Tải bản đầy đủ (.pdf) (147 trang)

Thông tin về giáo dục đại học việt nam trên báo mạng điện tử ở việt nam hiện nay (khảo sát các báo mạng dân trí, tuổi trẻ online, giáo dục việt nam, hoa học trò online từ tháng 62012 đến tháng 52014)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.36 MB, 147 trang )

CHUNG HOAN TAT

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA
HỒ CHÍ MINH

HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN

NGUYỄN PHƢƠNG ANH

THÔNG TIN VỀ GIÁO DỤC ĐẠI HỌC VIỆT NAM
TRÊN BÁO MẠNG ĐIỆN TỬ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
(Khảo sát các báo mạng Dân trí, Tuổi trẻ Online, Giáo dục Việt
Nam, Hoa Học Trò Online từ tháng 6/2012 đến tháng 5/2014)
Ngành

: Báo chí học

Mã số

: 60 32 01 01

LUẬN VĂN THẠC SĨ BÁO CHÍ HỌC

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. ĐỖ THỊ THU HẰNG

HÀ NỘI - 2017


XÁC NHẬN LUẬN VĂN ĐÃ ĐƢỢC SỬA CHỮA



Luận văn đã được sửa chữa theo khuyến nghị của Hội đồng chấm
luận văn thạc sĩ.
Hà Nội, ngày …. tháng năm 2017
CHỦ TỊCH HỘI ĐỒNG


LỜI CAM ĐOAN

Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của cá
nhân tôi. Các số liệu nêu trong luận văn là trung thực.
Những kết luận khoa học của luận văn chưa từng được công
bố trong bất kỳ công trình nào khác.
Tác giả luận văn

Nguyễn Phƣơng Anh


LỜI CẢM ƠN
Tác giả xin gửi lời cảm ơn chân thành đến PGS.TS Đỗ Thị Thu Hằng,
Phó Trưởng khoa Báo chí - Học viện Báo chí và Tuyên truyền, người đã
trực tiếp hướng dẫn và chỉ bảo tận tình trong suốt quá trình tác giả thực
hiện luận văn.
Tác giả xin trân trọng cảm ơn các thầy cô giáo, các nhà nghiên cứu, các
cơ quan, đồng nghiệp, bạn bè và gia đình đã góp ý và hỗ trợ để tác giả hoàn
thành cuốn luận văn này.

Hà Nội, ngày 15 tháng 12 năm 2016



MỤC LỤC
Trang
1

MỞ ĐẦU

Chƣơng 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA THÔNG TIN VỀ GIÁO DỤC ĐẠI
HỌC TRÊN BÁO MẠNG ĐIỆN TỬ

1.1. Cơ sở lý luận về thông tin giáo dục đại học trên báo mạng điện tử
1.2. Vai trò và ưu thế, hạn chế của báo mạng điện tử thông tin về giáo
dục đại học
1.3. Các yếu tố cấu thành thông tin về giáo dục dại học trên báo mạng
điện tử

11
11
22
28

Chƣơng 2: THỰC TRẠNG THÔNG TIN VỀ GIÁO DỤC ĐẠI HỌC VIỆT
NAM TRÊN CÁC BÁO THUỘC DIỆN KHẢO SÁT

2.1. Giới thiệu về các báo thuộc diện khảo sát
2.2. Tần suất thông tin về giáo dục đại học Việt Nam trên các tờ báo
thuộc diện khảo sát
2.3. Nội dung thông tin về giáo dục đại học Việt Nam trên các báo
thuộc diện khảo sát
2.4. Hình thức thơng tin về giáo dục đại học Việt Nam trên các báo
thuộc diện khảo sát


33
33
39
43
76

Chƣơng 3: ĐÁNH GIÁ VỀ THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP TĂNG
CƢỜNG THÔNG TIN GIÁO DỤC ĐẠI HỌC VIỆT NAM
TRÊN BÁO MẠNG ĐIỆN TỬ HIỆN NAY

3.1. Đánh giá thực trạng về thông tin giáo dục đại học trên báo mạng
điện tử thuộc diện khảo sát
3.2. Giải pháp phát huy vai trò của báo mạng điện tử trong việc thông
tin về giáo dục đại học ở Việt Nam hiện nay
3.3. Một số kiến nghị nhằm tăng cường thông tin giáo dục đại học ở
Việt Nam trên báo mạng điện tử hiện nay
KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC

90
90
93
99
107
109
113



DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

BMĐT

:

Báo mạng điện tử

ĐH

:

Đại học

GD

:

Giáo dục

GD-ĐT

:

Giáo dục - Đào tạo

GDVN

:


Giáo dục Việt Nam

HHTO

:

Hoa Học Trò Online

SV

:

Sinh viên

TTO

:

Tuổi trẻ Online

VN

:

Việt Nam


DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ
Trang
Biểu đồ 2.1:

Biểu đồ 2.2:
Biểu đồ 2.3:
Biểu đồ 2.4:
Biểu đồ 2.5:
Biểu đồ 2.6:
Biểu đồ 2.7:

Biểu đồ 2.8:
Biểu đồ 2.9:
Biểu đồ 2.10:
Biểu đồ 2.11:
Biểu đồ 2.12:
Biểu đồ 2.13:
Biểu đồ 2.14:

Biểu đồ số lượng tin, bài trên báo Tuổi trẻ Online,
Dân trí, Giáo dục Việt Nam, Hoa Học Trò từ tháng
6/2012 đến tháng 5/2014
Mức độ quan tâm của độc giả đối với thông tin giáo
dục Đại học
Cơ cấu nội dung thông tin về Giáo dục Đại học trên
báo Tuổi trẻ từ tháng 6/2012 đến tháng 5/2014
Cơ cấu nội dung thông tin về Giáo dục Đại học trên
báo Dân trí từ tháng 6/2012 đến tháng 5/2014
Cơ cấu nội dung thông tin về Giáo dục Đại học trên
báo Giáo dục Việt Nam từ tháng 6/2012 đến tháng
5/2014
Cơ cấu nội dung thông tin về Giáo dục Đại học trên
báo Hoa Học Trò Online từ tháng 6/2012 đến tháng
5/2014

So sánh số lượng tin bài có nội dung về thơng tin
đường lối, chính sách, chủ trương về Giáo dục Đại
học từ 6/2012 đến 5/2014 trên báo Tuổi trẻ, Dân trí,
Giáo dục Việt Nam, Hoa Học Trò Online
Biểu đồ đánh giá chất lượng của độc giả về thơng tin
đường lối, chính sách GD ĐH VN trên 4 tờ báo khảo
sát
Biểu đồ đánh giá chất lượng của độc giả về tin bài
liên quan đến nội dung tuyển sinh ĐH, CĐ VN trên 4
báo khảo sát:
Biểu đồ đánh giá chất lượng tin bài liên quan đến
thông tin nghề nghiệp, định hướng việc làm trên 4
BMĐT được khảo sát
Biểu đồ đánh giá chất lượng tin bài liên quan đến
chân dung nhân vật trong chủ đề GD ĐHVN trên 4
BMĐT được khảo sát
Biểu đồ đánh giá chất lượng tin bài về các hoạt động,
sự kiện tại các trường ĐH, CĐ trên 4 BMĐT được
khảo sát
Biểu đồ đánh giá của độc giả về hình thức phản ánh
thơng tin GD ĐH trên 4 báo mạng khảo sát
Số lượng thể loại các tác phẩm báo chí trên báo
mạng Dân trí, Tuổi trẻ, GDVN, HHT

40
42
43
44

44


45

46

49

56

60

65

67
76
78


1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Cũng như nhiều nước trên thế giới, ở Việt Nam, giáo dục là vấn đề
được cả xã hội quan tâm. Trong thời kì đổi mới, đất nước đã đạt được những
thành tựu to lớn về phát triển kinh tế - xã hội. Trong thành tựu chung đó có sự
đóng góp quan trọng của giáo dục và đào tạo, đặc biệt trong việc nâng cao
dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài.
Trong những năm gần đây xã hội đã chứng kiến những luồng đánh giá
khơng thống nhất, thậm chí trái ngược nhau, về bức tranh giáo dục Việt Nam.
Có những ý kiến thiên về, thậm chí cường điệu những thành tích trong giáo
dục. Bên cạnh đó, cũng có nhiều ý kiến thể hiện sự lo ngại hoặc phê phán gay

gắt hiện trạng giáo dục,... Một số nhà khoa học và nhà hoạt động xã hội bày tỏ
mong muốn một cuộc "cải cách thực sự và toàn diện về giáo dục" trong
những năm tới. Có lẽ chưa bao giờ như lúc này xã hội cần được nghe những
thơng tin chính xác, những nhận định bình tĩnh và những phân tích lí giải
khoa học, khách quan hơn về giáo dục nước nhà.
Cùng với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc thì sự nghiệp trồng
người là một vấn đề cần được quan tâm, chú trọng. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
từng nói: “Trình độ văn hóa của nhân dân nâng cao sẽ giúp chúng ta đẩy
mạnh công cuộc khôi phục kinh tế, phát triển dân chủ. Nâng cao trình độ văn
hóa của nhân dân cũng là một việc cần thiết để xây dựng nước ta thành một
nước hịa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh”. Như vậy, muốn
đất nước phát triển giàu mạnh thì cần có thật nhiều những người có tài, có
đức, có tri thức. Đó chính là mục tiêu của giáo dục, đặc biệt là giáo dục đại
học. Trong công cuộc đổi mới xây dựng đất nước của chúng ta hiện nay thì
giáo dục ln được Đảng và Nhà nước chú trọng mở rộng, phát triển, trong đó
phải kể đến giáo dục đại học. Tuy nhiên, trong bối cảnh hiện nay, ta vẫn thấy
hệ thống giáo dục đại học của nước nhà cịn nhiều bất cập. Có thể thấy đó là


2
những bất cập trong công tác giảng dạy, quản lý và kể cả đầu ra cho sinh viên
.Làm thế nào để nâng cao hiệu quả công tác giáo dục, đặc biệt là giáo dục đại
học đang là vấn đề quan tâm của tồn Đảng, tồn dân ta.
Góp phần nâng cao chất lượng của hoạt động giáo dục không thể không
nhắc đến vai trò tiên phong của các cơ quan báo chí. Các cơ quan thơng tấn,
báo chí trung ương và địa phương, từ báo in, phát thanh - truyền hình đến
BMĐT đều xây dựng kế hoạch, tổ chức tuyên truyền với nhiều hình thức
phong phú, đa dạng. Xoay quanh những vấn đề của đổi mới giáo dục, báo chí
khơng chỉ dừng lại ở sự đưa tin, phản ánh thụ động, mà cịn tham dự như một
tiếng nói quyền lực, đóng vai trị phản biện, đấu tranh, khám phá tìm kiếm

con đường và phương thức đổi mới hiệu quả. Dưới tác động của hệ thống
truyền thông đại chúng, giáo dục ĐH đã nhanh chóng trở thành một vấn đề
thời sự; một đề tài được dư luận quan tâm.
PGS.TS. Nguyễn Văn Dững trong cuốn “Cơ sở lý luận báo chí” (Nxb
Lao động, 2010) đã nhấn mạnh: “Hoạt động báo chí là hoạt động xã hội”
khẳng định hoạt động xã hội là bản chất của báo chí bởi báo chí ra đời là do
bổn phận, nghĩa vụ của nó đối với cộng đồng, do địi hỏi khách quan từ cuộc
sống - khơng chỉ cung cấp thơng tin mà cịn tham gia giải quyết các vấn đề
của cộng đồng. Nhờ ưu thế đặc thù, báo chí khơng chỉ có khả năng phát hiện,
nêu ra và khơi dậy các vấn đề xã hội liên quan đến cộng đồng, mà cịn có khả
năng tập hợp nguồn lực xã hội tham gia giải quyết các vấn đề đó. Báo chí gắn
bó với sự chuyển động khơng ngừng của đời sống xã hội, bám sát thực tiễn xã
hội để phát hiện đề tài, vấn đề cần phản ánh. Vì lẽ đó, hoạt động của thơng tin
báo chí về các vấn đề xã hội là hoạt động có hiệu quả, có sức ảnh hưởng
mãnh mẽ đối với tồn dân.
Trước yêu cầu đổi mới giáo dục nhằm đáp ứng kịp thời cùng với sự
phát triển của xã hội hiện nay, vấn đề truyền thông về giáo dục ĐH trở thành
đề tài trọng tâm trong công tác tuyên truyền của các phương tiện truyền thông


3
đại chúng. Trong bốn loại hình báo chí,báo mạng là loại hình phổ biến nhất
và dang phát triển mạnh nhất với nhiều ưu thế hơn cả để thực hiện công tác
tuyên truyền về vấn đề giáo dục ĐH. Nghiên cứu về vấn đề thông tin giáo
dục ĐH VN hiện nay trên báo mạng vì thế là hết sức cần thiết và có ý
nghĩa lớn đối với sự nghiệp đổi mới giáo dục và phù hợp với yêu cầu phát
triển kinh tế xã hội đất nước. Do đó tơi đã lựa chọn đề tài “Thông tin về
giáo dục Đại học Việt Nam trên Báo mạng điện tử hiện nay (Khảo sát
các báo mạng Dân trí, Tuổi trẻ Online, Giáo dục Việt Nam, Hoa Học Trò
Online từ tháng 6/2012 đến tháng 5/2014)” để thực hiện luận văn thạc sĩ

chuyên ngành báo chí truyền thơng.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Như đã trình bày ở trên, giáo dục ĐH tại VN hiện đang là vấn đề thời sự,
nhận được sự quan tâm của dư luận xã hội. Để nghiên cứu và nói về giáo dục ĐH,
có rất nhiều đề tài có thể khai thác như: tuyển sinh, hướng nghiệp, đào tạo nghề,
đánh giá các trường học, đời sống SV, các mặt tiêu cực của giáo dục ĐH…
Ở Việt Nam, có rất nhiều luận văn tiến sĩ, thạc sĩ thuộc nhiều chuyên
ngành khác nhau đề cập đến các vấn đề thuộc lĩnh vực giáo dục ĐH đã được
công bố. Tuy nhiên, xét trên phương diện cơng trình báo chí học, vấn đề
thơng tin tun truyền về giáo dục ĐH VN cịn ít được nghiên cứu và chưa có
tính tổng quát.
Những năm gần đây, có một số đề tài của sinh viên, học viên chuyên
ngành báo chí nghiên cứu về các vấn đề liên quan đến báo mạng điện tử và
giáo dục Việt Nam có thể kể đến như:
- Sách “Quản lý giáo dục – một số vấn đề lý luận và thực tiễn” của tác
giả Nguyễn Thị Mỹ Lộc, Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội. Nội dung
sách đề cập những vấn đề chung về lý luận quản lý giáo dục, các mơ hình
quản lý, các cách tiếp cận lý luận quản lý, xây dựng và tổ chức thực hiện kế


4
hoạch trong quản lý, tổ chức bộ máy quản lý, lãnh đạo, chỉ đạo, thanh tra,
kiểm tra và các vấn đề trong quản lý giáo dục...
- Luận án Tiến sĩ “Xu hướng tiếp nhận sản phẩm báo chí của cơng
chúng Việt Nam” của học viên Lê Thu Hà, Khoa Báo chí, Học viện Báo chí –
Tuyên truyền.
- Luận án Tiến sĩ “Vai trị báo chí trong định hướng dư luận xã hội”
của học viên Đỗ Chí Nghĩa, Học viện Báo chí – Tuyên truyền.
- Sách “Báo điện tử ở Việt Nam - Định hướng và giải pháp” của TS.
Nguyễn Công Dũng Phó Tổng biên tập Thường trực Báo điện tử Đảng Cộng

sản Việt Nam tìm hiểu một số vấn đề lý luận về báo điện tử, định hướng
chính trị tư tưởng và thực trạng định hướng chính trị tư tưởng của báo điện tử,
đồng thời đề xuất những giải pháp cơ bản nhằm tăng cường định hướng chính
trị tư tưởng của báo điện tử ở Việt Nam.
- Luận văn Thạc sĩ “Báo chí với việc hướng nghiệp cho thanh niên hiện
nay” của học viên Vũ Phương Thịnh, Khoa Báo chí, Học viện Báo chí –
Tuyên truyền: Luận văn nghiên cứu thực trạng báo chí tuyên tuyền hướng
nghiệp cho thanh niên, đặc biệt là sinh viên, học sinh phổ thông chuẩn bị thi
đại học, đánh giá hiệu quả đạt được và những hạn chế, nhằm đưa ra những
giải pháp để nâng cao chất lượng tuyên truyền hướng nghiệp trong bối cảnh
hội nhập quốc tế trên báo Sinh viên Việt Nam, báo Thanh Niên, Báo Tuổi Trẻ
TP. Hồ Chí Minh nói riêng và báo chí nói chung.
- Luận văn Thạc sĩ “Xây dựng hệ thống hỗ trợ tư vấn tuyển sinh và đào
tạo tín chỉ tại trường ĐH Quảng Nam” của học viên Nguyễn Thị Phương
Dung, khoa Khoa học máy tính, trường ĐH Đà Nẵng: Luận văn đã chỉ ra
những hạn chế trong việc tuyển sinh tại trường ĐH Quảng Nam và đề xuất
xây dựng hỗ trợ các hệ thống tuyển sinh cho trường, tạo thuận lợi cho sinh
viên và phụ huynh, học sinh.


5
- Luận văn Thạc sĩ “Vấn đề thông tin giáo dục hướng nghiệp trên báo
in hiện nay” của học viên Nguyễn Thị Việt Hưng, khoa Báo chí, trường ĐH
KHXH&NV: Luận văn đã phác họa những nét cơ bản nhất về các vấn đề của
giáo dục hướng nghiệp được phản ánh trên báo in Việt Nam giai đoạn hiện
nay, làm cơ sở đánh giá thực trạng hoạt động thông tin về vấn đề này, từ đó
rút ra các bài học, đề xuất giải pháp nhằm tăng cường hiệu quả thông tin
tuyên truyền về giáo dục hướng nghiệp trên báo in.
- Đề tài nghiên cứu khoa học cấp trường “Hoạt động tư vấn tuyển sinh
- hướng nghiệp trên báo chí - Trường hợp báo Tuổi Trẻ” của sinh viên Đỗ

Thu Thảo khoa báo chí và truyền thơng, ĐH KHXH&NV TP.HCM
- Luận văn thạc sĩ “Báo chí với vấn đề hướng nghiệp cho học sinh sinh
viên hiện nay (khảo sát báo giáo dục và thời đại, thanh niên, sinh viên Việt
nam 2006 -2007)” học viên Cấn Thị Hải Yến khoa báo chí truyền thơng,
ĐHKHXH&NV Hà Nội
- Khóa luận tốt nghiệp “Báo chí thơng tin hướng nghiệp cho học sinh,
sinh viên (khảo sát các báo Tuổi trẻ, Thanh Niên, Giáo dục, thời đại)” sinh
viên Đỗ Thị Thơm khoa báo chí truyền thơng, ĐHKHXH&NV Hà Nội
- Kỷ yếu hội thảo khoa học “Đánh giá – xếp hạng các trường ĐH, CĐ
tại Việt Nam” của Ban liên lạc các trường ĐH, Cao đẳng Việt Nam.
Tuy nhiên, các nghiên cứu đã nêu bên trên hầu hết chỉ tập trung đi sâu
về một hoạt động đơn lẻ, một cơ quan báo chí độc lập hoặc đánh giá một cách
tổng quát, còn chung chung và thiếu hệ thống về vấn đề thông tin giáo dục.
Tác giả lựa chọn nghiên cứu đề tài “Thông tin về giáo dục Đại học Việt
Nam trên Báo mạng điện tử hiện nay (Khảo sát các báo mạng Dân trí, Tuổi
trẻ Online, Giáo dục Việt Nam, Hoa Học Trò Online từ tháng 6/2012 đến
tháng 5/2014)” với việc khảo sát 4 tờ BMĐT tiêu biểu cho độc giả trẻ sẽ kế
thừa những lý luận cơ bản, cốt lõi của các cơng trình đi trước trên cơ sở đi sâu


6
tìm hiểu, nghiên cứu về thực trạng và hiệu quả thông tin tổng thể trên nền dữ
liệu cập nhật nên cơng trình hồn tồn mới, khơng bị trùng lặp về ý tưởng,
nội dung, kết quả với các cơng trình đã được thực hiện trước đó. Mặt khác, đề
tài lựa chọn nghiên cứu trên một loại hình báo chí là BMĐT nên đảm bảo tính
hệ thống của nghiên cứu.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nhận thức rõ vai trò và tầm quan trọng của việc thông tin về
giáo dục Đại học Việt Nam trên báo mạng điện tử hiện nay, luận văn nghiên

cứu nhằm mô tả thực trạng thông tin giáo dục đại học trên các tờ BMĐT ở
nước ta hiện nay, nhận diện những thành công, hạn chế, những vấn đề đặt ra.
Từ đó đề xuất giải pháp nhằm phát huy vai trị của BMĐT trong thơng tin về
giáo dục đại học ở nước ta hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Hệ thống hóa lý luận về thơng tin về giáo dục ĐHVN trên BMĐT hiện nay.
- Khảo sát và phân tích thực trạng thông tin về giáo dục ĐHVN trên các
tờ báo thuộc diện khảo sát.
- Đề xuất giải pháp tăng cường hiệu quả chất lượng thông tin giáo dục
ĐHVN trên BMĐT.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu: Thông tin về giáo dục đại học Việt Nam
trên báo mạng điện tử ở Việt Nam hiện nay.
4.2. Phạm vi nghiên cứu: Khảo sát các báo mạng Dân trí, Tuổi trẻ Online,
Giáo dục Việt Nam, Hoa Học Trị Online từ tháng 6/2015 đến tháng 5/2014.
5. Cơ sở lý thuyết và phƣơng pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý thuyết
Đề tài nghiên cứu khoa học tiếp cận mục tiêu và các nội dung nghiên
cứu dựa trên những lý thuyết chính sau đây:


7
* Lý thuyết BC:
Quan niệm chung, lịch sử hình thành và phát triển, chức năng, nguyên
tắc của BC được mô tả trong các cơng trình nghiên cứu sau:
- PGS.TS Tạ Ngọc Tấn (1993), Cơ sở lý luận báo chi, NXB Văn hóa Thơng tin, Hà Nội.
- Dương Xn Sơn, Đinh Văn Hường, Trần Quang (1995), Cơ sở lý
luận BC truyền thơng, NXB Văn hóa - Thơng tin, Hà Nội.
Đề tài cũng sử dụng lý thuyết về tâm lý tiếp nhận sản phẩm BC của
cơng chúng nói chung và cơng chúng thanh niên nói riêng, được tác giả Đỗ

Thị Thu Hằng (2000) xây dựng trong cơng trình nghiên cứu “Tâm lý tiếp
nhận sản phẩm BC của công chúng thanh niên sinh viên hiện nay - Khảo sát
một số trường đại học và cao đẳng tại Hà Nội” - Luận văn Thạc sĩ chuyên
ngành BC, Phân viện BC và Tuyên truyền, Hà Nội.
* Lý thuyết truyền thông và truyền thông đại chúng:
Lý thuyết xã hội học truyền thông và truyền thông đại chúng được tác
giả Mai Quỳnh Nam đề cập tới trong cơng trình nghiên cứu cơng bố năm
2001 “Đặc điểm và tình chất của giao tiếp đại chúng”, BC - những điểm nhìn
từ thực tiễn, Tập 1, NXB Văn hóa - Thông tin, Hà Nội.
Việc phân loại và mô tả các loại hình truyền thơng đại chúng của tác
giả Warren K. Agee (Trường đại học Georgia), Phillip H.Ault (Sound Ben
Tribune), Edwin Emery (Trường đại học Mennesota) trong cuốn Introduction
to Mass Communications (Giới thiệu các loại hình truyền thơng đại chúng).
Khái niệm, lý thuyết, mơ hình, phân loại và các kỹ năng quản lý, thực
hiện truyền thông được khẳng định bởi công trình nghiên cứu của PGS.TS
Nguyễn Văn Dững (chủ biên) và TS. Đỗ Thị Thu Hằng (2006), Truyền thông
- lý thuyết và kỹ năng cơ bản, NXB Lý luận chính trị, Hà Nội.
- Cơ sở lý thuyết về báo mạng điện tử.


8
- Những nguyên lý về truyền thông cho giáo dục đại học.
- Cơ sở lý thuyết về quy trình tiếp nhận thông tin của công chúng.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
* Phương pháp phân tích và tổng hợp lý thuyết:
- Phương pháp phân tích: Chúng tơi tiến hành nghiên cứu, phân tích
các văn bản, tài liệu lý luận khác nhau từ các cơng trình nghiên cứu lý thuyết
của các nhà khoa học và các tác giả khác, nhằm phát hiện ra những xu hướng,
những trường phái nghiên cứu của từng tác giả, từ đó chọn lọc những thơng
tin quan trọng phục vụ cho đề tài nghiên cứu của mình.

- Phương pháp tổng hợp lý thuyết: Trên cơ sở nghiên cứu, phân tích
các văn bản, tài liệu liên quan tới nội dung của đề tài nghiên cứu, chúng tôi
tiến hành tổng hợp liên kết từng mặt, từng bộ phận thông tin từ các lý thuyết
đã thu thập được, để bước đầu hình thành một hệ thống lý thuyết mới về chủ
đề nghiên cứu.
* Phương pháp phân loại, hệ thống hoá lý thuyết:
Trên cơ sở nghiên cứu, phân tích, tổng hợp các nội dung liên quan tới
đề tài nghiên cứu, chúng tôi sắp xếp các tài liệu khoa học thành một hệ thống
logic chặt chẽ theo từng mặt, từng đơn vị kiến thức, từng vấn đề khoa học có
cùng dấu hiệu bản chất, cùng một hướng phát triển để phục vụ cho phần viết
cơ sở lý luận của đề tài chúng tôi.
* Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi:
Luận văn xây dựng nội dung các câu hỏi trong phiếu hỏi để thu thập
thông tin về thực trạng thông tin về giáo dục đại học Việt Nam trên một số
báo mạng , nhằm đánh giá đúng thực trạng và làm cơ sở cho việc đề xuất các
giải pháp giúp tăng cường chất lượng thông tin về Giáo dục Đại học Việt
Nam trên báo mạng hiện nay.
Luận văn sử dụng 300 phiếu hỏi. Mẫu điều tra bao gồm nhiều độ tuổi và
trình độ học vấn đa dạng: từ học sinh cấp 3, Đại học, Sau Đại học.


9
* Phương pháp phỏng vấn sâu:
Luận văn sử dụng phương pháp phỏng vấn sâu nhằm mục đích kiểm
tra, bổ sung, làm rõ những thông tin thu thập được. Những thông tin này có
giá trị làm căn cứ để khẳng định tính trung thực, độ tin cậy của kết quả
nghiên cứu.
+ Đối tượng phỏng vấn: nhà báo, người quản lý báo chí, nhà quản lý
giáo dục, giảng viên các trường ĐH, sinh viên, phụ huynh học sinh, học sinh
cấp 3.

+ Cách thực hiện: Gặp gỡ, trao đổi, phỏng vấn để tham khảo ý kiến
của các nhà báo, học sinh, sinh viên, phụ huynh, cán bộ/giảng viên và quản lý
trường Đại học để được tư vấn về các vấn đề mà đề tài nghiên cứu nhằm triển
khai việc nghiên cứu có hiệu quả nhất và tiết kiệm được thời gian.
Trong quá trình phỏng vấn, chúng tơi có ghi chép, ghi âm, lưu giữ và
xử lý các thông tin thu được theo nhiệm vụ của đề tài.
6. Ý nghĩa lý luận và giá trị thực tiễn của đề tài
- Luận văn là một trong những cơng trình nghiên cứu bước đầu thực
trạng thơng tin về Giáo dục Đại học Việt Nam trên các báo mạng hiện nay.
- Luận văn đã bước đầu đánh giá được thực trạng thông tin về lĩnh vực
giáo dục trên các báo mạng.
- Luận văn đã đề xuất được một số giải pháp giúp tăng cường chất
lượng thông tin truyền thông về giáo dục Đại học Việt Nam, từ đó góp phần
thúc đẩy phát triển nền giáo dục.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
nội dung đề tài được kết cấu gồm 3 chương, 8 tiết.


10
Chương 1: Cơ sở lý luận về thông tin giáo dục đại học trên báo mạng
điện tử.
Chương 2: Thực trạng thông tin về giáo dục đại học Việt Nam trên các
báo mạng khảo sát.
Chương 3: Đánh giá về thực trạng và giải pháp tăng cường thông tin
giáo dục đại học Việt Nam trên báo mạng điện tử hiện nay.


11
Chƣơng 1

CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA THÔNG TIN VỀ GIÁO DỤC ĐẠI HỌC
TRÊN BÁO MẠNG ĐIỆN TỬ
1.1. Cơ sở lý luận về thông tin giáo dục đại học trên báo mạng điện tử
Hệ thống các khái niệm
a. Báo mạng điện tử:
Trên thế giới và ở Việt Nam đang tồn tại nhiều cách gọi khác nhau đối
với loại hình báo chí này: Báo điện tử (Electronic Journal), báo trực tuyến
(Online Newspaper), báo mạng (Cyber Newspaper), báo chí Internet (Internet
newspaper) và báo mạng điện tử.
Báo điện tử là khái niệm thông dụng nhất ở nước ta. Nó gắn liền với tên
gọi của nhiều tờ BMĐT thuộc cơ quan báo in, ví dụ như Quê hương điện tử,
Nhân Dân điện tử, Lao động điện tử…Ngay trong văn bản pháp quy của Nhà
nước cũng sử dụng thuật ngữ “báo điện tử”.
Tuy nhiên, khái niệm báo điện tử có nghĩa rất chung chung, khơng giúp
hiểu rõ đặc điểm của loại hình báo chí phát hành trên mạng: tờ báo được sản
xuất trong vịng khép kín trên mạng LAN của tòa soạn hay tờ báo được
“chạy” trên mơi trường mạng tồn cầu Internet. Đồng thời, đã có thời gian
chúng ta sử dụng cách gọi này để chỉ phát thanh và truyền hình nên nếu dùng
lại rất dễ gây nhầm lẫn.
Báo trực tuyến là khái niệm được sử dụng đầu tiên ở Mỹ và đã trở thành
cách gọi của quốc tế. Thuật ngữ “trực tuyến” (online) trong các từ điển tin
học được dùng để chỉ trạng thái của một máy tính khi đã kết nối với mạng
máy tính và sẵn sàng hoạt động. Tuy nhiên, cách gọi này gắn với tin học
nhiều hơn và chưa được Việt hóa.


12
Báo mạng là cách gọi tắt của báo mạng Internet.Đây là cách gọi khơng
mang tính khoa học vì nó khơng rõ nghĩa, không đầy đủ, dễ làm hiểu sai bản
chất của thuật ngữ. Bởi Internet là mạng của các loại mạng (a network of

networks), dưới nó cịn rất nhiều loại mạng như mạng nội bộ của các tổ chức,
các công ty, các chính phủ… Gọi tắt như thé sẽ khơng xác định rõ ràng ranh
giới giữa khái niệm “mạng” và “mạng Internet”.
Báo Internet cũng là khái niệm được dùng khá rộng rãi.Thuật ngữ này
được sử dụng trong một số đề tài khoa học, hội thảo khoa học về vai trò của
cơng nghệ thơng tin đối với loại hình báo chí mới. Cách gọi này là sự kết hợp
tên gọi của Internet với một tờ báo (newspaper) chính là ở chỗ: Internet cung
cấp không gian với đầy đủ tiện nghi cho một tờ báo hoạt động. Tờ báo lấy
Internet làm phương tiện truyền tải, lấy các khả năng ưu việt của Internet làm
lợi thế và hoạt động độc lập trên Internet. Tờ báo - dưới dạng một địa chi web
- và Internet là đôi bạn song hành trên xa lộ thông tin.
Theo TS Thang Đức Thăng - Tổng biên tập báo VnExpress thì đây là tên
gọi chính xác nhất, cho phép hiểu rõ đặc trưng của loại hình báo chí này.Qua
thực tiễn hoạt động trong ngành, rất nhiều người đã đồng tình với cách gọi
trên. Tuy nhiên, thuật ngữ này cũng dễ gây nhầm lẫn rằng: tất cả trang web có
mặt trên Internet đều là BMĐT. Trên thực tế, một tờ báo phát hành trên mạng
đúng là một trang web nhưng không phải web nào cũng là tờ báo.
Báo mạng điện tử là khái niệm được sử dụng sau khi Học viện Báo chí
và Tuyên truyền tuyển sinh một chuyên ngành đào tạo mới - Báo mạng điện
tử và thành lập Tổ bộ môn Báo mạng điện tử. Học viện Báo chí và Tuyên
truyền chọn thuật ngữ “báo mạng điện tử” với nhiều lý do:
- Nó khẳng định loại hình báo chí mới này là con đẻ của sự phát triển
vượt bậc của công nghệ thông tin, hoạt động được nhờ các phương tiện kỹ
thuật tiên tiến, số hóa, các máy tính nối mạng và các server các phần mềm
ứng dụng.


13
- Nó cho phép hiểu một cách chính xác về bản chất, đặc trưng của loại
hình báo chí này: tính đa phương tiện, tính tương tác cao, tính tức thời, phi

định kỳ, khả năng truyền tải thong tin không hạn chế, với cách lưu trữ thông
tin dưới dạng dữ liệu siêu văn bản, khả năng siêu liên kết - các trang báo được
tổ chức thành từng lớp, có cơ chế “nở” ra với số trang không hạn chế…
- Tên gọi này chỉ rõ người làm báo và người đọc báo đều phải có trình
độ kỹ thuật nhất định.
- Đây là sự kết hợp các tên gọi có nội dung riêng biệt như: báo mạng,
điện tử. Chính vì vậy, tên gọi này thỏa mãn được các yếu tố Việt hóa, đặc
trưng khu biệt của loại hình báo chí mới, khắc phục được sự “thiếu” về nghĩa,
sự máy móc của từ ngoại lai.
Trong Luật báo chí năm 1999 thì báo mạng điện tử là “loại hình báo
chí được thực hiện trên hệ thống máy tính”. Trong cuốn “Báo mạng điện tử Những vấn đề cơ bản”, TS. Nguyễn Thị Trường Giang đã đưa ra khái niệm:
“Báo mạng điện tử là một loại hình báo chí được xây dựng dưới hình thức
của một trang web và phát hành trên mạng Internet” [12, tr.81]
Còn trong cuốn “Báo mạng điện tử - Đặc trưng và phương pháp sáng
tạo” của Học viện Báo chí và Tuyên truyền, các tác giả đã phát triển thêm
khái niệm này rằng: “Báo mạng điện tử là một loại hình báo chí được xây
dựng dưới hình thức của một trang web, phát hành trên mạng Internet, có ưu
thế trong chuyển tải thơng tin một cách nhanh chóng, tức thời, đa phương tiện
và tương tác cao” [30, tr.12].
Với sự phát triển vượt bậc của công nghệ thông tin, hoạt động nhờ các
kỹ thuật tiên tiến, báo mạng điện tử có được những đặc trưng vượt trội so với
các loại hình báo chí truyền thống như: tính đa phương tiện, tính tương tác
cao, khả năng truyền tải thông tin không hạn chế với các lưu trữ thông tin
dưới dạng dữ liệu siêu văn bản, khả năng siêu liên kết.
Theo thống kê tại “Hội nghị Tổng kết 15 năm thi hành Luật Báo chí
của Bộ Thông tin và Truyền thông” (12/11/2014), “hiện, cả nước có 838 cơ


14
quan báo chí in, 90 cơ quan báo chí điện tử và 67 đài phát thanh, truyền hình.

Đội ngũ nhân lực làm việc tại cơ quan báo chí khoảng gần 40.000 người,
trong đó có gần 18.000 người được cấp thẻ nhà báo” [52].
Bộ Thông tin và Truyền thông cũng cho biết:
Về báo điện tử, hiện, có 90 cơ quan báo điện tử, 207 trang thông tin
điện tử tổng hợp của các cơ quan báo chí. Trong đó có 40 cơ quan
báo chí điện tử thuộc cơ quan Trung ương và các Bộ, ngành; 26 cơ
quan báo chí điện tử trực thuộc địa phương và 26 cơ quan báo chí
điện tử trực thuộc các cơ quan đoàn thể [52].
Báo mạng điện tử là một tổ chức chính trị - xã hội, có nhiệm vụ chính
trị, tư tưởng, phục vụ lợi ích quốc gia, dân tộc, tuân theo Luật báo chí hiện
hành. Nội dung thơng tin mang tính tổng hợp, được chọn lọc, cập nhật, có thể
kiểm tra. Hình thức được thiết kế theo chuyên trang, chuyên mục, nhưng vẫn
đảm bảo tính chính trị của tờ báo. Thể loại báo chí đa dạng, ngôn ngữ đại
chúng, dễ hiểu. Đội ngũ sản xuất thơng tin là nhà báo, phóng viên chun
nghiệp. Báo mạng điện tử được phát hành trên mạng internet nhưng có sự
quản lý và kiểm sốt chặt chẽ.
Trong khi đó, trang web thông tin là của tổ chức xã hội, công ty, đơn vị
kinh tế, cá nhân,…. có nhiệm vụ quảng bá hoặc tuyên truyền cho tổ chức, cá
nhân đó. Nội dung của những trang web này thường hẹp, mang tính cá nhân,
khơng liên tục, thơng tin có thể nói q sự thật thậm chí là dối trá. Đội ngũ
sản xuất chính là các cá nhân hoặc tổ chức có nhu cầu thơng tin về mình. Q
trình truyền tải thơng tin khơng liên tục, khó kiểm sốt.
Từ đó, có thể rút ra những đặc trưng cơ bản của báo mạng điện tử như sau:
Khả năng đa phương tiện: Đó là sự kết hợp chặt chẽ và hài hòa giữa
các yếu tố chữ viết, âm thanh, hình ảnh, màu sắc, đồ họa, hình khối.
Tính tức thời và phi định kỳ: Báo mạng điện tử đã vượt qua những trở
ngại trong việc in ấn, xây dựng chương trình, phát hành… nên nó đến với


15

công chúng nhanh nhất. Báo mạng điện tử không bị các rào cản về khuôn khổ
số trang, thời lượng phát sóng nên có thể đưa một số lượng thơng tin khổng
lồ. Chỉ trong báo mạng điện tử mới có khái niệm “bài báo mở”, tức là bài báo
khi đã phát hành vẫn cịn tiếp tục được cập nhật.
Tính tương tác: Đặc trưng này được xét ở ba góc độ:
Tương tác có định hướng: là sự định vị trên các văn bản như các nút
“trang tiếp”, “trở về đầu trang”,…
Tương tác chức năng: là sự linh hoạt của các đường dẫn cho phép
người đọc có khả năng thâu tóm tới các nội dung khác.
Tương tác tùy biến: giúp cho người đọc có thể giao lưu trực tiếp với nhà
báo, tịa soạn, công chúng khác…. qua hộp thư cá nhân, diễn đàn, thảo luận.
Khả năng lưu trữ thơng tin và tìm kiếm thông tin dễ dàng: Các thông
tin được lưu trữ dưới dạng đĩa từ với dung lượng cực lớn, có thể chứa hàng
ngàn cuốn bách khoa toàn thư. Ngoài ra, nhờ các siêu liên kết mà cơng chúng
có thể đi trên hành lang vô tận của internet.
 Một số khái niệm khác:
- Thông tin điện tử trên Internet: là thông tin được cung cấp, truyền đưa,
thu thập, xử lý, lưu trữ và trao đổi thông qua mạng lưới thiết bị Internet.
- Trang thông tin điện tử trên Internet: là trang thông tin hoặc tập hợp trang
thông tin phục vụ cho việc cung cấp và trao đổi thông tin trên môi trường Internet,
bao gồm trang thông tin điện tử (website), trang thông tin điện tử cá nhân (blog),
cổng thông tin điện tử (portal) và các hình thức tương tự khác.
- Trang thơng tin điện tử tổng hợp là trang thông tin điện tử trên Internet
của tổ chức hoặc doanh nghiệp cung cấp thơng tin tổng hợp về chính trị, kinh
tế, văn hóa, xã hội trên cơ sở trích dẫn lại thơng tin từ nguồn chính thức của
các cơ quan báo chí hoặc từ các trang thông tin điện tử của các cơ quan Đảng
và nhà nước. Trang thông tin điện tử tổng hợp muốn hoạt động được phải
được cấp phép của Bộ Thông tin và Truyền thông.



16
- Trang thông tin điện tử cá nhân (blog): quy định tại khoản 12 Điều 3
Nghị định số 97/2008/NĐ-CP được hiểu như sau: (blog) được dùng để thể
hiện những thông tin mang tính chất cá nhân phục vụ nhu cầu lưu trữ hoặc
trao đổi, chia sẻ với một nhóm người hoặc với cộng đồng rộng rãi sủ dụng
dịch vụ Internet. Trang thông tin điện tử cá nhân được chủ thể trang thơng tin
điện tử cá nhân đăng kí khởi tạo trên Internet.
- Dịch vụ mạng xã hội trực tuyến: là dịch vụ cung cấp cho cộng đồng
rộng rãi người sử dụng khả năng tương tác, chia sẻ, lưu trữ và trao đổi thông
tin với nhau trên môi trường Internet, bao gồm dịch vụ tạo blog, diễn đàn
(forum), trò chuyện trực tuyến (chat) và các hình thức tương tự khác.
- Cổng thông tin điện tử (portal) là một điểm truy cập với giao diện web
cho phép người dùng khai thác một khối lượng lớn tài nguyên thông tin và dịch
vụ một cách nhanh nhất, thân thiện nhất và hiệu quả nhất. Có cổng thơng tin cho
riêng một ngành, một lĩnh vực nào đó (vortal) và cổng thơng tin nhiều chủ đề,
nhiều lĩnh vực, phục vụ cho nhiều đối tượng phục vụ khác nhau (hortal).
b. Thông tin
Theo Philipppe Breton và Serge Proulx trong cuốn sách “Bùng nổ truyền
thông”, khái niệm thông tin có hai hướng nghĩa: Thứ nhất là, nói về một hành
động cụ thể để tạo ra một hình thái (frome), thứ hai là, nói về sự truyền đạt một ý
tưởng, một khái niệm hay biểu tượng. Hai hướng nghĩa này cùng tồn tại, một
nhằm vào sự tạo lập cụ thể, một nhằm vào sự tạo lập kiến thức và truyền đạt. Nó
thể hiện sự gắn kết của hai lĩnh vực kỹ thuật và kiến thức [1].
Theo quan điểm của triết học, thơng tin là một hiện tượng vốn có của vật
chất, là thuộc tính khách quan của thế giới vật chất. Nội dung của thơng tin
chính là những thuộc tính, tính chất vốn có của sự vật với các sự vật hiện
tượng được bộc lộ ra, thể hiện thông qua tác động qua lại của sự vật ấy với sự
vật khác. Thơng tin ln gắn với q trình phản ánh. Những dấu ấn để lại
chính là những thơng tin của hệ thống vật chất này đối với hệ thống vật chất



17
khác. Phản ánh của vật chất là phản ánh thông tin, khơng có thơng tin chung
chung mà thơng tin là thông tin về sự vật này đối với sự vật khác.
Theo Từ điển tiếng Việt thì thơng tin với nghĩa là động từ là truyền tin
cho nhau để biết; và với nghĩa danh từ là điều được truyền đi cho biết, tin
truyền đi (ví dụ bài báo có lượng thơng tin cao).
Như vậy, thông tin được hiểu theo hai nghĩa: Thứ nhất, đó chính là nội
dung thơng tin; Thứ hai, đó là phương tiện thơng báo, báo tin.
Cách hiểu này phù hợp với khái niệm thông tin nêu trong phần mở đầu
“Chiến lược phát triển thông tin đến năm 2010” ban hành kèm theo Quyết định
số 219/2005/QĐ - TTg ngày 9/9/2005 của Thủ tướng Chính phủ: “Thơng tin
được coi là một nhu cầu thiết yếu trong đời sống xã hội, là công cụ để điều
hành, quản lý, chỉ đạo của mỗi quốc gia, là phương tiện hữu hiệu để mở rộng
giao lưu hiểu biết giữa các quốc gia, dân tộc, là nguồn cung cấp tri thức mọi
mặt cho công chúng và là nguồn lực phát triển kinh tế - xã hội”.
Đặc biệt, Chiến lược phát triển thông tin đã nêu lên một luận điểm quan
trọng về vai trị của thơng tin trong đời sống xã hội: Sự chênh lệch về trình độ
phát triển thơng tin giữa các nước là một đặc điểm về quy mơ và trình độ phát
triển trong thời kỳ cách mạng khoa học và công nghệ. Nước nào không vượt
qua được những thách thức về thông tin, nước đó mất cơ hội phát triển và có
nguy cơ mất khả năng tự chủ. Thiếu thông tin, sẽ gặp khó khăn trong việc đưa
ra các quyết định hoặc các quyết định sẽ bị sai lệch, thiếu cơ sở khoa học,
không thực tiễn và trở nên kém hiệu quả.
c. Thông tin báo chí
Trong tiến trình phát triển của lịch sử văn hố nhân loại, báo chí là một
hiện tượng xã hội, ra đời do nhu cầu thông tin giao tiếp, giải trí và nhận thức
của con người. Thơng tin là một hiện tượng vốn có của thế giới vật chất. Theo
các nhà nghiên cứu, lần đầu tiên thông tin được con người chú ý về mặt ý
nghĩa xã hội của nó và được đề cập đến trong lý thuyết báo chí vào những



18
năm 20 - 30 của thế kỷ XX. Và từ đây, “Thơng tin chính là những cái mới
khác với những điều đã biết”.
Thông tin là chức năng sơ khởi của báo chí, theo nghĩa sử dụng phương
tiện kỹ thuật để phổ biến kết quả lao động sáng tạo của nhà báo. Thực hiện
chức năng thơng tin, báo chí cung cấp cho công chúng về tất cả các vấn đề, sự
kiện của đời sống xã hội, đáp ứng nhu cầu khám phá, tìm hiểu thế giới tự
nhiên, xã hội.
Trong một thế giới hiện thực chứa đầy lượng thơng tin, báo chí có cách
riêng của mình để phản ánh hiện thực với mục đích tác động tới nhiều tầng lớp
xã hội với những mối quan tâm, sở thích và nhu cầu khác nhau. Chính điều đó
đã khiến cho báo chí trở thành một hoạt động thông tin đại chúng rộng rãi và
năng động nhất mà khơng một hình thái ý thức xã hội nào có được.
Như vậy, thơng tin báo chí cũng được hiểu theo hai nghĩa:
Thứ nhất, đó là tri thức, tư tưởng do nhà báo tái tạo và sáng tạo từ hiện thực
cuộc sống. Tất cả những vấn đề, sự kiện, hiện tượng trong tự nhiên và xã hội được
báo chí phản ánh nhằm phục vụ nhu cầu tìm hiểu, khám phá của con người.
Thứ hai, đó là phương tiện, cơng cụ chuyển tải tác phẩm báo chí tới cơng chúng.
Trong hoạt động báo chí, thơng tin là mục đích chủ yếu. Thơng tin trở
thành “cầu nối” giữa báo chí và công chúng. Căn cứ việc phân loại theo
phương thức thể hiện, người ta chia thơng tin báo chí thành các loại hình:
Thơng tin bằng chủ yếu chữ viết (báo in); thơng tin chủ yếu bằng tiếng nói
(phát thanh); thơng tin chủ yếu bằng hình ảnh (truyền hình); thơng tin trên
mạng internet (đa phương tiện).
Trong thực tiễn báo chí, thuật ngữ “thơng tin” có nhiều dạng khác nhau:
có khi chỉ là cái tin vắn, tin ngắn, bài bình luận, phóng sự, phỏng vấn; có khi
là một chương trình phát thanh, truyền hình. Ngay cả các tiêu đề, vị trí của tác
phẩm trên các cột báo, giọng đọc của phát thanh viên, các cỡ chữ hay cách

xếp chữ trên các tờ báo… đều chứa đựng thông tin.


×