề xuất
những giải pháp trong quản lý nhà nước, nghiên cứu đào tạo... đặc biệt cho
DMĐD Việt Nam để thống nhất ban hành và trình nộp LHQ mà ta chưa có.


5

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích
Trên cơ sở những nghiên cứu cơ bản về địa danh học, địa danh bản đồ
học, thực trạng sử dụng địa danh ở Việt Nam nói chung và địa danh trên bản
đồ nói riêng, luận văn đề xuất hồn thiện những quy định chung và quy trình
chuẩn hóa địa danh dân cư, sơn văn, thủy văn và kinh tế - xã hội Việt Nam
trên bản đồ và giải pháp khắc phục thực trạng hướng tới việc ra đời, công bố
được DMĐD chuẩn.
3.2. Nhiệm vụ:

1. Tiến hành phân tích, làm rõ thực trạng địa danh ở Việt Nam và sự
cần thiết phải chuẩn hóa địa danh cùng với những lợi ích của việc chuẩn
hóa địa danh.
2. Làm rõ những khái niệm, nguyên tắc cơ bản về địa danh học, địa danh
bản đồ học...
3. Xác định chuẩn hóa địa danh và những nguyên tắc, quy trình của
chuẩn hóa địa danh Việt Nam trên bản đồ, gồm cả những vấn đề ngôn ngữ
liên quan đến địa danh (nguồn gốc hình thành chữ Việt, ảnh hưởng của ngôn
ngữ Hán Việt, tiếng Pháp, hoặc các ngôn ngữ khác đến địa danh Việt Nam).
4. Tiến hành nghiên cứu, đề xuất các nguyên tắc, quy định và biện pháp
thực hiện trong q trình chuẩn hóa địa danh Việt Nam. Đồng thời, thuyết
trình các yếu tố ảnh hưởng đến địa danh như chính trị, xã hội, ngơn ngữ, dân
tộc, tôn giáo, lịch sử… Đề ra được những biện pháp khắc phục và tăng cường
hiệu lực chuẩn hóa địa danh trên bản đồ để có thể ban hành được DMĐD trên
tồn quốc và trình nộp cho LHQ.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Vấn đề địa danh và cơng tác chuẩn hóa địa danh Việt Nam trong xuất
bản bản đồ ở nước ta.


6

4.2. Phạm vi nghiên cứu
Các cơng tác chuẩn hóa địa danh Việt Nam trong biên tập và xuất bản bản
đồ tại Nxb Tài nguyên - Môi trường và Bản đồ Việt Nam từ năm 1996 đến nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Dựa trên những nguyên tắc cơ bản của địa danh học, địa danh bản đồ
học, ngôn ngữ học, lý luận nghiệp vụ xuất bản và sử dụng các phương pháp

chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở khảo sát và phân tích sản phẩm biên tập và thành lập bản đồ
từ năm 1996 tới nay về địa danh Việt Nam và các phương pháp nghiên cứu
được áp dụng trong luận văn này bao gồm:
1. Phương pháp kế thừa được sử dụng để chắt lọc các kết quả nghiên cứu
trước đây về địa danh, địa lý, địa danh bản đồ học trên thế giới và trong nước
để xác định điểm xuất phát trong nghiên cứu của luận văn.
2. Phương pháp phân tích hệ thống được sử dụng để phân tích, đánh giá
đối với hệ thống lý luận về địa danh học và phương pháp chuẩn hóa địa danh
để rút ra cách thức phân tích hợp lý và phương pháp chuẩn hóa địa danh cho
bản đồ học ở Việt Nam.
3. Phương pháp từ ngun học được sử dụng để phân tích, tìm kiếm
nguồn gốc địa danh từ lịch sử, phương ngữ, văn hóa nhằm đóng góp cho xây
dựng các nguyên tắc chuẩn hóa địa danh ở Việt Nam.
4. Phương pháp thu thập dữ liệu, thống kê, phân tích dữ liệu địa danh từ
bản đồ, trên thực tế để đưa ra các phân loại địa danh hợp lý, từ đó tổng hợp
thành một số nguyên tắc chuẩn hóa địa danh.
5. Phương pháp chuyên gia được sử dụng để tham khảo ý kiến đối với
những trường hợp chưa rõ ràng, khó đưa ra các kết luận dựa trên các ngun
tắc chuẩn hóa thơng thường.


7

6. Điểm mới của luận văn
Luận văn đã minh định và hệ thống hóa các cơ sở lý luận về địa danh,
địa danh bản đồ, danh pháp địa lý, xuất bản bản đồ... hướng theo nguyên tắc
căn bản của UNGEGN áp dụng trong hoàn cảnh của Việt Nam.
Luận văn đã phân tích, đánh giá thực trạng và tìm ra những tồn tại trong

các quy định, quy chuẩn hiện hành về chuẩn hóa địa danh đã ban hành, nêu ra
những nguyên nhân làm thay đổi và sai lệch địa danh, địa danh bản đồ, từ đó
đề xuất nhiều giải pháp, biện pháp mới có ý nghĩa thời sự có tính khả thi và
có thể là tài liệu tham khảo, tập huấn trong công tác đào tạo các biên tập viên
về xuất bản bản đồ, các cán bộ công tác liên quan đến địa danh.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
Luận văn đã bám sát nguyên tắc căn bản của UNGEGN, của địa danh
học, địa danh học bản đồ.
Giá trị của việc nghiên cứu địa danh giúp nhập môn sâu sắc về những
nguyên tắc cơ bản của địa danh học, địa danh bản đồ học cũng như phân tích,
làm rõ thực trạng địa danh hiện nay để vận dụng vào việc chuẩn hóa địa danh
trên bản đồ ở Việt Nam
Đề tài được tiến hành phân tích, nhằm làm rõ thực trạng địa danh ở Việt
Nam và sự cần thiết phải chuẩn hóa địa danh và chứng minh những lợi ích
của việc chuẩn hóa địa danh.
Cơ sở nguyên gốc và thực trạng địa danh Việt Nam (nguồn gốc hình
thành chữ Việt, ảnh hưởng của ngôn ngữ Hán Việt, tiếng Pháp, hoặc các ngôn
ngữ khác) dẫn đến việc sử dụng địa danh hiện tại rất khác nhau giữa các cơ
quan quản lý nhà nước và cơ quan chun mơn hay các nhóm cộng đồng.
Hiện tại, trong cơ sở dữ liệu của hệ thống thơng tin địa lý (GIS) đã có đủ
các lớp thơng tin về thủy văn, địa hình, lớp phủ thực vật, giao thơng, hành
chính, kinh tế - xã hội nhưng thiếu lớp thơng tin về địa danh cho nên việc
chuẩn hóa hệ thống địa danh phục vụ công tác lập bản đồ, xuất bản bản đồ là


8

hết sức cần thiết. Nếu khơng có lớp thơng tin về địa danh trên bản đồ thì đây
là bản đồ câm, khơng có hoặc có rất ít giá trị sử dụng. Mặt khác, nếu có lớp
thơng tin địa danh mà nội dung lại không chuẩn (về ngữ âm, ngữ nghĩa, chính

tả) thì giá trị của lớp thơng tin này và của bản đồ cũng kém đi.
Đề tài chuẩn hóa địa danh đem lại rất nhiều lợi ích thực tiễn, đó là trả lại
tên đúng với ngữ âm, ngữ nghĩa và cách viết. Địa danh được chuẩn hóa phục
vụ cho nhiều mục đích cuộc sống, hội nhập, thương hiệu hàng hóa, cứu hộ
cứu nạn, bảo vệ các địa danh và di sản văn hóa, tên đúng để xác định và bảo
vệ chủ quyền lãnh thổ...
Việc lựa chọn đề tài “Chuẩn hóa địa danh Việt Nam trong xuất bản
bản đồ ở nước ta hiện nay” là đúng đắn, mang tính tổng hợp của địa danh
học và ngơn ngữ bản đồ, có giá trị lý luận, thực tiễn và ứng dụng cao, phù hợp
với nhu cầu của các bộ mơn khoa học có liên quan.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
nội dung của luận văn gồm 4 chương, 14 tiết:
Chương 1: Địa danh và vấn đề chuẩn hóa địa danh trong xuất bản bản đồ.
Chương 2: Thực trạng sử dụng địa danh ở Việt Nam.
Chương 3: Những quy tắc và quy trình chuẩn hóa địa danh Việt Nam
trong xuất bản bản đồ.
Chương 4: Một số giải pháp và kiến nghị về vấn đề chuẩn hóa địa danh
trong xuất bản bản đồ.


9

Chương 1
ĐỊA DANH VÀ VẤN ĐỀ CHUẨN HÓA ĐỊA DANH
TRONG XUẤT BẢN BẢN ĐỒ
1.1. Một số khái niệm cơ bản
1.1.1. Khái niệm địa danh
Như đã biết, địa danh (geographical names) được ra đời trong những
điều kiện lịch sử, địa lý... và mang theo dấu ấn của môi trường, thời đại... Vì

vậy, địa danh là một phạm trù lịch sử, xuất hiện và tồn tại lâu dài, địa danh
phản ánh nhiều khía cạnh địa lý, lịch sử, văn hóa, ngơn ngữ... tại nơi ra đời.
Địa danh được xem như những tấm bia lịch sử - văn hóa bằng ngơn ngữ.
Địa danh do con người đặt ra và đầu tiên được con người trao đổi với
nhau bằng ngơn ngữ nói, sau đó khi có chữ viết, địa danh được viết bằng bộ
chữ của mỗi dân tộc.
Quá trình hình thành, tồn tại và biến đổi không chỉ do các tác động của
ngôn ngữ mà cịn do các tác động của bên ngồi ngơn ngữ (đặc điểm văn hóa,
sự di dân, tiếp xúc, vay mượn...), bởi thế nhiều biến cố về chính trị, kinh tế,
văn hóa, xã hội, ngơn ngữ được lưu giữ trong địa danh, khi nghiên cứu địa
danh, đặc biệt với địa danh Việt Nam điểm này khá rõ nét và sẽ giúp chúng ta
tìm hiểu thêm về địa danh.
Có nhiều định nghĩa khác nhau về địa danh. Theo những hướng tiếp cận
khác nhau, các nhà địa danh học đã đưa ra những định nghĩa của mình.
Từ góc độ địa lý, tác giả Nguyễn Văn Âu định nghĩa địa danh là "... tên đất,
gồm tên sông, núi, làng mạc hay là tên các địa phương, các dân tộc..." [3, tr.5].
Theo quan điểm của chúng tôi tác giả Nguyễn Văn Âu đưa khái niệm tên
các dân tộc vào định nghĩa địa danh là chưa chính xác bởi theo chúng tơi hiểu
khái niệm tên của các dân tộc là tộc danh (Nation names).


10

Từ góc độ ngơn ngữ, Lê Trung Hoa nói rằng: "Địa danh là những từ
hoặc ngữ, được dùng làm tên riêng của các địa hình thiên nhiên, các đơn vị
hành chính, các vùng lãnh thổ và các cơng trình xây dựng thiên về không
gian hai chiều, trước địa danh ta có thể đặt một danh từ chung chỉ loại địa
danh đó..." [24, tr.18].
Theo quan điểm chúng tơi thì địa danh bao gồm cả tên của những cơng
trình theo khơng gian ba chiều như bệnh viện, trường học, trại, nông trường...

Từ góc độ văn hóa, trong tác phẩm: Tên làng xã Việt Nam đầu thế kỷ
XIX, các nhà biên dịch của bộ sách cho rằng: "... Địa danh của một vùng hay
một nước là tổng thể của các tên riêng đặt ra để gọi đơn vị địa lý tự nhiên hay
nhân văn của vùng ấy hay nước ấy. Đồng thời, đó cịn là những chứng tích về
ngơn ngữ và có thể cả về văn tự mà các cộng đồng có thể đặt, đã dùng và lưu
lại trên địa bàn cư trú và phát triển của mình..." [40, tr.11].
Từ góc độ kết hợp các mặt địa lý, ngơn ngữ, văn hóa tác giả Nguyễn
Kiên Trường định nghĩa là: "địa danh là tên riêng của các đối tượng địa lý tự
nhiên và nhân văn có vị trí xác định trên mặt đất" [49, tr.16].
Từ điển Bách khoa Việt Nam định nghĩa địa danh là: "tên gọi các lãnh
thổ, các điểm quần cư (làng, xã, huyện, tỉnh, thành phố), các điểm kinh tế
(vùng nông nghiệp, khu công nghiệp), các quốc gia, các châu lục, các núi,
đèo, cao nguyên, thung lũng, đồng bằng, châu thổ, sơng, hồ, vùng, vịnh, biển,
eo biển, đại dương có toạ độ địa lý nhất định ghi lại trên bản đồ. Địa danh có thể
phản ánh q trình hình thành, đặc điểm của các yếu tố tự nhiên và lịch sử với
những nét đặc sắc về kinh tế, xã hội của các lãnh thổ..." [26, tr.780].
Theo UNGEGN định nghĩa: Địa danh là tên gọi của một đối tượng trên
mặt đất. Về mặt nguyên tắc, địa danh là tên riêng (gồm một từ, nhiều từ hoặc
ngữ) được dùng một cách nhất quán trong ngôn ngữ để chỉ một địa điểm, một
đối tượng hoặc một vùng cụ thể có vị trí có thể nhận biết được trên trái đất.
Các đối tượng có thể là các điểm dân cư (ví dụ thành phố, thị trấn, làng), các


11

đơn vị hành chính lãnh thổ (ví dụ bang, tỉnh, huyện), các đối tượng tự nhiên
(ví dụ: sơng, núi, mũi đất, hồ, biển), đối tượng xây dựng (ví dụ: đập, sân bay,
đường sá), các địa điểm hay các vùng có ranh giới khơng xác định (ví dụ:
cánh rừng, ngư trường) [62].
UNGEGN cho rằng địa danh cụ thể hiểu là tên địa hình (topographical

names) hoặc là toponym (là thuật ngữ có nghĩa rộng hơn, bao gồm cả tên
dùng cho các đối tượng trên mặt trăng và các hành tinh khác).
Như vậy, mặc dù có những cách định nghĩa khác nhau về địa danh
nhưng đều có cùng nhiều điểm đồng nhất, từ những trình bày trên, có thể định
nghĩa địa danh như sau: Địa danh là tên gọi của các vùng lãnh thổ, các điểm
quần cư, các điểm kinh tế và các đối tượng địa lý cụ thể do con người đặt ra.
Chúng có thể là tên các châu lục, các quốc gia, các đơn vị hành chính lãnh
thổ (tỉnh, huyện, xã...) tên các khu công nghiệp, nông trường, nhà máy, hầm
mỏ..., tên các đại dương, biển, vịnh... hay tên các sông, hồ, núi, đèo, cao
ngun... có vị trí xác định trên bề mặt trái đất.
Địa danh chứa những thông tin về tinh thần, văn hóa, lịch sử, ngơn ngữ
và chính trị. Một trong những đặc điểm nổi bật của địa danh là sự đa dạng về
ngôn ngữ.
Cần phân biệt địa danh nước ngoài và địa danh ngoại lai: địa danh nước
ngoài (Foreign geographical names) là những địa danh nằm ngoài đất nước,
còn địa danh ngoại lai (exonyms) là địa danh trong nước do ảnh hưởng của
ngơn ngữ bên ngồi và q trình lịch sử tạo ra.
Ví dụ: Ở Hải Phịng có một số địa danh đảo, vịnh do người Pháp đặt
tên còn ghi lại trên bản đồ cũ, nay đặt tên lại như Grơttơ (Les grottes): đảo
Hang; Xơmen (La Semelle): hịn Đế Giày (hòn Hài).
1.1.2. Danh pháp và thuật ngữ địa lý
"Danh pháp (nomenclature) có thể chỉ tới một hệ thống các tên gọi hay
thuật ngữ, các quy tắc hay quy ước được sử dụng để tạo ra các tên gọi khi
được cá nhân hay cộng đồng sử dụng, đặc biệt những gì nói trên được dùng


12

trong một ngành khoa học (danh pháp khoa học) hay một môn lĩnh vực nghệ
thuật cụ thể. Danh pháp là gốc Hán Việt. Danh là tên, pháp là phép tắc, quy

tắc. Nội hàm của nó là quy tắc đặt tên, tương đương với từ Nomenclature
tiếng Pháp, tiếng Anh" [55].
Địa danh thường đi kèm theo danh pháp địa lý (Geographical
nomenclature), tức là danh từ chung để chỉ các đối tượng địa lý, địa hình như
sơng, núi, biển, đất, nước, đường sá, cầu cống, khu, tiểu khu, đường, đường phố...
Danh pháp địa lý được hiểu rộng là thuật ngữ địa lý (Terminology),
dùng trong nghĩa hẹp là tên gọi chung của đối tượng địa hình.
1.1.3. Địa danh học
Từ điển Bách khoa Việt Nam định nghĩa như sau:
- (Địa lý) khoa nghiên cứu các địa danh về mặt nguồn gốc, sự phát triển,
ý nghĩa nội dung, hình thức tên gọi, cách chuyển từ ngơn ngữ này sang ngôn
ngữ khác và những vấn đề liên quan đến hệ thống hóa và sử dụng địa danh.
Địa danh học nằm vị trí tiếp giáp giữa các khoa học địa lý, ngôn ngữ học và
lịch sử. Địa danh học đã được biết đến từ lâu, song phần lớn các cơng trình
nghiên cứu mới bắt đầu trong thế kỷ XX.
- (Ngôn ngữ, A.Toponomatics), bộ môn từ vựng học nghiên cứu tên và
cách đặt tên các danh từ địa lý như tên sông, núi hoặc tên quốc gia và các địa
danh khác [26, tr.780].
Tác giả Hoàng Tất Thắng cho rằng: Địa danh học thực sự là một ngành
của ngôn ngữ học, chuyên nghiên cứu ý nghĩa, nguồn gốc và những biến đổi
của địa danh. Ngồi ra, địa danh học cịn nghiên cứu cấu tạo của địa danh, đặc
điểm của địa danh, các phương thức đặt địa danh [39].
Địa danh học còn được phân loại thành các phần nhỏ như thủy danh học
(chuyên nghiên cứu tên sông, suối, rạch...), sơn danh học (nghiên cứu các tên


13

đồi, núi, đèo, dốc...), phương danh học (nghiên cứu các tên làng, vùng, xóm,
bản...), phố danh học (nghiên cứu các tên đường, phố, quảng trường...).

Địa danh học là một lĩnh vực nghiên cứu khá phức tạp, đòi hỏi người
nghiên cứu địa danh cần phải xác định điểm xuất phát một cách nhất quán
và những tri thức cần thiết của các lĩnh vực nghiên cứu khác phục vụ cho
việc nghiên cứu địa danh. Như vậy, có thể nhận định: Địa danh học là một
bộ môn khoa học nghiên cứu nguồn gốc, sự phát triển và hiện trạng của
địa danh trên các mặt ngữ nghĩa, ngữ âm, ngữ pháp (cách viết) và quy
cách chuyển từ ngữ này sang ngữ khác cho các địa danh. Địa danh học còn
nghiên cứu tên và cách đặt tên cho các đối tượng địa lý, phương pháp thu
thập, hệ thống hóa, chuẩn hóa và sử dụng địa danh. Vì vậy, địa danh học
là bộ mơn khoa học nằm ở vị trí tiếp giáp giữa các khoa học địa lý, ngôn
ngữ, dân tộc và lịch sử.
1.1.4. Khái niệm về bản đồ và địa danh bản đồ học
1.1.4.1. Khái niệm bản đồ
Từ điển Bách khoa Việt Nam định nghĩa bản đồ là hình vẽ biểu thị bề
mặt Trái Đất, các thiên thể hoặc khoảng không vũ trụ trên mặt phẳng theo
những quy tắc toán học xác định, được thu nhỏ theo quy ước và khái quát hóa
để phản ánh sự phân bố, trạng thái và những mối liên hệ của các đối tượng,
hiện tượng tự nhiên, xã hội được chọn lọc và thể hiện bằng hệ thống ký hiệu
và màu sắc. Có thể coi bản đồ là mơ hình ký hiệu tượng hình nhằm tái tạo
thực tại (đúng hơn là một phần nào đó của thực tại). Bản đồ dùng để phản ánh
trực quan những tri thức đã tích lũy được cũng như để nhận biết những tri
thức mới. Bản đồ có thể phân nhóm theo lãnh thổ bao trùm (thế giới, quốc
gia, tỉnh...); theo nội dung (đại cương, địa hình, chun đề); theo mục đích sử
dụng (giáo khoa, du lịch, nghiên cứu khoa học); theo phương thức sử dụng
(treo tường, để bàn...); theo tỉ lệ thu nhỏ... [26, tr.129].


14

Bản đồ được xem như là một đại diện 2 chiều hoặc 3 chiều trong khơng

gian hình học. Đó là những hình ảnh đại diện cho một tập hợp các tính năng,
mỗi quan hệ được thể hiện bởi vị trí, kích thước, và thời gian. Các bản đồ cho
phép nhìn bao qt khơng gian có giới hạn bất kỳ từ một khu vực khơng lớn
lắm cho đến tồn bộ bề mặt trái đất
Trên cơ sở phân tích các đặc điểm, tính chất của bản đồ địa lý, Giáo sư
K.A. Salishev đã đưa ra định nghĩa về bản đồ như sau:
Bản đồ địa lý là những biểu hiện thu nhỏ bề mặt Trái đất lên trên mặt
phẳng, được quy định về mặt tốn học, có tính chất hình ảnh - ký hiệu và
được khái qt hóa. Những biểu hiện này trình bày sự phân bố, tình trạng và
các mối liên hệ của những hiện tượng tự nhiên và xã hội khác nhau, cả những
biến đổi của chúng theo thời gian, đã được lựa chọn và nêu đặc trưng phù hợp
với mục đích của từng bản đồ cụ thể [54].
Định nghĩa của K.A.Salishev là định nghĩa đầy đủ và khái quát nhất về
bản đồ hiện nay đối với ngành bản đồ.
1.1.4.2. Ký hiệu bản đồ
Với khái niệm ngôn ngữ bản đồ là hệ thống ký hiệu đặc thù của bản đồ
cùng với các nguyên tắc, phương pháp sử dụng chúng, nhờ đó đối tượng của bản
đồ được phản ánh. Ngôn ngữ bản đồ không chỉ là phương tiện phản ánh các mặt
nào đó của thực tại mà cịn là phương tiện nhận thức thực tại [26, tr.134].
Bản đồ sử dụng ngôn ngữ hình ảnh - ký hiệu. Các yếu tố địa hình, địa vật
trên bề mặt đất rất phức tạp và đa dạng. Có địa vật hình dạng giống nhau
nhưng bản chất lại khác nhau, hoặc có hình dạng khác nhau nhưng lại có bản
chất giống nhau, đồng thời lại có những đối tượng, hiện tượng mà ta khơng
nhìn thấy được. Vì vậy, để biểu diễn chúng được đúng đắn trên bản đồ ta phải
sử dụng những ký hiệu đặc biệt, gọi là ký hiệu quy ước.
Ký hiệu quy ước là tập hợp các hình vẽ, đồ thị, ghi chú và màu sắc dùng
để biểu diễn hình dạng, kích thước, đặc tính và mối quan hệ của các đối


15


tượng, hiện tượng trên mặt đất lên bản đồ. Ký hiệu quy ước cung cấp cho
người đọc bản đồ những hiểu biết về các hiện tượng tự nhiên, kinh tế xã hội
đồng thời thiết lập trên bản đồ một mô hình phản ánh thực tế khách quan của
bề mặt Trái đất.
Kí hiệu bản đồ là các phương tiện hoạ đồ (điểm, đường nét, các hình
dạng hình học, chữ, hình vẽ với cấu trúc, hình dạng, kích thước, màu sắc khác
nhau) mang ý nghĩa nội dung cụ thể và có khả năng phản ánh khía cạnh
khơng gian của đối tượng. Các ký hiệu phân thành: ký hiệu điểm (để biểu thị
các đối tượng chiếm diện tích nhỏ khơng thể hiện được theo tỉ lệ của bản đồ ký hiệu phi tỉ lệ); ký hiệu tuyến (để biểu thị các đối tượng hình tuyến hoặc
phân bố kéo dài theo tuyến); ký hiệu diện tích (để biểu thị các đối tượng có
diện tích được thể hiện bằng khoanh vi - ký hiệu trong tỉ lệ). Tổng thể đa dạng
các ký hiệu bản đồ được hệ thống hóa thành các phương pháp biểu thị bản đồ;
ký hiệu định vị, ký hiệu tuyến, nền chất lượng (nền định tính, nền định
lượng), đồ giải, biểu đồ định vị, biểu đồ bản đồ, ký hiệu đường chuyển động,
chấm điểm, vùng phân bố, đường đẳng trị. Hệ thống ký hiệu bản đồ dùng để
xây dựng nội dung bản đồ nhằm phản ánh một hiện tượng, đối tượng nào đó
của thực tại [26, tr.553].
Theo L.X.Graevxkaia, trong Bản đồ học, thì ký hiệu có 3 dạng: "Ký
hiệu hình học (hình trịn, hình tam giác, hình vng...); ký hiệu chữ cái (Dùng
chữ cái đầu tiên của tên gọi các đối tượng được biểu thị); ký hiệu nghệ thuật (có
hình vẽ, hình dáng liên tưởng đến hình dạng đối tượng được được biểu thị). Ký
hiệu chỉ ra vị trí của đối tượng và cả số lượng, chất lượng của đối tượng bằng
cách dùng các ký hiệu có kích thước, màu sắc khác nhau" [21, tr.210].
1.1.4.3. Địa danh bản đồ học
Với quan niệm bản đồ học - là khoa học về bản đồ địa lý, về các tính
chất, phương pháp xây dựng và sử dụng chúng. Bản đồ học bao gồm nhiều bộ


16


môn khoa học và kỹ thuật, quan hệ chặt chẽ với nhau nhưng mỗi bộ phận lại
có chức năng riêng [21, tr.5].
Các địa danh được ghi trên bản đồ là địa danh bản đồ.
"Bản đồ địa lý là sự biểu thị thu nhỏ quy ước của bề mặt trái đất lên mặt
phẳng, xây dựng trên cơ sở toán học và phản ánh sự phân bố, trạng thái và
mối liên hệ tương quan của các hiện tượng thiên nhiên và xã hội loài người...
A.V.Ghedưmin - Bản đồ học [18, tr.6], từ đó có thể định nghĩa:
Địa danh bản đồ học (Cartographic toponymy) là bộ phận của địa danh
học, nghiên cứu ứng dụng địa danh học vào công tác bản đồ với nhiệm vụ
chính là nghiên cứu việc chọn và ghi địa danh lên bản đồ một cách khoa học
và đúng đắn nhất. Cịn bản đồ sau đó lại trở thành nguồn tài liệu gốc quan
trọng và đáng tin cậy cho các hoạt động nghiên cứu và khai thác địa danh theo
các mục đích riêng của người sử dụng về lịch sử, ngơn ngữ, địa lý, dân tộc, tổ
chức hành chính, lãnh thổ...
Địa danh nói chung và địa danh bản đồ nói riêng là yếu tố động, liên
quan đến sự xuất hiện, biến đổi hay mất đi của các đối tượng địa lý, sự thay
đổi tên gọi của các đối tượng địa lý, vì vậy nó cần được nghiên cứu và cập
nhật liên tục, cần có bộ phận chuyên nghiên cứu về địa danh ở mỗi quốc gia,
khu vực và trên toàn thế giới.
Có thể nói rằng, tất cả những khái niệm nói trên có liên quan chặt chẽ,
mật thiết với nhau và không thể không đề cập. Chúng luôn luôn được vận
dụng trong các quá trình nghiên cứu và sử dụng.
1.2. Các loại địa danh
Có nhiều tiêu chí để phân loại địa danh trên thế giới, có quan điểm phân
chia địa danh theo nguồn gốc ngôn ngữ, quan điểm khác lại cho rằng phân
loại địa danh theo đối tượng.
Các nhà địa danh học người Pháp tuy không lập bảng phân loại địa danh
khi nghiên cứu theo nguyên ngữ của nó, nhưng đều chia địa danh thành nhiều
phần hoặc nhiều vấn đề.



17

A.Dauzat trong La toponymie Franỗaise chia a danh lm 4 phần: (1)
vấn đề những cơ sở tiền Ấn - Âu; (2) các danh từ tiền Latinh về nước trong
thủy danh học; (3) các từ nguyên Gôloa - La mã; (4) địa danh học Gôloa - La
mã của vùng Auvergne và Velay [69].
Ch.Rostaining (Pháp) trong Les noms de lieux chia 11 chương để
nghiên cứu địa danh: (1) những cơ sở tiền Ấn - Âu; (2) các lớp tiền Xên tich;
(3) lớp Gô loa; (4) những phạm vi Gôloa - La mã; (7) các hình thức của thời
phong kiến; (8) những danh từ có nguồn gốc tơn giáo; (9) những hình thái
hiện đại; (10) các địa danh và tên đường phố; (11) tên sông và núi [68].
Theo các nhà địa danh học của Nga, chia địa danh theo đối tượng mà địa
danh biểu thị, tức là dựa vào nội dung của nó. G.L. Smoliskaia và
M.V.Gorbanevski trong Топонимия Москвы chia địa danh làm 4 loại: (1)
phương danh (tên các địa phương); (2) sơn danh (núi, đồi, gò...); (3) thủy
danh (tên các dòng chảy, hồ, vũng...); (4) phố danh (tên các đối tượng trong
thành phố) [57].
Ở Việt Nam, các nhà địa danh học dựa trên các đặc tính cơ bản về địa
lý, về xã hội, về những đặc tính của ngơn ngữ để phân loại. Quan điểm dựa
trên những đặc tính cơ bản về địa lý và xã hội để phân chia địa danh Việt
Nam bao gồm:
1. Trần Thanh Tâm chia địa danh làm 6 loại [50, tr.60].
(1) Loại đặt theo địa hình và đặc điểm.
(2) Loại đặt theo vị trí khơng gian và thời gian.
(3) Loại đặt theo tín ngưỡng, tơn giáo, lịch sử.
(4) Loại đặt theo hình thái đất đai, khí hậu.
(5) Loại đặt theo đặc sản, nghề nghiệp và tổ chức kinh tế.
(6) Loại đặt theo sinh hoạt xã hội.

2. Nguyễn Văn Âu [3, tr.30-32] đã phân loại địa danh theo ba cấp: loại,
kiểu và dạng.


18

a. Theo loại địa danh gồm có 2 loại:
Địa danh tự nhiên: sông Hồng, núi Trường Sơn...
Địa danh kinh tế - xã hội: làng Thượng Cát, huyện Sa pa, thành phố Hải Phòng...
b. Theo kiểu địa danh gồm 7 kiểu: thủy danh, sơn danh, lâm danh, làng
xã, huyện thị, tỉnh - thành phố, quốc gia.
c. Theo dạng địa danh gồm 12 dạng địa danh nhỏ: sơng ngịi, hồ đầm,
đồi núi, hải đảo, rừng rú, truông, trảng, làng xã, huyện quận, thị trấn, tỉnhthành phố, quốc gia.
Nhìn chung ta thấy cách phân loại của tác giả khá phức tạp và chưa hợp
lý như:
- Về loại là chưa rõ ràng.
- Về kiểu: sơn danh và lâm danh có thể gộp thành kiểu địa danh chỉ địa
hình, làng xã, huyện thị, tỉnh-thành phố, quốc gia có thể gộp lại thành kiểu địa
danh hành chính.
- Về 12 dạng thực ra cũng chỉ là 2 dạng chính, 6 dạng đầu là dạng địa
danh chỉ yếu tố tự nhiên, 6 dạng sau là dạng địa danh chỉ yếu tố hành chính.
3. Lê Trung Hoa thì lại kết hợp việc phân loại địa danh vừa theo đối
tượng vừa theo ngữ nguyên (theo nguồn gốc ngôn ngữ ghi địa danh). Theo
đối tượng, Lê Trung Hoa chia địa danh làm 4 loại:
(1) Địa danh chỉ địa hình thiên nhiên (gọi tắt địa danh chỉ địa hình).
(2) Địa danh chỉ các cơng trình xây dựng.
(3) Địa danh chỉ các đơn vị hành chính (địa danh hành chính)
(4) Địa danh chỉ vùng.
Theo nguyên ngữ, Lê Trung Hoa chia địa danh thành 4 nhóm:
(1) Địa danh thuần Việt.

(2) Địa danh Hán Việt.
(3) Địa danh bằng các ngôn ngữ dân tộc thiểu số (Chăm, Khơ me,
Ba na, Ê đê, Gia rai, Tày, Thái, Mường...);


19

(4) Địa danh bằng các ngoại ngữ (chủ yếu là địa danh gốc Pháp)
[24, tr.9-17].
Nhận thấy là cách phân loại của Lê Trung Hoa có tính hợp lý vì thơng
qua sự phân loại ta thấy được cả về nguồn gốc địa danh, chỉ có điều việc gọi
là địa danh bằng các ngoại ngữ thì chưa rõ nghĩa vì đây chính là địa danh
ngoại lai (exonyms).
Địa danh được thể hiện trên bản đồ được gọi là địa danh bản đồ, địa
danh bản đồ có đặc điểm khác địa danh trong ngơn ngữ là được xác định
trong mơ hình khơng gian thu nhỏ của thế giới thực theo quy định của bản đồ
về tỷ lệ mơ hình, ký hiệu...
Để nghiên cứu địa danh một cách hệ thống và khoa học,người ta
thường phân loại địa danh theo đối tượng địa lý (theo danh pháp địa lý) hoặc
theo nguồn gốc ngôn ngữ. Ở Việt Nam hiện còn tồn tại nhiều cách phân loại địa
danh khác nhau theo quan điểm của các cơ quan nghiên cứu hay các học giả.
Khái quát lại theo chúng tôi có thể phân loại địa danh theo các đối tượng
như sau:
- Địa danh phân loại theo đối tượng địa lý, gồm:
+ Địa danh quốc gia và vùng lãnh thổ (tên quốc gia hay tên vùng lãnh thổ).
+ Địa danh hành chính (tên tỉnh, thành phố, thị xã, quận, huyện, phường,
xã, thị trấn).
+ Địa danh dân cư (tên thôn, làng, bản, tổ dân phố...).
+ Địa danh sơn văn (tên dãy núi, tên núi, đèo, rừng...).
+ Địa danh thủy văn (tên sông, suối, hồ...).

+ Địa danh biển, đảo (tên biển, tên vịnh, tên quần đảo...)
+ Địa danh kinh tế - văn hóa - xã hội (tên nhà máy, trường học, bệnh
viện, di tích lịch sử).
- Phân loại địa danh theo ngơn ngữ, gồm:
+ Địa danh thuần Việt.
+ Địa danh Hán Việt.


20

+ Địa danh ngôn ngữ các dân tộc (Chăm, Tày, Thái, Khmer, Bana...).
+ Địa danh ngoại lai (địa danh có nguồn gốc ngôn ngữ Pháp, Tây Ban
Nha, Hà Lan...).
Việc nghiên cứu để chỉ rõ nguồn gốc ngôn ngữ của địa danh rất có giá trị với
việc nghiên cứu khoa học, lịch sử và việc đấu tranh bảo vệ chủ quyền lãnh thổ.
1.3. Những nguyên tắc cơ bản trong nghiên cứu địa danh
1.3.1. Tổ chức chuyên gia về địa danh của Liên Hiệp Quốc với định
hướng căn bản
Tổ chức chuyên gia về địa danh của LHQ – UNGEGN được thành lập
theo nghị quyết 715A (XXVII) ngày 23/4/1959 và 1314 (XLIV) ngày
31/5/1968 với quyết định của Hội đồng Kinh tế - Xã hội Liên Hiệp Quốc tại
cuộc họp lần thứ 1854 ngày 4/5/1973 để đẩy mạnh việc chuẩn hóa địa danh
trên cả hai mức độ quốc gia và quốc tế với mục đích:
- Nhằm nhấn mạnh tầm quan trọng của việc chuẩn hóa địa danh trên cả
hai mức độ quốc gia và quốc tế để chứng minh những lợi ích phát sinh từ việc
chuẩn hóa này.
- Thu thập những kết quả làm việc của các thành viên quốc gia và quốc
tế liên quan đến việc chuẩn hóa địa danh và để làm thuận tiện cho việc phổ
biến những kết quả đó đến các quốc gia thành viên Liên Hiệp Quốc.
- Nghiên cứu và đưa ra các nguyên tắc, chính sách và phương pháp phù

hợp cho việc giải quyết vấn đề chuẩn hóa ở từng quốc gia và quốc tế.
- Đóng góp vai trị tích cực trong việc dễ dàng trợ giúp khoa học và kỹ
thuật riêng cho các nước đang phát triển, nhằm tạo ra cơ chế để chuẩn hóa địa
danh ở từng quốc gia và quốc tế.
- Cung cấp phương tiện liên hệ và phối hợp giữa các quốc gia thành viên
và các cơ quan quốc tế trên các công việc liên quan đến chuẩn hóa địa danh.
- Thực hiện các nhiệm vụ mà nghị quyết của các hội nghị của Liên Hiệp
Quốc về chuẩn hóa địa danh giao cho [62, tr.239].


21

Tổ chức chuyên gia Liên Hiệp Quốc về địa danh (UNGEGN) có ngun
tắc chung mang tính định hướng căn bản là sử dụng bộ chữ Latinh và Latinh
hóa và trong bất kỳ trường hợp nào cũng không được vi phạm tới tín ngưỡng
và tình cảm dân tộc.
Việc vận dụng ngun tắc chung của UNGEGN “Sử dụng bộ chữ Latinh
và Latinh hóa” là một nguyên tắc hết sức bao quát và đúng đắn bởi lẽ các dân
tộc, các nước trên thế giới đều có thể vận dụng nguyên tắc này để phiên
chuyển địa danh của dân tộc mình,nước mình và phổ biến rộng rãi để cả thế
giới đều gọi đúng, hơn nữa dễ dàng trong phát triển công nghệ thông tin và
truyền thông.
1.3.2. Nguyên tắc áp dụng khi phiên chuyển địa danh từ ngữ này sang
ngữ khác
Trong địa danh học có một số nguyên tắc cơ bản áp dụng khi phiên
chuyển địa danh từ ngữ này sang ngữ khác. Để tuân thủ những nguyên tắc cơ
bản đó cần nghiên cứu ngữ âm, ngữ nghĩa, cách viết, cách chuyển từ ngôn
ngữ gốc sang ngơn ngữ cần sử dụng.
Q trình xác định hình thức tên gọi hay cách viết địa danh, cách chuyển
từ ngôn ngữ này sang ngôn ngữ khác cũng là nhiệm vụ hết sức khó khăn.

Trên thế giới hiện có khoảng 7.000 ngôn ngữ dân tộc với khoảng 200 bộ chữ
viết khác nhau; riêng Việt Nam có 54 ngơn ngữ dân tộc với 28 bộ chữ viết
khác nhau (26 dân tộc Việt Nam khơng có chữ viết riêng và trong 28 bộ chữ
viết có nhiều bộ chữ khơng được sử dụng một cách phổ biến).
Để giải quyết những vấn đề này cần sự hợp tác của rất nhiều nhà ngôn ngữ
dựa trên những nguyên tắc nghiên cứu được xác lập của địa danh học, đó là:
- Ghi âm cách đọc địa danh của người bản địa, trên cơ sở đó xác định
ngữ nghĩa của địa danh.
- Tìm cách viết địa danh theo đúng quy tắc ngữ pháp và bộ chữ quốc ngữ.


×