Tải bản đầy đủ (.pdf) (24 trang)

SKKN một số phương pháp dạy tiếng anh học sinh tiểu học bằng trò chơi

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (214.11 KB, 24 trang )

BÁO CÁO KẾT QUẢ
NGHIÊN CỨU, ỨNG DỤNG SÁNG KIẾN
1. Lời giới thiệu.
Trong xu thế hội nhập quốc tế của đất nước, Tiếng Anh là một môn học quan trọng đang
được mọi ngành, mọi nghề, mọi lĩnh vực và mọi người quan tâm. Trong số khoảng 780
thứ tiếng trên thế giới hiện nay thì Tiếng Anh chính là ngơn ngữ chính thức của hơn 53
quốc gia và vùng lãnh thổ, là ngôn ngữ chính thức của khối E.U và là ngơn ngữ thứ 3
được nhiều người sử dụng nhất chỉ sau tiếng Trung Quốc và Tây Ban Nha (do sự chênh
lệch về dân số các quốc gia sử dụng), Tiếng Anh được sử dụng như là ngôn ngữ thứ hai ở
rất nhiều quốc gia trên thế giới trong đó có Việt Nam. Ngồi ra, có tới hơn 1 tỷ trang
Web sử dụng Tiếng Anh, thật kinh ngạc khi chỉ cần học một ngôn ngữ là có thể khai thác
hầu hết kho tri thức ấy. Những phần mềm thông dụng nhất trên thế giới, những mạng xã
hội nổi tiếng nhất, những cổng thông tin phong phú nhất, ... tất cả đều được viết bằng
Tiếng Anh. Vì thế, học Tiếng Anh cũng là điều kiện quan trọng để chúng ta có thể tiếp
cận, cập nhật những nguồn tri thức từ khắp thế giới.
Trong xu thế mở cửa hội nhập của đất nước, bên cạnh sự du nhập mạnh mẽ của các nền
khoa học công nghệ cao cịn có sự du nhập vừa phong phú vừa đa dạng của các nền văn
hóa của các nước trên thế giới. Như vậy làm thế nào để có thể tiếp cận được với những
tiến bộ về khoa học kỹ thuật hiện đại cũng như việc tiếp thu một cách có chọn lọc những
tinh hoa văn hóa của các dân tộc trên thế giới, đồng thời giữ gìn được bản sắc văn hóa
dân tộc, khơng có con đường nào khác là phải đào tạo cho thế hệ trẻ Việt Nam vốn kiến
thức về ngoại ngữ nói chung và Tiếng Anh nói riêng là điều hết sức cần thiết. Nhưng ai
cũng biết rằng các ngoại ngữ nói chung và Tiếng Anh nói riêng là một mơn học khó. Vì
thế, một vấn đề đặt ra là làm thế nào để nâng cao chất lượng đào tạo bên cạnh việc thúc
đẩy hứng thú, khơi gợi niềm say mê học tập Tiếng Anh nơi học sinh đang và sẽ không
ngừng thu hút sự quan tâm của nhiều giáo viên có tâm huyết trong nghề. Vấn đề này cũng
đã được đề cập đến trong một số công trình nghiên cứu của một số nhà giáo, các bài viết
trên Tạp chí giáo dục, trang web của một số các thầy cơ giáo, cũng như khơng ít những
quyển sách tham khảo của nhiều tác giả nổi tiếng. Các công trình đó đã tạo cơ sở, nền
móng cả về mặt lí luận và thực tiễn để tơi mạnh dạn đưa ra “Một số phương pháp dạy
Tiếng Anh học sinh tiểu học bằng trị chơi”.Ở đây, tơi khơng cho rằng đó là sáng kiến


kinh nghiệm mà chỉ đơn thuần là kiến thức của bản thân tôi trong những năm daỵ học
vừa qua, mong rằng các bạn tham khảo và cùng đóng góp, bổ sung cho tơi ngày một hồn
thiện hơn trong cơng tác giáo dục của mình.
2. Tên sáng kiến: “Một số phương pháp dạy Tiếng Anh học sinh Tiểu học bằng trò
chơi”.
3. Tác giả sáng kiến.
- Họ và tên: Trần Thị Mai Lan
- Địa chỉ: Trường Tiểu học Hội Hợp A - Thành phố Vĩnh Yên


- Điện thoại: 0969271488                   Email: 
4. Chủ đầu tư tạo ra sáng kiến:
Trần Thị Mai Lan – Giáo viên trường Tiểu học Hội Hợp A- Thành phố Vĩnh Yên – Tỉnh
Vĩnh Phúc.
5. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến: 
Sáng kiến được áp dụng trong ngành giáo dục; môn Tiếng Anh ở bậc Tiểu học.
          Tơi nghiên cứu đề tài này nhằm mục đích rút ra kinh nghiệm để có thể áp dụng ở
trường chúng tôi và một số trường trong huyện với mục đích  cuối cùng là giúp học sinh
hiểu bài và đưa ra một số phương pháp làm thế nào để gây hứng thú học tập cho các em
học sinh tiểu học. Từ đó nhằm góp phần hồn thiện, bổ sung và nâng cao kiến thức cho
học sinh theo phương pháp học tập tích cực, cải tiến phương pháp mới trong quá trình
dạy Tiếng Anh cấp Tiểu học. Bên cạnh đó với một mong muốn giúp giáo viên có một số
phương pháp trong việc huy động học sinh tham gia các hoạt động giao tiếp trên lớp
nhằm đáp được yêu cầu về đổi mới phương pháp, hướng học sinh vào đúng trọng tâm
yêu cầu của từng tiết học và thu hút học sinh trong quá học tập, đem lại hiệu quả cao.
6. Ngày sáng kiến được áp dụng lần đầu: Ngày 15 tháng 9 năm 2017
7. Mô tả bản chất của sáng kiến.
7.1. Cơ sở lý luận.
* Tầm quan trọng phương pháp dạy Tiếng Anh học sinh tiểu học bằng trò chơi.
Bậc Tiểu học là bậc học góp phần quan trọng trong việc đặt nền móng cho việc hình

thành và phát triển nhân cách học sinh. Trong các trường tiểu học hiện nay,Tiếng Anh
được đưa vào giảng dạy như là một ngoại ngữ cơ bản, là môn học độc lập. Trong những
năm gần đây đã có rất nhiều những cuộc thi tiếng Anh dành cho học sinh tiểu học như:
cuộc thi IOE, Olympic Tiếng Anh, Violympic Toán – Tiếng Anh ... . Cũng như những
môn học khác, môn Tiếng Anh được xây dựng nhằm cung cấp những tri thức ban đầu về
ngôn ngữ nước ngồi, giúp học sinh có một cơng cụ giao tiếp mới ngoài tiếng mẹ đẻ,
bước đầu phát triển khả năng nhận biết, tư duy có phê phán và các kĩ năng tiền ngơn ngữ
trong q trình thực hành giao tiếp Tiếng Anh dưới bốn hình thức nghe, nói, đọc, viết.
Ngồi ra, việc học Tiếng Anh cịn giúp học sinh hình thành năng lực diễn đạt ý tưởng cá
nhân một cách tự tin, độc lập và sáng tạo.
        Muốn học sinh tiểu học tốt mơn Tiếng Anh thì người giáo viên không chỉ truyền đạt
kiến thức một cách dập khuôn, máy móc làm cho học sinh học tập một cách thụ động, mà
cần phải gây hứng thú học tập cho các em bằng cách lôi cuốn các em tham gia vào các
hoạt động học tập. Xuất phát từ những vấn đề này, tôi cho rằng tổ chức các hoạt động
tương tác trong mỗi bài học đặc biệt là ở phần khởi động (Kiểm tra bài cũ) sẽ góp phần
quan trọng trong việc tạo sự tập trung của học sinh vào chủ đề chính của bài học hoặc
phần ứng dụng để giúp học sinh củng cố lại và ghi nhớ kiến thức sâu sắc hơn. Bên cạnh


đó, chúng ta có thể lồng ghép sử dụng các hoạt động vào các khâu giới thiệu và thực hành
ngữ liệu mới để tránh việc gây nhàm chán cho học sinh khi phải lặp đi lặp lại những mẫu
câu cho thuần thục. Việc nghiên cứu và vận dụng hợp lý các hoạt động tương tác vào mỗi
bài dạy sẽ góp phần tích cực đến thành cơng của tiết học.
 7.2. Cơ sở thực tiễn
Do việc thay đổi nội dung chương trình sách giáo khoa mới và sự chỉ đạo của Bộ
GD&ĐT về việc dạy học theo phương pháp cải tiến đổi mới chỉ diễn ra trong một vài
năm gần đây. Thực tế còn nhiều giáo viên bị ảnh hưởng những phương pháp dạy học cũ;
chưa thúc đẩy được khả năng chủ động, tích cực của học sinh; chưa khai thác tối đa các
kênh hình trong sách giáo khoa, cũng như việc sử dụng kết hợp nhiều thủ thuật dạy học
khác nhau. Dẫn đến hiệu quả học thấp, không tạo được hứng thú học tập cho học sinh.

        Hơn nữa, chương trình Tiếng Anh tiểu học được xây dựng dựa vào nhu cầu của xã
hội Việt Nam và đặc điểm tâm sinh lí của học sinh tiểu học nên về mặt nội dung rất thú
vị, hấp dẫn và gần gũi với đời sống hàng ngày của các em. Tuy nhiên trên thực tế thì
Tiếng Anh tiểu học vẫn là một mơn học tự chọn cho nên ngoài những cá nhân thực sự
yêu thích mơn học này thì vẫn cịn một số bộ phận học sinh vẫn chưa thực sự chú trọng
và chưa có ý thức tự giác, ham muốn học tập cho nên dẫn đến tình trạng chất lượng học
sinh học mơn Tiếng Anh chưa cao. Các em khơng có mơi trường để giao tiếp hàng ngày
nên chóng quên từ đó dẫn đến tiếp thu chậm, lực học của các em không đồng đều. Chỉ có
một số học sinh phát triển các kĩ năng tương đối, còn đa phần các em chưa có khả năng
tiếp thu và vận dụng vào thực tiễn cuộc sống. Hơn nữa, ở lứa tuổi tiểu học các em thường
rất hiếu động, ham hiểu biết cái mới song các em lại chóng chán, nhanh quên.
        Từ thực tế trên, tôi nhận thấy để nâng cao chất lượng học tập của các em thì điều
đầu tiên người giáo viên phải làm là tạo cho học sinh sự hứng thú, ham muốn học tập, tạo
sự tò mò và muốn biết được những điều mình sắp được học. Học sinh cần được tham gia
tích cực và chủ động vào mơi trường giao tiếp đa dạng với các hoạt động tương tác như
trò chơi, bài hát, bài đọc nhịp, kể chuyện… dưới sự hướng dẫn của giáo viên để hình
thành các kĩ năng ngôn ngữ, tạo không gian học tập nhẹ nhàng, thú vị và hấp dẫn cho
người học.
7.3. Thực trạng của vấn đề.
7.3.1. Đặc điểm tình hình.    
a. Thuận lợi:
          - Học sinh Tiểu học với bản chất hồn nhiên sẵn sàng tham gia vào các hoạt động
của giờ học khi đã bị cuốn hút vào các hoạt động.
          - Học sinh luôn được phụ huynh học sinh và giáo viên quan tâm, giúp đỡ trong quá
trình học tập.
          - Giáo viên được học tập, trao đổi kinh nghiệm từ đồng nghiệp qua các buổi hội
giảng, trao đổi kinh nghiệm, chuyên đề.


          - Được sự quan tâm, hỗ trợ của Ban giám hiệu nhà trường, tổ chuyên môn và đồng

nghiệp. 
          - Học sinh được làm quen với công nghệ thông tin, các em sớm được tiếp xúc với
máy tính, với mạng Internet và thu nhận được nhiều thơng tin từ đây.
b. Khó khăn :
          - Tiếng Anh là một môn học mới và rất khó đối với học sinh Tiểu học. Hơn nữa đối
với học sinh nông thôn mọi điều kiện tiếp xúc và gần gũi thực tế xung quanh còn hạn
chế. Ở lứa tuổi này, còn một số học sinh phát âm Tiếng Việt chưa được chuẩn.
          - Phần lớn các em học sinh chưa chú tâm và đầu tư cho môn ngoại ngữ, chuẩn bị
bài một cách sơ sài. Trong các giờ học, đa số  các em  thường thụ động, thiếu sự linh
hoạt, ngại việc đọc - nói Tiếng anh và ít tham gia phát biểu để tìm hiểu bài học.
          - Hoạt động luyện nói thường được thực hiện theo cặp, nhóm nên lớp  học dễ ồn ào
mất trật tự. Giáo viên không bao quát hết được tất cả học sinh nên một số em cá biệt lợi
dụng cơ hội nói chuyện bằng Tiếng Việt hay làm việc riêng. Giáo viên không thể phát
hiện và sửa hết lỗi của các em học sinh.
          - Nhà trường chưa có phịng chức năng riêng phục vụ cho việc học ngoại ngữ. Vì
vậy việc tổ chức các hoạt động học tập trong tiết học gặp nhiều khó khăn.
          - Các trang thiết bị, đồ dùng dạy học chưa phong phú và chưa hiện đại.
          - Đa số phụ huynh học sinh chưa nhận ra được tầm quan trọng của việc học Tiếng
Anh đối với con em họ.
          Do vậy địi hỏi giáo viên phải có phương pháp sư phạm tốt, chủ động sáng tạo,
luôn cải tiến phương pháp luyện tập bằng nhiều hình thức khác nhau, nhiều dạng bài tập
khác nhau phù hợp cho từng nội dung bài học để gây hứng thú và động viên tất cả học
sinh nhiệt tình luyện tập thực hành hoạt động giao tiếp.
7.3.2. Quy mô trường lớp năm học 2017 – 2018.
          - Năm học 2017- 2018 nhà trường có 541 học sinh chia làm 20 lớp.
          - Tổng số CBQL, giáo viên và nhân viên là 26 người trong đó có 02 giáo viên
Tiếng Anh.
          - 100%  các lớp học Tiếng Anh. Trong đó 4 lớp 3; 4 lớp 4 và 4 lớp 5 học chương
trình mới của BGD 4tiết/ tuần; 4 lớp 1 và 4 lớp 2 học bộ sách I learn my Phonics( khuyến
khích các em làm quen với Tiếng Anh).

7.3.3. Thực trạng việc dạy và học môn Tiếng Anh tại nhà trường.
          - Hiện tại nhà trường đã và đang thực hiện giảng dạy môn Tiếng Anh 4 tiết/tuần
đối với học sinh khối 3,4,5 và 2 tiết /tuần đối với học sinh khối 1,2.


          - Bước đầu hình thành dần cho học sinh các kĩ năng chủ yếu: Nghe - Nói- Đọc Viết. Trong đó chú trọng đặc biệt là kĩ năng nghe và nói nhằm nâng cao năng lực thực
hành giao Tiếp tiếng Anh mọi lúc, mọi nơi một cách tự tin nhất, Tạo tiền đề, tạo hứng
thú, lòng say mê và khả năng khám phá ngôn ngữ mới để lên bậc học trên các em sẽ học
tốt hơn.
          - Qua những năm giảng dạy ở trường tiểu học, tơi nhận thấy có một số học sinh rất
u thích mơn học, năng động, chủ động và tích cực trong các hoạt động học tập nhưng
chủ yếu là học sinh khá và giỏi. Đối tượng học sinh yếu còn rất nhiều, các em chậm tiếp
thu các kiến thức mà giáo viên truyền đạt, thụ động học tập, các em rụt rè, xấu hổ, ngại
thực hành nói trên lớp. Bên cạnh đó cịn có những đối tượng học sinh cá biệt thiếu ý thức
học tập, các em thường mất trật tự trong lớp, không chú ý nghe giảng, thậm chí khơng ghi
chép bài ở trên lớp và không làm bài tập ở nhà. Đây là một khó khăn lớn đối với giáo
viên giảng dạy bộ mơn.
          - Khi nói đến việc áp dụng một số biện pháp như tổ chức trò chơi, dạy các bài
hát ... vào các giờ học Tiếng Anh thì có rất nhiều những ý kiến từ những người trực tiếp
giảng dạy. Có giáo viên cho rằng những hoạt động này rất tốn thời gian mà bài học thì
dài, khơng đủ thời gian để tổ chức. Có những giáo viên cũng tổ chức nhưng lại chưa biết
cách sắp xếp và quản lí các hoạt động dẫn đến mất thời gian mà không hiệu quả. Có
những giáo viên thì ngại tổ chức vì đơi khi phải chuẩn bị nhiều đồ dùng hoặc lớp học sẽ
ồn ào, làm ảnh hưởng đến các lớp học khác.
- Việc thay đổi quan niệm và thói quen dạy học, khắc phục tâm lý ngại đổi mới là việc
không đơn giản.Vì vậy, chất lượng dạy học mơn Tiếng Anh trong thời gian qua chưa
được như mong muốn. Vậy làm thế nào để nâng cao chất lượng môn Tiếng Anh và tạo ra
sự say mê, hứng thú trong học tập của học sinh là một câu hỏi cho mỗi giáo viên chúng
ta. Chính vì vậy mà tơi đã thử áp dụng sáng kiến “Một số phương pháp dạy Tiếng Anh
học sinh tiểu học bằng trò chơi” để tạo ra động lực thúc đẩy niềm đam mê học ngoại

ngữ của học sinh.
Dưới đây là kết quả tôi làm khảo sát trước khi thực hiện áp dụng sáng kiến trong khối lớp
3, 4 tại trường tiểu học Hội Hợp A.
Bảng 1: Thống kê mức độ u thích mơn Tiếng Anh.
 
Khối
lớp

Mức độ u thích mơn Tiếng Anh
Sĩ số

Rất thích

Thích

Bình thường

Ghét/ Sợ

SL

%

SL

%

SL

%


SL

%

3

99

10

10.1

15

15,2

54

54,5

20

20,2

4

68

6


8.8

8

11,8

40

58,8

14

20,6


Tổng

167

16

9,6

23

13,8

94


56,3

34

20,3

Nhìn vào bảng thống kê cho ta thấy số lượng học sinh sợ học bộ mơn Tiếng Anh cịn
chiếm tỷ lệ rất cao. Điều đó chứng tỏ rằng học sinh chưa cảm thấy hứng thú với việc học
và thực hành Tiếng Anh
Bảng 2: Tổng hợp kết quả đánh giá học sinh. (Tổng hợp theo 4 kỹ năng)
 
Giỏi
Khối
lớp

Sĩ số

Khá

TB

Yếu

SL

%

SL

%


SL

%

SL

%

3

99

12

12.1

20

20,2

47

47,5

20

20,2

4


68

8

11,8

14

20,6

36

52,9

10

14,7

Tổng

167

20

12,0

34

20,4


83

49,6

30

18,0

Qua  bảng thống kê cho ta thấy chất lượng học sinh yếu còn rất cao, tỉ lệ học sinh trung
bình cịn nhiều, tỉ lệ khá giỏi vẫn chưa cao.
* Nguyên nhân dẫn đến thực trạng trên
Học sinh lười học, ngại học, nhút nhát, thiếu tự tin, chưa có động cơ học tập đúng đắn và
phương pháp học tập phù hợp, phương pháp giảng dạy của giáo viên chưa phù hợp, giáo
viên chưa quan tâm hết các đối tượng học sinh, do gia đình chưa động viên kịp thời và
quan tâm đúng mức....
Giáo viên ngại đổi mới, năng khiếu hạn chế, ngại sáng tạo, thiếu linh hoạt, thiếu kinh
nghiệm thậm chí là lịng u nghề, yêu trẻ...
          Từ thực tế đó, là người trực tiếp giảng dạy môn Tiếng Anh, tôi đã cố gắng suy nghĩ
tìm tịi, học hỏi các biện pháp hay để nâng cao chất lượng học tập của bộ môn. Qua quan
sát và kinh nghiệm đứng lớp, tôi thấy các em học sinh tiểu học chưa có ý thức tự giác học
tập cao, ham chơi hơn ham học, tị mị, thích cái mới lạ. Vì thế mà tơi đã mạnh dạn thay
đổi phương pháp học cho các em, vừa chơi vừa học, tạo cho các em khơng khí học tập
nhẹ nhàng thoải mái, và tiếp thu kiến thức một cách chủ động, vận dụng kiến thức vào
luyện tập và củng cố một cách tự nhiên nhất. Vì thế, các em sẽ phát huy hết được trí lực
của mình, tạo ra khơng khí vui vẻ, hào hứng và các em sẽ bị lôi cuốn vào hoạt động học
tập một cách tự nhiên. Từ đó, hiệu quả dạy học sẽ được cải thiện.
          Từ những thực trạng trên, tôi đã quyết định nghiên cứu về các biện pháp gây hứng
thú học tập cho học sinh trong các tiết học ngoại ngữ để từ đó có động cơ đi tìm tịi



nghiên cứu những phương pháp dạy học mới, hay phù hợp với việc dạy và học ngoại ngữ
trong trường học của mình.
7.4. Giải quyết vấn đề
7.4.1.Tại sao phải sử dụng trò chơi cho học sinh trong giờ học tiếng Anh?
7.4.1.1. Khái niệm
* Trò chơi
Theo từ điển Bách khoa tiếng Việt: "Trò chơi là hoạt động vận động làm biểu hiện tình
cảm và nhu cầu nhận thức của con người nhằm ý thức một cách hào hứng về nục đích
hoạt động, nhằm tìm hiểu sâu hơn, phản ánh đầy đủ hơn đối tượng trong đời sống hiện
thực" và " trò chơi tạo nên hứng thú ở chủ thể khát vọng tiếp cận và đi sâu vào đối tượng,
làm nảy sinh cảm xúc tích cực (hài lịng, phấn khởi, u thích ...), nâng cao mức tập
trung, chú ý và khả năng làm việc. Khi được làm việc phù hợp với hứng thú, dù phải vượt
qua khó khăn, con người vẫn cảm thấy thoải mái và đạt kết quả cao".
* Học tập
Học tập là quá trình học và luyện tập những kiến thức tiếp thu được của người học một
cách tự giác, tích cực.
* Trò chơi học tập
Trò chơi học tập là một cách thể hiện thái độ yêu thích đặc biệt của học sinh đối với việc
học tập, được thể hiện qua nhiều mức độ như: sự chú ý tập trung, sự ham thích và cao
nhất là niềm đam mê đối với một đối tượng trong quá trình học. Đối với mức độ của trò
chơi, học sinh ở những lứa tuổi khác nhau có những biểu hiện khác nhau, nhưng ở cấp
tiểu học đa số các em đều chỉ thể hiện ở mức chú ý, tập trung tham gia trò chơi, rất ít học
sinh đạt tới mức độ đam mê do các em chưa ý thức được những lợi ích của việc học tập.
Do đó, thiết nghĩ mỗi người giáo viên tiểu học phải là một người đưa đường bền bỉ, là
người bạn đồng hành của tất cả các em trên con đường đi tìm niềm đam mê đối với tri
thức. Hơn ai hết, giáo viên tiểu học phải coi trọng việc bồi dưỡng hứng thú học tập cho
các em ngay từ những buổi học đầu tiên, những bài học đầu tiên. Đây là một q trình lâu
dài và địi hỏi sự khéo léo trong nghệ thuật sư phạm.
*Trò chơi học tập mơn tiếng Anh.

Trị chơi học tập mơn Tiếng Anh là xu hướng vận động nhằm tạo ra hứng thú của học
sinh có nhu cầu đúng đắn về học tập mơn này. Học sinh có hứng thú học tập thường chú
ý cao độ trong học tập trên lớp và ngoài giờ; thường xuyên say mê rèn luyện các kỹ năng
nghe, nói, đọc, viết; tích cực vận dụng vào giao tiếp và cuộc sống; đam mê tìm hiểu
nghiên cứu; khơng ngừng nâng cao trình độ học Tiếng Anh.
Chính vì vậy, khi học sinh có được hứng thú trong học tập thì việc học tập tốt môn học
này sẽ không phải là trở ngại lớn đối với các em. Do đó, khơi dậy sự hứng thú học tập
cho học sinh là việc làm cần thiết và rất quan trọng của người giáo viên.


7.4.1.2. Vai trò của trò chơi đối với việc học tập mơn tiếng Anh
        Hàng loạt các cơng trình nghiên cứu sinh lý học cho thấy rằng khả năng tiềm tàng
của bộ óc trong hoạt động trí tuệ của con người còn lâu mới được sử dụng hết. Thực tế,
chỉ khoảng 10 – 15% khả năng đó được sử dụng và do vậy dẫn đến sự khác biệt về khả
năng trí tuệ mà ta có thể nhận thấy giữa người này và người khác. Điều này không hẳn
phụ thuộc vào bản tính sinh lý của họ mà chủ yếu là vào những ảnh hưởng khác nhau của
môi trường và sự giáo dục. Thực tế, trong trường học cũng vậy, khi tiếp nhận những tác
động bên ngồi (sự giảng dạy, mơi trường học tập,...) một cách tích cực, các em dễ bộc lộ
tính tích cực nhận thức và cố gắng lĩnh hội bài. Ngược lại, nếu tác động bên ngoài là tiêu
cực thì tính tiêu cực nhận thức của các em sẽ được bộc lộ.
        Chính vì thế, vấn đề đặt ra cho mỗi giáo viên là phải hình thành ở học sinh tâm trạng
tích cực đối với học tập và khêu gợi những kích thích bên trong của sự tích cực nhận
thức. Hay nói cách khác, khi vận dụng những phương pháp và thủ thuật giảng dạy nào
đó, giáo viên phải quan tâm, đầu tư sao cho chúng có tác dụng xúc cảm cần thiết và làm
cho chúng vừa trở nên những tài liệu dễ hiểu, sinh động hơn vừa để kích thích tâm trạng
bên trong của học sinh đối với học tập.
        Không phải ngẫu nhiên mà nhà tâm lý học L. I. Boogiôvich đã viết rằng: "tuyệt đại
đa số học sinh kém thường có thái độ tiêu cực đối với học tập". Điều này có nghĩa là nếu
chúng ta muốn học sinh chăm chú nghe giảng thì việc chỉ nêu tên chủ đề của tiết học và
thông báo những vấn đề cơ bản của bài giảng là chưa đủ. Cần phải gây cho học sinh một

tâm tư xúc động tích cực có liên quan trực tiếp với lịng mong muốn hoạt động nhận thức.
Do đó, khơng thể thiếu được yếu tố gây hứng thú cho hoạt động nhận thức của học sinh.
        Khi hoạt động nhận thức của học sinh dựa trên cơ sở hứng thú, nó sẽ trở nên hào
hứng, thoải mái và dễ dàng. Khi đó, học sinh khơng cần đến sự động viên bên ngoài đối
với học tập mà làm việc với sức mạnh của sự say mê bên trong nhằm đáp ứng nguyện
vọng của bản thân. Việc gây hứng thú ở học sinh sẽ giúp các em có cảm giác niềm vui
sướng của thành công, tin tưởng vào sức mình, vào khả năng vượt qua những khó khăn
thử thách.
        Dẫu biết rằng sự hứng thú có ảnh hưởng mạnh mẽ tới sự thành công của hoạt động
dạy và học nhưng trong thực tế dạy học có những yếu tố gây mất hứng thú hay chưa khơi
dậy được sự hứng thú học tập ở học sinh. Nguyên nhân nào dẫn đến thực trạng này?
Do không hiểu bài: Không hiểu bài, các em sẽ thấy khó khăn, và khi thấy khó khăn thì
học sinh sẽ khơng thể nắm bắt được, vì khơng thể nắm bắt được nên các em cảm thấy
mọi thứ đều tù mù, không rõ ràng và vô hướng. Do đó, các em đương nhiên khơng thể có
hứng thú học và kết quả học tập luôn đi xuống là điều dễ hiểu. Đây là một hiện tượng
không hiếm gặp trong bối cảnh giáo dục hiện nay, khi mà việc học đơn thuần ở lớp không
thể đáp ứng đủ được nhu cầu tương đương với trình độ của mỗi học sinh do sĩ số lớp quá
đông. Không những thế, tác động từ mơi trường cũng có ảnh hưởng nhất định tới kết quả
học tập của mỗi học sinh. Để giải quyết được vấn đề này, đối với từng học sinh, ta phải
có những phương án cụ thể thích hợp.


Do phương pháp giảng dạy: Đơi khi khơng có hứng thú học tập cũng bắt nguồn từ
phương pháp giảng dạy. Chúng ta cần phải ý thức lại vấn đề này. Giáo viên phải là người
gợi mở, dẫn dắt và phải tạo được sự hứng thú trong việc tiếp thu kiến thức của học sinh.
Với một giáo viên lúc nào cũng nghiêm khắc, khơ khan thì đương nhiên khó có thể tạo
hứng thú học tập cho các em, mà thay vào đó chỉ là tâm lý sợ sai mà các em ln phải
duy trì trong suốt giờ học.
        Khơng những thế, ngày nay các giáo viên còn mắc một lỗi phổ biến khiến các em
khơng hứng thú học đó là: thiếu tính sáng tạo trong giảng dạy. Khi phải học bởi kiểu

giảng dạy chỉ có đọc và chép thì chắc hứng thú của các em đều chìm vào giấc ngủ từ khi
nào rồi. Vấn đề này đòi hỏi sự cải thiện rất nhiều từ đội ngũ giáo viên.
        Vậy làm thế nào để khắc phục tình trạng trên? Từ việc đọc, tìm hiểu và nghiên cứu
các thơng tin trên các trang web, sách tham khảo, kinh nghiệm của đồng nghiệp và bài
học từ chính q trình giảng dạy của mình, tơi đã mạnh dạn chia sẻ một số phương pháp
dạy Tiếng Anh học sinh tiểu học bằng trò chơi” nhằm tạo hứng thú cho các em như sau:
7.4.2. Một số phương pháp dạy Tiếng Anh học sinh tiểu học bằng trò chơi:
7.4.2.1. Các hoạt động dạy học phải phù hợp với trình độ nhận thức của từng đối
tượng học sinh và cụ thể là phải phù hợp với từng học sinh
        Trong mỗi lớp học đều có đầy đủ trình độ học sinh. Những học sinh khá, giỏi đương
nhiên sẽ tiếp thu bài nhanh hơn những học sinh yếu kém. Vì vậy, nếu các trò chơi vận
động dạy học chỉ hướng đến học sinh khá, giỏi thì các em cịn lại sẽ ngơ ngác, không
theo kịp; ngược lại nếu chỉ hướng đến học sinh yếu kém thì các học sinh khá, giỏi sẽ cảm
thấy nhàm chán. Do đó, khi đưa ra các hoạt động trên lớp, giáo viên cần nói rõ nội dung,
đưa ra các u cầu khơng q khó đến mức làm nản lịng học sinh nhưng vẫn có thách
thức ở mức độ nào đó để học sinh cố gắng giải quyết và cảm thấy hứng thú hơn khi hoàn
thành tốt các yêu cầu đặt ra. Qua từng tiết học như thế sẽ giúp học sinh có lịng tự tin học
tập rồi dần dần sẽ phát huy được tính tích cực học tập đồng đều ở tất cả học sinh.
7.4.2.2. Sử dụng có hiệu quả dụng cụ trực quan
        Để kích thích tinh thần chú ý của học sinh khơng thể thiếu các dụng cụ trực quan vì
các phương tiện trực quan giúp học sinh hiểu sâu hơn về từ vựng, mẫu câu, cách sử dụng
từ, ... . thông qua các vật thật, tranh ảnh, biểu đồ, ... sẽ giúp các em nhận thức tốt và ghi
nhớ nhanh hơn, lâu bền hơn.
7.4.2.3. Sử dụng trị chơi ngơn ngữ
        Nhiều tài liệu nghiên cứu về phương pháp giảng dạy Tiếng Anh tiểu học đã cho rằng
trị chơi khơng chỉ là hoạt động để lấp khoảng trống về thời gian trong các tiết học mà nó
cịn có một giá trị giáo dục rất lớn. Trong thực tế, trẻ em thường hiếu động nên các em
thường có khuynh hướng dễ nhàm chán nếu nội dung bài học được trình bày đơn điệu, tẻ
nhạt. Được vui chơi khi học là nguyện vọng rất chính đáng và tha thiết của đa số học



sinh. vì vậy việc sử dụng trị chơi trong các tiết học Tiếng Anh có thể giúp ích cho việc
học ngơn ngữ của học sinh.
* Trị chơi giúp luyện tập kĩ năng giao tiếp
        Trò chơi học tập là trò chơi mà luật của nó bao gồm các quy tắc gắn với kiến thức kĩ
năng có được trong q trình học tập, gần với nội dung bài học và giúp học sinh thực
hành luyện tập ngơn ngữ trong các tình huống của trị chơi. Tham gia các trị chơi sẽ
khuyến khích hoạt động nhóm tạo cơ hội cho học sinh hợp tác và giao tiếp với nhau bằng
những mẫu câu được lặp lại giúp phát triển kĩ năng giao tiếp một cách lưu lốt.
* Trị chơi giúp mở rộng và củng cố từ vựng, ngữ pháp
        Nhằm tránh việc cung cấp từ mới cho học sinh một cách dập khn máy móc, khơng
sinh động, thơng qua các trị chơi chúng ta có thể lồng ghép từ mới vào các trị chơi. Từ
đó giúp học sinh dễ hiểu, dễ nhớ và nhớ lâu hơn các từ mà học sinh đã học.
        Trong giảng dạy tiếng Anh cho trẻ em, sử dụng game là một biện pháp hiệu quả và
hữu ích nhằm tạo khơng khí học tập vui nhộn cũng như lôi cuốn học sinh vào bài học,
góp phần cải thiện khả năng tiếp thu kiến thức và rèn luyện kĩ năng ngoại ngữ cho trẻ.
Sau đây là 16 trò chơi đơn giản và phổ biến thường được áp dụng để dạy các kỹ năng
tiếng Anh khác nhau cho trẻ em.
Dạy kĩ năng đọc
1.Mặt nạ (Word masking)
Giáo viên sẽ che một từ trong bài đọc lại. Khi học sinh đọc mỗi câu trong bài, giáo viên
cần cố gắng giúp các em tìm ra từ bị thiếu trong câu là gì. Giáo viên có thể khuyến khích
các em sử dụng các gợi ý như nghĩa, âm từ vựng tương ứng ngữ pháp.
2. (Bingo)
Học sinh sẽ lựa chọn một danh sách cho các từ vựng có trong truyện hoặc bài đọc và viết
chúng vào một khung lưới gọi là bảng bingo. Giáo viên sẽ đọc tên các từ ngẫu nhiên và
học sinh nối các từ vừa được đọc trong bảng Bingo của mình. Ai hồn thành một đường
thằng nối các từ trước sẽ hơ Bingo. Em nào có nhiều đường thẳng Bingo nhất sẽ là người
chiến thắng.
3.Những con số may mắn( Lucky numbers)

          E.g. Unit 13. What do you do in your free time? (tiếng Anh 5 tập 2)
          - Phân chia lớp thành 2 đội (thi ghi điểm).
          - Giáo viên kẻ lên bảng khoảng 12 ơ vng có đánh số.
          - Giải thích trị chơi: Trong 12 con số viết lên bảng có 5 con số may mắn (giáo viên
tự chọn). Các con số còn lại mỗi số tương ứng với 1 câu hỏi. Mỗi đội sẽ lần lượt chọn
những con số bất kỳ. Nếu chọn được số may mắn thì khơng phải trả lời câu hỏi mà vẫn


ghi được điểm (2 điểm cho ô). Nếu không phải là số may mắn thì các đội phải trả lời
đúng câu hỏi thì mới ghi được điểm. Nếu đội chọn số khơng trả lời được thì cơ hội ghi
điểm dành cho đội đối phương.
          Nếu cả 2 đội đều khơng có câu trả lời đúng, đáp án sẽ để lại và được tìm hiểu trong
bài học.
          Các số thứ tự của ơ chữ sẽ tương ứng với câu hỏi giáo viên đã chuẩn bị theo nội
dung bài học.
E.g.
1) Lucky number.
2) What do you do in your free time?
3) Do you often go fishing in your free time?
4) Lucky number.
5) Who do you often go camping with?
6) Lucky number.
7) Where do you go in your free time?
8) What did you do in Nha Trang?
9) Lucky number.
10) Lucky number.
11) Do you often surf the Internet?
12) Do you like going skating?
Sau khi trò chơi kết thúc, giáo viên tổng kết điểm. Đội nào ghi được nhiều điểm hơn sẽ
chiến thắng. (Nếu 2 đội bằng điểm nhau, đội thắng sẽ là đội chọn được nhiều số may mắn

hơn).
 Lucky numbers là một trị chơi có rất nhều cách sử dụng , nó có thể thích hợp với hầu hết
các kiểu bài, các chủ điểm, các trình độ của học sinh. Giáo viên cũng chỉ mất khoảng 7 –
10 phút là có thể chuẩn bị tốt trị chơi này.
4. Hang man
- Gạch những đường gạch ngắn lên bảng. mỗi gạch tượng trưng cho một mẫu tự trong từ.
Ví dụ: Nếu muốn cho học sinh đốn từ “ water” thì gạch 5 gạch lên bảng (_ _ _ _ _). Học
sinh lần lượt đốn các mẫu tự có trong từ. Nếu mỗi lần học sinh đoán sai giáo viên gạch
một gạch (theo thứ tự trong hình vẽ). Nếu học sinh đốn sai 8 lần thì bị thua. Giáo viên
giải đáp từ gợi ý.


Dạy từ vựng
5.Nhớ tranh (Remembering pictures)
Chia học sinh thành 3 hoặc 4 nhóm. Giáo viên cầm một số bức tranh liên quan đến từ
vựng đã dạy ở bài trước trước và giơ lần lượt từng bức tranh lên. Các em có cơ hội để
nhìn vào mỗi bức tranh khoảng 4 hoặc 5 giây. Khi giáo viên giơ tranh xong, mỗi thành
viên của các nhóm sẽ lần lượt chạy lên bục giảng và chỉ viết tên của một bức tranh.
Nhóm nào có nhiều câu trả lời nhất và hồn thành nhanh nhất sẽ là người chiến thắng
6.Chiếc ghế nóng (Hot Seat)
Giáo viên chia học sinh của mình thành 3 hoặc 4 đội và chọn mỗi nhóm 1 thành viên ngồi
lên Ghế Nóng và quay mặt về phía lớp. Giáo viên viết một từ lên bảng, và một thành viên
trong đội của học sinh đang ngồi trên Ghế Nóng phải diễn tả giúp đồng đội của mình
đốn được ra từ vựng trên mà khơng được nói, đánh vần hay viết tên từ đó ra. Trị chơi sẽ
tiếp diễn cho đến khi thành viên trong các đội đều đã diễn tả từ vựng cho đồng đội ngồi
trên Ghế Nóng của mình.
Trị chơi này cũng có thể áp dụng để dạy kĩ năng nói.
7. Network
Giáo viên chia lớp học thành 3 hoặc 4 nhóm, cung cấp cho học sinh từ chủ đề lên bảng,
cho học sinh 2 – 3 phút để thảo luận về các từ có liên quan trong nhóm, sau đó 1 đại diện

của các nhóm lên viết bảng cùng một lúc trong khoảng thời gian 2 phút, nhóm nào viết
được nhiều từ đúng hơn sẽ giành chiến thắng.
          E.g. Unit 12. What does your father do?. ( Tiếng Anh 4 tập 2)
Khi kiểm tra phần từ vựng về nghề nghiệp, tôi sẽ cho học sinh chơi trò chơi Network.
      Trò chơi này rất dễ chơi và có thể tổ chức ở rất nhiều bài học trong chương trình tiếng
Anh tiểu học như: Unit 8. School Things, Unit 11. My Family, Unit 18. Colours, … trong
chương trình Tiếng Anh lớp 3;Unit 3: Days; Unit 4: Months; Unit 8; subjects ;Unit 11.
Daily Activities, Unit 12. Jobs, Unit 13. Favourite Food and Drink, Unit 17: Clothes;
Unit 19. Zoo Animals, ….. trong chương trình Tiếng Anh lớp 4. ….
8. Jumple words
        Giáo viên cần chuẩn bị các tấm bìa giấy hoặc các tấm thẻ đã viết mỗi chữ cái của
các từ (tùy theo trình độ học sinh và số lượng từ của bài để giáo viên có thể chọn từ dễ
hay khó, nhiều hay ít từ).
Giáo viên chia lớp thành 2 nhóm A và B, tùy theo số chữ cái của mỗi từ để giáo viên gọi
số học sinh của mỗi nhóm lên trước lớp ( ví dụ từ có 5 chữ cái thì gọi 5 em học sinh),
giáo viên xáo trộn các chữ cái trong từ trước khi phát cho số học sinh được gọi lên bảng,
mỗi em một chữ cái. Và trong khoảng thời gian nhất định (ví dụ: 30 giây) những học sinh
này phải đưa chữ cái của mình ra phía trước và tự sắp xếp trong đội để có được một từ


đúng hoàn chỉnh, đội nào sắp xếp đúng và nhanh nhất được giáo viên cho một số điểm
nhất định ( tùy sở thích của giáo viên, có thể là 20, 30, … điểm). Sau khi chơi hết các từ
mà giáo viên đã chuẩn bị, giáo viên tổng kết điểm, đội nào nhiều điểm hơn sẽ thắng cuộc.
          E.g. Unit 18. What will the weather be like tomorrow?     ( Tiếng Anh 5- tập 2)
- Mục đích là ơn lại cho học sinh các từ mới về mùa: summer, winter, spring, autumn.
- Giáo viên chuẩn bị sẵn 4 từ và viết mỗi chữ cái của 4 từ này lên một tấm thẻ.
- Giáo viên xáo trộn các chữ cái trước khi phát cho số học sinh được gọi lên bảng, mỗi
em một chữ cái.
+RESMUM
+NTWERI

+SNGIPR
+NAUMUT
- Giáo viên chia lớp thành 2 nhóm.
- Giáo viên gọi 4 lượt học sinh lên bảng, mỗi lượt có số học sinh của mỗi nhóm tương
ứng với số chữ cái của mỗi từ.
- Trong khoảng thời gian 30 giây, những học sinh này phải đưa chữ cái của mình ra phía
trước và tự sắp xếp trong đội để có được một từ đúng hoàn chỉnh, đội nào sắp xếp đúng
và nhanh nhất được giáo viên cho 20 điểm. Sau khi chơi hết các từ mà giáo viên đã chuẩn
bị, giáo viên tổng kết điểm, đội nào nhiều điểm hơn sẽ thắng cuộc.
          Trị chơi này có thể được thay thế với Jumple sentences để ôn lại cho học sinh các
cấu trúc câu mà các em đã được học. Trị chơi này có thể được áp dụng trong các bài học
nhất là các bài ôn tập.
Dạy ngữ pháp
9.Từ xáo trộn (Word Jumble Race)
Giáo viên viết ra một số câu, sau đó cắt chúng thành từng từ. Đặt mỗi câu đã bị cắt vào
mũ, ly hoặc bất kỳ vật gì có thể chứa được và tách chúng riêng biệt. Chia lớp thành các
nhóm gồm 2, 3, hoặc 4 học sinh. Các đội bây sẽ phải sắp xếp các từ trong câu của mình
theo đúng thứ tự. Đội chiến thắng là đội đầu tiên hoàn thành các câu của mình một cách
chính xác.
10.Nhảy cóc (Jumping games)
Trị chơi này cần một khoảng không gian rộng chặng hạn như sân trường. Học sinh sẽ
đứng thành một hàng. Giáo viên sẽ đọc một danh sách các câu hay từ liên quan đến một
cấu trúc ngữ pháp đã dạy trước đó. Học sinh quyết định câu hay từ giáo viên vừa đọc


đúng hay sai để nhảy lên phia trước hoặc nhảy ngược về phia sau. Em nào nhảy sai sẽ bị
loại ra khỏi hàng.
 11. Chain game
- chia lớp thành nhóm từ 8-10 em. Học sinh ngồi quay mặt với nhau.
- Em đầu tiên trong các nhóm lặp lại câu của giáo viên.

- Học sinh thứ 2 lặp lại câu của học sinh thứ 1 và thêm vào một ý khác
- Học sinh thứ 3 lặp lại câu của học sinh thứ 1,2 và thêm vào một ý khác và cứ thế tiếp
tục cho đến học sinh cuối cùng trong nhóm.
          E.g. Unit 2. I’m from Japan. (Tiếng Anh 4 tập 1).
          GV: Hello. I'm from Vietnam.
          HS1: Hello. I'm from Malaysia.
          HS2: Hello. I'm from Indonesia.
          ...................................................
  12. Noughts and Crosses
- Giải thích với học sinh rằng trò chơi này cũng giống như trò chơi “ cờ ca rô” ở Việt
Nam nhưng chỉ cần 3 “0” hoặc 3 “x” trên một hàng ngang, dọc, đường chéo là thắng.
          - Kẻ 9 ô vuông trên bảng, mỗi ô có chứa một từ (hoặc một tranh vẽ).
                E.g. Unit 1. What’s your address? (Tiếng Anh 5 tập 1).
52 Ba trieu Street

South Road

the second floor of Hanoi
Tower

Green Avenue

Hoa Binh Lane

42 Hai Ba Trung Street

Lieu Giai Street

High Street


Thanh Cong block of flat

- Làm mẫu một câu với học sinh sử dụng một từ bất kỳ trong các ô: I live in  52 Ba trieu
Street .
          - Chia học sinh làm hai nhóm: một nhóm là nought (0) và một nhóm là crosses (X).
          - Các nhóm lần lượt chọn từ trong ô và đặt câu. Nhóm nào đặt đúng sẽ được một 0
hay một X.
Dạy kĩ năng nghe
13.Simon nói (Simon says)
Giáo viên đứng trước lớp và đóng vai Simon. Giáo viên nói “Simon says” cùng với tên
của bất kỳ một hành động nào đó và diễn tả bằng cử chỉ cho dù cử chỉ của giáo viên có


thể không đúng với tên hành động vừa nêu. Học sinh có nhiệm vụ lắng nghe và diễn tả lại
hành động được nêu tên, không nên bắt chước hành động của giáo viên hoàn toàn. Em
nào diễn tả sai sẽ là người thua cuộc. Giáo viên cũng có thể tiến hành trò chơi Simon
says. Học sinh chỉ thực hiện hành động khi khẩu lệnh của bạn có cụm “Simon says…”.
E.g. Unit 4. Did you go to the party? (Tiếng Anh 5 tập 1). “Simon says show me a
dictionary?” hay “Simon says show me a comic book” và học sinh sẽ làm đúng theo
những gì được yêu cầu. Tuy nhiên, nếu giáo viên chỉ nói “show me a birthday card” học
sinh sẽ không thực hiện hành động. Nếu em nào thực hiện hành động không phải do
Simon nói, em đó sẽ bị loại và trở thành người phát hiện các em bị loại trong những lần
tiếp theo.
14.Truyền miệng (Word of Mouth)
Giáo viên chia lớp thành 2 nhóm đứng thành hàng và nói thầm với học sinh đứng đầu tiên
tên một từ vựng nhất định, học sinh đó sẽ phải nói thầm từ trên cho bạn kế tiếp và tiếp tục
cho đến khi em học sinh cuối cùng trong hàng đọc to từ vừa được truyền. Nếu em học
sinh trên có thể phát âm từ được thì thầm chính xác, cả đội sẽ giành được 1 điểm.
Một biến thể khác của trị chơi này thay vì thì thầm thì các thành viên trong đội sẽ viết ra
giấy và giơ cho bạn kế tiếp xem.

Dạy kĩ năng nói
15.Đối mặt (Facing game)
Trò chơi này dựa trên một gameshow trên truyền hình. Học sinh đứng theo hình vịng
trịn. Giáo viên sẽ chọn một chủ đề nhất định và mỗi học sinh sẽ có vài giây để đọc to
một từ hay cụm từ liên quan đến chủ đề đã chọn. Nếu em nào khơng thể đưa ra câu trả lời
của mình, em đó sẽ bị loại và trị chơi sẽ tiếp tục. Người thắng cuộc sẽ là em học sinh duy
nhất còn lại. Trò chơi này cũng phù hợp để sử dụng trong giảng dạy từ vựng
16.Những từ bí ẩn (Secret Words)
Trong trò chơi này, giáo viên sẽ chuẩn bị sẵn một số tấm thẻ, mỗi tấm đều ghi tên một từ
vựng nhất định. Học sinh được chia thành 2 nhóm và mỗi nhóm sẽ lần lượt đặt câu hỏi
cho giáo viên để có được gợi ý liên quan đến từ vựng trong từng thẻ. Nhóm nào tìm ra từ
bí ẩn trước sẽ giành 1 điểm. Trò chơi sẽ tiếp diễn cho đến khi tấm thẻ cuối cùng được
hoàn thành và nhóm giành số điểm cao nhất sẽ chiến thắng.
Ngồi ra cịn có rất nhiều các trị chơi ngơn ngữ khác mà giáo viên có thể sử dụng linh
hoạt trong các tiết dạy của mình.
        Tóm lại qua q trình thực tế giảng dạy ở các khối lớp, khi áp dụng các hoạt động
tương tác như trò chơi, bài hát, bài chant và kể chuyện vào các tiết học tơi thấy có hiệu
quả rõ rệt, học sinh nắm được kiến thức bài học và chất lượng học tập của học sinh dần
được nâng cao.
7.4.2.4. Sử dụng phương pháp TPR


TPR là dạng viết tắt của Total Physical Response (Phản ứng cơ học), một phương pháp
giảng dạy Tiếng Anh mới của tiến sỹ James J. Asher. Phương pháp này được phát triển
dựa trên cách thức trẻ em học tiếng mẹ đẻ.
Bố mẹ thường có những “cuộc trị chuyện bằng cử chỉ” với con cái. Họ hướng dẫn và đứa
trẻ sẽ làm theo. Ví dụ: bố/ mẹ nói “Look at mummy” (hãy nhìn vào mẹ) hoặc “Give me
the ball” (Đưa cho bố/ mẹ quả bóng) và đứa trẻ làm theo. Những cuộc “trò chuyện” đặc
biệt này sẽ diễn ra trong nhiều tháng trước khi đứa trẻ bắt đầu nói những tiếng đầu tiên.
Tuy chưa biết nói nhưng trong thời gian đó, đứa bé đã có thể ghi nhớ cách bố mẹ sử dụng

ngôn ngữ, âm thanh cũng như cấu trúc. Cuối cùng khi chúng có thể giải mã được tất cả
những tín hiệu ngơn ngữ xung quanh, chúng sẽ tự mình nói ra những câu đó. Phương
pháp dạy Tiếng Anh TPR áp dụng nguyên lý tương tự trong các lớp học Tiếng Anh.
* Cách áp dụng
          Trong lớp học, giáo viên đóng vai trị của bố mẹ. Giáo viên sẽ bắt đầu bằng việc
nói một từ (E.g. jump) hoặc một cụm ( E.g. look at the board) và minh hoạ lời nói bằng
hành động tương ứng. Sau đó, giáo viên nhắc lại mệnh lệnh để học sinh thực hiện hành
động tương ứng. Sau khi lặp đi lặp lại việc này để học sinh làm quen và ghi nhớ, giáo
viên có thể yêu cầu học sinh nhắc lại cụm đó khi thực hiện động tác. Khi học sinh đã nắm
vững từ hoặc câu đã học, hãy bảo chúng tự đưa ra yêu cầu để các bạn khác thực
hiện. Hoạt động này sẽ hiệu quả hơn rất nhiều nếu học sinh đứng thành vòng tròn xung
quanh giáo viên và di chuyển khi thực hiện động tác mà mệnh lệnh yêu cầu.
Khi áp dụng phương pháp TPR, giáo viên có thể yêu cầu học sinh thực hiện hành động
trước, sau đó cho học sinh luyện tập phát âm khẩu lệnh (đồng thanh và cá nhân) để chúng
có cơ hội làm quen với âm thanh. Khi đã thành thục, giáo viên có thể yêu cầu học sinh tự
ra lệnh để các bạn khác thực hiện hành động.
Giáo viên cũng có thể tổ chức trò chơi theo phương pháp TPR. Học sinh đứng thành
vịng trịn xung quanh giáo viên, giáo viên nói khẩu lệnh và người thực hiện việc này cuối
cùng sẽ bị loại. Học sinh bị loại sẽ đứng sau lưng giáo viên và quan sát xem ai là người
thực hiện hành động cuối cùng khi khẩu lệnh tiếp theo được đưa ra. Học sinh còn lại cuối
cùng sẽ là người thắng cuộc.
Giáo viên cũng có thể tiến hành trị chơi Simon says. Học sinh chỉ thực hiện hành động
khi khẩu lệnh của bạn có cụm “Simon says…”.
E.g. Unit 4. Dd ? (Tiếng Anh 1). “Simon says: show me a dog?” hay “Simon says: show
me a drum” và học sinh sẽ làm đúng theo những gì được yêu cầu. Tuy nhiên, nếu giáo
viên chỉ nói “show me: a cat” học sinh sẽ khơng thực hiện hành động. Nếu em nào thực
hiện hành động không phải do Simon nói, em đó sẽ bị loại và trở thành người phát hiện
các em bị loại trong những lần tiếp theo.
* Thời điểm áp dụng: Có thể dùng phương pháp TPR để dạy:
- Từ vựng liên quan đến hành động (smile, chop, headache, wriggle …)



- Thì quá khứ,hiện tại, tương lai, tiếp diễn của động từ (Every morning I clean my teeth, I
make my bed, I eat breakfast …)
- Ngôn ngữ dùng trong lớp học (Open your books …)
- Câu mệnh lệnh/ Hướng dẫn (Stand up, Close your eyes …)
- Kể chuyện
Việc áp dụng vào thời điểm nào là thích hợp hồn tồn phụ thuộc vào trí tưởng tượng của
giáo viên.
* Ưu điểm
- Làm cho giờ học trở nên thú vị và sơi nổi. Nó thật sự có tác dụng khuấy động khơng khí
lớp học theo chiều hướng tích cực.
- Dễ nhớ đối với học sinh vì chúng có cơ hội thực hành những thứ vừa được học.
- Phát huy thế mạnh của những học sinh ưa hoạt động trong lớp
- Có thể áp dụng phương pháp này trong cả lớp lớn và lớp nhỏ. Việc lớp có bao nhiêu học
sinh khơng thành vấn đề vì khi bạn sẵn sàng thực hiện hành động thì học sinh sẽ sẵn sàng
làm theo.
- Phương pháp này rất hiệu quả đối với các lớp mà trình độ học sinh không đồng đều.
Hoạt động cơ học giúp chuyển tải ý nghĩa của ngữ liệu mới hiệu quả hơn. Do đó, họ sinh
có thể hiểu và sử dụng những gì đã học trong thực tế.
- Không mất nhiều thời gian để chuẩn bị miễn là giáo viên hiểu rõ mình muốn cho học
sinh luyện tập gì.
- Phương pháp này đặc biệt hiệu quả đối với trẻ em và thiếu niên.
- TPR liên quan tới quá trình học tập của cả bán cầu não trái và phải.  
* Nhược điểm
- Những học sinh chưa quen với phương pháp này có thể cảm thấy bối rối. Điều này có
thể đúng với lần đầu tiên nhưng nếu giáo viên sẵn sàng thực hiện hành động thì học sinh
cũng sẽ không ngại ngần làm theo.
- Không thể dạy mọi thứ bằng phương pháp này và nếu lạm dụng nó sẽ trở nên kém hiệu
quả. Hãy kết hợp TPR với những phương pháp để đem lại hiệu quả giảng dạy cao.

 
7.5.Giải pháp khi thực hiện đề tài.
          - Tiếng Anh là một ngôn ngữ quốc tế , ngôn ngữ được dùng để giao tiếp trong sinh
hoạt hàng ngày cũng như trong công việc. Tuy nhiên để tất cả các em nhận thức được tầm


quan trọng của nó trong cuộc sống khơng phải là dễ .Qua q trình giảng dạy bộ mơn ở
tồn cấp .Tôi đúc rút được một số giải pháp.





Không nên quá lạm dụng các phương pháp này, trong mỗi tiết học chỉ nên sử dụng
1-2 hoạt động trong khoảng thời gian phù hợp. Tránh sự ôm đồm quá nhiều hoạt
động một lúc sẽ làm cho người học thấy mệt mỏi và giảm hứng thú với môn học.
Phải biết lựa chọn và áp dụng các phương pháp sao cho phù hợp với nội dung từng
bài học cụ thể, tránh hiện tượng dạy và học lệch chương trình.
Thiết kế các hoạt động phải phù hợp với trình độ của học sinh, tránh tình trạng các
hoạt động q khó hoặc q dễ sẽ khơng kích thích được năng lực tư duy và khả
năng sáng tạo của học sinh.

          - Sự liên tục cần phải kiểm tra sự hiểu và nắm bắt kiến thức của các em trên lớp
thơng qua các trị chơi, tạo sự hứng thú học tập trước khi vào bài. Khảo sát chất lượng
học sinh nhiều lần để kết luận, rút kinh nghiệm khi xây dựng đề tài.
          - Viết sáng kiến kinh nghiệm qua sự bổ sung, góp ý kiến của đồng nghiệp , qua
thực tế giảng dạy  nhằm thực hiện tốt đề tài này.
          Khi thực hiện các giải pháp trên tôi chắc chắn rằng sau một thời gian vận dụng sẽ
giúp học sinh yêu thích bộ mơn tiếng Anh hơn. Từ đó giúp các em tích cực tham gia học
tập, nghiên cứu, tự tin hơn trong thực hành và giao tiếp, góp phần nâng cao chất lượng

của học sinh và hiệu quả giảng dạy của giáo viên. Như vậy, việc vận dụng các phương
pháp để tạo sự hứng thú học tập của học sinh ở trên lớp, khơng chỉ tạo khơng khí vui vẻ,
phấn khởi học tập của học sinh, mà là một thủ thuật khoa học, sáng tạo của người thầy.
Tôi tin rằng nếu tiếp tục thực hiện sáng kiến kinh nghiệm này một cách nghiêm túc,
xuyên suốt quá trình giảng dạy và có thể áp dụng rộng rãi ở các trường Tiểu học thì chất
lượng học tập bộ mơn Tiếng Anh trong trường Tiểu học sẽ có được những kết quả khả
quan hơn.
8. Những thơng tin cần được bảo mật: Khơng có
9. Các điều kiện để áp dụng sáng kiến.
- Đội ngũ giáo viên Tiếng Anh cần phải đạt chuẩn và trên chuẩn để tham gia dạy chương
trình 4 tiết theo chương trình sách giáo khoa mới.
          - Học  sinh phải có tính chun cần, ln tham gia học một cách tích cực và có
hứng thú tìm hiểu, khám phá, chịu khó học hỏi.
          - Chương trình dạy học khơng q nặng về lý thuyết mà cần phải mang tính thực tế
trong chương trình giảng dạy.
- Phịng học phải đạt chuẩn theo bộ mơn Tiếng Anh có các phương tiện trang thiết bị hỗ
trợ dạy học đầy đủ.


- Cần phải cập nhật những tài liệu mới, tăng cường trang bị đồ dùng dạy học để phục vụ
quá trình dạy và học.
10. Lợi ích thu được khi áp dụng sáng kiến.
10.1. Lợi ích thu được khi áp dụng sáng kiến theo ý kiến tác giả:
         Trong quá trình nghiên cứu đề tài “Một số phương pháp dạy Tiếng Anh học sinh
tiểu học bằng trị chơi”, bản thân tơi nhận thấy rằng hứng là một yếu tố rất quan trọng
giúp học sinh học tập đạt kết quả tốt hơn. Việc sử dụng trò chơi, bài hát, bài chant và kể
chuyện hay TPR là những phương pháp rất hữu ích, có tác dụng tích cực trong các tiết
học ngoại ngữ ở tiểu học. Các biện pháp trên đã tạo hứng thú học tập cho học sinh và
cũng giúp cho việc truyền đạt kiến thức của giáo viên có hiệu quả hơn. Học sinh tiếp thu
bài một cách tích cực, chủ động và ghi nhớ lâu cho nên chất lượng học đã tăng khá đồng

đều. Đại bộ phận đa số các em đã có sự tự giác và u thích mơn học, ở các tiết học có
phần sơi nổi hơn, lượng học sinh tham gia phát biểu xây dựng bài khá nhiều, góp phần
làm cho giờ học sinh động.
          Tăng cường phát triển kỹ năng và sự nhạy bén của học sinh giúp các em nhớ bài cũ
ở mỗi đầu và cuối tiết học. Đa phần học sinh có khuynh hướng hay quên bài cũ cho nên
các em sẽ dần quên đi những từ vựng và cấu trúc ngữ pháp cũ. Do đó, giáo viên có thể
yêu cầu học sinh thực hành lại trong phần "warm up" để đặt học sinh luôn ở trong tình
huống ứng xử kịp lúc câu hỏi của giáo viên yêu cầu. Ở cuối mỗi tiết dạy, giáo viên có thể
dành từ 3 đến 5 phút để các em thư giãn và nhớ những gì các em vừa học.
Kết quả khảo sát sau khi áp dụng sáng kiến.
Bảng 1: Thống kê mức độ u thích mơn Tiếng Anh.
 
Khối
lớp

Mức độ u thích mơn Tiếng Anh
Sĩ số

Rất thích

Thích

Bình thường

Ghét/ Sợ

SL

%


SL

%

SL

%

SL

%

3

68

15

22,1

20

29.4

30

44,1

3


4,4

4

99

21

21,3

32

32,3

42

42,4

4

4.0

Tổng

167

36

21,6


52

31,1

72

43,1

7

4,2

Từ bảng kết quả trên ta thấy mức độ yêu thích của học sinh đã tăng lên. Bên cạnh đó tỷ lệ
ghét và sợ đã giảm đi rất nhiều (16,1%). Như vậy ta thấy gây hứng thú học tập cho học
sinh là điều rất quan trọng. Từ đó giúp các em có động lực để học môn Tiếng Anh và tạo
ra sự hứng thú với việc học bộ môn Tiếng Anh.
Bảng 2: Tổng hợp kết quả đánh giá học sinh. (Tổng hợp theo 4 kỹ năng)


 
Khối
lớp

Sĩ số

Giỏi

Khá

TB


Yếu

SL

%

SL

%

SL

%

SL

%

3

68

15

20,1

25

36,8


26

38,2

2

2.9

4

99

25

25,3

36

36.4

35

35,3

3

3,0

Tổng


167

40

24,0

61

36,5

61

36,5

5

3,0

Từ bảng kết quả khảo sát cho ta thấy tỷ lệ học sinh yếu ở cả 4 kỹ năng giảm đi rất nhiều
và giảm 15%. Như vậy, qua kết quả khảo sát việc áp dụng những thủ thuật này giúp cho
tiết học trở nên sinh động, học sinh tiếp thu bài học một cách tự nhiên.Từ đó chất lượng
học tập mơn Tiếng Anh ngày càng cao.
10.2. Lợi ích thu được khi áp dụng sáng kiến theo ý kiến của tổ chức cá nhân:
          Sau khi áp dụng các biện pháp của sáng kiến , các giáo viên đã tham gia áp dụng
lần đầu tại các trường tiểu học Hội Hợp A, tiểu học Tích Sơn, tiểu học Đồng Tâm, tiểu
học Hội Hợp B, tiểu học Liên Bảo đều có những đánh giá tốt về sáng kiến. Đối với giáo
viên thì đã chủ động tìm hiểu những kiến thức chuyên sâu về tâm lí của học sinh, từ đó có
những cách thức lựa chọn trò chơi phù hợp từng đối tượng học sinh và từng bài học, giúp
nâng cao động lực học Tiếng Anh cho các em. Từ đó tạo ra khơng khí lớp học ít căng

thẳng giúp cho tiết học sinh động và đạt hiệu quả cao.
          Đặc biệt là đối với các em học sinh. Các em thấy rằng mình có được động cơ học
tập, tiếp thu bài tốt hơn và nâng cao chất lượng học tập môn Tiếng Anh của mình. Các
em có sự hứng thú cho mơn học nhiều hơn, khả năng tư duy của các em cũng tiến bộ hơn.
Tự tin trong thực hành giao tiếp một cách thoải mái. Các em nhận ra sự say mê, u thích
trong việc học bộ mơn này.
Kết quả khảo sát trước khi áp dụng sáng kiến tại trường tiểu học Tích Sơn.
Bảng 1: Thống kê mức độ yêu thích mơn Tiếng Anh.
 
Khối
lớp

 

Mức độ u thích mơn Tiếng Anh
Sĩ số

Rất thích

Thích

Bình thường

Ghét/ Sợ

SL

%

SL


%

SL

%

SL

%

3

165

17

10,3

25

15,2

83

50,3

40

24,2


5

108

15

13,9

18

16,7

55

50,9

20

18,5

Tổng

273

32

11,7

43


15,8

138

50,5

60

22,0


Bảng 2: Tổng hợp kết quả đánh giá học sinh. (Tổng hợp theo 4 kỹ năng)
 
Khối
lớp

Sĩ số

Giỏi

Khá

TB

Yếu

SL

%


SL

%

SL

%

SL

%

3

165

19

11,5

27

16,4

84

50,9

35


21,2

5

108

16

14,8

22

20,4

50

46,2

20

18,5

Tổng

273

35

12,8


49

17,9

134

49,2

55

20,1

Kết quả khảo sát sau khi áp dụng sáng kiến tại trường tiểu học Hội Hợp B.
Bảng 1: Thống kê mức độ yêu thích mơn Tiếng Anh.
 
Khối
lớp

Mức độ u thích mơn Tiếng Anh
Sĩ số

Rất thích

Thích

Bình thường

Ghét/ Sợ


SL

%

SL

%

SL

%

SL

%

4

165

42

25,5

45

27,3

68


41,2

10

6,1

5

108

28

25,9

30

27,8

44

40,7

6

5,6

Tổng

273


70

25,6

75

27,5

112

41,0

16

5,9

Bảng 2: Tổng hợp kết quả đánh giá học sinh. (Tổng hợp theo 4 kỹ năng)
 
Khối
lớp

Sĩ số

Giỏi

Khá

TB

Yếu


SL

%

SL

%

SL

%

SL

%

4

165

41

24,8

45

27,3

70


42,4

9

5,5

5

108

29

26,7

32

29,6

42

38,9

5

4,6

Tổng

273


70

25,6

77

28,3

112

41,0

14

5,1

Từ kết quả khảo sát trên, ta thấy sau khi áp dụng sáng kiến số học sinh u thích mơn
Tiếng Anh và lực học Khá, Giỏi đã tăng lên với tỉ lệ khá cao; đồng thời số học sinh chán,
ghét và lực học kém giảm đi rất nhiều.
1. Danh sách những tổ chức/cá nhân đã tham gia áp dụng thử sáng kiến.
 


Số
TT

Tên tổ chức/cá nhân

Địa chỉ


Phạm vi/Lĩnh vực

1

Dương Ngọc Quế

Tiểu học Tích Sơn

Khối 3, Khối 5

2

Phan Thị Hồng Thắng

Tiểu học Đồng Tâm

Khối 4, Khối 5

3

Đặng Thị Thùy Dương

Tiểu học Liên Bảo

4

Trần Thị Bích Ngọc

Tiểu học Hội Hợp B


Khối 4,5

5

Kim Thị Việt Chinh

Tiểu học Hội Hợp A

Khối 4,5

áp dụng sáng kiến

Khối 3

 
Hội Hợp, ngày…..tháng 4 năm 2018 Hội Hợp ,ngày 03 tháng 4 năm 2018
Xác nhận của Lãnh đạo nhà trường                                Người viết báo cáo
 
 
                                                                                           Trần Thị Mai Lan
                                                
 
 
 
 
 
 
 
 

 
 
 
 
 
 


  
                                                     MỤC LỤC
 
 
Nội dung

Trang

1. Lời giới thiệu.

2

2. Tên sáng kiến.

3

3. Tác giả sáng kiến.

3

4. Chủ đầu tư tạo ra sáng kiến.


3

5. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến.

3

6. Ngày sáng kiến được áp dụng lần đầu.

3

7. Mô tả bản chất của sáng kiến.

3

8. Những thơng tin cần được bảo mật: Khơng có

20

9. Các điều kiện để áp dụng sáng kiến.

20

10. Lợi ích thu được khi áp dụng sáng kiến.

21

11. Danh sách những tổ chức/cá nhân đã tham gia áp dụng thử sáng kiến.

24


TÀI LIỆU THAM KHẢO
 
 
 
 
 

26


TÀI LIỆU THAM KHẢO
 
1. Cameron, Lynne. Teaching Languages to Young Learners. Cambridge University
Press. 2001
2. Graham, Carolyn. Creating Chants and Songs. OUP. 2006
3. Nguyen Quoc Hung, MA. Teach Young Learners English. Nhà xuất bản Giáo dục
Việt Nam. 2014
4. Trang web: www. zbook.vn, tailieu.vn, congso.net, 123doc.org, www.
education.vnu.edu.vn, dreamenglish.com.



×