Tải bản đầy đủ (.pdf) (113 trang)

Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức khối các cơ quan đảng, đoàn thể chính trị xã hội cấp tỉnh ở tỉnh ninh bình hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (784.35 KB, 113 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA
HỒ CHÍ MINH

HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUN TRUYỀN

TẠ TỒN THẮNG

ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG CÁN BỘ, CÔNG CHỨC KHỐI
CÁC CƠ QUAN ĐẢNG, ĐỒN THỂ CHÍNH TRỊ - XÃ HỘI
CẤP TỈNH Ở TỈNH NINH BÌNH HIỆN NAY
Ngành: Xây dựng Đảng và Chính quyền nhà nước
Mã số : 60 31 02 03

LUẬN VĂN THẠC SĨ
XÂY DỰNG ĐẢNG VÀ CHÍNH QUYỀN NHÀ NƯỚC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. Lê Văn Trung

HÀ NỘI - 2014


LỜI CAM ĐOAN

Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu
độc lập của riêng tôi. Các số liệu và tư liệu được sử
dụng từ nhiều nguồn tài liệu đáng tin cậy và là kết quả
của quá trình tiến hành khảo sát thực tế của tơi. Tơi
xin chịu hồn tồn trách nhiệm về cơng trình nghiên
cứu của mình.



Tác giả luận văn

Tạ Toàn Thắng


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ................................................................................................................ 1
Chương 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ ĐÀO TẠO, BỒI
DƯỠNG CÁN BỘ, CÔNG CHỨC KHỐI CÁC CƠ QUAN ĐẢNG, ĐỒN THỂ
CHÍNH TRỊ - XÃ HỘI CẤP TỈNH ...................................................................... 9
1.1. Một số vấn đề chung về cán bộ, công chức và đào tạo, bồi dưỡng cán bộ,
cơng chức khối các cơ quan Đảng, đồn thể chính trị - xã hội cấp tỉnh ....... 9
1.2. Mục đích, nội dung, hình thức của đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, cơng
chức khối các cơ quan Đảng, đồn thể chính trị - xã hội cấp tỉnh.............. 28
1.3. Những kinh nghiệm từ đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức khối các
cơ quan Đảng, đồn thể chính trị - xã hội cấp tỉnh của một số địa phương .... 35
Chương 2: ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG CÁN BỘ, CÔNG CHỨC KHỐI
CÁC CƠ QUAN ĐẢNG, ĐỒN THỂ CHÍNH TRỊ - XÃ HỘI CẤP TỈNH
Ở TỈNH NINH BÌNH HIỆN NAY - THỰC TRẠNG, NGUYÊN NHÂN
VÀ KINH NGHIỆM............................................................................................ 44
2.1. Khái quát điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội và tình hình đội ngũ cán
bộ, công chức khối các cơ quan Đảng, đồn thể chính trị - xã hội cấp
tỉnh ở tỉnh Ninh Bình................................................................................ 44
2.2. Thực trạng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, cơng chức khối các cơ quan
Đảng, đồn thể chính trị - xã hội cấp tỉnh ở tỉnh Ninh Bình hiện nay ........ 57
2.3. Nguyên nhân và bài học kinh nghiệm trong đào tạo, bồi dưỡng cán bộ,
công chức khối các cơ quan Đảng, đồn thể chính trị - xã hội cấp tỉnh
ở tỉnh Ninh Bình....................................................................................... 74
Chương 3: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP THỰC HIỆN TỐT

ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG CÁN BỘ, CƠNG CHỨC KHỐI CÁC CƠ QUAN
ĐẢNG, ĐỒN THỂ CHÍNH TRỊ - XÃ HỘI CẤP TỈNH Ở TỈNH NINH BÌNH
HIỆN NAY........................................................................................................... 80
3.1. Phương hướng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, cơng chức khối các cơ quan
Đảng, đồn thể chính trị - xã hội cấp tỉnh ở tỉnh Ninh Bình ...................... 80
3.2. Giải pháp thực hiện tốt việc đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, cơng chức khối
các cơ quan Đảng, đồn thể chính trị - xã hội cấp tỉnh ở tỉnh Ninh Bình ..... 83
KẾT LUẬN ........................................................................................................ 100
TÀI LIỆU THAM KHẢO................................................................................. 103


DANH MỤC CÁC BẢNG
Số hiệu

Tên bảng

bảng

2.1

Số lượng cán bộ, công chức khối các cơ quan Đảng, đồn
thể chính trị - xã hội cấp tỉnh ở tỉnh Ninh Bình

Trang

51

Cơ cấu độ tuổi, giới tính cán bộ, cơng chức khối các cơ
2.2


quan Đảng, đồn thể chính trị - xã hội cấp tỉnh ở tỉnh

52

Ninh Bình
Phân tích chất lượng đội ngũ cán bộ, cơng chức khối các
2.3

cơ quan Đảng, đồn thể chính trị - xã hội cấp tỉnh ở tỉnh

53

Ninh Bình
2.4

Thống kê tình hình đào tạo ở trong nước

65

2.5

Thống kê tình hình bồi dưỡng về quản lý nhà nước

67

2.6

Thống kê tình hình bồi dưỡng về kiến thức quốc phòng

67


2.7

Thống kê các lớp bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ

68


DANH MỤC CÁC SƠ ĐỒ

Số hiệu

Tên sơ đồ

sơ đồ

1.1

Quan hệ giữa đào tạo, bồi dưỡng với các khâu của công
tác cán bộ

Trang

27

1.2

Hình thức đào tạo, bồi dưỡng

34


1.3

Các yếu tố liên quan đến khóa học

35


1

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Chủ nghĩa Mác - Lênin cho rằng: Nhà nước ra đời không phải là nhằm
giải quyết mâu thuẫn trong xã hội mà là để điều hoà những mâu thuẫn phát
sinh trong xã hội theo chiều hướng có lợi cho giai cấp cầm quyền. Nắm tồn
bộ quyền lực của quốc gia, nhà nước có trách nhiệm và thẩm quyền sử dụng
quyền lực trong quản lý quốc gia trên tất cả các lĩnh vực: Kinh tế, chính trị, xã
hội, an ninh, quốc phịng, văn hố, giáo dục, y tế, dân tộc, tơn giáo…Điều này
cũng có nghĩa là lĩnh vực mà nhà nước chịu trách nhiệm quản lý rất đa dạng
và phức tạp. Để có thể làm trịn trách nhiệm đó, nhà nước cần phải xây dựng
cho mình một bộ máy quản lý hoạt động hiệu quả từ trung ương đến cơ sở với
yếu tố nòng cốt mang tính quyết định là đội ngũ cán bộ, cơng chức.
Cán bộ, cơng chức có vai trị quan trọng khơng chỉ trong việc đưa
những văn bản, chính sách của nhà nước đi vào cuộc sống, mà cịn góp phần
chăm lo đời sống cho nhân dân, gần dân, nắm bắt tâm tư nguyện vọng của
nhân dân để có những kiến nghị kịp thời giúp đưa ra những giải pháp đáp ứng
những nguyện vọng ấy nhằm duy trì ổn định về an ninh, chính trị - xã hội của
đất nước. Sớm xác định được tầm quan trọng của đội ngũ cán bộ, công chức,
ngay từ thời Phong kiến, các vua chúa đã chủ động xây dựng một bộ máy
quản lý khá toàn diện, hoàn chỉnh giúp họ vận hành tốt bộ máy của mình,

cũng như giúp họ nắm vững, củng cố quyền lực tối cao trong tay. Danh sĩ
Thân Nhân Trung (1419 - 1499) từng nói:
Hiền tài là ngun khí của quốc gia, ngun khí thịnh thì thế
nước mạnh mà hưng thịnh, ngun khí suy thì thế nước yếu mà thấp
hèn. Vì thế các bậc đế vương thánh minh không đời nào không coi
việc giáo dục nhân tài, kén chọn kẻ sĩ, vun trồng ngun khí quốc gia
làm cơng việc cần thiết... [40].


2

Ngày nay ở các nước phát triển trên thế giới nói chung và ở Việt Nam
nói riêng, việc xây dựng đội ngũ cán bộ, cơng chức với trình độ chun mơn
cao vẫn hết sức cần thiết. Để có thể làm được điều đó địi hỏi Nhà nước một
mặt phải tuyển dụng cũng như thu hút được nguồn nhân lực có phẩm chất
đạo đức tốt, trình độ chun mơn, nghiệp vụ cao để phục vụ cho bộ máy nhà
nước; mặt khác phải thường xuyên tiến hành đào tạo, bồi dưỡng nâng cao
trình độ cho cán bộ, cơng chức và có chính sách hợp lý trong việc sử dụng
đội ngũ đó. Điều này góp phần đảm bảo bố trí đúng người, đúng việc nhằm
phát huy hết thế mạnh cũng như khả năng chun mơn của từng nguời,
khơng ngừng nâng cao trình độ chun mơn cho cán bộ, cơng chức để có thể
đáp ứng đựợc những yêu cầu mới trong công việc.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy:
Cán bộ là những người đem chính sách của Đảng, của Chính phủ
giải thích cho dân chúng hiểu rõ và thi hành, đồng thời đem tình hình
của dân chúng báo cáo cho Đảng, cho Chính phủ hiểu rõ, để đặt ra
chính sách đúng. Vì vậy, cán bộ là cái gốc của mọi cơng việc. Vì vậy,
huấn luyện cán bộ là công việc gốc của Đảng [36, tr.269].
Ở nước ta, công tác xây dựng cũng như đào tạo, bồi dưỡng và sử dụng
đội ngũ cán bộ, công chức hiện nay đặc biệt cần thiết khi chúng ta đang tiến

hành mở cửa nền kinh tế, hoà nhập vào xu hướng chung của tồn cầu hố, mốc
điểm quan trọng cho sự hội nhập này đó chính là việc chúng ta đã chính thức là
thành viên thứ 150 của Tổ chức Thương mại lớn nhất thế giới WTO (vào ngày
07/11/2006). Việc gia nhập WTO trong những năm qua đã mang tới những
thời cơ, thuận lợi cho đất nước trong quá trình phát triển, đồng thời cũng tạo ra
những khó khăn, thách thức to lớn đối với chúng ta trong quá trình đổi mới.
Trong xu thế hội nhập hiện nay, với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học công nghệ và sự tiến nhanh đến nền kinh tế tri thức thì việc đào tạo, bồi dưỡng
nguồn nhân lực là yếu tố quan trọng trong cạnh tranh, đưa nước ta rút ngắn


3

khoảng cách với các quốc gia phát triển trong khu vực và thế giới. Hơn bao giờ
hết, đội ngũ cán bộ, công chức cần phải được đào tạo, bồi dưỡng tồn diện để
trở thành những nhà quản lý có phẩm chất tốt, có năng lực nghề nghiệp, vừa
“hồng”, vừa “chuyên”, đáp ứng tốt các yêu cầu, nhiệm vụ chính trị đặt ra.
Trong những năm qua, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, cơng chức nói chung
và đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, cơng chức khối các cơ quan Đảng, đồn thể
chính trị - xã hội cấp tỉnh nói riêng tại tỉnh Ninh Bình đã có nhiều đóng góp
quan trọng trong việc xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức vững mạnh,
chuyên nghiệp và có đóng góp to lớn vào sự thắng lợi trong việc thực hiện các
nhiệm vụ chính trị của tỉnh. Tuy nhiên bên cạnh đó việc đào tạo, bồi dưỡng
cán bộ, công chức vẫn tồn tại những hạn chế, nhất là chất lượng, hiệu quả còn
chưa cao, chưa đáp ứng kịp thời những địi hỏi, u cầu của tình hình mới;
nội dung, hình thức, phương pháp đào tạo, bồi dưỡng chưa kịp đổi mới so với
yêu cầu của thực tiễn; các chính sách, chế độ về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ,
cơng chức cịn thiếu; sự phát triển của các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng cán bộ,
công chức cũng như việc cải cách về chương trình chưa được quan tâm đúng
mức, chưa theo kịp với yêu cầu và địi hỏi nâng cao chất lượng đội ngũ cán
bộ, cơng chức của tỉnh trong giai đoạn hiện nay.

Từ đó đặt ra vấn đề cần phải nâng cao hơn nữa chất lượng đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ, công chức, đặc biệt là cán bộ, cơng chức khối các cơ quan
Đảng, đồn thể chính trị - xã hội cấp tỉnh tại tỉnh Ninh Bình nhằm góp phần
xây dựng đội ngũ cán bộ, cơng chức có đủ phẩm chất, năng lực đáp ứng yêu
cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới.
Xuất phát từ những lý do trên, tác giả quyết định chọn vấn đề “Đào
tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức khối các cơ quan Đảng, đồn thể chính trị
- xã hội cấp tỉnh ở tỉnh Ninh Bình hiện nay” làm đề tài nghiên cứu luận văn
thạc sĩ. Qua việc nghiên cứu đề tài này, tác giả mong muốn có thể tìm ra một


4

số giải pháp nhằm góp phần nâng cao hơn nữa chất lượng đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ, công chức khối các cơ quan Đảng, đồn thể chính trị - xã hội
cấp tỉnh của tỉnh nhà trong những năm tiếp theo.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Xuất phát từ vị trí, tầm quan trọng của đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, cơng
chức, trong những năm qua đã có nhiều bài viết và cơng trình khoa học của
các tác giả, các nhà khoa học liên quan đến đào tạo, bồi dưỡng cán bộ được
công bố như:
2.1. Các sách đã phát hành
Tô Tử Hạ, Công chức và vấn đề xây dựng đội ngũ cán bộ, cơng chức
hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1999.
Phạm Minh Hạc, Giáo dục Việt Nam trước ngưỡng cửa của thế kỷ XXI,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002.
Nguyễn Phú Trọng - Trần Xuân Sầm, Luận cứ khoa học cho việc nâng
cao chất lượng đội ngũ cán bộ trong thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2003.
Nguyễn Thị Thanh Dung, Phong cách tư duy Hồ Chí Minh với việc xây

dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý ở nước ta hiện nay, Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội, 2007.
Vũ Văn Hiền, Xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý nhằm đáp
ứng nhu cầu của sự nghiệp cơng nghiệp hố, hiện đại hố, Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội, 2007.
Cao Khoa Bảng, Xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt của hệ
thống chính trị cấp tỉnh, thành phố (Qua kinh nghiệm của Hà Nội), Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2008.
Đức Vượng, Hồ Chí Minh đào tạo cán bộ và trọng dụng nhân tài, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2010.


5

2.2. Các bài viết trên các tạp chí
Ngơ Thành Can, Cán bộ, công chức - Các vấn đề và yêu cầu đào tạo,
Tạp chí Tổ chức Nhà nước, số 2, năm 2001
Dương Minh Đức, Nâng cao năng lực tư duy lý luận cho đội ngũ cán
bộ lãnh đạo chủ chốt cấp tỉnh hiện nay, Tạp chí Lý luận Chính trị,
số 11/2001.
Nguyễn Trọng Điều, Về quy trình và phương thức đào tạo, bồi dưỡng
cán bộ lãnh đạo, Tạp chí Cộng sản, số 16/2002.
Nguyễn Duy Hùng, Phương hướng và giải pháp nâng cao chất lượng
đội ngũ cán bộ quản lý cấp tỉnh, huyện, Tạp chí Cộng sản, số 5/2002.
Hà Lan, Tiếp tục nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ lãnh
đạo quản lý tại Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Tạp chí Lý luận
chính trị số 5/2002.
Lê Chi Mai, Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ chính quyền cơ sở - vấn đề và
giải pháp, Tạp chí Cộng sản, số 20/2002.
2.3. Các đề tài, cơng trình nghiên cứu

Lê Thị Thu Hà, Đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng cán bộ chủ chốt cấp
huyện ở tỉnh Quảng Nam, Đà Nẵng, Luận văn Thạc sĩ, Hà Nội, 1993.
Hà Anh Tuấn, Công tác bồi dưỡng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý
cấp tỉnh và tương đương ở Học viện Hành chính quốc gia giai đoạn hiện nay,
Luận văn Thạc sĩ, 2006.
Bùi Dỗn Dũng, Đào tạo, bồi dưỡng cơng chức hành chính nhà nước
theo yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền ở quận Cầu Giấy thành phố Hà
Nội, Luận văn Thạc sĩ, 2007.
Nguyễn Thị Lan Phương, Công tác bồi dưỡng cán bộ diện Ban Thường
vụ, tỉnh, thành ủy quản lý ở đồng bằng sông Hồng giai đoạn hiện nay, Luận
văn Thạc sĩ, 2009.


6

Nhìn chung các cơng trình, bài viết khoa học với những hướng tiếp
cận khác nhau đã góp phần làm sáng tỏ những nội dung cơ bản về đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ, công chức. Tuy nhiên, cho đến nay vẫn chưa có đề tài, cơng
trình khoa học nào nghiên cứu một cách chuyên sâu và có hệ thống về đào
tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức khối các cơ quan Đảng, đồn thể chính trị xã hội cấp tỉnh ở tỉnh Ninh Bình trong giai đoạn hiện nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở làm rõ hơn những vấn đề lý luận và thực tiễn về đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ, công chức cũng như thực trạng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ,
công chức khối các cơ quan Đảng, đồn thể chính trị - xã hội cấp tỉnh tại tỉnh
Ninh Bình, luận văn đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao chất
lượng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức khối các cơ quan Đảng, đồn thể
chính trị - xã hội cấp tỉnh tại tỉnh Ninh Bình trong thời gian tới.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện mục đích trên, luận văn thực hiện các nhiệm vụ sau:

- Trình bày cơ sở lý luận về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, cơng chức khối
các cơ quan Đảng, đồn thể chính trị - xã hội cấp tỉnh.
- Phân tích thực trạng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức khối các cơ
quan Đảng, đồn thể chính trị - xã hội cấp tỉnh tại tỉnh Ninh Bình trong những
năm gần đây, chỉ ra những mặt đã làm được, chưa làm được, nguyên nhân và
rút ra những bài học kinh nghiệm.
- Đề xuất phương hướng và những giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao
chất lượng, hiệu quả đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, cơng chức khối các cơ quan
Đảng, đồn thể chính trị - xã hội cấp tỉnh tại tỉnh Ninh Bình trong những năm
tiếp theo.


7

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công
chức trong khối các cơ quan Đảng, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ
chức chính trị - xã hội cấp tỉnh (sau đây gọi chung là cán bộ, công chức khối
các cơ quan Đảng, đồn thể chính trị - xã hội cấp tỉnh) tại tỉnh Ninh Bình.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn tiến hành đánh giá việc đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, cơng
chức khối các cơ quan Đảng, đồn thể chính trị - xã hội cấp tỉnh ở tỉnh
Ninh Bình từ năm 2009 đến năm 2013.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Luận văn được thực hiện trên cơ sở lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, những chủ trương, quy định của Đảng và Nhà nước về cán
bộ, cơng chức nói chung và về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, cơng chức nói riêng.
Trong q trình nghiên cứu, tác giả sử dụng tổng hợp các phương
pháp: Phân tích, tổng hợp, so sánh, thống kê, khảo sát thực tiễn.

6. Những đóng góp của luận văn
Trên cơ sở vận dụng quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh và Đảng ta về đào tạo, bồi dưỡng, luận văn đã phân tích góp
phần làm rõ những luận cứ khoa học về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, cơng
chức khối các cơ quan Đảng, đồn thể chính trị - xã hội cấp tỉnh tại tỉnh
Ninh Bình trong giai đoạn hiện nay.
Luận văn phân tích làm rõ một số giải pháp có tính khả thi nhằm nâng
cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức khối các cơ quan Đảng,
đồn thể chính trị - xã hội cấp tỉnh tại tỉnh Ninh Bình trong tình hình mới.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Luận văn góp phần làm sáng tỏ cơ sở lý luận và thực tiễn của đào tạo,
bồi dưỡng cán bộ, cơng chức khối các cơ quan Đảng, đồn thể chính trị - xã
hội cấp tỉnh ở tỉnh Ninh Bình trong điều kiện hiện nay.


8

Đánh giá đúng thực trạng, tìm ra nguyên nhân, từ đó đề xuất một số
giải pháp nhằm nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức
khối các cơ quan Đảng, đồn thể chính trị - xã hội cấp tỉnh ở tỉnh Ninh Bình.
Luận văn cũng có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo trong nghiên
cứu khoa học và trong quá trình xây dựng Kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ,
công chức, viên chức hàng năm của tỉnh Ninh Bình trong những năm tiếp theo.
8. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, luận văn gồm 3
chương, 8 tiết.


9


Chương 1
CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG
CÁN BỘ, CÔNG CHỨC KHỐI CÁC CƠ QUAN ĐẢNG, ĐỒN THỂ
CHÍNH TRỊ - XÃ HỘI CẤP TỈNH

1.1. Một số vấn đề chung về cán bộ, công chức và đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ, công chức khối các cơ quan Đảng, đồn thể chính trị - xã
hội cấp tỉnh
1.1.1. Một số khái niệm liên quan
1.1.1.1. Khái niệm cán bộ, công chức
Cán bộ, công chức là những thuật ngữ cơ bản của chế độ công vụ, công
chức, thường xuyên xuất hiện trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Trong
khoa học hành chính, theo các cách tiếp cận khác nhau, người ta đã đưa ra
những cách giải thích khác nhau về các thuật ngữ “cán bộ”, “công chức”.
- Khái niệm cán bộ:
Theo cách hiểu thông thường, cán bộ là những người thốt ly, làm việc
trong bộ máy chính quyền, Đảng, đoàn thể, quân đội. Hiện nay, từ cán bộ
được dùng với nhiều nghĩa khác nhau.
Trong Đại từ điển Tiếng Việt do tác giả Nguyễn Như ý chủ biên đưa ra
khái niệm cán bộ như sau: “Cán bộ: Danh từ: 1. Người làm việc trong cơ quan
nhà nước. 2. Người giữ chức vụ, phân biệt với người bình thường, khơng giữ
chức vụ trong các cơ quan, tổ chức nhà nước” [58, tr.249].
Từ định nghĩa trên có thể hiểu cán bộ là khái niệm dùng để chỉ những
người ở trong cơ cấu của một tổ chức nhất định, có trọng trách hồn thành
nhiệm vụ theo chức năng được tổ chức đó phân cơng.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đưa ra khái niệm cán bộ trong tác phẩm Sửa
đổi lối làm việc: “Cán bộ là những người đem chính sách của Đảng, của


10


Chính phủ giải thích cho dân chúng hiểu rõ và thi hành. Đồng thời, đem tình
hình của dân chúng báo cáo cho Đảng, cho Chính phủ hiểu rõ, để đặt chính
sách cho đúng” [36, tr.269]. Thực tế là, mọi chủ trương, đường lối của Đảng
và Chính phủ đều do cán bộ nghiên cứu, đề xuất, đồng thời cũng do cán bộ tổ
chức, hướng dẫn nhân dân thực hiện. Do đó đường lối của Đảng đúng hay sai,
tổ chức thực hiện thành hay không đều phụ thuộc vào cán bộ.
Ngày 13/11/2008, Quốc hội đã ban hành Luật Cán bộ, công chức, theo
đó tại Điều 4 quy định:
Cán bộ là cơng dân Việt Nam, được bầu cử, phê chuẩn, bổ nhiệm
giữ chức vụ, chức danh theo nhiệm kỳ trong cơ quan của Đảng Cộng
sản Việt Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội ở Trung ương, ở
tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (sau đây gọi chung là cấp tỉnh),
ở huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (sau đây gọi chung là cấp
huyện), trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước [37, tr.1].
Như vậy, về cơ bản thì hàm nghĩa chính của từ cán bộ là bộ khung, là
nịng cốt, là chỉ huy.
Từ đó có thể quan niệm: Cán bộ là khái niệm chỉ những người có chức
vụ, vai trị và cương vị nịng cốt trong một tổ chức, có tác động, ảnh hưởng
đến hoạt động của tổ chức và các quan hệ trong lãnh đạo, chỉ huy quản lý,
điều hành, góp phần định hướng sự phát triển của tổ chức.
- Khái niệm công chức:
Công chức là khái niệm được dùng phổ biến ở nhiều quốc gia trên thế
giới nhưng được hiểu không giống nhau, thậm chí ngay trong phạm vi một
quốc gia quan niệm về công chức qua các thời kỳ cũng khác nhau. Tuy vậy,
nhìn chung thì tại một số nước, cơng chức được hiểu là những công dân được
tuyển dụng, bổ nhiệm giữ một công vụ thường xuyên trong một công sở của
Nhà nước ở trung ương hay địa phương, ở trong nước hay ngoài nước, được
xếp vào một ngạch và hưởng lương từ ngân sách nhà nước.



11

Ở nước ta, khái niệm công chức lần đầu tiên được nêu ra tại Điều 1 Sắc
lệnh 76/SL ngày 20/5/1950 của Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hòa
ban hành quy chế công chức. Theo quy chế này, công chức được hiểu là:
“Những cơng dân Việt Nam được chính quyền nhân dân tuyển để giữ một
chức vụ thường xuyên trong các cơ quan Chính phủ, ở trong hay ngồi nước
đều là công chức theo quy chế này, trừ những trường hợp riêng biệt do Chính
phủ quy định” [21, tr.2]. Như vậy phạm vi công chức quy định trong Sắc lệnh
nêu trên rất hẹp, chỉ là những người được tuyển dụng giữ một chức vụ thường
xuyên trong các cơ quan Chính phủ, khơng bao gồm những người làm trong
các cơ quan đơn vị sự nghiệp, các cơ quan Toà án, Viện Kiểm sát...
Trong khoảng thời gian từ đầu thập kỷ 1960 đến cuối thập kỷ 1980,
thuật ngữ “cán bộ, công nhân viên chức nhà nước” được sử dụng rộng rãi,
thường xun và khái niệm cơng chức gần như khơng cịn.
Tại Nghị định số 169/HĐBT ngày 25/5/1991 về công chức nhà nước,
Thuật ngữ công chức được quy định như sau: “Công dân Việt Nam được
tuyển dụng và bổ nhiệm giữ một công vụ thường xuyên trong công sở của nhà
nước ở trung ương hay địa phương, ở trong nước hay ngoài nước đã được
xếp vào một ngạch, hưởng lương do ngân sách nhà nước cấp gọi là công chức”
[26, tr.1]. Tuy nhiên tại Điều 2 Nghị định này, khi quy định những đối tượng
là công chức và không phải là công chức thì lại có một số đối tượng như cơng
an, những người làm nghiên cứu khoa học, giáo viên, nhà báo, nghệ sỹ…chưa
được xếp vào loại nào.
Trong một thời gian dài vẫn chưa có khái niệm đầy đủ, chính xác về
“cơng chức”. Trước địi hỏi của tình hình mới, ngày 13/11/2008 tại kỳ họp
thứ 4, Quốc hội khoá XII đã thông qua Luật Cán bộ, công chức. Luật Cán bộ,
công chức ra đời nhằm đẩy mạnh cải cách hành chính, hồn thiện thể chế
cơng vụ, xác định đúng vị trí và địa vị pháp lý của cán bộ, công chức trong bộ



12

máy nhà nước trở thành “công bộc của dân”. Theo đó, tại Khoản 2, Điều 4
của Luật này nêu rõ:
Cơng chức là công dân Việt Nam, được tuyển dụng, bổ nhiệm
vào ngạch, chức vụ, chức danh trong cơ quan của Đảng Cộng sản Việt
Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội ở trung ương, cấp tỉnh, cấp
huyện; trong cơ quan, đơn vị thuộc Quân đội nhân dân mà không phải
là sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân quốc phịng; trong cơ
quan, đơn vị thuộc Cơng an nhân dân mà không phải là sĩ quan, hạ sĩ
quan chuyên nghiệp và trong bộ máy lãnh đạo, quản lý của đơn vị sự
nghiệp công lập của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tổ chức
chính trị - xã hội (sau đây gọi chung là đơn vị sự nghiệp công lập),
trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước; đối với công
chức trong bộ máy lãnh đạo, quản lý của đơn vị sự nghiệp cơng lập thì
lương được bảo đảm từ quỹ lương của đơn vị sự nghiệp công lập theo
quy định của pháp luật [37, tr.1].
Đến ngày 25 tháng 01 năm 2010, Chính phủ đã ban hành Nghị định số
06/NĐ-CP quy định những người là công chức. Theo đó, tại Điều 2 đã nêu
căn cứ xác định cơng chức như sau:
Công chức là công dân Việt Nam, được tuyển dụng, bổ nhiệm
vào ngạch, chức vụ, chức danh, trong biên chế, hưởng lương từ ngân
sách nhà nước hoặc được bảo đảm từ quỹ lương của đơn vị sự nghiệp
công lập theo quy định của pháp luật, làm việc trong các cơ quan, tổ
chức, đơn vị quy định tại Nghị định này [19, tr.1].
Như vậy, qua nhiều giai đoạn lịch sử khác nhau, khái niệm công chức
đã được định nghĩa để phù hợp với tình hình thực tế của từng thời kỳ. Và cho
đến nay, khái niệm này đã được hồn chỉnh, tạo nên cái nhìn mới và tạo sự

thống nhất trong quản lý nhà nước về mọi mặt.


13

1.1.1.2. Khái niệm và đặc điểm cán bộ, công chức khối các cơ quan
Đảng, đồn thể chính trị - xã hội cấp tỉnh
- Khái niệm:
Các cơ quan khối Đảng cấp tỉnh là các cơ quan tham mưu, giúp việc
cho Tỉnh ủy về những lĩnh vực nhất định, gồm: Văn phòng Tỉnh ủy, Cơ quan
ủy ban Kiểm tra Tỉnh ủy, Ban Tổ chức Tỉnh ủy, Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy, Ban
Dân vận Tỉnh ủy và Ban Nội chính Tỉnh ủy (thành lập năm 2013).
Các cơ quan thuộc khối đồn thể chính trị - xã hội cấp tỉnh gồm các
cơ quan sau: Cơ quan ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh, Cơ quan
Liên đoàn Lao động tỉnh, Cơ quan Hội Nơng dân tỉnh, Đồn Thanh niên
Cộng sản Hồ Chí Minh tỉnh (Tỉnh đoàn), Cơ quan Hội Liên hiệp Phụ nữ
tỉnh, Cơ quan Hội Cựu chiến binh tỉnh.
Căn cứ vào các văn bản quy định thì các cơ quan Đảng, đồn thể chính
trị - xã hội cấp tỉnh thực hiện các chức năng, nhiệm vụ chủ yếu sau:
Văn phòng Tỉnh ủy: Là cơ quan tham mưu, tổng hợp của tỉnh ủy: Giúp
tỉnh ủy, mà trực tiếp là ban thường vụ và thường trực tỉnh ủy trong tổ chức,
điều hành công việc lãnh đạo, chỉ đạo, phối hợp hoạt động của các cơ quan
tham mưu; tham mưu, đề xuất chủ trương, chính sách thuộc lĩnh vực kinh tế xã hội, nội chính, đối ngoại của cấp ủy; nguyên tắc, chế độ quản lý tài chính,
tài sản của đảng bộ. Trực tiếp quản lý tài sản, tài chính của tỉnh ủy và các cơ
quan, tổ chức đảng thuộc tỉnh ủy, bảo đảm hậu cần cho hoạt động của cấp ủy;
là trung tâm thông tin tổng hợp phục vụ lãnh đạo của cấp ủy [1, tr.2].
Ban Tổ chức Tỉnh ủy: Là cơ quan tham mưu của tỉnh ủy mà trực tiếp,
thường xuyên là ban thường vụ và thường trực tỉnh ủy về công tác xây dựng
Đảng thuộc lĩnh vực tổ chức, cán bộ, đảng viên, bảo vệ chính trị nội bộ của hệ
thống chính trị trong tỉnh. Xây dựng đề án về tổ chức, cán bộ, đảng viên, bảo

vệ chính trị nội bộ đảng thuộc thẩm quyền quyết định của ban chấp hành, ban
thường vụ tỉnh ủy [1, tr.5].


14

Cơ quan Ủy ban Kiểm tra Tỉnh ủy: Là cơ quan tham mưu giúp ủy ban
kiểm tra Tỉnh ủy thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn về công tác kiểm tra,
giám sát và thi hành kỷ luật đảng trong đảng bộ; thực hiện các nhiệm vụ do
tỉnh ủy, ban thường vụ tỉnh ủy giao. Là cơ quan chuyên môn, nghiệp vụ về
công tác kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ luật đảng của tỉnh ủy [1, tr.8].
Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy: Là cơ quan tham mưu của tỉnh ủy, trực tiếp và
thường xuyên là ban thường vụ, thường trực tỉnh ủy về công tác xây dựng
đảng thuộc các lĩnh vực chính trị, tư tưởng - văn hố, khoa giáo, biên soạn về
lịch sử đảng bộ địa phương. Là cơ quan chuyên môn - nghiệp vụ về công tác
tuyên giáo của tỉnh ủy [1, tr.10].
Ban Dân vận Tỉnh ủy: Là cơ quan tham mưu của cấp ủy, mà trực tiếp
và thường xuyên là ban thường vụ, thường trực tỉnh ủy về cơng tác dân vận
của Đảng, trong đó có cơng tác dân tộc, tôn giáo. Là cơ quan chuyên môn,
nghiệp vụ về công tác dân vận của tỉnh ủy [1, tr.12].
Ban Nội chính Tỉnh ủy: Là cơ quan tham mưu của tỉnh ủy mà trực tiếp,
thường xuyên là ban thường vụ tỉnh ủy, thường trực tỉnh ủy về công tác nội
chính và phịng, chống tham nhũng [3, tr.1].
Cơ quan ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cấp tỉnh: Là cơ quan tham
mưu, giúp việc cho Ban Thường trực, ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt nam cấp
tỉnh về công tác mặt trận ở địa phương [56, tr.1].
Cơ quan Liên đoàn Lao động tỉnh: Là cơ quan tham mưu của ban chấp
hành, ban thường vụ về các chủ trương, nghị quyết, kế hoạch cơng tác của
Cơng đồn phù hợp với đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà
nước, Tổng Liên đồn và chức năng của tổ chức Cơng đoàn; giúp Ban Chấp

hành, ban thường vụ hướng dẫn, kiểm tra, tổng kết phong trào công nhân và
hoạt động Công đoàn [39, tr.3].


15

Cơ quan Hội nông dân tỉnh: Là cơ quan giúp Ban Chấp hành trực tiếp
là Ban Thường vụ tỉnh, thành Hội trong việc tập hợp, vận động, giáo dục hội
viên, nơng dân phát huy quyền làm chủ, tích cực học tập nâng cao trình độ,
năng lực về mọi mặt; chăm lo, bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng, hợp pháp
của nông dân, tổ chức các hoạt động dịch vụ, tư vấn, hỗ trợ nông dân trong
sản xuất và đời sống [43, tr.2].
Cơ quan Tỉnh đoàn: Là cơ quan tham mưu cho Ban Chấp hành, Ban
thường vụ tỉnh, thành đoàn về cơng tác đồn, hội, đội và phong trào thanh,
thiếu nhi; đề ra các chủ trương, kế hoạch, chương trình cơng tác Đồn và
phong trào thanh thiếu nhi của tỉnh. Tổng hợp, phân tích, đánh giá tình hình
hoạt động Đồn và phong trào thanh thiếu nhi của tỉnh [14, tr.1].
Cơ quan Hội Liên hiệp Phụ nữ tỉnh: Là cơ quan tham mưu, giúp việc
cho Ban Chấp hành, Ban thường vụ Hội liên hiệp Phụ nữ tỉnh/thành trong
việc lãnh đạo, chỉ đạo, xây dựng, tổ chức các hoạt động của Hội, phong trào
phụ nữ; thực hiện các nhiệm vụ chính trị do cấp ủy giao [31, tr.2].
Cơ quan Hội Cựu chiến binh tỉnh: Là cơ quan giúp Ban Chấp hành
trực tiếp là Ban Thường vụ tỉnh, thành Hội lãnh đạo, chỉ đạo các tổ chức
Hội thực hiện nhiệm vụ tham gia xây dựng và bảo vệ Đảng, chính quyền,
chế độ xã hội chủ nghĩa; đấu tranh chống mọi hoạt động phá hoại của các
thế lực thù địch và những quan điểm sai trái với đường lối, chính sách của
Đảng, pháp luật của Nhà nước; chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí và
các tệ nạn xã hội; tham gia giám sát hoạt động của cán bộ, công chức ở địa
phương theo quy định của Pháp luật và tham gia phản biện xã hội; tham
mưu chó cấp ủy, chính quyền địa phương về thực hiện các chính sách của

Đảng, Nhà nước đã ban hành và hướng dẫn thực hiện các chính sách đối
với cựu chiến binh [42, tr.1].


16

Căn cứ Luật Cán bộ, công chức ngày 13/11/2008 của Quốc hội khoá
XII và Nghị định số 06/NĐ-CP ngày 25/01/2010 của Chính phủ, cán bộ, cơng
chức khối các cơ quan Đảng, đồn thể chính trị - xã hội cấp tỉnh bao gồm:
Cán bộ, công chức trong cơ quan của Đảng Cộng sản Việt Nam ở cấp
tỉnh bao gồm: Người giữ chức vụ, chức danh người đứng đầu, cấp phó của
người đứng đầu và người làm việc trong văn phòng, cơ quan ủy ban kiểm tra,
các ban của tỉnh ủy, thành ủy [19, tr.2].
Cán bộ, công chức trong cơ quan của tổ chức chính trị - xã hội ở cấp
tỉnh bao gồm: Chánh văn phịng, Phó Chánh văn phịng, Trưởng ban, Phó
Trưởng ban và người làm việc trong văn phịng, ban thuộc cơ cấu tổ chức ở
cấp tỉnh của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Liên đồn Lao động, Hội Nơng dân,
Đồn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Liên hiệp Phụ nữ, Hội Cựu
chiến binh [19, tr.5].
- Đặc điểm:
Cán bộ, cơng chức khối các cơ quan Đảng, đồn thể chính trị - xã hội
cấp tỉnh là một bộ phận của đội ngũ cán bộ, cơng chức trong tồn quốc, làm
việc trong các cơ quan Đảng, đồn thể chính trị - xã hội cấp tỉnh. Là đối
tượng điều chỉnh của Luật Cán bộ cơng chức, có đầy đủ các đặc điểm, các
quyền và nghĩa vụ được pháp luật quy định; họ là lực lượng quan trọng trong
việc tuyên truyền và đưa các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước
vào cuộc sống.
Trong q trình thực hiện nhiệm vụ chính trị của cơ quan, đơn vị, họ có
điều kiện, nghĩa vụ phải nắm vững và am hiểu những đặc điểm, thế mạnh,
những thuận lợi, ưu thế và khó khăn thách thức của địa phương.

Đội ngũ cán bộ, công chức khối các cơ quan Đảng, đồn thể chính trị xã hội cấp tỉnh muốn thực hiện tốt chức trách, nhiệm vụ được giao thì bên
cạnh việc phải đảm bảo các yêu cầu chung về tiêu chuẩn của từng ngạch công


17

chức theo quy định, họ đồng thời còn phải là những người năng động, sáng
tạo, am hiểu tình hình địa phương, đơn vị nhằm góp phần quan trọng trong
việc đưa các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước vào cuộc sống.
Như vậy, cán bộ, công chức khối các cơ quan Đảng, đồn thể chính trị xã hội cấp tỉnh có các đặc điểm sau:
Một là, Họ là chủ thể của nền công vụ, là những người thực thi công vụ
và được đảm bảo các điều kiện cần thiết, quyền lợi chính đáng để có khả năng
và n tâm thực hiện các nhiệm vụ được giao.
Như chúng ta đã biết, hoạt động của các cơ quan công quyền được vận
hành chủ yếu thông qua nền công vụ và đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức
nhà nước. Đội ngũ đó chính là những người có vai trị quan trọng trong việc
vận hành bộ máy hành chính. Đó là hạt nhân cơ bản của nền công vụ, là chủ
thể tiến hành các hoạt động công vụ, đảm bảo nền công vụ hoạt động có hiệu
lực, hiệu quả.
Để đảm bảo cho đội ngũ cán bộ, cơng chức hoạt động có hiệu quả,
Đảng và Nhà nước cung cấp các điều kiện cần thiết để họ tiến hành thực thi
công vụ như trụ sở, điều kiện làm việc….Họ được đảm bảo các điều kiện vật
chất và tinh thần như hưởng lương từ ngân sách nhà nước, nhận các loại trợ
cấp, phụ cấp, được khen thưởng khi có cơng lao xứng đáng…Chính nhờ đó
họ sẽ n tâm cơng tác, nỗ lực hồn thành các nhiệm vụ được giao.
Hai là, họ là những người làm việc thường xun trong các cơ quan
Đảng, đồn thể chính trị - xã hội cấp tỉnh, trong biên chế và hưởng lương từ
ngân sách nhà nước.
Theo quy định của Luật Cán bộ, cơng chức năm 2008, các Nghị định
của Chính phủ và các văn bản quy định của Đảng thì đây là những người đảm

nhiệm những công việc thường xuyên, trong biên chế tại các cơ quan thuộc
khối Đảng, đoàn thể chính trị - xã hội cấp tỉnh.


18

Họ được xếp vào một ngạch trong hệ thống ngạch công chức do Nhà
nước ban hành. Mỗi ngạch công chức có nhiều bậc; mỗi ngạch, bậc có những
tiêu chuẩn về trình độ, chun mơn nghiệp vụ, thâm niên cơng tác khác nhau.
Hiện nay ngạch cơng chức hành chính của nước ta gồm: Chuyên viên cao cấp,
chuyên viên chính, chuyên viên, cán sự và tương đương.
Ba là, tính chất cơng việc của cán bộ, cơng chức khối các cơ quan
Đảng, đồn thể chính trị - xã hội cấp tỉnh có những điểm riêng biệt so với cán
bộ, cơng chức nói chung.
Nếu cán bộ, cơng chức khối các cơ quan hành chính nhà nước thực hiện
các nhiệm vụ chủ yếu liên quan đến các mảng kinh tế, xã hội, an ninh, quốc
phòng...và cơng việc mang tính chất cụ thể hóa, triển khai các chủ trương,
định hướng vào thực tiễn cuộc sống thì cán bộ, cơng chức khối các cơ quan
Đảng, đồn thể chính trị - xã hội lại chủ yếu thực hiện các nhiệm vụ về chính
trị, tư tưởng và kết quả của việc thực hiện nhiệm vụ chính trị chính là những
chủ trương, đường lối mang tính định hướng.
Bốn là, họ là lực lượng lao động chun nghiệp, có tính chun mơn
hóa cao.
Mỗi cơ quan trong hệ thống các cơ quan Đảng, đồn thể chính trị xã
hội cấp tỉnh được giao thực hiện những nhiệm vụ chính trị khác nhau. Chính
vì thế, đội ngũ cán bộ, công chức tại đây cũng được phân cơng những mảng
cơng việc mang tính chất chun mơn hóa cao, phù hợp với trình độ, năng lực
và chun mơn đã được đào tạo, bồi dưỡng. Chính nhờ thế hiệu quả công việc
sẽ ngày càng được nâng cao.
Bước vào giai đoạn cách mạng mới, giai đoạn cả nước đang tiến

hành thực hiện thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội với hai nhiệm vụ
chiến lược là xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa;
trong bối cảnh tồn cầu hóa kinh tế và hội nhập quốc tế, bên cạnh những


19

thời cơ và thuận lợi, cách mạng nước ta đang đứng trước nhiều nguy cơ,
thách thức lớn, đan xen, tác động tổng hợp và phức tạp, chẳng hạn như
chiến lược “diễn biến hịa bình” của các thế lực thù địch, sự ảnh hưởng của
các trào lưu tư tưởng lệch lạc, phản động…Tuy trong hoàn cảnh ấy nhưng
đội ngũ cán bộ, cơng chức khối các cơ quan Đảng, đồn thể chính trị - xã
hội cấp tỉnh luôn tuyệt đối trung thành với Đảng, với Tổ quốc, có sự nhạy
cảm chính trị và bản lĩnh chính trị vững vàng; ln ra sức tuyên truyền, vận
động những người xung quanh thực hiện nghiêm các chủ trương của Đảng,
pháp luật của Nhà nước.
1.1.1.3. Khái niệm đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức
“Đào tạo” và “bồi dưỡng” là các thuật ngữ được sử dụng rất phổ biến
trong các văn bản quy phạm pháp luật cũng như các tài liệu nghiên cứu ở
nước ta, tuy nhiên cách tiếp cận này cũng theo nhiều chiều khác nhau. Chung
quy lại có hai cách hiểu cơ bản như sau:
Trong cách hiểu thứ nhất, khái niệm này bao gồm 2 nội dung: Đào tạo
và bồi dưỡng. Trong cách hiểu này thì đào tạo, bồi dưỡng vừa thực hiện
những nhiệm vụ của giáo dục quốc dân - tổ chức đào tạo các trình độ trung
cấp, cao đẳng, đại học và sau đại học; vừa tổ chức cập nhật kiến thức, trang bị
kỹ năng, phương pháp làm việc cho cán bộ, công chức.
Trong cách hiểu thứ hai, đào tạo, bồi dưỡng là một thuật ngữ không
tách rời, là hoạt động thường xuyên của các cơ quan, đơn vị quản lý và sử
dụng công chức nhằm cập nhật kiến thức, trang bị kỹ năng, phương pháp làm
việc... cho cán bộ, công chức.

Như vậy, vẫn có nhiều cách giải thích khác nhau về khái niệm đào tạo,
bồi dưỡng cán bộ, công chức, do đó cần có một cách tiếp cận sát với thực tế
về hai khái niệm này:


20

- Khái niệm “đào tạo”:
Từ điển Tiếng Việt của Trung tâm Khoa học xã hội và Nhân văn Quốc
gia đã đưa ra khái niệm: “Đào tạo: Làm cho trở thành người có năng lực theo
những tiêu chuẩn nhất định” [45, tr.450].
Theo từ điển Bách khoa Việt Nam định nghĩa:
Đào tạo là quá trình tác động đến con người, nhằm làm cho
người đó lĩnh hội và nắm vững những tri thức, kỹ năng, kỹ xảo… một
cách có hệ thống, chuẩn bị cho người đó thích nghi với cuộc sống và
khả năng nhận sự phân cơng lao động nhất định, góp phần của mình vào
phát triển xã hội, duy trì và khai hóa nền văn minh lồi người [44, tr.755].
Theo Khoản 1, Điều 5, Nghị định số 18/2010/NĐ-CP ngày 05/3/2010
của Chính phủ về đào tạo, bồi dưỡng cơng chức (có hiệu lực thi hành kể từ
ngày 01/05/2010) đã giải thích: “Đào tạo là q trình truyền thụ, tiếp nhận có hệ
thống những tri thức, kỹ năng theo quy định của từng cấp học, bậc học” [20, tr.2].
Như vậy, trong khái niệm này, “đào tạo” là một quá trình tác động qua
lại giữa hai chủ thể: Chủ thể “truyền thụ” và chủ thể “tiếp nhận”. Thơng qua
q trình đó làm cho người được đào tạo có kiến thức chun mơn, nghề
nghiệp, kỹ năng nghiệp vụ theo tiêu chuẩn nhất định do yêu cầu, địi hỏi của
cơng việc.
Đào tạo cán bộ, cơng chức giúp họ đạt được những yêu cầu về kiến
thức chuyên môn, nghề nghiệp, kỹ năng nghiệp vụ theo tiêu chuẩn chung đối
với từng ngạch, bậc hành chính của từng cơng chức và phù hợp với yêu cầu,
đòi hỏi của từng chức danh, công việc mà cán bộ, công chức đảm nhiệm trong

các cơ quan, đơn vị.
Đào tạo cán bộ, công chức nói chung chỉ giới hạn trong phạm vi điều
chỉnh của Luật Cán bộ, công chức và một số văn bản pháp luật có liên quan;
được tiến hành chủ yếu ở các cơ sở đào tạo cán bộ, công chức của Đảng và


×