Tải bản đầy đủ (.pdf) (20 trang)

SKKN một số giải pháp huy động và duy trì sĩ số học sinh ở vùng dân tộc thiểu số

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (212.69 KB, 20 trang )

1. PHẦN MỞ ĐẦU
1.1. Lý do chọn đề tài
Bậc tiểu học là nền móng kế tiếp sự phát triển của bậc học phổ thơng. Chính
vì vậy chất lương Dạy - Học trong trường tiểu học có ý nghĩa hết sức quan
trọng. Để việc dạy và học đối với học sinh dân tộc thiểu số có hiệu quả. Việc
đầu tiên đối với giáo viên dạy vùng đồng bào dân tộc thiểu số là phải duy trì tốt
sĩ số hàng ngày. Có như vậy mới đảm bảo và nâng cao được chất lượng dạy và
học trong nhà trường và ngành giáo dục trong giai đoạn đổi mới của đất nước
ngày nay.
Những năm gần đây, chất lượng dạy và học của các trường miền núi có nhiều
chuyển biến, tiến bộ rõ rệt. Việc nâng cao chất lượng dạy và học đến nay đã trở
thành một việc làm hết sức cần thiết, được toàn xã hội quan tâm. Tuy nhiên
việc nâng cao chất lượng là việc làm khơng dễ đối với giáo viên. Vì vậy để
giúp học sinh đồng bào trong thôn bản đi học chuyên cần là một yếu tố rất
quan trọng . Bởi chất lượng dạy và học phụ thuộc nhiều vào thái độ học tập của
học sinh. Một lớp học mà học sinh đi học đầy đủ thì giáo viên mới có thể tổ
chức cho các em học tập tốt được, nếu học sinh nghỉ nhiều thì lớp học sẽ buồn
tẻ, hiệu quả không cao, bản thân học sinh nghỉ sẽ bị hổng kiến thức, chất lượng
học sẽ bị giảm sút, dẫn đến các em chán học và muốn nghỉ học.
Chính vì vậy vấn đề đặt ra ở đây là phải làm thế nào để giúp các em học sinh
có thói quen đi học đều và phải hướng dẫn các em có một quy trình học tập, có
khả năng thích ứng, chủ động, sáng tạo trong giai đoạn đổi mới hiện nay. Để
đáp ứng được nhu cầu này thì một trong những nhiệm vụ quan trọng nhất của
giáo viên dạy trong thơn (bản) là phải huy động và duy trì được sĩ số học sinh.
Vì học sinh khơng chỉ là đối tượng để giáo dục, mà còn là sản phẩm của q
trình dạy học. Sản phẩm đó chính là con người đựơc đào tạo. Do đó có được sĩ
số học sinh hàng ngày thì mới góp phần vào cơng cuộc dạy và học, nâng cao
chất lượng trong nhà trường.
Thực tế đã cho ta thấy hiện nay ở các lớp học trong bản khơng có học sinh
1



bỏ học, nhưng tỉ lệ chuyên cần chưa cao, hiện tượng học sinh nghỉ học tùy
tiện vẫn còn, đặc biệt là về mùa mưa rét. Điều đó ảnh hưởng khơng nhỏ đến
chất lượng dạy học. Từ thực tế này với trách nhiệm của giáo viên dạy trong
bản, đối tượng là học sinh đồng bào Vân Kiều. Tôi nghĩ: Phải làm thế nào?
Phải có cách gì? Để học sinh có thói quen đi học đều (chun cần).
Đó cũng là lí do mà tôi chọn sáng kiến: “Một số giải pháp huy động và duy
trì sĩ số học sinh ở vùng dân tộc thiểu số”.
1.2. Điểm mới của đề tài
Huy động và duy trì sĩ số học sinh có thể nói là một vấn đề khơng có gì mới
mẻ, đặc biệt nó đã được rất nhiều người công tác trong lĩnh vực giáo dục nghiên
cứu và quan tâm. Tuy nhiên, điểm mới và khác biệt đề tài này là đối tượng học
sinh được nói đến là học sinh con em vùng dân tộc thiểu số. Các em hầu như chỉ
được tiếp thu ở trường học và một phần do các em tự lĩnh hội lấy bởi vì bố mẹ
ln đi rừng, đi rẫy trong một thời gian dài, không ai định hướng, chỉ bảo, nhắc
nhở cho các em phải đi học chuyên cần kể cả những ngày mưa rét. Bên cạnh đó
vì điều kiện xa xôi, vùng biên giới nên các em ít được tiếp xúc nhiều với các
phương tiện truyền thông như truyền hình, đài báo, mơi trường giao tiếp đồng
bằng… nên có thể nói kĩ năng đi học chuyên cần của học sinh chưa có nền tảng
hình thành.
Nội dung của sáng kiến đánh giá được một số mặt trong hoàn cảnh sống tác
động tới học sinh vùng khó; đề xuất được cách tiếp cận mới trong giáo dục theo
hướng giáo dục mang tính đặc thù của học sinh dân tộc thiểu số và sử dụng các
phương pháp, hình thức tổ chức giáo dục tích cực, khai thác nội dụng giáo dục
của bài học… để giáo dục cho học sinh đi học chuyên cần giúp các em học tập
được tốt hơn.
Với sáng kiến: “Một số giải pháp huy động và duy trì sĩ số học sinh ở
vùng dân tộc thiểu số”. Bản thân tơi muốn góp thêm giải pháp nhỏ vào việc
duy trì sĩ số học sinh đồng bào, giúp các em đi học đều, đúng giờ, có thói quen
2



học tập tốt u thích việc đi học… Duy trì tốt sĩ số học sinh là góp phần nâng
cao chất lượng dạy và học. Tạo điều kiện cho học sinh trau dồi kiến thức. Đồng
thời giáo viên phát huy tốt vai trị đối với cơng tác chủ nhiệm lớp, nâng cao uy
tín của giáo viên tiểu học, huy động được sự quan tâm giúp đỡ của phụ huynh
học sinh, sự ủng hộ nhiệt tình của cán bộ thơn, bản…Có như vậy thì hiệu quả
học tập của các em sẽ được nâng cao. Cũng là cơ sở ban đầu cho việc hình thành
và phát triển đạo đức đúng đắn, lâu dài về mặt tình cảm.
1.3. Phạm vi áp dụng của đề tài
Với sáng kiến kinh nghiệm này tôi chỉ áp dụng cho học sinh có đối tượng
là học sinh vùng dân tộc thiểu số.
2. PHẦN NỘI DUNG
2.1. Thực trạng về công tác huy động và duy trì sĩ số của học sinh tại
trường
2.1.1. Một số thuận lợi:
* Về phía nhà trường
- Nhà trường đã triển khai khá hiệu quả công tác huy động và duy trì sĩ số
của học sinh, kĩ năng làm việc, sinh hoạt ở khu nội trú, rèn luyện sức khỏe và
bảo vệ sức khỏe, rèn luyện kĩ năng ứng xử văn hóa, chung sống hịa bình, phịng
ngừa bạo lực và các tệ nạn xã hội.
* Về phía giáo viên:
- Giáo viên được đào tạo bài bản, có đủ trình độ, năng lực để huy động và
duy trì sĩ số học sinh lớp mình chủ nhiệm.
- Giáo viên chủ nhiệm cũng là giáo viên trực tiếp giảng dạy nên rất thuận lợi
trong việc nắm bắt, theo dõi học trị mình. Từ đó có những biện pháp hợp lí giúp
học sinh khắc phục những hạn chế.
- Giáo viên được tiếp cận, trang bị đầy đủ công nghệ thông tin.

3



- Bản thân của người giáo viên chủ nhiệm luôn nhiệt tình, tích cực học hỏi,
nhận thức rõ tầm quan trọng của công tác phối, kết hợp với cha mẹ học sinh
trong việc nâng cao chất lượng giáo dục. Đội ngũ giáo viên có trình độ chun
mơn đạt chuẩn, trên chuẩn 100%, có thời gian cơng tác lâu năm nên việc trao
đổi, học tập các kinh nghiệm trong công tác chủ nhiệm có nhiều thuận lợi.
- Ln được cập nhật, nắm bắt kịp thời các thông tin, văn bản, chị thị có liên
quan về nội dung giáo dục duy trì sĩ số của bậc học.
- Ban giám hiệu nhà trường luôn quan tâm tới công tác chuyên môn, sĩ số
học sinh và có chỉ đạo kịp thời khi có học sinh vắng mặt.
- Nhiều cha mẹ học sinh ngày càng quan tâm tới việc học của con em mình.
* Về phía học sinh
- Hầu hết các em rất ngoan, đều cùng ở một điểm bản
- Học sinh thường xuyên được nghe thầy cô giáo tuyyên truyền nhắc nhở
vận động.
- Học sinh ngày càng được tham gia nhiều hơn các hoạt động tập thể, hoạt
động xã hội.
2.1.2. Một số khó khăn:
- Học sinh đều là em con dân tộc thiểu số, đa số gia đình nghèo túng, thiếu
thốn.
- Nhiều phụ huynh chưa coi trọng việc học tập của con em mình, họ chưa
hiểu học để làm gì? Vì họ cho rằng : Có học thì cũng ở nhà kiếm củi, làm
rẫy…
- Học sinh chưa có ý thức học tập, nhút nhát, nói năng tự do theo ý thích,
nhưng rất hay tự ái.
- Các em hay nghỉ học tùy ý. Nhiều khi cha mẹ bắt nghỉ học coi em hoặc đi
rẫy theo bố mẹ nhiều ngày.

4



2.1.3. Số liệu thống kê
- Quá trình giảng dạy tại trường, tôi được phân công giảng dạy lớp 5
(100% học sinh dân tộc thiểu số). Tôi nhận thấy các em cùng ở một điểm bản
nhưng thể chất của các em phát triển khơng đồng đều, có nhận thức và tính
cách khác nhau, một số em hay nghỉ học khơng có lí do.
Để việc giúp các em đi học chuyên cần đạt kết quả cao. Tôi tiến hành theo
dõi việc đi học của học sinh ngay sau một tuần khi tôi nhận lớp.
Cụ thể một tuần của tháng 9 là
Thứ

Ngày

Sĩ số

Hiện diện

Hai

23/9

16

13

Ba

24/9


16

12



25/9

16

14

Năm

26/9

16

16

Sáu

27/9

16

14

* Qua số lượng trên cho ta thấy. Nhìn chung các em đã có tham gia đi học.
Nhưng các em cịn hay nghỉ học. Khiến cho tơi rất lo lắng cho chất lượng học

tập của các em.
- Với trách nhiệm của giáo viên chủ nhiệm của một lớp tôi đã trăn trở và đã
tìm ra những nguyên nhân vì sao học sinh hay nghỉ học? vì sao các em khơng
thích đi học ?.... Và từng bước đề ra những giải pháp phù hợp nhằm khắc phục
những tồn tại giúp học sinh đi học chuyên cần trong sự bền vững.
2.1.4. Nguyên nhân
Qua theo dõi và nắm bắt việc đi học hàng ngày của học sinh tôi nhận thấy
a. Do nhận thức của phụ huynh học sinh cịn thấp, họ khơng coi trọng việc
đi học của con em. Nhiều phụ huynh đã nói: Học để làm gì? Có đi học về
cũng chỉ ở nhà lấy chồng, lấy vợ, kiếm củi, làm rẫy…Nên kệ nó, nó thích thì
nó đi học nó khơng thích thì thơi mình khơng biết.
5


b. Học sinh vốn quen tính tự do trong gia đình, thích thì học mà khơng thích
thì chơi, khơng ai nhắc nhở… Đến lớp học thì phải ngồi nghiêm túc, khơng
được làm việc riêng, khơng được nói chuyện …
Phải đọc, phải viết, phải suy nghĩ để trả lời câu hỏi của thầy, cơ giáo trong các
giờ học…. Do đó các em cảm thấy bị gị bó, khó chịu….
c . Đọc sai, viết sai, cô sửa, cô nhắc nhở nhiều dẫn đến tự ái, buồn rồi nghỉ học
d. Giáo viên đôi lúc chưa chú trọng đến việc giúp học sinh đi học chuyên cần,
nhiều khi chưa nhiệt tình, chưa động viên nhắc nhở…
e. Hình thức tổ chức các giờ dạy cịn đơn điệu, nghèo nàn, dễ tạo sự nhàm
chán, ít kích thích sự hứng thú học tập của học sinh.
g. Cơ sở vật chất của nhà trường còn thiếu thốn. chưa có đủ đồ dùng học tập
cho học sinh.
h. Đường đi lại chưa được thuận lợi…. Còn rất nhiều nguyên nhân khác dẫn
đến các em nghỉ học. Nhưng cái chung nhất quyết định chính là các em chưa
có động cơ học tập đúng đắn.
*Vậy để khắc phục các tồn tại trên. Người giáo viên ngồi hiểu biết về

chun mơn cịn phải kiên trì, khéo léo, tận tâm để tìm ra những biện pháp
thích hợp nhằm giúp học sinh đi học chuyên cần.
2.2. Các giải pháp
Qua tình hình thực tế, là giáo viên chủ nhiệm lớp ở trong bản tôi đã mạnh dạn
tiến hành với những giải pháp như sau:
2.2.1 Giải pháp 1: Phổ biến nội quy ngay từ đầu năm tới học sinh - phụ
huynh
Tổ chức học nội quy lớp ngay tuần đầu của năm học. Quy định rõ: học sinh
phải đi học đều và đúng giờ, nghỉ học phải có lí do và được cha mẹ xin phép.
Tổ chức họp phụ huynh học sinh đầu năm, thông báo cho phụ huynh biết
về quy định và nhờ phụ huynh hàng ngày theo dõi, nhắc nhở.
6


Học sinh đến trường đều tự mình đánh dấu vào Bảng theo dõi “Ngày em đến
lớp”.
Gọi điện thoại liên lạc trực tiếp với phụ huynh đối với những trường hợp
học sinh tự ý nghỉ học khơng có lí do. (Tơi đã nắm được 14/16 số điện thoại của
phụ huynh học sinh trong lớp). 2 em (Hồ Văn Lạc, Hồ Thị Châu) khơng có vì
bố mẹ khơng dùng điện thoại nên phải đến tận nhà tìm hiểu nguyên nhân và trao
đổi cách khắc phục.
Chính nhờ thế mà những học sinh ở lớp tôi chủ nhiệm chỉ nghỉ học 1 ngày
không phép thì đến hơm sau đi học lại bình thường, nên năm 2019-2020 lớp tơi
chủ nhiệm khơng có hiện tượng học sinh ngỉ học học khơng có lí do.
2.2.2 Giải pháp 2: Giúp học sinh khắc phục khó khăn trong học tập
Bản thân giáo viên phải luyện nói (tăng cường tiếng Việt) cho học sinh
trong mỗi tiết học, mọi lúc, qua việc trò chuyện, tâm sự với các em; mỗi tuần
một tiết sinh hoạt tập thể, hoạt động ngoài giờ lên lớp và hướng dẫn học sinh
đọc thêm sách báo tại thư viện của lớp, học ở nhà cùng với việc phân công học
sinh khá cùng đọc hỗ trợ đối với những học sinh gặp khó khăn trong nói và đọc.

(Ví dụ: Có em Hồ Thị Tuyến nói và viết hay sai lỗi chính tả nhiều. Mỗi khi đọc
bài, các bạn góp ý nhiều khiến Tuyến bực bội, đến buổi chiều là nghỉ học luôn.
Tôi đã đến nhà động viên Tuyến trở lại lớp. Trên lớp, mỗi giờ luyện đọc, luyện
viết, tôi đều đến gần động viên, nhận xét, hướng dẫn để Tuyến khắc phục những
lỗi hay gặp phải một cách nhẹ nhàng và hài hước giúp em ấy hòa đồng cùng các
bạn trong nhóm, trong lớp. Mặt khác, tơi cũng gặp và họp riêng với những học
sinh trong nhóm của Tuyến. Hướng dẫn các em cách giúp bạn. Dần dần Tuyến
cũng khá hơn và đi học đều.)
Giáo viên hướng dẫn học sinh gặp khó khăn trong tính tốn về cách nhận
dạng kiến thức, củng cố kiến thức bằng cách ôn luyện theo mỗi ngày. Quan tâm
đặc biệt đến các em, hướng dẫn những học sinh khá, giỏi cùng học với các em.
Hoặc trực tiếp cùng gia đình phối hợp hướng dẫn các em học ở nhà, ở trường.
7


Đồng thời động viên, tuyên dương kịp thời những em có tiến bộ rõ nét, khuyến
khích các em có sự phấn đấu cao hơn, cụ thể:
+ Em Nguyễn Văn Huy hỗ trợ em Hồ Thị Tuyến.
+ Em Hồ Văn Luân hỗ trợ em Hồ Thị Châu.
+ Em Hồ Thị Trinh hỗ trợ em Hồ gia Hữu
Do vậy, kết quả học tập của những đơi bạn cùng tiến trên có sự tiến bộ rõ rệt.
2.2.3 Giải pháp 3: Giúp học sinh thốt khỏi sự tự ti, mặc cảm
Lúc này vai trị của giáo viên hết sức quan trọng đối với tâm hồn trẻ. Người
thầy có thể là cha mẹ hoặc là người bạn và sự điều này giúp cho các em vượt qua
khó khăn. Chính vì vậy, mỗi người thầy là người tương tác với các em trong việc
học tập, sinh hoạt và cốt yếu là luôn cân bằng giữa tư cách là người giữ kỷ cương,
là người bạn tâm tình mỗi khi các em cần sự giúp đỡ. Do vậy, mỗi lời hỏi thăm,
mỗi cử chỉ chăm sóc của cơ thầy sẽ giúp các em thoát khỏi mọi tự ti, mặc cảm.
Có em Hồ Thị tuyến nhập từ tkhu vực khác vào lớp 5B từ đầu năm học
2019-2020. Lúc mới về em ln mặc cảm bởi hồn cảnh nhà nghèo, nói cà lăm

và lại làm quen với mơ hình trường học mới (VNEN), bởi nơi em theo học trước
đó là chương trình hiện hành, lực học của em cũng khơng được tốt lắm. Tôi đã
luôn quan tâm đến em, hướng dẫn em hịa nhập với mơ hình học mới, bạn
mới,…. Tôi hỏi han em giống như một người mẹ, người chị, người bạn. Tiếp
xúc nhiều với cô, với các bạn em dần quen và trở nên mạnh dạn hơn. Có những
giờ học Tuyến trở nên xuất chúng khiến nhiều bạn ngạc nhiên với câu trả lời khá
hoàn hảo và sáng tạo của mình. Những lúc đó tơi đã tun dương khích lệ tinh
thần của em. Tuyến cảm thấy rất phấn khởi và thêm yêu trường lớp, thầy cô giáo
và các bạn mới. Từ đó đến nay, Tuyến đã mạnh dạn và tự tin hơn nhiều, em luôn
đi học đều và đúng giờ. Có khi bị ốm, bố mẹ điện thoại xin phép cô giáo rồi
nhưng Tuyến cũng chỉ nghỉ một buổi đi khám bệnh, buổi chiều vẫn lên lớp học.

8


2.2.4 Giải pháp 4: Quan tâm đến học sinh có hồn cảnh gia đình khó
khăn:
Rà sốt, nắm bắt những học sinh có hồn cảnh nghèo, gia cảnh khó khăn
đăng kí cho các em được nhận dụng cụ, sách vở, quần áo do Nhà trường và Liên
đội và các tổ chức từ thiện hỗ trợ ngay từ đầu năm.
Mua sẵn bút chì, thước, ruột bút kim,… để trong cặp. Khi các em cần thì
đã có ngay để dùng.
Kêu gọi các học sinh trong lớp dành tặng bạn một số quần áo cũ và tranh
thủ sự hỗ trợ từ một số giáo viên, phụ huynh có khả năng để trang bị thêm
những dụng cụ cịn lại cho những em có hồn cảnh khó khăn để các em được
n tâm đến trường, khơng phải mặc cảm vì nhà nghèo, thiếu thốn. (Ví dụ:
Trong lớp, có em Hồ Văn Lạc khơng có bố, mẹ bị tâm thần nên Lạc đã đến lớp
tập trung muộn hơn các bạn. Khi đến lớp, khơng có một loại sách vở, dụng cụ
học tập nào. Tôi đã liên lạc và gặp mặt cậu ruột của Lạc để trao đổi tìm cách
giúp em. Cậu của Lạc sẽ phải mua sắm vở và đồ dùng học tập cho em cịn tơi thì

xin với Nhà trường tạo điều kiện cho em mượn một bộ sách hướng dẫn học.
Được sự giúp đỡ của Ban Giám hiệu và sự phối hợp của phụ huynh, Lạc đã có
đầy đủ các loại sách vở và dụng cụ học tập cần thiết khi đến lớp).
2.2.5 Giải pháp 5: Phối hợp chặt chẽ với các giáo viên bộ môn, giáo viên dạy
thay và Tổng phụ trách Đội:
Trường chúng tôi thực hiện dạy 9 buổi/tuần. Giáo viên làm công tác chủ
nhiệm thực hiện dạy 23 tiết/tuần. Như vậy, với những số tiết còn lại là giáo viên
chuyên và giáo viên dạy thay. Vì vậy nếu khơng có sự phối hợp chặt chẽ giữa
các giáo viên chuyên, giáo viên dạy thay với Tổng phụ trách Đội và giáo viên
chủ nhiệm để duy trì tốt sĩ số thì việc học sinh nghỉ học, bỏ tiết là điều khó tránh
khỏi.

9


Đầu năm học 2019-2020, lớp 5B tơi dạy có mấy trường hợp (Hồ Văn Lạc,
Hồ Văn Vỹ, Hồ Văn Trung…) cứ đến tiết chuyên (Tiếng Anh, Tin học, Đạo
đức, Kĩ Thuật,…) là nghỉ học, bỏ tiết hoặc tùy tiện đổi chỗ trong lớp. Những
buổi sau đến lớp, nghe học sinh trong lớp và giáo viên bộ môn phản ánh lại tôi
thấy khá bức xúc. Tôi liền trao đổi với các giáo viên chuyên cùng phối hợp để
chấn chỉnh kịp thời những điều đó. Tiếp đến, tơi gắn trực tiếp sơ đồ chỗ ngồi,
những lưu ý của học sinh mà giáo viên cần giúp đỡ trên bàn giáo viên để các
giáo viên đến dạy đều nắm rõ được tên và vị trí của từng em. Về lớp, tơi nhắc
nhở và phân tích để các em thấy được tầm quan trọng của việc đi học đều, học
đúng, học đủ các môn học và hoạt động giáo dục. Sau đó, tình trạng này đã
chấm dứt hoàn toàn. Tất cả học sinh đều tự giác, tích cực trong các tiết học, mơn
học và các em đều thể hiện lịng tơn kính của mình với thầy cơ. ( Em Hồ Văn
Lạc sau đó có sự tiến bộ rõ rệt về nhiều mặt: đi học chuyên cần, học tập tốt, chấp
hành tốt các quy định của lớp, của trường,…Em cịn được các thầy cơ nhận xét,
khen ngợi nhiều hơn trong vở.) Và tơi cũng khơng cịn nghe thấy các thầy cô

phàn nàn về học sinh của lớp mình nữa mà thay vào đó là những lời khen: Lớp
học ngoan, chăm chỉ; các em rất lễ phép, tích cực trong học tập và hoạt động
giáo dục.
2.2.6 Giải pháp 6: Tận dụng tối đa sự tác động của mơi trường xã
hội:
Có nhiều học sinh bộc phát nhân cách của mình một cách nhanh chóng
mà bề ngồi khó nhận biết.
Ở trường, việc học tập của các em có dấu hiệu của một sự khủng hoảng
như: học không vào, trốn học, khơng hài lịng với sự nhắc nhở của thầy cô, nhất
là sự nổi lên rầm rộ của phong trào chơi game đang diễn ra phổ biến.
Ở nhà, các em làm cho cha mẹ phải trăn trở, lo lắng và không nghe lời
dạy dỗ của cha mẹ, hay lơ đễnh khơng thèm để ý bất cứ chuyện gì cả.
10


Đối với những trường hợp trên, giáo viên cần linh động các biện pháp giải
quyết, bảo đảm mối quan hệ gắn bó giữa gia đình, nhà trường, tăng cường biện
pháp thuyết phục mà không chê trách, răn đe, trách phạt. Để hướng các em hịa
nhập cùng tập thể lớp, có thể phân công các em đảm trách một nhiệm vụ nào đó
trong lớp hay ghi tên, động viên các em tham gia vào đội tuyển của các môn thể
thao hay các phong trào khác trong hoạt động của lớp học, của nhà trường. Từ đó,
sự say mê trong nhiệm vụ mới, được sự tin yêu của bạn bè, được sự thương mến
của thầy, cô sẽ giúp em vượt qua mọi thị hiếu do môi trường tác động.
Cụ thể, trong lớp tơi có em Nguyễn Văn Đức ở thơn Tân Lập. Nhà nghèo,
đông anh em, bố ham rượu chè, mẹ suốt ngày đi làm thuê kiếm tiên nuôi cả nhà.
Ngay cả các khoản đóng góp theo quy định của trường, của lớp gia đình cũng
khơng có để nộp. Bản thân em Đức lại thích chơi game nên việc em nghỉ học
khơng có lí do diễn ra liên tục trong một thời gian dài khiến tôi khá vất vả. Khi
đến lớp, cô giáo hỏi lí do thì em khơng khi nào nói thật. Tơi đã tìm hiểu qua các
giáo viên chủ nhiệm trước, các giáo viên chuyên,…Tiếp theo, tôi đến nhà và gặp

được mẹ của em Đức. Tôi và mẹ của Đức phối hợp với nhau để giúp Đức đi học
chuyên cần hơn. Hôm nào Đức nghỉ học là tôi điện thoại báo cho phụ huynh, một
lúc sau thấy Đức đã lên lớp. Hỏi ra mới biết mẹ đã tìm Đức từ qn internet. Có
lần khác, Đức nghỉ học, tơi điện thoại cho mẹ em nhưng mẹ lại đang đi làm thuê
cho người ta ở nơi xa thế là tôi chạy ra các quán internet để tìm em vào giờ giải
lao. Những ngày sau đó, dường như Đức cũng phần nào cảm thấy có lỗi nên
khơng nghỉ học nhưng thái độ hợp tác trên lớp có vẻ miễn cưỡng khơng thật sự
thoải mái. Cuối buổi học, tôi gặp riêng Đức hỏi chuyện, phân tích cho em thấy
những cái được cái mất của việc nghỉ học,… Những buổi học trên lớp, tôi luôn
quan tâm đến Đức một cách tự nhiên, hài hòa. Giao cho em phụ trách vị trí Phó
ban Thư viện của lớp. Khi đảm nhận trọng trách này, em sẽ có cơ hội tiếp cận
nhiều hơn với các tài liệu có trong thư viện của lớp mà không phải qua khâu trung
gian. Các bạn khác muốn mượn tài liệu phải thông qua em, như vậy em thấy được
mình cũng có vai trò quan trọng đối với tập thể mà cố gắng. Càng ngày, em càng
11


muốn chứng tỏ khả năng của mình với các bạn nên khơng cịn nghĩ đến chuyện
nghỉ học nữa. Cũng có những buổi em nghỉ học nhưng đều có lí do chính đáng do
người lớn xin phép. Những buổi học sau lên lớp, em rất tích cực học hỏi bạn về
bài đã học hôm trước để theo cho kịp các bạn. Việc đưa được Đức đến lớp đều là
thành công lớn nhất trong ngần ấy năm dạy học của tôi. Ngạc nhiên hơn nữa là
cuối năm học, Đức đã hoàn thành khá tốt các bài kiểm tra, đặc biệt là môn Tiếng
Việt đạt 8 điểm. Các khoản đóng góp tơi cũng xin với nhà trường miễn hết cho
em. Các khoản của lớp, bản thân tôi hỗ trợ cho em phần nào còn nữa là sự hỗ trợ
của cả tập thể lớp.
Mặt khác, đối với những em có mặc cảm do có sự khác biệt về thành
phần dân tộc (Kinh, Ê-đê …) hoặc do chưa thích nghi với mơi trường như:
chuyển trường, lưu ban thì lúc này vai trị của giáo viên rất quan trọng. Giáo
viên sẽ lồng ghép giáo dục khi dạy một số bài Địa lí lớp 4, bài Dân cư nước ta

(Địa lí lớp 5) . Giáo viên cũng có thể kể câu chuyện “Kinh và Ba na đều là anh
em” để hướng tới sự đoàn kết là một. Bên cạnh đó, những cử chỉ, giọng nói của
giáo viên tạo nên sự gần gũi giữa hai mối quan hệ là rất cần thiết. Một cái xoa
đầu, một lời hỏi thăm là bản thân giáo viên đã tạo cho học sinh một sự tin tưởng,
dễ gần. Lòng cảm mến của học sinh đối với giáo viên, giúp các em xóa đi những
mặc cảm, tự ti để hòa nhập với tập thể tốt hơn và ý định chán nản, bỏ học, nghỉ
học sẽ dễ dàng xóa đi trong đầu óc non nớt của các em.
Có các em: Y Sa Muel Niê, Y Huy Byã, H Nang Êban,… những ngày đầu
nhận lớp, thấy các em có vẻ rụt rè. Tơi âm thầm theo dõi và tìm hiểu ngun nhân
thì được biết hồn cảnh của các em ấy khá phức tạp. Y Huy có bố mẹ đã li dị, em
ấy ở với bà ngoại và dì ruột đang học THCS. Y Sa Muel, bố mẹ đi làm ở Thành
phố Hồ Chí Minh, em ở với bà ngoại. H Nang gia đình thuộc hộ nghèo, em cịn
thường xun bị chảy mồ hơi ở tay và chân, …Học lực của 3 em đều ở mức yếu
(qua bài kiểm tra khảo sát đầu năm). Thỉnh thoảng các em ấy lại nghỉ học mà
khơng có lí do. Tơi đã trị chuyện riêng với từng em, hỏi han về mọi chuyện và
12


động viên các em. Bên cạnh đó tơi cũng gặp trực tiếp dì của Y Huy, mẹ của H
Nang cùng tìm biện pháp giúp các em tiến bộ. Riêng với Y Sa muel, tôi đến nhà
nhưng đều không gặp được bà của em (gia đình khơng ai dùng điện thoại). Tôi đã
nhờ đến Hội phụ huynh của lớp, nhờ phụ huynh của những học sinh gần nhà giúp
đỡ. Trên lớp, tôi phân các học sinh khá giỏi giúp đỡ các em. Cho các em tham gia
vào đội quản Sao, hướng dẫn các học sinh lớp 1, 2 xếp hàng tập thể dục đầu giờ
(có sự hướng dẫn của GVCN). Cả ba thấy mình có uy với các em nên khá mạnh
dạn khi làm nhiệm vụ được giao. Các em hồ hởi nói về những em nhỏ mà mình
phụ trách. Những ngày sau đó, các em rất nhớ nhiệm vụ của mình. Biết được vai
trị của mình như thế nào nên các em đều rất cố gắng. Khi có cơ hội là tôi đưa ra
những lời khen với các em. Các em cảm thấy được quan tâm, tin tưởng nên việc
nghỉ học khơng lí do đã hồn tồn khơng cịn. Và việc học tập của các em cũng có

sự tiến bộ rõ rệt. Cuối năm, cả ba em đều hoàn thành chương trình.
2.2.7 Giải pháp 7: Tổ chức tốt tiết sinh hoạt tập thể - sinh hoạt lớp
Phối hợp với Đội thiếu niên tổ chức các buổi sinh hoạt ngoài giờ lên lớp
vui tươi, sinh động, hấp dẫn để các em thấy gần gũi hơn với mọi người.
Tuyên dương, khen thưởng kịp thời những cá nhân, nhóm đạt duy trì sĩ số
suốt cả tuần để làm gương cho lớp và khen những em có tiến bộ về mặt học tập để
các em thấy nhiệm vụ học tập của mình và mỗi ngày đến trường thật sự là một
ngày vui.
Đối với những mặt học sinh còn hạn chế, nhắc nhở nhẹ nhàng kèm theo
hướng dẫn, uốn nắn cho các em để tuần sau các em thực hiện tốt hơn.
Ngoài ra, cần nêu gương các anh, chị học sinh những năm trước dù đầu
năm cịn yếu kém nhưng nhờ sự kiên trì, cố gắng đến cuối năm cũng đã đạt loại
Khá, Giỏi để củng cố lòng tin nơi các em.
Mời cha mẹ học sinh tham gia vào tiết sinh hoạt lớp để nắm bắt được tình
hình học tập và rèn luyện của con em mình.
13


Ví dụ: Trong năm học, tơi có tổ chức tiết sinh hoạt tập thể theo nhu cầu
của đông đảo học sinh trong lớp. Thay vì múa hát, tìm hiểu lịch sử,… tôi tổ chức
thi đấu một số nội dung thể thao theo sở thích của các em như nhảy dây, đá cầu,
cầu lông,…. Các em rất hào hứng và luôn mong muốn được cơ tổ chức như thế
nên ngồi việc hăng say học tập thì các em cũng tích cực rèn luyện ở lớp, ở nhà.
Từ đó, một số em qn hắn những trị chơi vơ bổ và ham đến trường hơn.
2.2.8 Giải pháp 8: Tạo môi trường giáo dục tốt
Cùng học sinh trang trí lớp học, các góc học tập thật sinh động., khuyến
khích lấy ý tưởng của các em.
Mỗi ngày bước vào lớp, tôi đều quan sát cả lớp. Thấy các em có mặt đầy đủ
là lịng tơi rất vui. Nhất là những hôm thời tiết khắc nghiệt như: mưa, gió, …
Những hơm ấy, tơi cho lớp hoan nghênh bằng một tràng pháo tay để động viên

khích lệ tinh thần các em. Trong giờ dạy, tôi đầu tư soạn giảng phân hóa theo đối
tượng học sinh sao cho phù hợp với trình độ mọi học sinh trong lớp - nhất là những
em học yếu nhằm kích thích học sinh hứng thú học tập, tiếp thu bài nhanh hơn.
Lồng ghép những câu chuyện thực tế mang tính giáo dục vào các tiết dạy để tạo
hứng thú cho các em trong mỗi giờ học.
Tơi cũng thật sự hịa nhập cùng các em trong giờ dạy hoạt động ngoại
khố hay trị chơi của đố vui qua hình thức Giải ơ chữ trong các tiết Ôn tập …
Với trường lớp khang trang như hiện nay, đội ngũ giáo viên nhiệt tình, sự
quan tâm của Ban Giám hiệu, sân chơi rộng rãi thoáng mát, “lớp học như là
nhà” đó là một thuận lợi rất lớn để xây dựng môi trường học tập tốt cho học sinh
vui chơi, học tập. Phải tùy hoàn cảnh cụ thể, tạo khung cảnh giáo dục tốt làm
cho học sinh ngồi trong lớp học thấy vui tươi, thích thú và được bày tỏ ý kiến
của mình với bạn, với cô, không nặng nề, sợ sệt. Luôn cùng nhau chăm sóc, lao
động, làm vệ sinh, trang trí trường lớp.

14


Giờ ra chơi, tôi tổ chức hướng dẫn các em vui chơi tập thể, đọc sách báo trong
thư viện của lớp của trường để tạo sự gắn bó thương yêu trong học sinh và sự gần
gũi thân mật giữa học sinh với giáo viên nhà trường….Trong những năm qua, bằng
hình thức này tôi đã tạo cho các em sự vui thích, tìm tịi tham gia tích cực cho phong
trào của lớp, của trường, của huyện tổ chức.
Ngoài ra: để ngăn ngừa, khắc phục và phát huy sự thành công của nghệ
thuật thuyết phục học sinh trở lại trường lớp sau khi nghỉ, bỏ học thì bản thân
giáo viên cần kết hợp chặt chẽ nhiều mặt khác như:
Lập kế hoạch giáo dục cá nhân để cung cấp kiến thức, phát triển năng lực
và hạn chế tối đa những khó khăn của học sinh như đã nêu, giúp các em hòa
nhập một cách tốt nhất với các bạn.
Bố trí chỗ ngồi thuận lợi, quan tâm và dành nhiều thời gian trò chuyện

tiếp xúc với các em. Đồng thời, luôn tạo ra các tình huống mà từng học sinh đều
có thể thệ hiện mình trong đó, cịn giáo viên thì cổ vũ, khuyến khích mọi thành
cơng của các em dù là những thành công rất nhỏ nhất.
Phối hợp với Đội Thiếu niên, Công đồn trong nhà trường để có sự hỗ trợ
và thường xuyên trao đổi với phụ huynh về kế hoạch giáo dục, thuyết phục các
em. Động viên các em tham gia vào các câu lạc bộ văn nghệ, thể thao của lớp,
của trường để tạo sự thích thú cho các em .
Hợp tác với Ban tự quản lớp lập ra “Đôi bạn cùng tiến” và đề ra những
hình thức thi đua khen thưởng để khích lệ tinh thần học tập của các em.
2.3. Kết quả đạt được
*Qua thời gian áp dụng các biện pháp như đã nêu ở trên. Tôi nhận thấy việc đi
học chuyên cần của các em học sinh lớp tôi ngày càng tiến bộ rõ rệt từ lúc các
em hay nghỉ học mà đến nay các em không chỉ đi học đều mà cịn thích đi học.
Các em đã có thói quen đi học đều và đúng giờ. Đáp ứng được sự mong muốn
của GV đang từng ngày mong đợi. Điều đó đã thể hiện như sau:
15


Chẳng hạn 1 tuần của tháng 10 là
Thứ

Ngày

Sĩ số

Hiện diện

Hai

7/1


16

16

Ba

8/1

16

16



9/1

16

16

Năm

10/1

16

16

Sáu


11/1

16

16

Như vậy, diễn biến qua đối chứng thống kê về sĩ số học sinh của lớp tôi.
Tuần cuối của tháng 9 cho thấy việc đến lớp hàng ngày của học sinh luôn đạt từ
96- 100% . Đặc biêt từ sau tháng 12 cho đến cuối tháng 1 đây là giai đoạn mùa
làm rẫy của dân bản nhưng sĩ số học sinh của bản luôn đạt 100% 16/16 em,
những trường hợp vắng do đau ốm cũng được bố mẹ đến xin phép. Nhờ làm tốt
cơng tác duy trì sĩ số học sinh hàng ngày mà chất lượng học tập của các em đã
được tăng lên rõ rệt. Chất lượng học tập của lớp tôi luôn luôn nằm trong tốp
đầu của nhà trường.
Với các giải pháp và biện pháp duy trì sĩ số học sinh đã phát huy tính tự giác,
tích cực trong việc thực hiện chuyên cần, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục
của lớp lên một cách rõ rệt. Học sinh đạt thành tích cao hơn về mặt kiến thức; có
năng lực và phẩm chất ngày càng phát triển đáp ứng được nhu cầu học tập ở các lớp
học cao hơn. Các em ngày càng hào hứng mỗi khi đến trường, tự tin hơn trong giao
tiếp, mạnh dạn bày tỏ các ý kiến của bản thân trước tập thể,…
Những giải pháp đề ra nhằm duy trì sĩ số học sinh, nâng cao chất lượng
giáo dục. Với những giải pháp đó cịn có tác dụng tranh thủ sự tham gia của phụ
huynh vào quá trình giáo dục học sinh. Và theo đánh giá của bản thân, tôi thấy
các giải pháp này có thể áp dụng vào tất cả các lớp học, cấp học; theo chương
trình VNEN hay hiện hành đều tốt, nó sẽ mang lại một kết quả giáo dục tốt.

16



Cần tạo được môi trường thân thiện trong nhà trường. Sự gắn bó mật thiết
giữa thầy với thầy, thầy với trị, giữa học sinh với học sinh,...tạo được khơng khí
vui vẻ học tập, vui chơi trong suốt thời gian ở trường thì chắc chắn các em sẽ
đến lớp đến trường đều đặn, bằng sự tự giác, tích cực và sẽ cảm thấy tiếc nuối
khi phải bỏ học, nghỉ học.
3. Phần kết luận
3.1. Ý nghĩa của đề tài
Duy trì sĩ số hàng ngày đối với học sinh đồng bào ở trong làng bản là
một việc làm cịn nhiều khó khăn vất vả .Vì thế trách nhiệm của giáo viên dạy
trong làng bản nặng nề hơn bao giờ hết. Bởi yêu cầu về chất lượng dạy và học
của ngành giáo dục đòi hỏi ngày càng cao mà nhu cầu học tập của học sinh
dân tộc lại chưa có chuyển biến là bao. Vì thế với những nội dung đã nêu ở
trên, bản thân tôi rút ra được kết luận như sau:
- Mọi việc làm của giáo viên phải thường xuyên, liên tục trong từng ngày, từng
giờ trên lớp. Việc duy trì sĩ số học sinh hàng ngày không chỉ đơn độc một mình
giáo viên chủ nhiệm mà phải kết hợp với lực lượng khác
- Mọi việc mang tính kiên trì, bền vững, đầy tình thương và trách nhiệm, gần
gũi thân mật với từng học sinh, để chia sẻ, động viên, uốn nắn kịp thời. Thực tế
đã cho ta thấy việc dạy học là một nghệ thuật đầy tính sáng tạo, địi hỏi giáo
viên phải sử dụng linh hoạt các phương pháp. Từ đó tìm ra 1 phương pháp
thích hợp để giúp học sinh đi học đều, đúng giờ.
- Giáo viên phải nhiệt tình khơng ngại khó, ngại khổ thực sự u thương, gần
gũi và tôn trọng học sinh.
- Thường xuyên kiểm tra nhắc nhở, uốn nắn kịp thời từng hành vi nhỏ.
- Hàng ngày đầu giờ kiểm tra sĩ số ln có lời khen với các em. Tổ chức các giờ
học tự nhiên, thoải mái ( Có tính kỷ luật)
- Thường xun tuyên dương những học sinh đi học đều, đúng giờ. Việc nhắc
nhở học sinh phải nhẹ nhàng, dịu dàng, tế nhị vì học sinh dân tộc rất dễ tự ái.
17



- Có hình thức khen, thưởng để động viên kích thích để học sinh đi học đều,
đúng giờ.
* Qua quá trình áp dụng các biện pháp để duy trì sĩ số học sinh bản tôi công tác
đã đem lại kết quả thiết thực. Điều đó nói lên rằng: Việc tuân thủ các nguyên
tắc và vận dụng tốt các phương pháp trong cơng tác chủ nhiệm là có hiệu quả,
có tính khả thi trong việc dạy học hiện nay.Tuy nhiên vì nhiều nguyên nhân
khách quan và chủ quan, trong đó có ngun nhân về hình thành thói quen cho
học sinh dân tộc đi học chuyên cần, vì vậy giáo viên cần tiếp tục rèn luyện ở
tháng cuối năm học để kết quả đạt cao và có tính bền vững.
3.2. Kiến nghị, đề xuất
Để đảm bảo được cơng tác duy trì sĩ số, nâng cao chất lượng giáo dục và
tiến tới mục tiêu phổ cập giáo dục Tiểu học đúng độ tuổi. Cần có sự quan tâm hỗ
trợ đúng mức của tồn xã hội. Tơi xin mạnh dạn có một số đề xuất như sau:
* Đối với Đội thiếu niên:
- Tổng phụ trách Đội cần tăng cường hơn nữa những buổi sinh hoạt ngoài
giờ cho các điểm trường lẻ (phân hiệu)
* Đối với nhà trường:
- Có hình thức khen thưởng kịp thời đối với lớp, đối với giáo viên chủ
nhiệm khơng có học sinh bỏ học.
* Đối với chính quyền các cấp:
Ln tạo mọi điều kiện giúp đỡ về vật chất cho những em học sinh nghèo và
những em có hồn cảnh khó khăn để các em được đến trường như các bạn khác và
tham gia vận động học sinh bỏ học đi học lại cùng với giáo viên chủ nhiệm.
Với sáng kiến này tơi mong muốn nhận được sự đóng góp ý kiến của đồng
nghiệp và ý kiến chỉ đạo của các cấp lãnh đạo để việc duy trì sĩ số học sinh dân
tộc hàng ngày trên lớp không là nỗi lo, trăn trở của các giáo viên khi được phân
18



công dạy học sinh dân tộc thiểu số. Đồng thời làm phong phú kinh nghiệm trong
việc huy động và duy trì sĩ số học sinh trên lớp đối với các lớp trong làng bản.
Trên đây là những kinh nghiệm nhỏ mà tơi đã đúc kết được trong q
trình cơng tác. Rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến của Hội đồng Giám
khảo và toàn thể đồng nghiệp để đề tài của tơi tiếp tục được hồn thiện hơn./.

Xin chân thành cảm ơn!

Xác nhận của hội đồng khoa học

MỤC LỤC

1.

Phần mở đầu

Trang 1

1.1.

Lý do chọn đề tài

Trang 1

1.2.

Điểm mới của đề tài

Trang 2


1.3.

Phạm vi áp dụng của đề tài

Trang 3

2.

Phần nội dung

Trang 3

2.1.

Thực trạng về giáo dục kĩ năng sống của học sinh lớp 5 tại trường Trang 3
19


2.2. Các giải pháp

Trang 6

2.3. Kết quả đạt được

Trang 12

3.

Phần kết luận


Trang 13

3.1.

Ý nghĩa của đề tài

Trang 13

3.2.

Kiến nghị, đề xuất

Trang 14

Phụ lục

Trang 16

20



×