Tải bản đầy đủ (.pdf) (15 trang)

Quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập việc vận dụng quy luật này trong hoạt động thực tiễn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (278.72 KB, 15 trang )

MỤC LỤC
Trang

PHẦN MỞ ĐẦU ........................................................................................................................ 2
PHẦN NỘI DUNG..................................................................................................................... 3
CHƯƠNG I: LÝ LUẬN CỦA TRIẾT HỌC MÁC-LÊNIN VỀ QUY LUẬT THỐNG NHẤT
VÀ ĐẤU TRANH GIỮA CÁC MẶT ĐỐI LẬP ....................................................................... 3
1. Nội dung quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập............................................. 3
2. Những khái niệm các mặt đối lập, mâu thuẫn, sự thống nhất
và đấu tranh của các mặt đối lập................................................................................................. 3
3. Mâu thuẫn là nguồn gốc của sự vận động và sự phát triển..................................................... 4
4. Phân loại mâu thuẫn ............................................................................................................... 5
5. Ý nghĩa phương pháp luận ..................................................................................................... 8
CHƯƠNG II: VẬN DỤNG QUY LUẬT THỐNG NHẤT VÀ ĐẤU TRANH
GIỮA CÁC MẶT ĐỐI LẬP VÀO ĐỜI SỐNG THỰC TIỄN HIỆN NAY ............................ 10
1. Tính tất yếu tồn tại nhiều thành phần kinh tế (TPKT) ở Việt Nam ...................................... 10
2. Các thành phần kinh tế ở Việt Nam...................................................................................... 11
3. Tính thống nhất và mâu thuẫn các thành phần kinh tế ......................................................... 13
KẾT LUẬN .............................................................................................................................. 15
TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................................................................ 16

1


PHẦN MỞ ĐẦU
Như chúng ta đã biết, mâu thuẫn tồn tại trong tất cả các sự vật, hiện tượng cũng như
mọi lĩnh vực của đời sống. Từ tự nhiên, xã hội cho đến tư duy của con người…tất cả những
lĩnh vực đó nếu thiếu đi mâu thuẫn cơ bản tạo thành sự vật, hiện tượng đó thì bản thân sự
vật, hiện tượng khơng cịn khả năng tồn tại. Mâu thuẫn có từ khi sự vật, hiện tượng xuất
hiện và chính nó là động lực cho sự phát triển, là nguồn gốc của sự vận động bên trong sự
vật, hiện tượng.


Như nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay
cũng vậy. Mặc dù đây là mơ hình kinh tế mới chuyển đổi sang cũng đã bắt gặp rất nhiều
khó khăn cũng như thuận lợi. Thuận lợi ở sự phù hợp với bối cảnh lịch sử của nước ta hiện
nay và được tạo điều kiện phát triển bởi các chính sách, đường lối chỉ đạo của Đảng – nhà
nước. Nhưng cũng gặp phải không ít khó khăn do vấp phải những mâu thuẫn vốn có, tiềm
ẩn trong bản thân cơ chế thị trường, những mâu thuẫn giữa cơ chế thị trường và mục tiêu
xây dựng con người chủ nghĩa xã hội…
Để hiểu rõ hơn về vấn đề này, nhóm chúng em đã chọn đề tài “Quy luật thống nhất
và đấu tranh giữa các mặt đối lập. Việc vận dụng quy luật này trong hoạt động thực tiễn”.
Qua đó, em mong muốn tìm ra được nhiệm vụ trung tâm cần giải quyết, góp phần
xây dựng nền kinh tế mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta.

2


PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG I: LÝ LUẬN CỦA TRIẾT HỌC MÁC-LÊNIN VỀ QUY LUẬT THỐNG
NHẤT VÀ ĐẤU TRANH GIỮA CÁC MẶT ĐỐI LẬP
1. Nội dung quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập
Quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lặp (quy luật mâu thuẫn) là hạt
nhân của phép biện chứng. V.I Lênin viết: “Có thể định nghĩa vắn tắt phép biện chứng là
học thuyết về sự thống nhất của các mặt đối lặp. Như thế là nắm được hạt nhân của phép
biện chứng, nhưng điều đó địi hỏi phải có những giải thích và một sự phát triển thêm”.
2. Những khái niệm các mặt đối lập, mâu thuẫn, sự thống nhất và đấu tranh
của các mặt đối lập
Tất cả các sự vật, hiện tượng trên thế giới đều chứa đựng những mặt trái ngược nhau.
Trong nguyên tử có điện từ và hạt nhân; trong sinh vật có đồng hóa và dị hóa; trong kinh
tế thị trường có cung và cầu, v.v.. Những mặt trái ngược nhau đó phép biện chứng duy vật
gọi là mặt đối lập.
- Mặt đối lập là những mặt có những đặc điểm, những thuộc tính, những tính quy

định có khuynh hướng biến đổi trái ngược nhau. Sự tồn tại các mặt đối lập là khách quan
và là phổ biến trong tất cả các sự vật.
Ví dụ:
+ Trong mỗi con người, các mặt đối lập là hoạt động ăn và hoạt động bài tiết.
+ Trong một lớp học, các mặt đối lập là hoạt động đoàn kết để cả lớp cùng
lớn mạnh và hoạt động cạnh tranh để trở thành sinh viên giỏi nhất lớp.
+ Trong sinh vật, các mặt đối lập là đồng hóa và dị hóa.
- Sự tồn tại của các mặt đối lập là khách quan và phổ biến trong tất cả các sự
vật.
– Mâu thuẫn biện chứng:
Các mặt đối lặp nằm trong sự liên hệ, tác động qua lại lẫn nhau tạo thành
mâu thuẫn biện chứng. Mâu thuẫn biện chứng tồn tại một cách khách quan và phổ
biến trong tự nhiên, xã hội và tư duy. Mâu thuẫn biện chứng trong tư duy là phản
ánh mâu thuẫn trong hiện thực và là nguồn gốc phát triển của nhận thức.
Mâu thuẫn biện chứng là khái niệm dùng để chỉ sự liên hệ, tác động theo cách
vừa thống nhất, vừa đấu tranh; vừa đòi hỏi, vừa loại trừ, vừa chuyển hóa lẫn nhau
giữa các mặt đối lập.
Ta cần phân biệt mâu thuẫn biện chứng với mâu thuẫn lô-gic hình thức. Mâu
thuẫn lơ-gic hình thức chỉ tồn tại trong tư duy, xuất hiện do sai lầm trong tư duy.
3


– Sự “thống nhất” của các mặt đối lập:
Sự thống nhất của các mặt đối lập là sự nương tựa vào nhau, không tách rời
nhau giữa các mặt đối lập, sự tồn tại của mặt này phải lấy sự tồn tại của mặt kia
làm tiền đề.
Ví dụ: Trong mỗi con người, hoạt động ăn và hoạt động bài tiết rõ ràng là
các mặt đối lập. Nhưng chúng phải nương tựa nhau, khơng tách rời nhau. Nếu có
hoạt động ăn mà khơng có hoạt động bài tiết thì con người khơng thể sống được.
Như vậy, hoạt động ăn và hoạt động bài tiết thống nhất với nhau ở khía cạnh này.

Các mặt đối lập tồn tại không tách rời nhau nên giữa chúng bao giờ cũng có
những nhân tố giống nhau. Những nhân tố giống nhau đó gọi là sự “đồng nhất” của
các mặt đối lập. Do có sự đồng nhất của các mặt đối lập mà trong sự triển khai của
mâu thuẫn đến một lúc nào đó, các mặt đối lập có thể chuyển hóa cho nhau.
Sự thống nhất của các mặt đối lập còn biểu hiện ở sự tác động ngang nhau
của chúng. Tuy nhiên, đó chỉ là trạng thái vận động của mâu thuẫn khi diễn ra sự
cân bằng của các mặt đối lập.
– Sự đấu tranh của các mặt đối lập:
Đấu tranh giữa các mặt đối lập là khái niệm dùng để chỉ sự tác động qua lại
theo hướng bài trừ, phủ định lẫn nhau giữa chúng.
Hình thức đấu tranh của các mặt đối lập hết sức phong phú, đa dạng, tùy thuộc
vào tính chất, mối quan hệ qua lại giữa các mặt đối lập và điều kiện diễn ra cuộc đấu
tranh.
Ví dụ: Trong một lớp học, hoạt động đoàn kết và hoạt động cạnh tranh là
các mặt đối lập. Có những lúc hoạt động đồn kết nổi trội hơn, nhưng có những lúc
hoạt động cạnh tranh lại nổi trội hơn. Như thế, hoạt động đoàn kết và hoạt động cạnh
tranh đang “đấu tranh” với nhau.
3. Mâu thuẫn là nguồn gốc của sự vận động và sự phát triển
– Sự thống nhất và sự đấu tranh của các mặt đối lập là hai xu hương tác
động khác nhau của các mặt đối lập.
Hai xu hướng này tạo thành một loại mâu thuẫn đặc biệt. Như vậy, mâu thuẫn
biện chứng cũng bao hàm cả “sự thống nhất” lẫn “sự đấu tranh” của các mặt đối lập.
Sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập không tách rời nhau trong quá
trình vận động, phát triển của sự vật.
4


Sự thống nhất gắn liền với sự đứng im, ổn định tạm thời của sự vật. Còn sự
đấu tranh gắn liền với tính tuyệt đối của sự vận động, phát triển.
– Đấu tranh của các mặt đối lập quy định một cách tất yếu sự thay đổi của

các mặt đang tác động và làm cho mâu thuẫn phát triển.
Lúc đầu mới xuất hiện, mâu thuẫn chỉ là sự khác nhau căn bản, nhưng theo
khuynh hướng trái ngược nhau. Sự khác nhau đó ngày càng lớn lên, rộng ra và đi
đến trở thành đối lập. Khi hai mặt đối lập xung đột gay gắt và đã hội đủ điều kiện,
chúng sẽ chuyển hóa lẫn nhau, mâu thuẫn được giải quyết. Nhờ sự giải quyết này
mà thể thống nhất cũ được thay thế bằng thể thống nhất mới; sự vật cũ mất đi, thay
thế bằng sự vật mới.
Ví dụ: Trong hồn cảnh sống của bạn Lan đang tồn tại một mâu thuẫn. Đó là
mâu thuẫn giữa việc có tiền ít và muốn đi du lịch nhiều. Khi mâu thuẫn này phát
triển đến mức bạn Lan khơng đi du lịch nhiều thì khơng thể thấy hạnh phúc, nên bạn
Lan đã quyết tâm học tiếng Anh để đi kiếm tiền nhiều hơn. Kiếm được tiền nhiều
nghĩa là mâu thuẫn đã được giải quyết. Cuộc sống cũ ít hạnh phúc của Lan được
thay bằng cuộc sống mới nhiều hạnh phúc hơn.
– Như thế, sự phát triển là cuộc đấu tranh giữa các mặt đối lập.
Ta thấy rõ, khơng có thống nhất của các mặt đối lập thì sẽ khơng có đấu tranh
giữa chúng. Thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập là không thể tách rời nhau
trong mâu thuẫn biện chứng.
Sự vận động và phát triển bao giờ cũng là sự thống nhất giữa tính ổn định và
tính thay đổi. Sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập quy định tính ổn định
và tính thay đổi của sự vật. Do đó, mâu thuẫn chính là nguồn gốc của sự vận động
và phát triển.
4. Phân loại mâu thuẫn
Mâu thuẫn tồn tại trong tất cả các sự vật, hiện tượng, cũng như trong tất cả các giai
đoạn phát triển của chúng. Mâu thuẫn hết sức phong phú, đa dạng. Tính phong phú, đa dạng
đó được quy định một cách khách quan bởi đặc điểm của các mặt đối lập, bởi điều kiện tác
động qua lại của chúng, bởi trình độ tổ chức của hệ thống (sự vật) mà trong đó mâu thuẫn
tồn tại.
Căn cứ vào quan hệ đối với sự vật được xem xét, người ta phân biệt các mâu thuẫn
thành mâu thuẫn bên trong và mâu thuẫn bên ngoài.
Mâu thuẫn bên trong là sự tác động qua lại giữa các mặt, các khuynh hướng đối lập

của cùng một sự vật.
5


+ Ví dụ: Mâu thuẫn giữa hoạt động ăn và hoạt động bài tiết.
Mâu thuẫn bên ngoài đối với một sự vật nhất định là mâu thuẫn diễn ra trong mối
quan hệ giữa sự vật đó với các sự vật khác.
+ Ví dụ: Phịng A và phịng B đều đang phấn đấu để trở thành đơn vị kinh doanh
xuất sắc nhất của công ty X. Ở đây tồn tại mâu thuẫn giữa phòng A và phòng B. Nếu xét
riêng đối với phòng A (hoặc phòng B), mâu thuẫn này là mâu thuẫn bên ngoài.
Việc phân chia mâu thuẫn thành mâu thuẫn bên trong và mâu thuẫn bên ngoài chỉ là
tương đối, tùy theo phạm vi xem xét. Cùng một mâu thuẫn nhưng xét trong mối quan hệ
này là mâu thuẫn bên ngoài, nhưng xét trong mối quan hệ khác lại là mâu thuẫn bên trong.
+ Ví dụ: Trong phạm vi nước ta, mâu thuẫn trong nội bộ nền kinh tế quốc dân là
mâu thuẫn bên trong; còn mâu thuẫn về kinh tế giữa nước ta với các nước khác trong
ASEAN là mâu thuẫn bên ngoài. Nếu trong phạm vi ASEAN thì mâu thuẫn giữa các nước
trong khối lại là mâu thuẫn bên trong. Vì vậy, để xác định một mâu thuẫn nào đó là mâu
thuẫn bên trong hay mâu thuẫn bên ngoài trước hết phải xác định phạm vi sự vật được xem
xét.
Mâu thuẫn bên trong có vai trị quyết định trực tiếp đối với quá trình vận động và
phát triển của sự vật. Tuy nhiên, mâu thuẫn bên trong và mâu thuẫn bên ngồi khơng ngừng
tác động qua lại lẫn nhau. Việc giải quyết mâu thuẫn bên trong không thể tách rời việc giải
quyết mâu thuẫn bên ngoài; việc giải quyết mâu thuẫn bên ngoài là điều kiện để giải quyết
mâu thuẫn bên trong.
+ Ví dụ: thực tiễn cách mạng nước ta cũng cho thấy rằng việc giải quyết những mâu
thuẫn trong nước ta không tách rời việc giải quyết những mâu thuẫn giữa nước ta với các
nước khác.
- Căn cứ vào ý nghĩa đối với sự tồn tại và phát triển của toàn bộ sự vật, mâu thuẫn
được chia thành mâu thuẫn cơ bản và mâu thuẫn không cơ bản:
Mâu thuẫn cơ bản là mâu thuẫn quy định bản chất của sự vật, quy định sự phát triển

ở tất cả các giai đoạn của sự vật, nó tồn tại trong suốt quá trình tồn tại các sự vật. Mâu thuẫn
cơ bản được giải quyết thì sự vật sẽ thay đổi căn bản về chất.
+ Ví dụ: Trong hồn cảnh sống của bạn Lan đang tồn tại một mâu thuẫn. Đó là mâu
thuẫn giữa việc có tiền ít và muốn đi du lịch nhiều, là mâu thuẫn cơ bản vì nó liên quan đến
giá trị sống của bạn Lan. Khi mâu thuẫn cơ bản này được giải quyết (tức là kiếm được nhiều
tiền để đi du lịch nhiều), cuộc sống mới nhiều hạnh phúc của Lan thay thế cho cuộc sống
cũ ít hạnh phúc. Như tế, sự vật đã thay đổi căn bản về chất.
Mâu thuẫn không cơ bản là mâu thuẫn chỉ đặc trưng cho một phương diện nào đó
của sự vật, nó khơng quy định bản chất của sự vật. Mâu thuẫn đó nẩy sinh hay được giải
quyết không làm cho sự vật thay đổi căn bản về chất.
6


+ Ví dụ: Mâu thuẫn giữa phịng A và phịng B trong nội bộ công ty X mà ta nêu ở
trên là mâu thuẫn không cơ bản.
- Căn cứ vào vai trò của mâu thuẫn đối với sự tồn tại và phát triển của sự vật trong
một giai đoạn nhất định, các mâu thuẫn được chia thành mâu thuẫn chủ yếu và mâu thuẫn
thứ yếu.
Mâu thuẫn chủ yếu là mâu thuẫn nổi lên hàng đầu ở một giai đoạn phát triển nhất
định của sự vật, nó chi phối các mâu thuẫn khác trong giai đoạn đó. Giải quyết được mâu
thuẫn chủ yếu trong từng giai đoạn là điều kiện cho sự vật chuyển sang giai đoạn phát triển
mới.
Mâu thuẫn cơ bản và mâu thuẫn chủ yếu có quan hệ chặt chẽ với nhau. Mâu thuẫn
chủ yếu có thể là một hình thức biểu hiện nổi bật của mâu thuẫn cơ bản hay là kết quả vận
động tổng hợp của các mâu thuẫn cơ bản ở một giai đoạn nhất định. Việc giải quyết mâu
thuẫn chủ yếu tạo điều kiện giải quyết từng bước mâu thuẫn cơ bản.
Mâu thuẫn thứ yếu là những mâu thuẫn ra đời và tồn tại trong một giai đoạn phát
triển nào đó của sự vật, nhưng nó khơng đóng vai trị chi phối mà bị mâu thuẫn chủ yếu chi
phối. Giải quyết mâu thuẫn thứ yếu là góp phần vào việc từng bước giải quyết mâu thuẫn
chủ yếu.

- Căn cứ vào tính chất của các quan hệ lợi ích, người ta chia mâu thuẫn trong xã hội
thành mâu thuẫn đối kháng và mâu thuẫn không đối kháng.
Mâu thuẫn đối kháng là mâu thuẫn giữa những giai cấp, những tập đồn người có
lợi ích cơ bản đối lập nhau.
+ Ví dụ: mâu thuẫn giữa nơng dân với địa chủ, giữa vô sản với tư sản, giữa dân tộc
bị xâm lược với bọn đi xâm lược.
Mâu thuẫn không đối kháng là mâu thuẫn giữa những lực lượng xã hội có lợi ích cơ
bản thống nhất với nhau, chỉ đối lập về những lợi ích khơng cơ bản, cục bộ, tạm thời.
+ Ví dụ: mâu thuẫn giữa lao động trí óc và lao động chân tay, giữa thành thị và
nông thôn, v.v…
Việc phân biệt mâu thuẫn đối kháng và khơng đối kháng có ý nghĩa trong việc xác
định đúng phương pháp giải quyết mâu thuẫn. Giải quyết mâu thuẫn đối kháng phải bằng
phương pháp đối kháng; giải quyết mâu thuẫn khơng đối kháng thì phải bằng phương pháp
trong nội bộ nhân dân.
Từ sự phân tích trên có thể rút ra nội dung quy luật thống nhất và đấu tranh của các
mặt đối lập như sau: Mọi sự vật đều chứa đựng những mặt có khuynh hướng biến đổi ngược
chiều nhau gọi là những mặt đối lập. Mối liên hệ của hai mặt đối lập tạo nên mâu thuẫn.
7


Các mặt đối lập vừa thống nhất với nhau và chuyển hoá lẫn nhau làm mâu thuẫn được giải
quyết, sự vật biến đổi và phát triển, cái mới ra đời thay thế cái cũ.
5. Ý nghĩa phương pháp luận
Từ việc nghiên cứu quy luật chuyển hóa từ những thay đổi về lượng thành những
thay đổi về chất và ngược lại có thể rút ra các kết luận có ý nghĩa phương pháp luận sau
đây:
- Sự vận động và phát triển của sự vật bao giờ cũng diễn ra bằng cách tích lũy dần
dần về lượng đến một giới hạn nhất định, thực hiện bước nhảy để chuyển về chất. Do đó,
trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn, con người phải biết từng bước tích lũy
về lượng để làm biến đổi về chất theo quy luật. Trong hoạt động của mình, ơng cha ta đã

rút ra những tư tưởng sâu sắc như “tích tiểu thành đại”, “năng nhặt, chặt bị”, “góp gió thành
bão”,… Những việc làm vĩ đại của con người bao giờ cũng là sự tổng hợp của những việc
làm bình thường của con người đó. Phương pháp này giúp cho chúng ta tránh được tư tưởng
chủ quan, duy ý chí, nơn nóng, “đốt cháy giai đoạn” muốn thực hiện những bước nhảy liên
tục.
- Quy luật của tự nhiên và quy luật của xã hội đều có tính khách quan. Song quy luật
của tự nhiên diễn ra một cách tự phát, còn quy luật của xã hội chỉ được thực hiện thơng qua
hoạt động có ý thức của con người. Do đó, khi đã tích luỹ đủ về số lượng phải có quyết tâm
để tiến hành bước nhảy, phải kịp thời chuyển những sự thay đổi về lượng thành những thay
đổi về chất, từ những thay đổi mang tính chất tiến hóa sang những thay đổi mang tính chất
cách mạng. Chỉ có như vậy mới khắc phục được tư tưởng bảo thủ, trì trệ, "hữu khuynh"
thường được biểu hiện ở chỗ coi sự phát triển chỉ là sự thay đổi đơn thuần về lượng.
- Trong hoạt động con người còn phải biết vận dụng linh hoạt các hình thức của
bước nhảy. Sự vận dụng này tùy thuộc vào việc phân tích đúng đắn những điều kiện khách
quan và những nhân tố chủ quan, tùy theo từng trường hợp cụ thể, từng điều kiện cụ thể
hay quan hệ cụ thể. Mặt khác, đời sống xã hội của con người rất đa dạng, phong phú do rất
nhiều yếu tố cấu thành, do đó để thực hiện được bước nhảy toàn bộ, trước hết, phải thực
hiện những bước nhảy cục bộ làm thay đổi về chất của từng yếu tố.
Sự thay đổi về chất của sự vật còn phụ thuộc vào sự thay đổi phương thức liên kết
giữa các yếu tố tạo thành sự vật. Do đó, trong hoạt động phải biết cách tác động vào phương
thức liên kết giữa các yếu tố tạo thành sự vật trên cơ sở hiểu rõ bản chất, quy luật, kết cấu
của sự vật đó. Chẳng hạn, trên cơ sở hiểu biết đúng đắn về gen, con người có thể tác động
vào phương thức liên kết giữa các nhân tố tạo thành gen làm cho gen biến đổi. Trong một
tập thể cơ chế quản lý, lãnh đạo và quan hệ giữa các thành viên trong tập thể ấy thay đổi có
tính chất tồn bộ thì rất có thể sẽ làm cho tập thể đó vững mạnh.

8


CHƯƠNG II: VẬN DỤNG QUY LUẬT THỐNG NHẤT VÀ ĐẤU TRANH GIỮA

CÁC MẶT ĐỐI LẬP VÀO ĐỜI SỐNG THỰC TIỄN HIỆN NAY
Nước ta đang trong giai đoạn quá độ lên CNXH, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa.
Đặc điểm cơ bản nhất của thời kỳ quá độ là sự tồn tại nền kinh tế nhiều thành phần và xã
hội nhiều giai cấp. Trong thời kỳ quá độ, nền kinh tế có tính chất q độ. Nó khơng cịn
là nền kinh tế tư bản chủ nghĩa, nhưng cũng chưa hoàn tồn là nền kinh tế XHCN.
1. Tính tất yếu tồn tại nhiều thành phần kinh tế (TPKT) ở Việt Nam
Trong bất cứ hình thái kinh tế - xã hội nào cũng có phương thức sản xuất giữ vị
trí chi phối. Ngồi ra, cịn phương thức sản xuất tàn dư của xã hội trước và phương thức
sản xuất mầm móng của xã hội tương lai. Các phương thức sản xuất này ở vào địa vị lệ
thuộc, bị chi phối bởi phương thức sản xuất thống trị.
Thành phần kinh tế là một loại hình của quan hệ sản xuất xác định tương ứng với
trình độ và trình độ của lực lượng sản xuất nhất định đã ra đời nhưng chưa đạt tới độ
thống trị trong nền kinh tế hoặc đang bị thủ tiêu dần.
Như vậy, phạm trù thành phần kinh tế và phương thức sản xuất đều phản ánh
mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, nhưng khơng đồng
nhất về nội dung. Trong thời kì quá độ, mỗi phương thức sản xuất khi chưa hoặc khơng
đóng vai trị thống trị, cũng khơng bị trị, lệ thuộc mà tồn tại như những “bộ phận”,
những “mảnh” trong mối quan hệ vừa thống nhất “xen kẽ”, vừa đấu tranh bài trừ gạt bỏ,
phủ định lẫn nhau của kết cấu kinh tế xã hội, thì đó là thành phần kinh tế. Khi một thành
phần, một bộ phận nào đó giữ một vai trò thống trị đối với các thành phần (bộ phận,
hình thức kinh tế khác) thì nó là một phương thức sản xuất đại diện cho hình thái kinh
tế - xã hội đó.
Mỗi thành phần kinh tế có kiểu tổ chức sản xuất kinh doanh của nó hợp thành
nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần.
Nền kinh tế - xã hội nước ta tồn tại nhiều thành phần kinh tế là vì các lý do sau:
- Khi giành chính quyền thì chính quyền mới tiếp quản nền kinh tế chủ yếu dựa
trên chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất, gồm hai loại là tư hữu lớn (kinh tế tư bản chủ
nghĩa) và tư hữu nhỏ (sản xuất nhỏ cá thể). phương thức sản xuất cũ chưa thể mất đi, do
đó tồn tại thành phần kinh tế tư bản tư nhân, thành phần kinh tế cá thể, thành phần kinh
tế hợp tác.

- Trong một nền kinh tế thì các ngành, vùng kinh tế phát triển khơng đều về lực
lượng sản xuất, tương ứng với nó là những quan hệ sản xuất, đó chính là cơ sở nảy sinh
các thành phần kinh tế khác nhau.
9


- Xu thế tồn cầu hóa nền kinh tế - chính trị, các nước đều cần đầu tư của nước
ngồi, hình thành thành phần kinh tế tư bản nhà nước, đó là sự kết hợp đầu tư giữa nhà
nước với các nhà tư bản, các công ty trong nước và ngồi nước.
- Giành chính quyền đã khó, giữ chính quyền cịn khó hơn; để giữ vững chính
quyền cộng sản thì phải xây dựng thành phần kinh tế mới là kinh tế quốc doanh hay
kinh tế nhà nước.
Thành phần kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, các thành phần kinh tế khác
đóng vai trị tích cực trong q trình phát triển nền kinh tế - xã hội.
2. Các thành phần kinh tế ở Việt Nam
Trên cơ sở nhận biết được tính tất yếu của việc tồn tại nhiều thành phần kinh tế
ở Việt Nam, Đại hội Đảng cộng sản Việt Nam lần thứ VIII đã xác định nước ta hiện nay
có 6 thành phần kinh tế như sau:
Thành phần kinh tế nhà nước
- Là thành phần kinh tế mà vốn chủ yếu dựa trên sở hữu nhà nước hoặc phần sở hữu
nhà nước chiếm tỷ lệ khống chế. kinh tế nhà nước gồm hai loại: doanh nghiệp nhà nước và
kinh tế nhà nước phi doanh nghiệp (tài nguyên thiên nhiên, cơ sở hạ tầng, tài chính, dự trữ
nhà nước…).
- Đặc điểm:
+ Thuộc sở hữu nhà nước.
+ Thường bảo đảm những cân đối lớn trong nền kinh tế.
+ Vai trò: chủ đạo, mở đường, duy trì bộ máy nhà nước.
- Xu hướng vận động: tồn tại lâu dài và có vai trò chủ đạo trong nền kinh tế.
Thành phần kinh tế hợp tác
- Là sự liên kết kinh tế tự nguyện của các chủ thể kinh tế với các hình thức đa dạng,

linh hoạt, phù hợp với nhu cầu, khả năng và lợi ích của các bên tham gia, có thể dẫn tới
hoặc khơng dẫn tới pháp nhân. Nịng cốt của thành phần kinh tế này là hợp tác xã: hợp tác
xã nông nghiệp, thủ công, cổ phần…
- Đặc điểm:
+ Sở hữu hỗn hợp.
+ Là hình thức kinh tế linh hoạt, hiệu quả.
+ Một chủ thể có thể tham gia vào nhiều hợp tác xã.
+ Sản xuất kinh doanh dịch vụ ở tất cả các ngành trong nền kinh tế.
- Xu hướng vận động: tồn lại lâu dài, có thể trở thành kinh tế tư bản tư nhân hoặc
kinh tế tư bản nhà nước.
10


Thành phần kinh tế tư bản nhà nước
- Là thành phần kinh tế mà nhà nước và các nhà tư bản trong và ngoài nước hợp tác
đầu tư qua việc liên doanh liên kết.
- Đặc điểm
+ Sở hữu hỗn hợp.
+ Có sức mạnh về vốn, cơng nghệ, thị trường.
+ Sản xuất kinh doanh chủ yếu ở những ngành có lợi nhuận cao.
+ Thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển mạnh, tạo ra những ngành nghề,
sản phẩm mới.
- Xu hướng vận động: tồn tại lâu dài, có thể chuyển hố thành phần kinh tế tư
bản tư nhân hoặc kinh tế nhà nước.
Thành phần kinh tế cả thể
- Là thành phần kinh tế hs sản xuất kinh doanh dựa vào vốn và sức lao động của
bản thân là chính.
- Đặc điểm:
+ Từ hữu nhỏ.
+ Người có sức lao động đồng thời là người có vốn, nếu có th thêm lao

động thì gọi là tiểu chủ.
+ Hết sức manh mún và lệ thuộc.
- Xu hướng vận động: tồn tại lâu dài, có thể chuyển hoá thành kinh tế hợp tác, tư
bản tư nhân hoặc kinh tế nhà nước.
Thành phần kinh tế tư bản tư nhân
- Là thành phần kinh tế mà vốn do các nhà tư bản trong và ngoài nước đầu tư.
- Đặc điểm:
+ Tư hữu lớn.
+ Thuê và bóc lột lao động làm thuê.
+ Thường chỉ kinh doanh những ngành ít vốn, lãi cao.
+ Mạnh về vốn, linh hoạt.
- Xu hướng vận động: tồn tại lâu dài, xã hội đòi hỏi phát triển thành phần kinh tế
này, có thể chuyển thành kinh tế hợp tác, kinh tế nhà nước hoặc tư bản nhà nước.

11


Thành phần kinh tế có vốn đầu tư nước ngồi.
Thành phần kinh tế này bao gồm phần vốn đầu tư của nước ngoài vào các cơ sở
sản xuất, kinh doanh ở nước ta. Các doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế này có thể
có 100% vốn đầu tư nước ngồi, có thể liên kết, liên doanh, vói doanh nghiệp nhà nước
hoặc doanh nghiệp tư nhân ở nước ta.
Thành phần kinh tế này được tạo điều kiện phát triển thuận lợi, hướng vào suất
khẩu, xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội, gắn với thu hút công nghệ hiện đại, tạo
thêm nhiều việc làm. So với đại hội VIII, đại hội IX đã tách thành một thành phần kinh
tế riêng không để trong thành phần kinh tế tư bản nhà nước.
Đại hội IX cũng chỉ có: "thực hiện nhất quán chính sách phát triển kinh tế nhiều
thành phần. Các thành phần kinh tế kinh doanh theo pháp luật đều là bộ phận cấu thành
quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN cùng phát triển lâu dài hợp tác
và cạnh tranh lành mạnh, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đoạ. Kinh tế nhà

nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế
quốc dân.
3. Tính thống nhất và mâu thuẫn các thành phần kinh tế
Nền kinh tế hàng hóa quá độ trong đó tồn tại nhiều thành phần kinh tế với những
kiểu sản xuất hàng hóa khơng cùng bản chất, vừa thống nhất lại vừa mâu thuẫn với nhau,
tính thống nhất của các thành phần kinh tế thể hiện:
- Các thành phần kinh tế trong q trình hoạt động khơng biệt lập nhau, mà gắn
bó đan xem xâm nhập lẫn nhau thông qua các mối quan hệ kinh tế, vì chúng đều là các
bộ phận của hệ thống phân công lao động xã hội thống nhất.
- Mỗi thành phần kinh tế có vai trị và chức năng của nó trong đời sống kinh tế - xã
hội và đều chịu sự quản lý thống nhất của nhà nước.
- Sự thống nhất của các thành phần kinh tế cịn vì yếu tố điều tiết thống nhất của
hệ thống các quy kinh tế đang tác động trong thời kỳ quá độ và thị trường thống nhất.
Tuy nhiên, các thành phần kinh tế này tồn tại trong mâu thuẫn. mâu thuẫn giữa
các thành phần kinh tế với nhau thể hiện ở:
+ Mâu thuẫn giữa công hữu và tư hữu.
+ Mâu thuẫn giữa tư nhân với tập thể, với nhà nước.
+ Mâu thuẫn giữa xu hướng tư bản chủ nghĩa và xã hội chủ nghĩa.
Mâu thuẫn là động lực của mọi sự vận động và phát triển. Trong hệ thống thống
nhất của nền kinh tế quá độ chứa đựng những sự đối lập, những khuynh hướng đối lập,
12


một mặt bài trừ phủ định lẫn nhau, cạnh tranh với nhau; mặt khác, chúng thống nhất với
nhau, thâm nhập, nương tựa vào nhau để tồn tại và phát triển thông qua hợp tác và cạnh
tranh, liên doanh, liên kết.
Các thành phần kinh tế đều được thừa nhận tồn tại khách quan và nhà nước tạo
điều kiện và môi trường để chúng tồn tại trên thực tế. Đồng thời, các thành phần kinh
tế cần được bình đẳng trước pháp luật.
Tuỳ khả năng và trình độ xã hội hố từng thành phần kinh tế và sự đan xen liên

kết đa dạng lẫn nhau giữa chúng, giải phóng mọi năng lực sản xuất kinh doanh, phát
triển lực lượng sản xuất, phát triển sản xuất và lưu thông, phát triển và mở rộng thị
trường, tạo ra công ăn việc làm, khối lượng sản phẩm cho xã hội, nâng cao đời sống
nhân dân.
Trong quá trình cạnh tranh và hợp tác, từng thành phần kinh tế tồn tại với tư cách
là đơn vị sản xuất hàng hố để vươn lên tự khẳng định mình và phát triển theo quỹ đạo
chung, chịu sự quản lý của nhà nước.
Cần phân biệt các thành phần kinh tế vì từ đặc điểm lịch sử hình thành và bản
chất vốn có của mỗi thành phần kinh tế có vị trí, vai trò, chức năng, tiềm năng, xu hướng
phát triển khác nhau. Chính sự khác nhau đó là cơ sở để phân biệt các thành phần kinh
tế, nhằm phát huy tác dụng tích cực và hạn chế ảnh hưởng tiêu cực của chúng với sự
phát triển kinh tế - xã hội. Và chỉ có đường lối, chính sách phân biệt như vậy mới có tác
dụng thúc đẩy sự phát triển kinh tế theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Phải nhấn mạnh
rằng, không chỉ phân biệt các thành phần kinh tế mà nội dung từng thành phần kinh tế
càng phải phân biệt. Khi phân tích chính sách của đảng với nơng dân, V.I Lênin chỉ rõ
"phải phân biệt và phân định rõ ranh giới giữa người nông dân lao động với người
nông dân con buôn, giữa người nông dân cần lao động với người nông dân đầu cơ. Tất
cả thực chất của chủ nghĩa xã hội nằm trong sự phân định ranh giới đó".
Như vậy, tồn bộ hoạt động của nhà nước thực hiện trước hết bằng pháp luật, các
văn bản pháp luật, các chủ trương, chính sách kinh tế - xã hội, cơ chế quản lý, các biện
pháp, phương tổ chức thực hiện… Khơng thể khơng tín đến sự nhất quán giữa các thành
phần kinh tế và sự phân biệt giữa chúng, trong sự thống nhất đã chứa đựng sự phân biệt
và phân biệt giữa chúng. Trong sự thống nhất đã chứa đựng sự phân biệt để thống nhất.

13


KẾT LUẬN
Mâu thuẫn là một hiện tượng khách quan phổ biến, nó tồn tại trong tất cả các sự vật,
hiện tượng, ở mọi giai đoạn tồn tại và phát triển của sự vật vât hiện tượng. Nhưng ở các sự

vật, hiện tượng khác nhau ở mỗi giai đoạn phát triển khác nhau của mỗi sự vật hiện tượng
ở mỗi lĩnh vực, mỗi yếu tố cấu thành môt sự vật sẽ có những mâu thuẫn khác nhau. Sự
thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập tạo thành xung lực nội tại của sự vận động và
phát triển dẫn đến sự mất đi của cái cũ và sự ra đời của cái mới tiến bộ hơn. Do đó, trong
hoạt động thực tiễn phát triển từng mặt đôc lập tạo thành mâu thuẫn cụ thể để nhận thức
được bản chất, khuynh hướng vận động phát triển của sự vật, hiện tượng để từ đó tìm ra
phương thức, phương tiện và lực lượng có khả năng giải quyết mâu thuẫn và tổ chức thực
hiện để giải quyết mâu thuẫn. Vì vậy trong đời sống xã hội, mọi hành vi đấu tranh cần được
coi là chân chính khi nó thúc đẩy sự phát triển.
Việc xuất hiện những mâu thuẫn trong kinh tế phải được coi là một thực thế khách
quan. Bởi vì việc giải quyết những mâu thuẫn ấy chính là động lực để chúng ta có thể phát
huy được hết thế mạnh của mình, duy trì sự thống nhất và ổn định, nhằm mục tiêu chung
là phát triển kinh tế, mang lại cuộc sống ấm no hạnh phúc và một xã hội công bằng, dân
chủ, văn minh.

14


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. 8910X.Com. (01/12/2019). Quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập:
Phân tích nội dung và ý nghĩa. Truy cập từ .
2. HocLuat.vn. (23/04/2020). Phương pháp luận của quy luật thống nhất và đấu tranh
giữa các mặt đối lập. Truy cập từ />
15



×