I.ĐẶT VẤN ĐỀ
Ngơn ngữ là cơng cụ giao tiếp: “ Con người muốn tồn tại thì phải gắn bó với cộng
đồng. Giao tiếp là một đặc trưng quan trọng của con người. Ngơn ngữ là phương
tiện giao tiếp quan trọng nhất” ( Lê nin). Ngơn ngữ chính là một phương tiện thúc
đẩy trẻ trở thành một thành viên trong xã hội lồi người. Ngơn ngữ là một cơng cụ
hữu hiệu để trẻ có thể bày tỏ những nguyện vọng, giáo dục là một điều kiện quan
trọng để trẻ tham gia vào hoạt động phát triển ngơn ngữ.
Ngơn ngữ là cơng cụ để phát triển tư duy, nhận thức: Qúa trình trưởng thành của
trẻ bên cạnh thể chất là trí tuệ, cơng cụ để phát triển tư duy, trí tuệ chính là ngơn
ngữ.
Ngơn ngữ là phương tiện để giáo dục trẻ một cách tồn diện: Ngơn ngữ là cơng cụ
để trẻ học tập, vui chơi những hoạt động chủ yếu của trường mầm non. Ngơn ngữ
được tích hợp trong tất cả các loại hình hoạt động giáo dục, ở mọi lúc, mọi nơi. Như
vậy, ngơn ngữ cần cho tất cả các hoạt động và ngược lại, mọi hoạt động tạo cơ hội
cho ngơn ngữ trẻ phát triển.
Xã Lộc Bảo là một xã vùng sâu vùng xa, cách thị trấn Lộc Thắng – Huyện Bảo
Lâm 32 km. Người địa phương ở đây chủ yếu là người dân tộc thiểu số,trong đó
chiếm đa số là dân tộc châu mạ; một số ít là dân tộc Tày, Mường, Nùng, H’mơng và
Kinh. Vì vậy mơi trường phát triển ngơn ngữ tiếng Việt cho trẻ cịn hạn chế, trẻ sử
dụng tiếng mẹ đẻ như một cơng cụ để vui chơi, học tập. Với học sinh người dân
tộc thiểu số, tiếng Việt là ngơn ngữ thứ hai để tiếp thu kiến thức và trao đổi với xã
hội một cách thuận lợi hơn. Khi đến trường các em phải làm quen với một ngơn ngữ
khác hồn tồn tiếng mẹ đẻ nên trong q trình học tập cũng bị ảnh hưởng khơng ít.
Rào cản tiếng Việt đối với học sinh người dân tộc thiểu số ở xã Lộc Bảo nói riêng,
khu vực Tây Ngun nói chung khi tiếp cận chương trình giáo dục quốc gia là vấn
đề khiến cho những người làm cơng tác giáo dục ở vùng sâu vùng xa ln trăn trở
bấy lâu nay.
1
Nhận thức rõ việc trang bị tiếng Việt cho trẻ em dân tộc thiểu số có ảnh hưởng lớn
tới kết quả học tập và tiếp thu kiến thức của trẻ, vì vậy, bản than tơi đã tìm những
giải pháp cụ thể để tăng cường dạy tiếng Việt cho trẻ tại lớp. Qua đó, chất lượng
học tập của trẻ em dân tộc thiểu số ngày càng chuyển biến tích cực, học sinh mạnh
dạn, tự tin và thích đến trường.
1. Lý do chọn đề tài:
Cơ sở lí luận: Ngơn ngữ là phương tiện giao tiếp quan trọng nhất, đó là một cơng
cụ hữu hiệu để trẻ có thể bày tỏ những nguyện vọng của mình từ khi cịn rất nhỏ để
người lớn có thể chăm sóc, điều khiển, giáo dục trẻ, là một điều kiện quan trọng để
trẻ tham gia vào mọi hoạt động và trong hoạt động hình thành nhân cách trẻ. Ngơn
ngữ là cơng cụ để trẻ học tập, vui chơi: những hoạt động chủ yếu của trường
mầm non, ngơn ngữ đầu tiên đối với mỗi con người là ngay từ khi lọt lịng mẹ và
trường mầm non là trường học đầu tiên, ở đây có điều kiện, có cơ hội lớn hơn để
giáo dục ngơn ngữ cho trẻ, có thể khẳng định rằng học tiếng Việt là sự học tập quan
trọng nhất, cần thiết nhất, bắt đầu sớm nhất và cần được quan tâm nhất.
+ Dân tộc Việt Nam có 54 dân tộc anh em, mỗi dân tộc có một ngơn ngữ riêng; tuy
nhiên để có sự giao thoa văn hố, giáo dục , y tế,...thì cần có ngơn ngữ chung, Tiếng
Việt cịn gọi là tiếng phổ thơng với tư cách là ngơn ngữ Quốc gia, là ngơn ngữ chính
thức dùng để giao tiếp với cộng đồng người Việt trên tồn quốc. Hiện nay, ngơn
ngữ sử dụng trong hệ thống giáo dục quốc dân của nước ta là tiếng Việt. Vì vậy,
việc tăng cường tiếng Việt cho trẻ mầm non vùng dân tộc thiểu số có ý nghĩa vơ
cùng quan trọng, nhằm nâng cao khả năng sử dụng tiếng Việt của trẻ, Với học sinh
người dân tộc thiểu số, tiếng Việt là ngơn ngữ thứ hai để tiếp thu kiến thức và trao
đổi với xã hội một cách thuận lợi hơn. Khi đến trường các em phải làm quen với
một ngơn ngữ khác hồn tồn tiếng mẹ đẻ nên trong q trình học tập cũng bị ảnh
hưởng khơng ít. Rào cản tiếng Việt đối với học sinh người dân tộc thiểu số ở khu
vực Tây Ngun khi tiếp cận chương trình giáo dục quốc gia là vấn đề khiến cho
những người làm cơng tác giáo dục ở vùng cao ln trăn trở bấy lâu nay. Bởi, khi bất
đồng ngơn ngữ giữa trẻ và cơ sẽ khơng hiểu nhau khiến trẻ trở nên rụt rè, nhút nhát,
2
thiếu tự tin, khơng biết bày tỏ nguyện vọng của mình cũng như nhu cầu của mình và
chất lượng học tập sẽ thấp.
+ Để khắc phục một phần khó khăn đó, ngày 2/6/2016, Thủ tướng Chính phủ đã ký
Quyết định 1008 phê duyệt Đề án “Tăng cường tiếng Việt cho trẻ MN, học sinh TH
vùng DTTS giai đoạn 20162020 và định hướng đến 2025”. Vì vậy cần đảm bảo cho
các em có kỹ năng cơ bản trong việc sử dụng tiếng Việt, để hồn thành chương trình
Giáo dục Mầm non, tạo tiền đề cho việc học tập, lĩnh hội kiến thức của cấp học
tiểu học, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục vùng dân tộc thiểu số.
Cơ sở thực tiễn:. Bản thân là một giáo viên và cũng là người bản địa, tơi nhận
thức rõ việc trang bị tiếng Việt cho trẻ em dân tộc thiểu số có ảnh hưởng lớn tới kết
quả học tập của trẻ. Tiếng Việt rất quan trọng đối với mọi người dân việt nam.
Đặc biệt đối với trẻ dân tộc thiểu số. Song trong thực tế hiện nay đa số trẻ vùng sâu,
vùng xa vùng dân tộc thiểu số, trước khi đến trường chỉ sống trong gia đình, ở các
thơn bản nhỏ, trong
mơi trường tiếng mẹ đẻ. Do vậy trẻ chỉ nắm được tiếng mẹ đẻ ở dạng khẩu ngữ.
Trẻ biết rất ít hoặc thậm chí khơng biết tiếng Việt. Trong khi đó tiếng Việt là ngơn
ngữ chính thức dùng trong trường và cơ sở giáo dục khác. Trên thực tế tiếng nói
các dân tộc thiểu số, hầu như chưa có vai trị rõ rệt trong việc hỗ trợ tiếng Việt
trong giáo dục. Vì vậy, cho đến nay nhìn chung việc dạy học tiếng Việt cũng như
việc dạy học bằng Tiếng việt ở các vùng dân tộc thiểu số chỉ đạt kết quả thấp. Đặc
biệt ở trường mầm non, đa số các cháu là người dân tộc châu mạ nghe và nói tiếng
Việt rất kém, mặc dù cơ giáo có giao tiếp và dạy trẻ nói tiếng Việt thì trẻ vẫn nói
bằng hai thứ
tiếng. mà chủ yếu là tiếng mẹ đẻ, nhất là khi trẻ ra khỏi lớp học. Sở dĩ như vậy là
do
tiếng Việt khơng phải là một phương tiện sử dụng dễ dàng đối với học sinh dân tộc
thiểu số. Ở đây học sinh chỉ dùng tiếng Việt nói với giáo viên khi cần thiết, cịn
ngồi ra trẻ vẫn thường xun sử dụng ngơn ngữ riêng của dân tộc mình. Đa phần là
trẻ chưa hiểu, chưa nghe được ngơn ngữ bằng tiếng Việt. Nên khó khăn trong việc
3
tiếp nhận Tiếng việt, dẫn đến cháu khó tiếp thu lời giảng của cơ bằng ngơn ngữ
Tiếng việt dẫn đến chất lượng chăm sóc Giáo Dục trẻ khơng thể đạt được kết quả
như mong muốn.. Chính vì vậy việc cung cấp vốn Tiếng việt cho trẻ Dân tộc thiểu
số là vấn đề cần được quan tâm, nhằm hình thành và phát triển những kỹ năng cần
thiết cho việc học Tiếng việt ở các bậc học tiếp theo.
+ Với những học sinh ở bậc mầm non chuẩn bị lên lớp 1, vốn Tiếng Việt vẫn cịn
rất mới mẻ với các em. Đây cũng là thực trạng chung ở các địa bàn vùng sâu . Vì vậy
là một giáo viên mầm non vùng sâu, vùng xa với số trẻ dân tộc chiếm tỷ lệ 69% là
các cháu dân tộc thiểu số. Tơi nhận thấy cần có những biện pháp bổ xung, tăng
cường tiếng Việt cho trẻ ngay từ độ tuổi mầm non.
2. Tính mới của đề tài: Đây là sáng kiến kinh nghiệm được thực hiện bởi kinh
nghiệm của bản thân, nội dung giáo dục phù hợp với đối tượng với điều kiện thực
tế của trẻ của nhà trường của lớp và thực tế ở địa phương, Các giải pháp tăng
cường tiếng việt khi áp dụng thực hiện có hiệu quả cao.
Vận dụng những kiến thức kinh nghiệm đưa ra một số giải pháp nhằm giúp trẻ
nâng cao chất lượng ngơn ngữ trong giao tiếp, trong diễn đạt tiếng việt của trẻ một
cách tốt nhất.
Tơi mong rằng trẻ thành thạo tiếng Việt sớm hơn và từ đó trẻ tiếp nhận tri thức
một cách dễ dàng. Giúp trẻ tự tin, mạnh dạn thể hiện hiểu biết của mình bằng cách
sử dụng ngơn ngữ tiếng việt một cách thành thạo sớm nhất.
3. Phạm vi đề tài: Tăng cường tiếng việt cho trẻ dân tộc tại lớp lá 3 trường mầm
non Lộc Bảo.
II.THỰC TRẠNG:
1. Thuận lợi:
Lớp nhận được sự quan tâm của ban giám hiệu nhà trường;
Bản thân là giáo viên bản địa, nhiệt tình u nghề mến trẻ. Có thể nghe, hiểu và nói
được tiếng địa phương, vì vậy bản thân có nhiều thuận lợi trong việc giao tiếp, trao
đổi với trẻ khi trẻ chưa nói được tiếng Việt, bản thân tơi hiểu được mong muốn và
4
nguyện vọng của phụ huynh nên cũng thuận lợi trong cơng tác phối kết hợp với phụ
huynh trong các hoạt động; từ đó giúp tơi có những giải pháp nhằm nâng cao chất
lượng giáo dục trong nhà trường đó là một thuận lợi lớn trong việc thực hiện đề tài.
Lớp học rộng rãi, thống mát đảm bảo cho cơng tác chăm sóc giáo dục trẻ, nhà
trường có máy trình chiếu có thể kết nối với máy tính xách tay, lớp được trang bị các
tài liệu, sách truyện để làm tài liệu dạy.
Ban thân
̉
có thể ưng dung cơng nghê thơng tin vao giang day.
́
̣
̣
̀
̉
̣
Trẻ trong lớp có cùng độ tuổi, sĩ số học sinh đảm bảo phù hợp với điều kiện của
lớp và nhà trường, tỉ lệ chun cần của trẻ cao.
Trường được xây dựng ở gần khu dân cư thuận tiện cho việc đi học của học sinh
Trường lớp sạch sẽ, đồ dùng, trang thiết bị được đảm bảo đầy đủ cho trẻ hoạt
động trong lớp và ngồi trời.
2. Khó khăn:
Lớp lá 3 được xây dựng ở điểm lẻ, thơn 2 Xã Lộc Bảo, Học sinh đa số trẻ là
người dân tộc châu mạ, một số ít là trẻ là dân tộc h’mơng, tày, nùng khả năng nghe,
hiểu, nói tiếng việt của trẻ kém nên giáo viên gặp nhiều khó khăn trong giảng dạy,
truyền đạt kiến thức đến trẻ.
Đa số phụ huynh học sinh chưa thực sự quan tâm đến việc học của các cháu, trong
gia đình chủ yếu trẻ giao tiếp bằng tiếng mẹ đẻ vì vậy vốn tiếng việt của các cháu
hầu như khơng có, khiến cho việc giảng dạy khi các cháu đến độ tuổi đến trường
gặp rất nhiều khó khăn.
Có 30,6 % trẻ mới bắt đầu ra lớp và cũng là lúc trẻ bắt đầu làm quen với ngơn ngữ
tiếng Việt. vì vậy q trình tiếp thu kiến thức của trẻ chậm, khơng đồng đều.
Nhiều phụ huynh chưa thành thạo tiếng phổ thơng và chưa chú trọng vào việc dạy
tiếng phổ thơng cho trẻ tại gia đình.
Đồ dùng phục vụ cho hoạt động dạy ngơn ngữ tiếng Việt cho trẻ chưa phong phú
đa dạng, chưa có sự đầu tư và chưa có sự sáng tạo.
Đối với trẻ mới ra lớp ngơn ngữ nói tiếng việt của trẻ cịn hạn chế, trẻ chậm, nhút
nhát, chưa tự tin.
5
Cơ giáo cịn hạn chế về tiếng Mơng, tày, nùng nên việc phối kết hợp giữa cơ và trẻ
cịn chưa đạt hiệu quả cao.
3. Ngun nhân:
Trẻ dân tộc thường sống ở vùng sâu vùng xa, vùng núi; mơi trường giao lưu hạn
chế, việc giao tiếp và sử dụng tiếng Việt ở gia đình ít được chú ý rèn luyện, hiểu
biết về tiếng Việt của phụ huynh chưa thật tốt, thường sử dụng tiếng m ẹ đẻ trong
gia đình và cộng đồng; vì vậy:
Trẻ học tiếng Việt với tư cách là ngơn ngữ thứ hai;
Trẻ thường phát âm khơng chuẩn âm tiếng Việt do ảnh hưởng của tiếng mẹ đẻ;
Trẻ ln có thói quen sử dụng tiếng mẹ đẻ trong giao tiếp và vui chơi, kể cả khi ở
lớp;
Lớp 25 trẻ dân tộc, chiếm 69 % trẻ học là dân tộc thiểu số, 30,6 % trẻ mới bắt
đầu ra lớp trẻ bắt đầu học và làm quen với ngơn ngữ tiếng Việt.
Vốn kinh nghiệm, hiểu biết về cuộc sống và kĩ năng ngơn ngữ tiếng mẹ đẻ cịn
nghèo nàn nên ảnh hưởng đến việc tiếp nhận tiếng Việt;
Mơi trường giao tiếp bằng tiếng Việt bị hạn chế bởi khơng gian và thời gian, chủ
yếu trẻ giao tiếp tiếng Việt trong thời gian trẻ học ở trường;
Đặc biệt các lớp ở điểm lẻ cịn rất khó khăn, việc sử dụng ngun vật liệu sẵn có
của địa phương để làm đồ dùng đồ chơi hoặc phương tiện chuyển tải kiến thức
tiếng Việt đến với trẻ cịn hạn chế.
Giáo viên chưa chú trọng vào việc tăng cường tiếng Việt cho trẻ.
III.BIỆN PHÁP THỰC HIỆN
1.Biện pháp 1: Sử dụng các loại rối, mơ hình để thu hút trẻ học tiếng Việt
Lý do chọn biện pháp: Theo tơi, đây là một phương pháp quan trọng,bởi muốn dạy
trẻ làm quen với ngơn ngữ thứ hai là một điều rất khó, giáo viên sử dụng các loại rối,
mơ hình bài thơ để tăng cường tiếng việt cho trẻ, trẻ sẽ có hứng thú, chú ý học. Vì
vậy để lựa chọn được phương pháp tăng cường ngơn ngữ tiếng việt cho trẻ dân tộc
một cách phù hợp thì giáo viên cần sáng tạo, làm nhiều đồ dùng đồ chơi để dạy.
6
Cách thực hiện: Tơi sử dụng các ngun vật liệu mở như: bìa cứng, xốp bitis, thanh
tre, hộp xốp, đất nặn, rơm, gỗ,….để làm thành con người, con vật, hoa, quả trẻ có
thể sử dụng được để sử dụng cho hoạt động kể chuyện, thơng qua đó giáo viên giới
thiệu nhân vật, giải thích từ khó cho trẻ để tăng cường vốn tiếng việt cho trẻ.
Ví dụ: Cơ kể chuyện “ Ba cơ gái” Tơi chuẩn bị sân khấu rối, các con rối được làm
bằng vải vụn được cải biên màu sắc rực rỡ để thu hút sự chú ý của trẻ, tơi chuẩn bị
mũ múa để trẻ hóa thân vào các nhân vật nhập vai.
+ Qua câu chuyện cơ giải thích nghĩa các từ khó để trẻ hiểu nghĩa của từ như : “Vất
vả” có nghĩa là làm nhiều việc nặng; “Rịng rã”: Đi liên tục khơng nghỉ ; “Hốt
hoảng” Có nghĩa là giật mình và lo sợ; cơ có thể sử dụng song ngữ tiếng việt – tiếng
mẹ đẻ giải thích cho trẻ học từ mới.
Kết quả: Vốn từ của trẻ tăng lên rõ rệt, trẻ mạnh dặn đặt câu hỏi, ý kiến, tự tin
tham gia trị chuyện cùng cơ và các bạn, hứng thú tham gia các hoạt động.
2.Biện pháp 2: Sử dụng phương pháp trực quan hành động để kể chuyện
Lý do chọn biện pháp: Trẻ dân tộc khi đến trường mầm non học, trẻ hồn tồn
khơng biết hoặc chỉ biết ít tiếng Việt. Phương pháp này rất hiệu quả đối với người
bắt đầu học một ngơn ngữ mới (ngồi tiếng mẹ đẻ), cho phép người học tiếp thu
ngơn ngữ mới một cách dễ dàng và tự nhiên mà khơng bắt buộc phải q tập trung
hay căng thẳng. Phương pháp này được áp dụng rộng rãi và hiệu quả ở nhiều hình
thức khác nhau. Với phương pháp này, người học được sử dụng tích cực các giác
quan và vận động của cơ thể trong suốt q trình tham gia vào hoạt động học tập và
thực hành ngơn ngữ mới. Các kỹ năng nghe quan sát phản hồi (bằng hành động
của cơ thể) được sử dụng hiệu quả trong q trình học tập. Phương pháp này giúp
giáo viên và trẻ có thể áp dụng một cách linh hoạt, sáng tạo các hoạt động dạy và
học để đạt được những giờ học thực sự tích cực. Sử dụng đồ dùng trực quan đẹp,
bắt mắt đó cũng là cách làm trẻ tị mị xem đó là gì, thích được tham gia vào hoạt
động với đồ dùng đó.
Giáo viên cần sử dụng phương pháp trực quan hành động giúp trẻ dân tộc thuận lợi
hơn trong việc học tiếng Việt.
7
Cách thực hiện: Phương pháp này được áp dụng sau khi trẻ đã nắm được các từ và
câu mới học ở phần phương pháp sử dụng bài văn vần, đồng dao nhằm mục đích
thực hành vận dụng các từ và câu nói đã học vào câu nói biểu đạt. Sau khi trẻ đã học
từ và câu, giáo viên có thể sáng tạo ra một câu chuyện có gắn các từ và câu nói đó.
Hoặc theo một câu chuyển kể có sẵn, phương pháp với chuyện kể giáo viên giới
thiệu các từ mới sẽ được sử dụng trong câu chuyện để trẻ làm quen trước. Hoạt
động kể chuyện được thực hiện dần từ dễ đến khó, từ những truyện đơn giản đến
truyện có nhiều tình tiết. Giáo viên chọn lựa những từ tượng thanh, từ láy hoặc
những truyện có câu lặp hay đoạn lặp và khuyến khích trẻ nghe rồi nói theo.
+ Chuyện kể có sử dụng các từ tượng thanh, từ láy làm cho trẻ thích thú học theo.
Ví dụ: Truyện “ Qủa trứng” – Nguyễn Thanh Thảo.
Có một quả trứng ai đánh rơi, nằm im lìm trên bãi cỏ, một bác Gà trống mào đỏ chót
đi ngang qua, trơng thấy quả trứng, bác liền kêu thật to: Ị ...ó ...o...o... quả trứng gì to
to, qủa trứng gì to to...
Bác Lợn éc béo phục phịch đi qua ngó nghiêng quả trứng rồi kêu: Ụt à, ụt ịt, trứng gà
hay là trứng vịt?
Chú Chó đốm chạy lại hít hít quả trứng rồi cũng kêu: Gâu! Gâu! Trứng ngỗng, trứng
ngan? Trứng ngỗng, trứng ngan?
Bỗng nhiên quả trứng lúc lắc, lúc lắc rồi vỡ đánh tách một cái. Một chú Vịt con thị
mỏ ra kêu: Vit...Vít ...
Mọi người liền vui vẻ đưa chú trở về nhà với mẹ của chú.
+ Giáo viên u cầu trẻ nhắc lại lời thoại những từ tượng hình, tượng thanh như:
“Ị ó o o…quả trứng gì to to” hoặc “ Ụt à, ụt ịt…trứng gà hay trứng vịt”,….
Giáo viên tập cho trẻ kể lại câu chuyện đã nghe, rồi kể chuyện theo tranh, kể
chuyện theo đồ vật ( có yếu tố trực quan), với trẻ có khả năng tiếng Việt tốt, giáo
viên khuyến khích trẻ kể chuyện theo sự kiện đã trải nghiệm, kể chuyện theo chủ
đề.
8
Các phương pháp trực quan hành động gồm: Phương pháp trực quan hành động với
cơ thể; phương pháp trực quan với đồ vật; phương pháp trực quan hành động với
chuyện kể.
+ Kể chuyện bằng phương pháp trực quan hành động với cơ thể: Điểm quan trọng
nhất của phương pháp này là qua truyện được nghe kể trẻ học từ và câu nói tiếng
Việt trên cơ sở nghe hiểu ý nghĩa của từ mới / câu mới, sau đó tập nói những từ/ câu
đơn giản, gần gũi và gắn với ngữ cảnh cụ thể. Đây là phương pháp sử dụng các bộ
phận của cơ thể làm phương tiện trực quan giúp trẻ thấu hiểu sâu sắc nghĩa cuả từ /
câu. Phương pháp này thực hiện bằng cách : Trẻ lắng nghe cơ nói từ / câu nói gắn
với hành động của cơ thể, dần giúp trẻ hiểu được nghĩa của từ / câu đó. Giáo viên
vừa nói từ / câu vừa thực hiện hành động của cơ thể mình để minh họa: Đứng lên,
ngồi xuống, chào cơ, chào bạn, đi ra, đi vào…và làm động tác minh họa. Giáo viên nói
từ mới, trẻ nói theo và làm động tác minh họa. Giáo viên có thể cho trẻ chơi theo cặp
đơi: một trẻ nói cịn một trẻ khác thực hiện hành động theo lời nói.
Ví dụ: Cơ kể câu chuyện “ Giấc mơ kì lạ”, thơng qua câu chuyện cơ cho trẻ học từ
mới : Bàn tay, bàn chân, đơi tai, mắt, mũi, miệng. Cơ giải thích cho trẻ hiểu nghĩa của
từ bằng cách sử dụng các bộ phận trên cơ thể, ví dụ như dạy trẻ từ “ Bàn tay”, cơ
giới thiệu từ “ bàn tay”, đồng thời cơ xịe bàn tay của mình ra. Gơi hỏi trẻ: Cái gì đây
các con? ( bàn tay), cơ có mấy bàn tay ( Khái qt cho trẻ hiểu đây là bàn tay, 2 bàn
tay được gọi là đơi tay, Bàn tay cịn có các ngón tay). Bàn tay đẹp của các con đâu?
( trẻ giơ 2 tay lên), cho trẻ phát âm “ Bàn tay”, tổ, nhóm, cá nhân phát âm. Chú ý cho
trẻ dân tộc phát âm nhiều. Giáo dục trẻ giữ gìn vệ sinh đơi tay sạch sẽ.
Kết quả: Trẻ nói và thực hiện động tác minh họa theo từ / câu nên trẻ dễ nhớ từ,
hiểu được nghĩa của từ , ghi nhớ từ lâu.
+ Phương pháp trực quan hành động với đồ vật: Là phương pháp sử dụng đồ vật, đồ
chơi gần gũi, quen thuộc để trẻ học tiếng Việt. Phương pháp này giúp trẻ hiểu nghĩa
của từ trước khi học nói từ đó chính xác. Giáo viên vừa giơ đồ vật ( vật thật) vừa nói
chậm từ hoặc câu nói để trẻ nghe và bắt chước theo. Giáo viên cho trẻ chỉ vào vật
thật vừa nhác lại từ / câu .
9
Ví dụ: Cho trẻ quan sát quả cam thật, trẻ học từ “ Qủa cam” Gợi hỏi: Qủa gì đây?
Cho trẻ đọc “ Qủa cam” Nhiều lần. Qủa cam có màu gì? Trẻ nhắc lại: quả cam có
màu xanh. Khi ăn quả cam có vị gì?. Cơ khái qt quả cam có màu xanh, có nhiều
múi, có hạt, khi ăn có vị chua ngọt, ăn cam cung cấp vitamin c cho cơ thể.
Kết quả: Trẻ ghi nhớ từ nhanh, vốn từ được mở rộng.
+ Phương pháp trực quan hành động với câu chuyện: Phương pháo này được áp dụng
sau khi trẻ đã nắm được các từ và câu mới học ở phần trực quan hành động với cơ
thể và trực quan hành động với đồ vật nhằm mục đích thực hành vận dụng các từ và
câu nói đã học vào câu nói biểu đạt. Sau khi trẻ đã học từ và câu, giáo viên có thể
sang tạo ra một câu chuyện có gắn các từ và câu nói đó.
Ví dụ: Cơ sáng tạo câu chuyện “ Thỏ con khơng vâng lời”, cơ cung cấp từ mới “
Bạn thỏ” ; “ Đi chơi xa” ; “ Qn cả lối về nhà” , “ Chạy mãi, chạy mãi” ; “ Đường
nào về nhà nhỉ?”,….Tiếp đó, giáo viên luyện cho trẻ nghe hiểu và cách sử dụng các
từ, câu nói đó trong ngữ cảnh cụ thể qua câu chuyện do giáo viên tự tạo ra. Câu
chuyện “Thỏ con khơng vâng lời” : Hằng ngày, bạn Thỏ học xong là về nhà. Một
hơm, nghe lời Bướm rủ Thỏ đi chơi. Thỏ mải đi chơi xa, quen cả lối về nhà. Thấy
trời tối, Thỏ sực nhớ là phải về nhà. Thỏ chạy mãi, chạy mãi. Bỗng gặp một cây
cao, Thỏ hỏi: “ Đường nào về nhà nhỉ?”. Cây cao lặng n khơng trả lời. Thỏ chạy
mãi, chạy mãi. Gặp một dịng suối, Thỏ hỏi: “ Đường nào về nhà nhỉ?”. Dịng suối
lặng n khơng trả lời. Sợ q, Thỏ ngồi khóc hu hu hu. Bác gấu đi qua, nhìn thấy
liền đưa Thỏ về nhà. Về đến nhà, Thỏ cảm ơn Bác Gấu và xin lỗi Thỏ mẹ”.
+ Giáo viên có thể kể lại một câu chuyện từ tiếng mẹ đẻ và chuyển nội dung sang
tiếng Việt: u cầu một trẻ xung phong kể một câu chuyện ngắn mà trẻ biết bằng
tiếng mẹ đẻ. Sau đó trẻ cùng nhau ( hoặc theo nhóm nhỏ) dịch câu chuyện sang tiếng
Việt, giáo viên hỗ trợ trẻ ( Nếu cơ biết tiếng dân tộc).
+ Sử dụng một số truyện đơn giản, nội dung gần gũi, dễ hiểu. Những câu chuyện
dạy cho trẻ cần được lấy từ cuộc sống ở địa phương, vốn chuyện kể dân gian do
giáo viên sưu tầm, chuyện được sáng tạo theo chủ đề giáo dục, hoặc những truyện
được xuất bản. Lời trong truyện phải ngắn gọn, sử dụng các dạng câu đơn câu phức
10
phù hợp với khả năng ngơn ngữ của trẻ. Nếu có tranh vẽ thì hình ảnh phải rõ rang
để trẻ dễ nhận ra. Nội dung truyện và số lượng trang minh họa tăng dần theo khả
năng nhân thức, vốn kinh nghiệm hiểu biết, khả năng ngơn ngữ của trẻ. Trong
truyện tối đa có khoảng từ 6 – 8 tranh minh họa và sử dụng các câu ngắn ( câu
khoảng 3 – 4 từ/ câu). Độ dài của chuyện kể tăng dần theo khả năng ngơn ngữ của
trẻ.
Kết quả: Đa số trẻ nghe hiểu và thực hành lời nói trong các tình huống của cuộc
sống.
=> Trong hoạt động tăng cường tiếng Việt, giáo viên sử dụng linh hoạt các phương
pháp trực quan nêu trên, tùy thuộc vào thực tế khả năng tiếng Việt của trẻ. Khi trẻ
mới bắt dầu đi học, giáo viên dạy từ gắn với trực quan hành động với cơ thể khi học
các từ và câu về bộ phận cơ thể, các từ và câu có liên quan đến hành động của bộ
phận cơ thể. Khi trẻ đã có một chút “ vốn liếng” về từ và sử dụng câu tiếng Việt,
giáo viên sử dụng trực quan hành động với đồ vật và với tranh ( xem tranh va nhận
biết bộ phận cơ thể, vẽ tranh theo lời hướng dẫn của cơ hoặc đến từng nơi có tranh
bộ phận cơ thể). Khi trẻ đã sử dụng được các từ và câu đã học, giáo viên kể chuyện
cho trẻ nghe, sau đó cho trẻ đóng kịch theo cốt truyện.
Cách thức tổ chức hoat động tăng cường tiếng Việt khơng giống hồn tồn như
hoạt động phát triển ngơn ngữ hay hoạt động làm quen văn học. Giáo viên có thể sử
dụng linh hoạt các phương pháp trực quan hành động với bộ phận cơ thể, với đồ vật
hoặc với tranh để trẻ học và ơn luyện lại từ và câu mẫu, sau đó vận dụng phương
pháp trực quan hành động với câu chuyện. Hoat động tăng cường tiếng Việt chủ yếu
tập trung vào việc làm quen từ và câu, thực hành vận dụng từ và câu đó trong thực tế.
3.Biện pháp 3: Tổ chức ơn luyện cho trẻ bằng hình thức tập kể chuyện, đóng
kịch:
Lý do chọn biện pháp: Phương pháp này có những ưu thế, giúp trẻ dân tộc thiểu số
rèn kĩ năng nói trọn câu, rõ ràng, biết sử dụng từ ngữ phù hợp với hồn cảnh, tình
11
huống thực tế. Để trẻ mạnh dạn, tự tin khi đến lớp cũng như hịa đồng vào hoạt
động chung của lớp.
Cách thực hiện: Giáo viên cần tạo nhiều cơ hội để trẻ được “ nói, nói và nói” bằng
hình thức cho trẻ đóng vai các nhân vật trong câu chuyện. Giáo viên kể lần 1 nội
dung câu chuyện, vừa kể vừa làm động tác minh họa nhẹ nhàng ( chú ý vào các từ
mới) và sử dụng ngữ điệu giọng nói thể hiện từ mới đó. Giáo viên kể lần hai tồn bộ
nội dung câu chuyện ( trích dẫn, giảng nội dung từng đoạn, giải thích từ khó,cho trẻ
phát âm từ khó) có thể cho một vài trẻ lên làm động tác minh họa theo lời dẫn
chuyện của cơ. Giáo viên kể lần 3 và khuyến khích trẻ nói theo đoạn lặp, đoạn đối
thoại ngắn của nhân vật trong truyện để phát triển lời nói. Giáo viên đặt câu hỏi giúp
trẻ hiểu nội dung câu chuyện sâu sắc hơn. Nếu thấy trẻ hiểu được nội dung câu
chuyện , giáo viên bắt đầu cho trẻ kể chuyện theo sự hiểu biết và bằng ngơn ngữ
của cá nhân. Giáo viên quan sát và giúp đỡ trẻ kể chuyện. Có thể cho trẻ đóng kịch từ
các truyện được cải biên. Để trẻ dân tộc thiểu số cảm nhận và hiểu sâu sắc các từ
và câu dễ dàng, giáo viên cần viết lại truyện kể cho ngắn gọn, súc tích và nhấn
mạnh vào những từ, câu mới cần dạy trẻ. Nếu tiếng Việt của trẻ khá tốt, có thể cho
trẻ kể chuyện theo tranh hoặc ảnh. Giáo viên sử dụng tranh khi dạy những từ, câu
gắn với sự vật, hiện tượng mà trẻ khơng có điều kiện tri giác trực tiếp ( Con chim,
cái ghế, cái bàn, cái chén,…) nhằm giúp trẻ hiểu nghĩa của từ và câu đó. Khi trẻ đã có
số lượng từ vựng nhất định, giáo viên có thể sử dụng tranh ảnh để tăng cường khả
năng sử dụng từ và câu cho trẻ. Chú ý, nên dành thời gian cho trẻ suy nghĩ và nói về
nội dung câu chuyện. Khuyến khích những trẻ khá tiếng Việt nói lên trước có thể
cho trẻ kể chuyện theo tranh truyện cơ đã chuẩn bị, tiếp theo là những trẻ kém tiếng
Việt, trẻ nhút nhát lên nói sauải biên thành câu chuyện đơn giản khi trẻ học về các
bộ phận cơ thể hoặc cho trẻ đóng kịch theo câu chuyện
Ví dụ: Truyện “ Cơ bé qng khăn đỏ”, giáo viên có thể cho trẻ đóng kịch theo câu
chuyện. Khi cho trẻ đóng kịch, giáo viên phân từng cặp 2 trẻ ( mootl làm bà cụ và
một làm cơ bé qng khăn đỏ. Trang phục gồm một chiếc khăn màu đỏ để qng cho
cơ bé và chiếc khăn dùng cho người già, tùy thuộc vào đặc điểm địa phương).
12
“ Ngày xửa ngày xưa, có một cơ bé qng khăn đỏ. Cơ bé rất thích qng chiếc khăn
màu đỏ nên mọi người gọi cơ là Cơ bé qng khăn đỏ. Một hơm, cơ đến thăm bà
ngoại bị ốm. Nhìn thấy bà nằm trên giường cơ ngạc nhiên hỏi: Bà ơi sao mắt bà to
thế?”( Chỉ vào mắt)
Bà nói: “Mắt bà to để nhìn cháu rõ hơn”.
Cơ lại hỏi: “Bà ơi, sao mũi bà to thể?” ( Chỉ vào mũi)
Bà nói: “ Mũi bà to để bà thở cho dễ ”.
Cơ lại hỏi: “ Bà ơi, sao tai bà to thế?”
Bà nới: “Tai bà to để nghe cháu nói cho rõ hơn”.
Cơ lại hỏi: “ Bà ơi , sao tay bà to thế?” ( Chỉ vào tay)
Bà nói: “ Tay bà to để ơm cháu chặt hơn”.
Cơ lại hỏi tiếp: “ Bà ơi, sao mồm bà to thế?” ( Chỉ vào mồm)
Bà nói: “ Mồm bà to để ăn thịt cháu”. ( Dùng tay ơm vào người cơ bé).
Thì ra con sói đó ăn thịt bà của cơ bé qng khăn đỏ, rồi giả làm bà đang ốm, Lúc này
con sói nhảy ra ơm cơ bé. Bác thợ săn đi qua, bán chết con sói cứu bà và cơ bé qng
khăn đỏ”.
+ Giáo viên chuẩn bị các tranh ảnh cho hoạt động nhóm hoặc cá nhân cho trẻ tập kể
chuyện nhằm mục đích thực hành vận dụng các từ và câu nói đã học vào câu nói
biểu đạt. Hoặc giáo viên có thể khuyến khích trẻ kể lại một câu chuyện từ tiếng mẹ
đẻ và chuyển nội dung sang tiếng Việt: u cầu một trẻ xung phong kể một câu
chuyện ngắn bằng tiếng mẹ đẻ. Sau đó trẻ cùng nhau ( hoặc theo nhóm nhỏ) dịch
câu chuyện sang tiếng Việt, giáo viên hỗ trợ trẻ ( Nếu cơ biết tiếng dân tộc). Từ đó
giáo viên dạy trẻ các từ mới bằng tiếng Việt từ câu chuyện mà trẻ đã kể.
Kết quả: Qua phương pháp 1/3 trẻ trong lớp đã biết sử dụng từ, câu đúng nghĩa.
Nói trọn câu, rõ rang hơn.
4.Biện pháp 4: Tạo mơi trường học tập và rèn luyện cho trẻ
Lý do chọn biện pháp: Để giúp trẻ phát triển ngơn ngữ đạt kết quả cao thì giáo
viên phải chuẩn bị mơi trường cho trẻ hoạt động, vì mơi trường đóng vai trị rất quan
trọng. Mơi trường có phù hợp, đa dạng, phong phú thì sẽ gây hứng thú cho trẻ. Đây
13
cũng là nội dung của phong trào thi đua“ Xây dựng trường học thân thiện học sinh
tích cực” mà những năm gần đây Bộ Giáo dục, Phịng Mầm non Sở GD&ĐT đã triển
khai. Xây dựng mơi trường phát triển ngơn ngữ cho trẻ mầm non là một việc làm rất
cần thiết góp phần nâng cao chất lượng thực hiện Chương trình GDMN, tăng cường
các điều kiện để đổi mới hoạt động chăm sóc giáo dục trẻ theo quan điểm giáo dục
lấy trẻ làm trung tâm đáp ứng với nhu cầu phát triển của trẻ và nhu cầu đổi mới của
ngành học hiện nay.
Cách thực hiện: Tạo mơi trường học tập để phát triển tồn diện. Mơi trường giáo
dục cịn giúp tăng cường khả năng sử dụng tiếng Việt cho trẻ. Trong một lớp có thể
có trẻ cùng dân tộc, nhưng cũng có trẻ từ nhiều dân tộc, nên có sự đan xen các ngơn
ngữ và văn hóa, sự khác biệt về điều kiện sống, về văn hóa, về thói quen và phong
tục tập qn,…Giáo viên cần tận dụng những đặc điểm trên để phát huy hiệu quả
cao trong q trình học tiếng Việt như: tạo sự tương tác và giao tiếp giữa trẻ với trẻ,
tăng cường trao đổi và chia sẻ giữa giáo viên với trẻ ở mọi lúc mọi nơi.
+ Lớp học phải được trang trí đẹp, sắp xếp gọn gang, ngăn nắp. Nếu diện tích lớp
học rộng rãi, giáo viên có thể chia phịng lớp thành nhiều góc hoạt động đáp ứng nhu
cầu của trẻ, nếu diện tích lớp chật hẹp, tùy theo mục tiêu của từng chủ đề, giáo viên
cố gắng tạo một số góc nhất định để trẻ có thể có nhiều cơ hội hoạt động nhằm đạt
mục tiêu của chủ đề. Một số góc cần thiết cho các chủ đề: góc đóng vai, góc xây
dựng, góc sách truyện, góc tạo hình, góc chơi đồ chơi và xếp hình, góc âm nhạc, góc
học tập, góc thiên nhiên, thử nghiệm.
+ Trong lớp học phải có góc khuyến khích phát triển ngơn ngữ ( góc ngơn ngữ) như:
treo tanh ảnh có chữ cái, bảng chữ cái,…để trẻ có cơ hội làm quen chữ cái. Cũng như
trong góc đó có các truyện tranh ( trẻ xem và đọc sách), tranh ảnh ( trẻ xem và trị
chuyện theo tranh; kể chuyện theo tranh…) và giấy, bút để trẻ vẽ, tơ màu bức tranh,
làm sách, làm bộ sưu tập…Các thiết bị, đồ dùng đồ chơi trong lớp được sắp xếp,
trưng bày theo hướng mở tạo điều kiện thuận lợi khi trẻ sử dụng và cất dọn. Các đồ
dùng đồ chơi cần đa dạng, có đồ dùng mua sẵn, có đồ dùng đồ chơi giáo viên làm,
14
cũng có đồ dùng, đồ chơi do cơ và trẻ cùng làm hoặc phụ huynh đóng góp, đặc biệt là
nên sử dụng các đồ chơi do trẻ tự làm.
*Mơi trường giáo dục trong lớp: Ngồi thời gian hoc theo quy định, giáo viên tổ chức
các hoạt động chơi và tăng cường tiếng Việt cho trẻ qua nhiều hình thức:
+ Mơi trường vật chất: Tổ chức các khu vực hoạt động; chuẩn bị đồ dùng đồ chơi,
sưu tầm và trưng bày tranh ảnh, sách, sản phẩm tạo hình của trẻ, vật thật, đồ dùng
sinh hoạt địa phương…về chủ đề .
+ Mơi trường chữ viết. Chú ý khi tạo mơi trường chữ viết cho trẻ cần tạo bằng các
chữ cái in thường, đảm bảo vừa tầm mắt của trẻ, tránh rườm rà gây khó nhìn cho
trẻ.
+ Chơi các trị chơi ngơn ngữ: trị chơi luyện nghe, trị chơi nhằm phát triển vốn từ,
trị chơi rèn luyện câu nói đúng ngữ pháp và trị chơi rèn luyện nói biểu cảm.
+ Tổ chức cho trẻ ơn luyện đọc thơ, văn vần, hát và múa.
+ Xem tranh và trị chuyện theo tranh, theo vật thật hay theo chủ đề ( tùy thuộc vào
khả năng ngơn ngữ và điều kiện thực tế của lớp).
+ Kể chuyện hay đọc sách cho trẻ nghe, trị chuyện theo nội dung câu chuyện.
+ Thực hiện hoạt động tạo hình và trẻ nói về sản phẩm tạo hình của mình.
+ Chơi những trị chơi làm quen với chữ cái.
+ Chơi trị chơi ngón tay kết hợp với dùng lời nói.
Ví dụ 1: Giờ chơi tự do tơi hay dẫn trẻ đến các góc trị chuyện và phát âm các từ có
trong tranh, từ ở mỗi góc, tơi dạy trẻ phát âm nhiều lần và cho trẻ chỉ, phát âm chữ
cái đã học; qua nhiều lần như vậy trẻ lớp tơi phát âm chuẩn hơn, mạnh dạn hơn
trong giao tiếp với cơ, với bạn. Ngồi ra,giờ chơi, hoạt động góc tơi cho trẻ đóng các
vai khác nhau, trẻ được giao lưu trao đuổi mua bán và thể hiện hết vai chơi của
mình, bên cạnh đó tơi ln theo sát trẻ để kịp thời sửa sai, uốn nắn mỗi khi trẻ hỏi
hoặc trả lời khơng trọng tâm hay trẻ dùng tiếng mẹ đẻ.
* Mơi trường ngồi lớp học: Mơi trường ngồi lớp học cần đảm bảo an tồn tuyệt
đối, các trẻ đều có thể tham gia hoạt động và có thể tương tác với nhau. Sân chơi
được phân chia thành những khu vực riêng biệt: Khu vui chơi với cát, nước, đất sét;
15
khu sinh thái ( trồng rau, cỏ, ni con vật,…); khu vực chơi vận động, có thể huy
động phụ huynh hoặc cộng đồng địa phương làm thêm những đồ chơi cho trẻ vận
động ( ghế thăng bằng làm từ gỗ hoặc xây bằng xi măng, đồ chơi bóng rổ, ném trúng
đích, bật xa,….) được tự chế bằng ngun vật liệu địa phương. Khu ngồi chơi tĩnh
( có thể huy động phụ huynh hoặc cộng đồng đóng những chiếc ghế từ gỗ, ghế đá
để cơ và trẻ cùng ngồi hát, đọc thơ, kể chuyện, đọc sách, vẽ…) đặt dưới gốc cây.
Ngồi ra, cần tận dụng quang cảnh thiên nhiên gần gũi quanh trường để trẻ khám
phá và học.
Giáo viên tổ chức cho trẻ chơi theo các hình thức:
+ Tập thể dục hoặc chơi trị chơi vận động ở ngồi trời để trẻ được hưởng khơng
khí trong lành và khơng gian rộng rãi.
+ Chơi tập thể: Khi mới ra ngồi sân chơi, giáo viên tổ chức cho trẻ quan sát và trị
chuyện về thời tiết, nhiệt độ, về mơi trường xung quanh lớp hoặc tổ chức cho trẻ
tham gia hoạt động tập thể ( múa hát, nghe kể chuyện, đọc thơ,…), sau đó chơi trị
chơi vận động ( mèo đuổi chuột, dung dăng dung dẻ, nhảy thỏ, một đồn tàu, …).
+ Chơi theo nhóm nhỏ: Tổ chức cho trẻ chơi các nhóm nhỏ. Nội dung chơi của từng
nhóm khác nhau: nhóm chơi với cát, nặn đất sét, nhóm chơi vói đồ chơi vận động,
nhóm tìm kiếm các đồ vật, cơn trùng, lá cây, đá, sỏi, nhóm ơn luyện hát, đọc thơ hoặc
nghe cơ giáo kể chuyện,…tùy theo chủ đề.
+ Chơi cá nhân kết hợp với nhóm: Tổ chức cho trẻ vẽ trên sân bằng phấn, que hay
bằng nhiều cách khác nhau, hoặc cho trẻ chơi diều, chơi chong chóng, bắt ánh nắng,
…
Nhóm các trẻ cùng dân tộc thiểu số tạo điều kiện cho trẻ có thể giảng giải những
từ khó bằng tiếng mẹ đẻ, trẻ học qua chia sẻ với nhau. Nhóm trẻ gồm các trẻ dân
tộc thiểu số khác nhau tạo cơ hội cho trẻ chia sẻ những hiểu biết, văn hóa của dân
tộc mình, tạo nên sự than thiện và mạnh dạn khi giao tiếp với những người khác dân
tộc.
Ví dụ: Tổ chức các hoạt động ngồi trời qua trị chơi vận động để trẻ thích ứng vơi
các tình huống như : Mưa to, mưa nhỏ, bão, dơng, nắng to,…trẻ có hành động và
16
phản ứng thích hợp khi chơi. Hoặc trị chơi “Tung bắt bóng bằng hai tay”, cơ giới
thiệu trẻ cách chơi trị chơi, hỏi trẻ để tăng cường vốn tiếng Việt “ Cái gì đây?”,
cho trẻ phát âm từ “ quả bóng” nhiều lần. “ Qủa bóng dùng để làm gì?”, “ Các con
tung bắt bóng với ai”, “ Tung bát bóng bằng mấy tay”, cho trẻ phát âm từ “ bạn”, và
từ “ hai tay” nhiều lần.
Kết quả: Tổ chức tăng cường tiếng Việt ở mơi trường trong và ngồi lớp học trẻ
được học ở mọi lúc mọi nơi nên vốn tiếng Việt của trẻ tăng lên rõ rệt, trẻ nói rõ
ràng, mạch lạc hơn.
5.Biện pháp 5: Phương pháp phối kết hợp với phụ huynh
Lý do chọn biện pháp: Phụ huynh la người gần gũi trẻ, dạy trẻ tiếng Việt thì trẻ sẽ
hứng thú học, được học tiếng việt mọi lúc mọi nơi. Tăng cường tiếng Việt cho trẻ
cịn phụ thuộc nhiều vào yếu tố gia đình, nếu trong gia đình trẻ được bố mẹ cho giao
tiếp bằng tiếng Việt sớm thì trẻ sẽ tiếp thu và học tiếng Việt rất nhanh, ngược lại
trong gia đình trẻ khơng được làm quen, giao tiếp bằng tiếng Việt thì trẻ sẽ rất khó
để học tiếng Việt. Sau khoảng thời gian học ở trường thì thời gian cịn lại của trẻ
chủ yếu ở gia đình, vì vậy giáo viên phối kết hợp với phụ huynh để trẻ được nói
tiếng Việt ngay trong gia đình sẽ rất tốt cho trẻ, trẻ sẽ được ơn luyện tiếng Việt
trong gia đình.
Cách thực hiện: Giáo viên điều tra số trẻ dân tộc tại lớp. Trong buổi họp phụ huynh
học sinh, giáo viên phổ biến hoạt động tăng cường tiếng Việt cho trẻ dân tộc. Hằng
ngày, trong thời gian đón trả, trả trẻ giáo viên trị chuyện với phụ huynh về khả năng
nói tiếng Việt của trẻ, hướng dẫn phụ huynh ở trong gia đình nên giao tiếp với trẻ
bằng tiếng Việt. Thơng báo kết quả học của mỗi trẻ cho phụ huynh nắm và khơng
qn cho phụ huynh biết khả năng tiếp thu bài học bằng ngơn ngữ tiếng Việt của
mỗi cháu ra sao và rất mong phụ huynh hợp tác trong việc cung cấp tiếng Việt cho
trẻ ở nhà như: phụ huynh dùng tiếng Việt để trao đổi với con em nhiều hơn, kèm trẻ
nhiều hơn trong học chữ cái tiếng Việt và nhất là nói thạo tiếng Việt nhất định con
của phụ huynh sẽ tiếp thu bài một cách dễ dàng, học giỏi hơn trong cấp học mầm
17
non và nhất là các cấp học sau này. Từ những lời nói ấy đã thúc đẩy phụ huynh quan
tâm đến con em hơn, chăm lo cung cấp vốn tiếng Việt ở nhà cho trẻ nhiều hơn.
Kết quả: Trẻ lớp tơi hiện nay nói thạo tiếng Việt hơn, biết dùng từ, câu để diễn
đạt điều trẻ muốn nói, khơng cịn nói câu khơng rõ nghĩa, trẻ mạnh dạn giao lưu cùng
cơ, cùng bạn.
V.KẾT QUẢ ĐẶT ĐƯỢC
Qua kinh nghiệm của bản thân và áp dụng những phương pháp trên đến nay trẻ lớp
tơi đã có: 100% cháu nghe, hiểu được ngơn ngữ tiếng Việt, biết dùng ngơn ngữ tiếng
Việt để diễn đạt thành câu có nghĩa.
+ 100% trẻ nghe, hiểu lời nói của cơ.
+ Có 67 % cháu nhận biết nhanh và phát âm đúng 29 chữ cái tiếng Việt.
+ Có 64 % cháu diễn đạt được suy nghĩ của bản thân, biết nêu ý kiến, mong muốn
của bản thân .
+ Có 50 % trẻ nói lưu lốt bằng ngơn ngữ tiếng Việt.
Ngồi ra, đa số trẻ mạnh dạn, tự tin hơn đầu năm rất nhiều. Hứng thú tham gia cùng
cơ, cùng bạn trong mọi hoạt động.
V.KẾT LUẬN
1.Đánh giá chung:
Qua việc áp dụng sáng kiến kinh nghiệm vào lớp tơi đang dạy với tỷ lệ 69% trẻ dân
tộc. Tơi nhận thấy việc áp dụng có những thuận lợi và cũng khơng ít những khó
khăn.
+ Phụ huynh nhiệt tình cùng tham gia vào q trình xây dựng mơi trường học tập cho
trẻ, đóng góp cơ sở vật chất để xây dựng mơi trường, cung cấp thêm vốn văn hóa ở
địa phương.
+ Một số phụ huynh rất thích con mình nói được tiếng Việt rõ ràng, mạch lạc. Và
quan tâm đến hoạt động của con ở trường.
Bên cạnh đó gặp khơng ít khó khăn:
+ Cháu vẫn thường sử dụng tiếng mẹ đẻ để trị chuyện với bạn cùng dân tộc trong
lớp.
18
+ Một số phụ huynh khơng biết chữ, nên gặp khó khăn khi cho cháu học tiếng Việt ở
nhà, chưa thực sự quan tâm đến việc học của cháu.
+ Chưa khai thác được hết ngun vật liệu sẵn có ở địa phương để xây dựng mơi
trường học tập cho trẻ.
+ Khai thác văn hóa dân gian ở địa phương để trẻ học : thơ, truyện kể, ca dao, hị, vè,
đồng dao, trị chơi dân gian,… cịn nhiều hạn chế.
2. Bài học kinh nghiệm:
Cung cấp vốn tiếng Việt cho trẻ dân tộc là một vấn đề rất khó. Địi hỏi ở cơ giáo
phải thật sự u thương gần gũi trẻ, kiên trì. Đối sử cơng bằng với tất cả các trẻ dân
tộc trong lớp. Ln tạo tình cảm cho trẻ giao lưu trị chuyện với cơ, nghe hiểu lời nói
của cơ. Cuốn hút trẻ tham gia vào các hoạt động phát triển ngơn ngữ thật sự hứng
thú. Được thực hiện thong qua các hoạt động giáo dục ở lớp và được tích hợp vào
một số hoạt động khác trong chương trình chăm sóc giáo dục trẻ. Đảm bảo nội dung
chuẩn bị tiếng Việt theo nội dung phát triển ngơn ngữ trong chương trình giáo dục
mầm non. Đảm bảo phù hợp với kinh nghiệm sống, khả năng của tất cả các trẻ, phù
hợp với điều kiện sống, đặc điểm ngơn ngữ và truyền thống văn hóa các dân tộc ở
địa phương.
Tơn trọng tính đa dạng, chấp nhận sự khác biệt của trẻ các dân tộc trong một lớp.
Tạo mơi trường tương tác tích cực giữa các trẻ.
Trên đây là một vài kinh nghiệm áp dụng trong lớp tơi được thực hiện có hiệu quả,
những biện pháp trên tuy khơng có gì mới lạ đối với các bạn nhưng đối với trẻ dân
tộc thì vơ cùng mới mẻ và có tác dụng hỗ trợ trẻ rất nhiều trong việc học tiếng Việt.
Tuy nhiên trong qua trình xây dựng các phương pháp trên sẽ khơng tránh khỏi những
thiếu sót, rất mong được sự góp ý bổ sung của đồng nghiệp, Ban giám hiệu nhà
trường.
VI. TÀI LIỆU THAM KHẢO:
Quyết định số 1008 / QĐ – TTg ngày 2/6/2016 của Thủ tướng chính phủ phê duyệt
Đề án “Tăng cường tiếng Việt cho trẻ MN, học sinh TH vùng DTTS giai đoạn 2016
2020 và định hướng đến 2025”
19
Cơng văn số 1099/ BGDĐT – GDMN ngày 21/3/2017, về việc Tăng cường tiếng
Việt cho trẻ em dân tộc thiểu số trong các cơ sở giáo dục mầm non.
Tài liệu tập huấn : Hướng dẫn thực hiện chương trình giáo dục mầm non trong
các lớp mẫu giáo ghép.
Tài liệu: Bồi dưỡng thường xun cán bộ quản lí, giáo viên mầm non năm học 2017
– 2018.
Tài liệu: Ngơn ngữ học của tác giả Đinh Hồng Thái
MỤC LỤC
I.
ĐẶT VẤN ĐỀ
1.
Lý do chọn đề tài
2.
Tính mới của đề tài
3.
Phạm vi đề tài
II.
THỰC TRẠNG
1.
Thuận lợi
2.
Khó khăn
3.
Ngun nhân
III.
BIỆN PHÁP THỰC HIỆN
1.
Biện pháp 1
2.
Biện pháp 2
3.
Biện pháp 3
4.
Biện pháp 4
5.
Biện pháp 5
IV.
KẾT QUẢ ĐẶT ĐƯỢC
V.
KẾT LUẬN
1.
Đánh giá chung
20
2.
Bài học kinh nghiệm
VI.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
21