Tải bản đầy đủ (.pdf) (41 trang)

Tài liệu Luận văn: "Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh nhập khẩu hàng hoá tại Công ty cổ phần thiết bị xăng dầu Petrolimex" pptx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (592.75 KB, 41 trang )


TRƯỜNG
KHOA……………………


BÁO CÁO TỐT NGHIỆP



ĐỀ TÀI




Một số giải pháp nhằm nâng
cao hiệu quả hoạt động kinh
doanh nhập khẩu hàng hoá
tại Công ty cổ phần thiết bị
xăng dầu Petrolimex
LỜI NÓI ĐẦU
Từ khi nước ta chuyển sang cơ chế thị trường theo định hướng xã hội
chủ nghĩa, nền kinh tế nước ta có nhiều khởi sắc, thu nhập quốc dân mỗi năm
một tăng cao, thu nhập bình quân đầu người mỗi năm một gia tăng, đồng thời
nền kinh tế cũng hoạt động sôi động và khốc liệt hơn. Do đó để đứng vững
trong nền kinh tế mang đầy tính cạnh tranh khốc liệt này là một điều hoàn
toàn không hề đơn giản đối với một đơn vị kinh doanh, đặc biệt là đối với các
doanh nghiệp đã quen với sự bao cấp của Nhà nước. Trước tình hình đó,
nhiều doanh nghiệp đã không trụ nổi và đã bị phá sản. Nhưng bên cạnh đó
vẫn có không ít các doanh nghiệp không chỉ đứng vững trong thị trường mà
còn đưa ra được những biện pháp hữu hiệu làm tăng doanh thu hàng năm cho
doanh nghiệp, nâng cao đời sống của cán bộ công nhân viên, góp phần thực


hiện tốt các chủ trương chính sách của Đảng, Nhà nước, thúc đẩy sự tăng
trưởng của nước nhà. Công ty cổ phần thiết bị xăng dầu Petrolimex là một
trong các doanh nghiệp đó. Đây là doanh nghiệp hoạt động chủ yếu trong lĩnh
vực kinh doanh vật tư thiết bị xăng dầu. Trong những năm qua Công ty đã
luôn phát triển và tạo uy tín tốt với các bạn hàng trong và ngoài nước, và nhập
khẩu đã góp phần không nhỏ vào sự thành công này của Công ty. Doanh thu
bán hàng nhập khẩu hàng năm chiếm tỷ trọng lớn trong tổng doanh thu của
toàn Công ty do đó nhập khẩu là một lĩnh vực thực sự quan trọng của toàn
Công ty.
Để đánh giá một cách chính xác tình hình và vai trò của hoạt động nhập
khẩu hàng hoá của Công ty cổ phần thiết bị xăng dầu Petrolimex em xin chọn
đề tài: "Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh
nhập khẩu hàng hoá tại Công ty cổ phần thiết bị xăng dầu Petrolimex"
làm đề tài cho báo cáo thực tập tốt nghiệp của mình.
Em xin chân thành cảm ơn thầy giáo GS.TS. Hoàng Văn Châu, người
trực tiếp hướng dẫn em trong quá trình thực tập. Em cũng xin cảm ơn các cô
chú trong Công ty cổ phần xăng dầu Petrolimex, những người đã giúp đỡ em
rất nhiều trong thời gian thực tập tại Công ty. Do hạn chế về khả năng bản
thân và thời gian nghiên cứu nên bản thu hoạch chắc chắn còn nhiều thiếu sót.
Em rất mong nhận được sự chỉ bảo góp ý và giúp đỡ của các thầy cô giáo
cùng toàn thể các bạn để bài viết của em được hoàn thiện hơn.
CHƯƠNG I
TỔNG QUAN VỀ CÔNG TY CỔ PHẦN THIẾT BỊ XĂNG DẦU
PETROLIMEX
I. Quá trình hình thành và phát triển của Công ty
- Ngày 28/12/1968: Tổng cục trưởng tổng cục vật tư đã ký quyết định
số QĐ 412/VT cho phép thành lập chi cục vật tư, là đơn vị trực thuộc Tổng
cục vật tư. Đến ngày 20/12/1972: Bộ trưởng Bộ vật tư ký quyết định số QĐ
719/ VT đổi tên chi cục vật tư thành công ty vật tư số 1 .
- Ngày 12/4/1977: Căn cứ quyết định QĐ 233/ VTQĐ, kho tích hiệu

của tổng công ty xăng dầu được xác nhập vào công ty vật tư số 1 . Hai đơn vị
mới xác nhập này lấy một cái tên chung và tên công ty vật tư chuyên dùng
xăng dầu ra đời. Cũng từ đó công ty trở thành thành viên của tổng công ty
xăng dầu Việt Nam Petrolimex. Nhiệm vụ ban đầu của công ty là mua bán ,
xuất nhập khẩu các thiết bị vật tư liên quan đến nghành xăng dầu , khí đốt ,
khí hoá lỏng .
- Ngày 30/11/2000: Căn cứ quyết định số QĐ 1642/2000/QĐ - BTM
của Bộ trưởng Bộ thương mại, công ty vật tư chuyên dùng xăng dầu được
chuyển đổi tên thành công ty thiết bị xăng dầu Petrolimex trực thuộc tổng
công ty xăng dầu Việt Nam.
+ Tên giao dịch quốc tế: Petrolimex equipment company
+ Tên viết tắt: Peco
+ Trụ sở giao dịch: Số 6 Ngọc Khánh – Quận Ba Đình – Hà Nội
Lúc này, công ty được bổ xung thêm nhiệm vụ mới: Đóng mới, sửa
chữa, cải tạo các loại xe vận chuyển xăng dầu, hoá chất, khí hoá lỏng .
- Ngày 19/12/2001: Theo chủ trương cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà
nước do Đảng và Chính Phủ đề ra, Bộ trưởng Bộ Thương mại đã ký quyết
định số QĐ 1437/2001/ QĐ - BTM quyết định đổi tên công ty thành Công ty
cổ phần thiết bị xăng dầu Petrolimex .
+ Tên gọi đầy đủ bằng tiếng Việt: Công ty thiết bị xăng dầu Petrolimex
+ Tên tiếng anh: Petrolimex equipment joint stock company
+ Viết tắt: Peco
+ Trụ sở giao dịch : 419 Ngọc Khánh – Quận Ba Đình – Hà Nội
Như vậy, ta có thể thấy công ty đã trải qua một quá trình phát triển với
nhiều sự thay đổi. Trong quá trình đó, công ty đã không ngừng đổi mới trang
thiết bị, cơ cấu quản lý để có thể thực hiện tốt nhất những yêu cầu mới đặt ra.
Qua đó công ty đã góp phần đáp ứng nhu cầu của nền kinh tế xã hội và giữ
vững thế chủ đạo của Tổng công ty xăng dầu Việt Nam Petrolimex trên thị
trường .
- Về vốn kinh doanh của công ty: Tổng số vốn điều lệ của công ty là 10

tỷ VNĐ được chia thành 100.000 cổ phần lưu thông, mỗi cổ phần trị giá
100.000 VNĐ .
Vốn điều lệ của công ty do các cổ đông đóng góp bằng tiền hoặc tài sản
theo qui định của pháp luật.
Tổng công ty xăng dầu Việt Nam là cổ đông chi phối của công ty , có
số vốn góp tới 30% tổng số vốn điều lệ của công ty, 70% còn lại là của cán bộ
công nhân viên và các cổ đông khác đóng góp. Công ty có thể tăng vốn điều
lệ bằng các hình thức được pháp luật cho phép.
Vốn điều lệ của công ty được sử dụng nhằm hoạt động kinh doanh và
không đem chia cho các cổ đông dưới bất kỳ hình thức nào , trừ trường hợp
công ty phá sản hoặc giải thể .
Cổ phiếu của công ty là chứng chỉ xác nhận quền sở hữu một hay nhiều
cổ phần của cổ đông do công ty phát hành theo quy định của pháp luật .
+ Cổ phiếu ghi danh :
- Tổng công ty xăng dầu Việt Nam là chủ sở hữu phần vốn nhà nước
của công ty.
- Cổ đông là thành viên của hội đồng quản trị (HĐQT) công ty, các
thành viên ban kiểm soát công ty, các thành viên Ban kiểm soát công ty,
Giám đốc công ty (nếu là cổ đông của công ty).
- Lao động nghèo được mua trả chậm theo quy định của pháp luật nhà
nước và chưa trả hết nợ cho nhà nước .
- Việc hạch toán và phân phối lợi nhuận: Công ty thực hiện chế độ hạch
toán kế toán phù hợp với mô hình tổ chức sản xuất kinh doanh của mình và
tuân thủ quy định của pháp luật hiện hành về kế toán thống kê .
Lương phụ cấp hội họp , thù lao chi phí hoạt động của Hội Đồng Quản
Trị và ban kiểm soát, tổ giúp việc Hội Đồng Quản Trị (nếu có) được tính vào
chi phí kinh doanh của công ty theo mức do đại hội đồng cổ đông (ĐHĐCĐ)
quyết định và thực hiện theo quy chế quản lý tài chính của công ty. Công ty
không sử dụng TK 642 (chi phí quản lý) vì đây là một quy định của ngành.
Các chi nhánh, văn phòng đại diện của công ty hạch toán phụ thuộc và

thực hiện theo quy chế quản lý tài chính của công ty do Hội Đồng Quản Trị
ban hành .
Công ty thực hiện chế độ lập, nộp, công khai báo cáo hoạt động kinh
doanh và báo cáo tài chính hàng năm của công ty theo quy định của pháp luật
hiện hành. Báo cáo này được kiểm toán bởi một công ty kiểm toán độc lập
hoạt động tại Việt Nam và kết quả kiểm toán này được trình Đại Hội Đồng
Cổ Đông .
Cuối mỗi năm tài chính, Hội Đồng Quản Trị xem xét, thông qua quyết
toán trình Đại Hội Đồng Cổ Đông gồm :
+ Bảng cân đối kế toán
+ Báo cáo kết quả kinh doanh
+ Báo cáo luân chuyển tiền tệ
+ Thuyết minh báo cáo tài chính
- Trích lập và phân phối lợi nhuận: Trích lập và sử dụng các quỹ của công
ty trước khi nộp thuế được thực hiện theo đúng chế độ tài chính do Nhà Nước
quy định. Khi kết quả kinh doanh cuối năm bị lỗ, Đại Hội Đồng Cổ Đông có
thể quyết định trích từ quỹ dự trữ để bù hoặc chuyển toàn bộ hay một phần bổ
sung sang năm sau theo quy định của pháp luật .
II. Phạm vi kinh doanh và cơ cấu tổ chức của Công ty
Công ty Cổ phần thiết bị xăng dầu Petrolimex là doanh nghiệp kinh
doanh thương mại chuyên kinh doanh sản xuất và lắp ráp, lắp đặt các loại vật
tư thiết bị chuyên ngành xăng dầu và nhiều loại thiết bị thông dụng khác trên
thị trường cả nước .
Khai thác mở rộng thị trường kinh doanh trong cả nước, đa dạng hoá
ngành hàng kinh doanh phục vụ và đáp ứng yêu cầu tiêu dùng của các đơn vị
trong ngành xăng dầu nói riêng cũng như đáp ứng, phục vụ cho các thành
phần kinh tế nói chung. Mặt hàng kinh doanh chính của công ty chủ yếu là:
Các loại máy móc thiết bị xăng dầu, ống thép và ống cao su dẫn xăng dầu, bể
chứa dầu các loại, van, vải thuỷ tinh, máy móc thiết bị thông dụng… Xác định
được vị trí và vai trò của mình là hoạt động trong cơ chế thị trường nên mục

tiêu kinh doanh của công ty là kinh doanh có hiệu quả, cụ thể là kinh doanh
phải có lợi nhuận, bảo toàn và phát triển được vốn, hoàn thành nghĩa vụ nộp
ngân sách nhà nước, chấp hành nghiêm pháp lệnh kế toán – thống kê, tạo
được công ăn việc làm và tăng thu nhập cho người lao động, củng cố xây
dựng công ty ngày càng phát triển lớn mạnh.
Công ty còn có chức năng:
- Kinh doanh, xuất nhập khẩu các loại vật tư, thiết bị, phương tiện tồn
chứa vận chuyển, bơm rót của ngành dầu khí .
- Đóng mới sữa chữa, cải tạo những xe vận chuyển xăng dầu hoá chất,
khí hoá lỏng.
- Thi công, xây lắp các công trình dầu khí.
- Tư vấn dịch vụ kỹ thuật trong lĩnh vực sản xuất, kinh doanh của công ty.
- Tổng đại lý kinh doanh xăng dầu
Ngoài ra công ty còn được phép kinh doanh trong các lĩnh vực khác mà
pháp luật không cấm .
Công ty hoạt động trên toàn bộ lãnh thổ Việt Nam và cả nước ngoài khi
có điều kiện.

• Cơ cấu tổ chức bộ máy của công ty Cổ phần thiết bị xăng dầu Petrolimex

Ban kiểm soát Đại hội cổ đông



Hội đồng quản
trị



Giám đốc

Phó giám đốc






Phòng ti
chính kế toán
Phòng nhân sự
– Hành chính
Phòng kinh
doanh XNK





Chi nhánh
Cửa hàng vật
tư TBị XD
XN cơ khí và
điện tử XD
Đội dịch vụ
kỹ thuật



Phòng tổng
hợp

Nhà máy thiết
bị điện tử
Đội xây lắp
công trình
Xưởng cơ
khí

• Hội đồng quản trị: Do Chính phủ bổ nhiệm là các thành viên chuyên
trách. HĐQT thực hiện chức năng quản lý hoạt động và chịu trách nhiệm
về sự phát triển của công ty.
• Ban kiểm soát: Được Hội đồng quản trị lập ra để kiểm soát giám sát
giám đốc và giúp các đơn vị thành viên trong mọi hoạt động.
• Giám đốc: Do HĐQT bổ nhiệm, miễn nhiệm, chịu trách nhiệm trước
HĐQT về quyền hạn, nhiệm vụ được qiap và được uỷ nhiệm đầy đủ
quyền hạn cần thiết để quản lý, điều hành mọi hoạt động kinh doanh của
công ty. Giám đốc là người đại diện của công ty trước pháp luật.
Chức năng các phòng ban:
+ Phòng nhân sự hành chính: Có nhiệm vụ quản lý về mặt lao động và
trả lương của công ty, dự kiến thời gian hoạt động sản xuất, kinh doanh theo
hợp đồng phù hợp với trình độ tay nghề, sức lao động hiện có. đồng thời
phòng còn có nhiệm vụ tiếp khách, trang bị đồ dùng cho phong ban và toàn
công ty.
+ Phòng tài chính kế toán: Có trách nhiệm hoạch toán theo dõi các
khoản thu chi tài chính để phản ánh các tài khoản liên quan, theo dõi sự hình
thành biến động của tài sản, nguồn vốn trong công ty, hoạch toán các khoản
chi phí sản xuất và các chi phí khác như: chi phí tiêu thụ sản phẩm, chi phí
quản lý doanh nghiệp… Trên cơ sở đó kế toán xác đinh giá thành sản xuất và
xác định kết quả kinh doanh của cônng ty. Đồng thời sau một thời gian quy
định kế toán lập báo cáo tài chính gửi giám đốc tạo điều kiện thuận lợi cho
các lãnh đạo công ty đề ra các biện pháp nhằm đạt hiệu quả kinh tế cao, tạo

điều kiện để phòng kế hoạch thựch hiện tốt nhiệm vụ của mình.
+ Phòng kinh doanh XNK: Có chức năng tham mưu giám đốc, chỉ đạo
quản lý điều hành hoạt động kinh doanh các mặt hàng trên thị trường trong và
ngoài nước. Ngoài ra còn tham mưu cho giám đốc các phương hướng kinh
doanh, đảm bảo an toàn trong kinh doanh và có lãi. Tổng hợp kế hoạch (tài
chính, lao động, tiền lương, xây dựng cơ bản, bảo quản…) trực tiếp thiết lập
các kế hoạch lưu chuyển hàng hoá và kế hoạch sản xuất kinh doanh.
+ Phòng tổng hợp: có trách nhiệm kiểm tra chất lượng của các sản phẩm
xem có phù hợp với tiêu chuẩn và yêu cầu của khách hàng hay không ? Chất
lượng sản phẩm, hàng hoá của công ty có đáp ứng tốt về kiểu dáng chất
lượng, kỹthuật…
+ Ngoài ra còn 5 đơn vị trực thuộc:
- Xí nghiệp cơ khí và xây lắp xăng dầu.
- Cửa hàng bán lẻ số 1 Vĩnh Ngọc.
- Cửa hàng bán lẻ số 2 Yên Viên.
- Cửa hàng bán lẻ số 6 Ngọc Khánh.
- Cửa hàng xăng dầu số 4 Sài Đồng.
Mỗi phòng ban nghiệp vụ đều có chức năng nhiệm vụ liên quan song
tất cả đều tập trung vào việc tham mưu, giúp việc cho giám đốc điều hành hiệu
quả công tác sản xuất kinh doanh tức là hoạt động kinh doanh của công ty phải
mang lại được lợi nhuận và hoàn thành nhiệm vụ nộp ngân sách nhà nước.
* Nguồn nhân lực và các phương tiện vật chất phục vụ cho hoạt động
kinh doanh của Công ty cổ phần thiết bị xăng dầu Petrolimex
- Nguồn nhân lực:
Số lượng lao động hiện nay của công ty là 127 người, trình độ đại học
và trên đại học chiếm 49,3 %, trung học chuyên nghiệp chiếm 17,7% và công
nhân kỹ thuật chiếm 33%. Công ty luôn bố trí, sắp xếp lao động hợp lý, từng
bước hoàn thiện bộ máy quản lý bằng cách tổ chức lại lao động ở các khâu,
giảm biên chế, thực hiện chế độ khoán tiền lương tại các cửa hàng, tổ chức
đào tạo cán bộ trong công tác tiếp thị và công nhân kỹ thuật xăng dầu.

Hiện nay, công ty đã có một lực lượng lao động trẻ, năng động, có trình
độ nghiệp vụ, có trình độ ngoại ngữ, có khả năng thích nghi nhanh chóng với
sự thay đổi của thị trường.
- Cơ sở vật chất kỹ thuật
Công ty có cơ sở vật chất lớn, tạo thành một hệ thống kết cấu hạ tầng
cho kinh doanh, được bố trí ở các trung tâm kinh tế, vùng tiêu thụ như ở
Giảng Võ, Ngọc Khánh, Yên Viên Gia Lâm, khu công nghiệp Sài Đồng
v.v Hệ thống các cửa hàng bán lẻ được trang bị các phương tiện hiện đại của
Nhật, Tiệp, Italia đảm bảo đúng, đủ chất lượng hàng hoá kinh doanh.
- Tiền vốn:
Trên cơ sở vốn của công ty với mục tiêu tập trung tiềm lực về vốn tại
công ty nhằm thực hiện tốt các mục tiêu kinh doanh và đầu tư, công ty đã rà
xét và nhiều lần xác định lại mức sử dụng vốn trong từng giai đoạn, tránh ứ
đọng vốn, tăng năng suất sử dụng vốn.
II. Hiệu quả kinh doanh và sự cần thiết phải nâng cao hiệu quả kinh
doanh nhập khẩu hàng hoá của công ty
Từ khi thành lập đến nay, công ty đã trải qua nhiều giai đoạn khác nhau
của nền kinh tế và gặp rất nhiều khó khăn. Tuy gặp nhiều khó khăn như vậy
song công ty đã không ngừng đổi mới cơ sở vật chất cơ cấu tổ chức điều hành
phù hợp với sự biến động của nền kinh tế và đặc biệt là sự lãnh đạo của ban
lãnh đạo công ty cũng như sự cố gắng nỗ lực của toàn bộ công nhân viên.
Công ty đạt được nhiều thành tựu đáng kể.
Tình hình sản xuất kinh doanh nhập khẩu của công ty đã có kết quả
theo chiều hướng tốt. Lợi nhuận thu được tương đối cao. Thị phần của công ty
ngày càng được mở rộng, không chỉ đơn thuần ở thị trường miền Bắc mà còn
xâm nhập vào thị trường ở miền Trung và miền Nam. Chính nhờ vào việc làm
ăn có hiệu quả đã tạo điều kiện cho công ty hoàn thành tốt nghĩa vụ với nhà
nước. Điều đó chứng tỏ công ty đã tìm được cho mình hướng đi đúng và có
hiệu quả biểu hiện lợi nhuận từ hoạt động sản xuất kinh doanh.
CHƯƠNG II

TÌNH HÌNH KINH DOANH NHẬP KHẨU HÀNG HOÁ
TẠI CÔNG TY CỔ PHẦN THIẾT BỊ XĂNG DẦU PETROLIMEX

I. Tình hình nhập khẩu xăng dầu của Công ty
1. Thị trường nhập khẩu của Công ty
Công ty cổ phần thiết bị xăng dầu chủ yếu hoạt động kinh trên lĩnh vực
các loại vật tư, thiết bị chuyên ngành cho toàn ngành xăng dầu. Trong đó
những sản phẩm chính của doanh nghiệp là: Cột bơm xăng, thiết bị an toàn,
máy nén khí, máy phát điện, ôtô si téc zil zo, ống cao su các loại… Ngoài ra
Công ty còn sửa chữa lắp đặt các loại vật tư thiết bị xăng dầu và khí đốt, còn
thi công các công trình xây dựng và kinh doanh (kho, bồn, cửa hàng).
Thị trường nhập khẩu của công ty chủ yếu là các nhà sản xuất nước ngoài:
Các công ty của Nhật Bản, Trung Quốc, EU, Mỹ, Đông Âu, Ý… ví dụ như:
- Tập đoàn Nomura Nhật Bản: gồm có cột bơm điện tử TATSUNO
- Cộng hoà Tiệp (Cột bơm điện tử)
- Mỹ (các dụng cụ dùng đo cho ngành xăng dầu)
Bảng 1: Thị trường nhập khẩu của Công ty
(Đơn vị tính: 1000 USD)
STT Thị trường Năm 2001 Năm 2002 Năm 2003
1 Nhật Bản 6.500 6.975 8.762
2 Đông Âu 5.443 6.005 5.892
3 Mỹ 2.389 3.796 6.027
4 Trung Quốc 2.009 2.334 2.128
5 ASEAN 4.200 4.124 4.932
6 Ý 1.798 1.032 1.457
7 Các thị trường khác 1.308 1.475 1.988
8
Tổng cộng 19.447 25.741 31.186
(Nguồn: Phòng Tài chính Kế toán Công ty)
Đối với thị trường Nhật Bản. Đây thị trường Công ty đã có quan hệ

xuất nhập khẩu từ khá lâu. Hàng nhập khẩu từ thị trường này cột bơm điện tử.
Chất lượng hàng nhập từ Nhật Bản luôn rất cao. Tuy nhiên, giá cả của chúng
cũng luôn cao hơn hẳn so với các loại hàng cùng loại từ các thị trường khác.
Tốc độ tăng giá trị hàng nhập từ Nhật Bản khá đều qua những năm qua.
Thị trường Đông Âu cũng là một thị trường lớn mà Công ty có quan hệ
làm ăn. Đây cũng là thị trường Công ty nhập khẩu khá nhiều. Các loại mặt
hàng mà Công ty nhập khẩu chủ yếu là máy móc thiết bị có chất lượng cao.
Bên cạnh Nhật Bản và Đông Âu, giá trị hàng hoá nhập khẩu từ thị
trường Hoa Kỳ tăng rất nhanh trong những năm gần đây. Đây là kết quả của
Hiệp định Thương mại được ký kết giữa hai nước. Chắc chắn trong tương lai,
đây sẽ là thị trường xuất nhập khẩu lớn nhất của Công ty. Tuy nhiên, có rất
nhiều khó khăn khi xuất khẩu hàng hoá sang thị trường này. Còn đối với nhập
khẩu thì mọi việc dường như rất thuận lợi.
Ngoài ra, Công ty còn nhập khẩu từ Trung Quốc, ASEAN, và nhiều
nước khác trên thế giới. Trong khối ASEAN, Singapore là nước có kim ngạch
xuất nhập khẩu lớn nhất đối với Công ty.
2. Các mặt hàng nhập khẩu của Công ty
Bảng 2: Các mặt hàng nhập khẩu của Công ty
(Đơn vị: 1000 USD)
Chỉ tiêu Năm 2001 Năm 2002 Năm 2003
1. Ống cao su các loại 2.200 1.730 6.636
2. Thiết bị an toàn, máy nén khí 2.820 2.950 3.400
2. Xăng 2.947 9.800 7.700
3. Ống thép các loại 4.300 5.150 4.700
4. Cột bơm xăng 5.200 5.300 5.400
5. Hàng hoá khác 1.980 811 3.350
Tổng số 19.447 25.741 31.186
(Nguồn: Phòng Tài chính Kế toán)
Cột bơm xăng, ống thép các loại luôn giữ vai trò chủ chốt trong cơ cấu
hàng nhập của Công ty.

II. Tình hình phân phối hàng hoá nhập khẩu của Công ty cổ phần thiết bị
xăng dầu Petrolimex
Công ty phân phối hàng hoá chủ yếu là bán cho các công ty thuộc
ngành xăng dầu như: Công ty xăng dầu B12 Quảng Ninh; Công ty xăng dầu
Hải Dương… ngoài ra còn một số ngành, công ty ngoài ngành xăng dầu là:
ngành than, Công ty thương mại An Khê để bán cột bơm…
Hệ thống các cửa hàng của Công ty chiếm một phần lớn trong hoạt
động kinh doanh cũng như hiệu quả kinh doanh của Công ty. Các cửa hàng
này chủ động tổ chức xây dựng và vật tư thiết bị thông dụng khác, giới thiệu
sản phẩm với sự chỉ đạo theo tuyến dọc từ trên xuống dưới: từ Ban giám đốc
trực tiếp đến các cửa hàng nhằm đem lại hiệu quả kinh tế xã hội cao, đúng
pháp luật của Nhà nước quy định của Công ty cổ phần thiết bị xăng dầu
Petrolimex.
Hình thức bán hàng tại phòng kinh doanh của Công ty luôn chiếm tỷ
trọng hơn trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Hình thức này chủ yếu là bán
với số lượng lớn. Khi mua hàng khách hàng sẽ được người bán hàng hướng
dẫn tỉ mỉ về kỹ năng, kỹ thuật, cách sử dụng vận hành, hình thức thanh toán,
phương thức và địa điểm nhận hàng. Khách sau khi trả tiền và nhận được hoá
đơn lấy hàng thì phòng kinh doanh sẽ báo cho kỹ thuật phối hợp với kho để
chuẩn bị hàng, đảm bảo cho khách lấy đủ hàng với chất lượng tốt.
Công ty thực hiện việc lên kế hoạch cung cấp khối lượng hàng hoá nhất
định cho các cửa hàng với mức giá nhất định. Các cửa hàng có nhiệm vụ giao
nộp cho Công ty khoản tiền tính theo khối lượng hàng cung cấp cho mình với
mức giá trên.
Các nhân viên cửa hàng vẫn chịu sự quản lý của Công ty và nhận mức
lương theo cấp bậc của Công ty. Ngoài các khoản nộp của Công ty, nhân viên
còn được phần hoa hồng do Công ty thưởng khi làm đại lý xăng dầu cho
ngành.
III. Phân tích hiệu quả kinh doanh nhập khẩu hàng hoá của Công ty cổ
phần thiết bị xăng dầu Petrolimex

1. Phân tích đánh giá hiệu quả nhập khẩu của Công ty
Hiệu quả là tiêu chuẩn quan trọng (có thể là nguồn quan trọng nhất) để
đánh giá kết quả kinh doanh ngoại thương.
Trong những năm qua, cùng với sự cố gắng nỗ lực thực hiện kế hoạch
đề ra, Công ty có quan tâm đến các chỉ tiêu hiệu quả hoạt động kinh doanh.
Tuy nhiên, Công ty chưa cân nhắc đánh giá về kết quả thực hiện từng chỉ tiêu
hiệu quả kinh doanh (cả chỉ tiêu phản ánh về số lượng, cả chỉ tiêu về chất
lượng) để xác định chỉ tiêu nào đảm bảo hiệu quả kinh doanh, chỉ tiêu nào
chưa đảm bảo được yêu cầu. Trên cơ sở đó có các biện pháp thích hợp.
Là một công ty kinh doanh xuất nhập khẩu, kim ngạch nhập khẩu
chiếm tỷ trọng tương đối lớn trong tổng kim ngạch xuất nhập khẩu. Vì vậy, để
đánh giá hiệu quả nhập khẩu cần phải tiến hành phân tích đánh giá các chỉ
tiêu hiệu quả nhập khẩu của Công ty.
1.1. Chỉ tiêu lợi nhuận nhập khẩu và tỷ suất lợi nhuận.
Tỷ suất lợi nhuận nhập khẩu của Công ty được tính bằng cách lấy lợi
nhuận nhập khẩu chia cho chi phí nhập khẩu. Tỷ suất lợi nhuận là một chỉ tiêu
dùng để đánh giá hiệu quả kinh doanh thông qua việc một đồng chi phí bỏ ra
mang lại bao nhiêu đồng lợi nhuận. Chỉ tiêu lợi nhuận theo chi phí của hoạt
động nhập khẩu của công ty cổ phần thiết bị xăng dầu Petrolimex được phản
ánh ở bảng sau:
Bảng 3: Tỷ suất lợi nhuận nhập khẩu của Công ty
(Đơn vị tính: 1000 USD)
Chỉ tiêu Năm 2000 Năm 2001 Năm 2002 Năm 2003
Doanh thu nhập khẩu 19822,3 21105,9 27345,7 33179,2
Chi phí nhập khẩu 19.765 21.037 27.231 32.987
Lợi nhuận nhập khẩu 57,3 68,9 114,7 192,2
Tỷ suất lợi nhuận (%) 0,29 0,33 0,42 0,58
(Nguồn: Phòng Kế toán Tài chính)
Qua bảng trên ta thấy doanh lợi nhập khẩu của Công ty liên tục tăng,
năm sau cao hơn năm trước. Năm 2003 đạt 192.200 USD tăng so với năm

2002 là 77.500 USD. Tỷ suất lợi nhuận của Công ty tăng qua từng năm, năm
sau cao hơn năm trước. Điều đó có nghĩa là tốc độ tăng lợi nhuận cao hơn tốc
độ tăng chi phí. Năm 2003, tỷ suất lợi nhuận của Công ty là 0,58, gấp 2 lần tỷ
suất lợi nhuận năm 2000. Đây là một tỷ suất tương đối cao so với những công
ty hoạt động trong lĩnh vực xuất nhập khẩu tại Việt Nam. Cùng với thời gian,
các hình thức kinh doanh nhập khẩu của Công ty thay đổi theo hướng tích cực
khiến cho tỷ suất lợi nhuận tăng nhanh. Hình thức kinh doanh nhập khẩu uỷ
thác giảm dần trong cơ cấu hàng nhập khẩu và điều đó làm tăng tỷ suất nhập
khẩu. Mặt khác, sự biến động về giá cước phí (chi phí vận chuyển hàng hoá)
theo hướng tích cực cũng khiến cho lơị nhuận của Công ty thu được nhiều
hơn.
Công ty đã biết tận dụng thế mạnh về vốn, lao động và kinh nghiệm
kinh doanh để khắc phục khó khăn, tạo ra các mối quan hệ tốt đẹp với các bạn
hàng, tạo uy tín trên trường quốc tế.
2.2. Chỉ tiêu doanh lợi doanh thu nhập khẩu của Công ty.
Tỷ suất doanh lợi doanh thu được tính bằng cách lấy lợi nhuận nhập
khẩu chia cho doanh thu nhập khẩu. Điều đó có nghĩa là với một đồng doanh
thu nhập khẩu thì sẽ tạo được bao nhiêu đồng lợi nhuận nhập khẩu. Có thể
thấy khái quát về chỉ tiêu này của Công ty qua bảng sau.
Doanh thu nhập khẩu của Công ty nhìn chung tăng liên tục trong vài
năm vừa qua thể hiện khả năng kinh doanh ngày càng tăng, doanh thu tăng
thể hiện sự mở rộng thị trường, đa dạng hoá các hình thức kinh doanh, mặt
hàng. Doanh thu nhập khẩu năm 2003 là 33.179.200 USD tăng 5.833.500
USD.
Tỷ suất doanh lợi doanh thu nhập khẩu đều tăng đều trong các năm
2001, 2002, 2003 thể hiện khả năng kinh doanh của Công ty rất tốt. Cả doanh
thu và tỷ suất lợi nhuận doanh thu tăng làm cho lợi nhuận của Công ty tăng
rất cao.
Năm 2001, tỷ suất doanh lợi doanh thu của Công ty là 0,289% nhưng
năm 2003, tỷ suất này tăng đến con số 0,62%. Đây là một tỷ suất rất cao.

Bảng 4: Tỷ suất doanh lợi doanh thu nhập khẩu của Công ty
(Đơn vị tính: 1000 USD)
Chỉ tiêu Năm 2000 Năm 2001 Năm 2002 Năm 2003
Doanh thu nhập khẩu 19822,3 21105,9 27345,7 33179,2
Lợi nhuận nhập khẩu 57,3 68,9 114,7 192,2
Tỷ suất doanh lợi
doanh thu
0,289 0,326 0,42 0,62
(Nguồn: Phòng Tài chính Kế toán)
1.3. Chỉ tiêu hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh nhập khẩu.
Chỉ tiêu tổng hợp của Công ty là sự tổng hợp từ hai nguồn vốn cơ bản
là vốn lưu động và vốn cố định. Vốn lưu động giành cho nhập khẩu được
phân định rõ ràng. Vốn cố định ngoài việc phục vụ hoạt động nhập khẩu còn
phục vụ hoạt động xuất khẩu.
Chỉ tiêu doanh thu nhập khẩu/Vốn kinh doanh là vòng luân chuyển vốn
kinh doanh của Công ty rong năm. Số vòng luân chuyển của Công ty đạt mức
cao và có sự biến đổi không đều ở các năm. Năm 2000 đạt 3,87 vòng, năm
2001 đạt 3,96 vòng, tăng 2,3% so với năm 2000. Các năm 2002 và 2003 số
vòng quay vốn kinh doanh của Công ty đều tăng. Tuy nhiên, so với nhiều
công ty thương mại khác, số vòng luân chuyển vốn kinh doanh của Công ty là
chưa cao. Điều này chứng tỏ trong hoạt động kinh doanh vẫn còn những trở
ngại, sự chậm trễ, sự thiếu thống nhất giữa các bộ phận kinh doanh.
Bảng 5: Hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh nhập khẩu của Công ty
(Đơn vị: 1000USD)
Chỉ tiêu Năm 2000 Năm 2001 Năm 2002 Năm 2003
Vốn kinh doanh nhập khẩu 5.122 5.324 5.988 7.233
Doanh thu nhập khẩu 19822,3 21105,9 27345,7 33179,2
Lợi nhuận nhập khẩu 57,3 68,9 114,7 192,2
Lợi nhuận nhập khẩu/Vốn
kinh doanh nhập khẩu

1,12% 1,3% 1,92% 2,66%
Doanh thu nhập khẩu/Vốn
kinh doanh nhập khẩu
3,87 3,96 4,567 4,58
(Nguồn: Phòng Tài chính Kế toán)
Chỉ tiêu lợi nhuận/Vốn kinh doanh cũng có tốc độ tăng khá cao trong
các năm trở lại đây. Năm 2002, tỷ suất lợi nhuận trên vốn kinh doanh cao gấp
hơn 2 lần so với năm 2000. Nguyên nhân là do lợi nhuận tăng rất nhanh trong
khi vốn kinh doanh tăng không nhiều trong suốt quá trình 4 năm liên tiếp.
Hiệu quả sử dụng vốn lưu động của Công ty có thể được phản ánh qua
bảng sau:
Bảng 6: Hiệu quả sử dụng Vốn lưu động của Công ty
(Đơn vị: 1000 USD)
Chỉ tiêu Năm 2000 Năm 2001 Năm 2002 Năm 2003
Vốn lưu động 2.845 2.907 3.179 3.908
Doanh thu nhập khẩu 19822,3 21105,9 27345,7 33179,2
Lợi nhuận nhập khẩu 57,3 68,9 114,7 192,2
Lợi nhuận nhập khẩu/Vốn
lưu động
2% 2,4% 3,6% 4,9%
Doanh thu nhập khẩu/Vốn
lưu động
6,967 7,26 8,602 8,49
(Nguồn: Phòng Tổ chức hàng chính)
Nhìn vào bảng trên có thể thấy rõ sự tiến bộ nhanh chóng trong hiệu
quả sử dụng vốn lưu động của Công ty thời gian gần đây. Năm 2000 mức
doanh lợi trên vốn lưu động chỉ đạt mức 2% thì đến năm 2003, mức doanh lợi
đã tăng lên 4,9%. Đây là chỉ tiêu tương đối cao so với nhiều công ty hoạt
động trong lĩnh vực nhập khẩu. Kết quả này có được là do Công ty đã có
những thay đổi cần thiết nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh. Vốn kinh doanh

cũng được bổ sung từ lợi nhuận thu được và những khoản khác làm cho khả
năng về vốn của Công ty là tương đối vững mạnh. Cũng với sự phát triển
chung của cả nước, Công ty đang ngày càng chứng tỏ được khả năng của
mình, đóng góp rất nhiều cho sự tăng trưởng chung của cả nước.
Số vòng luân chuyển vốn lưu động cũng được cải thiện rất nhiều. Sự trì
trệ trong kinh doanh giảm xuống đồng nghĩa với việc vốn lưu động luân
chuyển nhiều vòng hơn trong hoạt động kinh doanh nhập khẩu. Năm 2003,
vốn lưu động luân chuyển 8,49 vòng trong một năm, tăng 1,523 vòng/năm.
Năm 2003, Công ty đầu tư thêm nhiều vốn hơn cho hoạt động kinh doanh. Sự
chậm trễ trong một vài khâu khi vốn tăng lên đột ngột khiến số vòng luân
chuyển giảm sút hơn so với năm 2002.
1.4. Hiệu quả sử dụng lao động
Hiệu quả sử dụng lao động luôn là một chỉ tiêu quan trọng khi đánh giá
về hiệu quả kinh doanh. Tuy nhiên, nó cũng chỉ là một khía cạnh để đánh giá
hiệu quả kinh doanh của một doanh nghiệp. Khi xem xét đánh giá chỉ tiêu
này, cần phải đặt nó trong hoàn mối tương quan với các chỉ tiêu về vốn, về lợi
nhuận, về doanh thu để có cái nhìn chính xác.
Hiệu quả sử dụng lao động của Công ty có thể được biểu hiện bằng
bảng dưới đây:
Bảng 7: Hiệu quả sử dụng lao động của Công ty
Chỉ tiêu Đơn vị Năm 2000 Năm 2001 Năm 2002 Năm 2003
Doanh thu nhập khẩu tr.USD 19822,3 21105,9 27345,7 33179,2
Lợi nhuận nhập khẩu tr.USD 57,3 68,9 114,7 192,2
Số lao động người 99 105 113 117
Doanh thu bình quân một
lao động
USD 66,295 73,540 89,953 104,666
Lợi nhuận bình quân một
lao động
0,192 0,24 0,377 0,606

(Nguồn: Phòng Kế Hoạch)
Nhìn vào bảng trên, có thể thấy rõ tình hình tiến triển rõ rệt qua các
năm. Cả hai chỉ tiêu đều thể hiện sự tăng trưởng nhanh chóng. Điều này
chứng tỏ người lao động trong Công ty đang hoạt động có hiệu quả hơn.
Tuy nhiên, nếu so sánh với nhiều doanh nghiệp hoạt động trong cũng
lĩnh vực cũng như trong những lĩnh vực khác thì có thể thấy rằng doanh thu
bình quân một lao động hay lợi nhuận bình quân một lao động này là khá
thấp. Trong rất nhiều năm qua, Công ty là một doanh nghiệp có số lao động
cao. Tuy nhiên, hiệu quả sử dụng lao động vẫn đang là vấn đề đối với Ban
Giám đốc của Công ty.
Trong những năm gần đây, cùng với sự cải tổ toàn Công ty, vấn đề sử
dụng nhân lực đúng người, đúng việc đã làm cho hiệu quả sử dụng lao động
tăng lên nhanh chóng. Năm 2003 so với năm 2000 có sự thay đổi rõ ràng.
Doanh thu bình quân một lao động tăng gấp 1,579 lần. Còn chỉ tiêu lợi nhuận
bình quân một lao động còn tăng hơn nữa, tăng 3,156 lần. Đây là dấu hiệu
đáng mừng cho những nỗ lực mà Công ty đã bỏ ra nhằm hoàn thiện hiệu quả
nhập khẩu hàng hoá của mình.
2. Đánh giá chung về hiệu quả kinh doanh nhập khẩu của Công ty
2.1. Những kết quả đạt được.
Trong những năm gần nhìn chung hiệu quả nhập khẩu hàng hoá của
Công ty đã được cải thiện một cách đáng kể, dẫn đến những kết quả đáng ghi
nhận. Kim ngạch nhập khẩu tăng đều qua các năm và luôn tăng với tốc độ
cao, chủng loại hàng hoá kinh doanh ổn định và luôn được chú tâm thay đổi
cơ cấu sao cho phù hợp với thị trường, đáp ứng được yêu cầu của đường lối
chính sách Nhà nước. Có được những kết quả này là do sự phấn đấu không
ngừng của toàn thể cán bộ, Ban giám đốc, công đoàn các đơn vị trong Công
ty, đặc biệt có sự đóng góp lớn của Phòng Kinh doanh xuất nhập khẩu. Đồng
thời đó là sự phối hợp đồng bộ giữa các cơ quan chức năng, sự nhạy bén kịp
thời của Ban giám đốc.
Hiệu quả sử dụng vốn đã được nâng cao rõ rệt. Nguồn vốn được sử

dụng hiệu quả hơn thể hiện ở lợi nhuận trên tổng nguồn vốn và ở vòng quay
vốn. Hiệu quả sử dụng con người cũng đựoc cải thiện một cách đáng kể. Như
một tất yếu, khi mà trình độ người lao động được nâng cao và họ có nhiều cơ
hội để chứng tỏ khả năng của mình hơn thì hiệu quả kinh doanh sẽ được nâng
cao.
Trong thời gian qua Công ty đã nhập khẩu được những mặt hàng đáp
ứng tốt về chất lượng, mẫu mã đối với các bạn hàng trong nước. Điều này
chứng tỏ công tác nghiên cứu bạn hàng của Công ty là khá tốt. Công ty cũng
đã chú trọng tăng cường các mối quan hệ với khách hàng không ngừng nâng
cao trách nhiệm của mình trong hoạt động kinh doanh, do đó kim ngạch nhập
khẩu, doanh số bán hàng nhập khẩu và khả năng tiêu thụ hàng nhập khẩu của
Công ty trên thị trường trong nước ngày càng được nâng cao.
Việc thực hiện những hợp đồng: Công ty đã tiến hành thực hiện các
hợp đồng theo đúng các điều khoản đã được ký kết, hạn chế tối đa những sai
sót về nghiệp vụ giao và nhận hàng, đảm bảo giải phóng hàng sớm, không để
lưu kho lưu bãi lâu làm tăng chi phí ảnh hưởng đến kết quả kinh doanh của Công
ty.
Trong thời gian qua Công ty đã không ngừng tìm mọi biện pháp đẩy
mạnh kinh doanh, cố gắng tạo ưu thế trên thị trường, ngày càng mở rộng thêm
thị trường nhập khẩu, thị trường tiêu thụ, phát triển thêm cả những bạn hàng
cả trong nước và quốc tế. Nếu như trước đây thị trường nhập khẩu chủ yếu
của Công ty là các nước Đông Âu, châu Á thì những năm gần đây Công ty đã
mở rộng sang nhập khẩu ở những thị trường có nền công nghiệp phát triển
cao như Nhật Bản, Hoa Kỳ,
Trong thời gian qua Công ty đã tiến hành nhập khẩu được hàng hoá,
máy móc thiết bị vật tư của nhiều nước, tạo được mối quan hệ bạn hàng lâu
dài với nhiều hãng nổi tiếng trên thế giới, từ đó đã được hưởng ưu đãi của bạn
hàng trong quá trình thanh toán, đồng thời trong quá trình hoạt động Công ty
không ngừng tích luỹ kinh nghiệm nâng cao uy tín của mình cũng như nâng
cao trình độ nghiệp vụ cho cán bộ công nhân viên. Công ty đã chứng tỏ khả

năng phát triển của mình thông qua chỉ tiêu lợi nhuận không ngừng tăng. Điều
này chứng tỏ Công ty đã tạo cho mình hướng đi đúng đắn, áp dụng các biện
pháp tích cực, có hiệu quả trong kinh doanh, đặc biệt kinh doanh xuất nhập
khẩu.
Sự linh hoạt và nhạy bén trong quản lý kinh doanh: Công ty luôn nhận
thức một cách sâu sắc về sự khác biệt về cơ chế quản lý quan liêu bao cấp và
cơ chế thị trường, chấp nhận sự cạnh tranh quyết liệt của thị trường trong
nước và quốc tế, đồng thời xác định đúng đắn mặt mạnh và mặt yếu của mình
để xây dựng mục tiêu, phương hướng kinh doanh hợp lý. Đội ngũ cán bộ kinh
doanh của Công ty luôn coi trọng công tác marketing nhằm đáp ứng được hai
mục tiêu: Kinh doanh để mang lại hiệu quả cao và tự học tập để nâng cao khả
năng nhận thức, trình độ quản lý phù hợp với công việc, xây dựng ý thức dân
chủ tập trung thực hiện tốt mọi hoạt động của Công ty.
Tóm lại hiệu quả nhập khẩu hàng hoá của Công ty cổ phần thiết bị xăng
dầu Petrolimex đã và đang được củng cố. Mặc dù kinh nghiệm thương trường
của Công ty được tích luỹ qua từng năm. Cùng với sự lãnh đạo, quản lý giám
sát của Ban giám đốc Công ty, với đội ngũ cán bộ kinh doanh trẻ nắm vững
kiến thức về nghiệp vụ ngoại thương hoạt động nhập khẩu hàng hoá tại Công
ty chắc chắn sẽ ngày càng lớn mạnh, các mối quan hệ với khách hàng trong
và ngoài nước sẽ ngày càng đựoc tạo lập và củng cố.
2.2. Những tồn tại và hạn chế.
Để đánh giá đúng đắn về hiệu quả nhập khẩu hàng hoá của Công ty
trong thời gian vừa qua, bên cạnh việc chỉ ra được những thành tựu của Công
ty đã đạt được, chúng ta không thể không đề cập đến những khó khăn vẫn còn
tồn tại để từ đó tìm hiểu nguyên nhân và đưa ra các biện pháp khắc phục.
Từng bước hoàn thiện hơn nữa hiệu quả nhập khẩu của Công ty để thúc đẩy
Công ty ngày càng phát triển mạnh mẽ trong sự cạnh tranh đầy khốc liệt của
cơ chế thị trường.
Chi phí phát sinh trong quá trình kinh doanh còn khá cao. Nhiều
phương án kinh doanh chi phí (trừ vận tải) lên đến gấp 3-4 lần lãi ròng. Thời

gian thực hiện một hợp đồng là khá dài thường phải từ 3 đến 6 tháng. Điều
này làm ảnh hưởng nhiều đến hiệu quả kinh doanh của Công ty. Một số mặt
hàng khi nhập về được đến trong nước thì nhu cầu đã bị hạ xuống rất thấp,
ảnh hưởng không nhỏ đến kết quả kinh doanh của Công ty cũng như gây mất
uy tín của Công ty với các bạn hàng trong nước, đồng thời ảnh hưởng không
nhỏ đến việc theo dõi, quản lý hàng hoá xuất nhập khẩu.
Một số cán bộ kinh doanh đang công tác trong lĩnh vực nhập khẩu thiếu
kinh nghiệm về nghiệp vụ, thiếu nhạy bén trên thương trường gây ảnh hưởng
không tốt trong buôn bán và quản lý hàng hoá.
Giá hàng nhập khẩu mà Công ty mua từ nước ngoài về không phải là
mức giá thấp nhất ngoài thực tế. Đồng tiền tính toán thường là tiền của nước
đối tác do đó Công ty không thể dự đoán trước được sự biến động về đồng
tiền ấy trên thị trường ra sao, nên nhiều khi Công ty đã phải chịu những khoản
chi phí khá lớn cho sự biến động về tỷ giá giữa đồng tiền tính toán và đồng
tiền thanh toán. Điều đó dẫn đến lợi nhuận kinh doanh không phù hợp với lợi
nhuận đáng ra phải có.
Một tồn tại nữa mà Công ty cũng cần phải quan tâm và tìm cách giải
quyết là giá mua hàng của Công ty thường là giá CIF cảng đến, tức là quyền
thuê tàu thuộc về bạn hàng nước ngoài (Mà trong kinh doanh ngoại thương,
người giành được quyền thuê tàu là người có ưu thế, luôn chủ động trong kinh
doanh) do đó Công ty luôn ở thế thụ động phụ thuộc vào bạn hàng.
3. Nguyên nhân của những tồn tại.
Thị trường thông tin Việt nam chưa phát triển, đặc biệt là thông tin về
thị trường nước ngoài còn bị nhiều hạn chế, các dự báo thiếu chính xác, do
đó các doanh nghiệp không có đủ thông tin cho hoạt động xuất nhập khẩu.
Điều này đã làm cho việc mua bán kém hiệu quả, đây là nguyên nhân dẫn đến
việc doanh nghiệp bị mua hàng hoá ở nước ngoài với giá cao hơn giá thực tế.
Các hoạt động trong lĩnh vực ngân hàng, bảo hiểm, thanh toán quốc tế
và cả những công đoạn như chuyên chở bốc dỡ, giao nhận hàng hoá ở Việt
nam còn nhiều hạn chế gây không ít khó khăn cho hoạt động kinh doanh nhập

khẩu của tất cả các công ty kinh doanh xuất nhập khẩu nói chung và công ty
sản xuất kinh doanh nhập khẩu nói riêng.
Hệ thống kho tàng, bến bãi, vận chuyển trong nội địa của nước ta còn
yếu kém, gây nhiều tổn thất, làm tăng chi phí cho hàng nhập khẩu, dẫn tới
giảm bớt khả năng cạnh tranh của hàng hoá.
Sự thiếu đồng bộ trong các chính sách pháp luật, quy chế, quy định của
Nhà nước về quản lý hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu cũng như sự thiếu
đồng bộ của các quy định hải quan, thuế vụ, quản lý xuất nhập khẩu gây ra
những khó khăn không nhỏ cho Công ty trong quá trình nhập khẩu hàng hoá.
Những cán bộ trẻ trong Công ty đã phần được đào tạo chính quy nhưng
lại chưa có đủ bề dày kinh nghiệm nên dễ bị sơ hở trong quá trình đàm phán,
ký kết hợp đồng, thực hiện hợp đồng, Công tác khắc phục nhược điểm phát
huy thế mạnh ở từng cán bộ trong quá trình chuyển đổi thế hệ này là một khó
khăn khá lớn.
Cơ chế thị trường là tất yếu khách quan, nó khuyến khích lao động thực
sự, song không phải không có những điểm tiêu cực, gây khó khăn đối với việc
đào tạo, gìn giữ và phát triển đội ngũ cán bộ công nhân viên trong Công ty.
Mặt khác các yếu tố cạnh tranh quyết liệt trên thị trường như vấn đề quản lý
hàng hoá nhập khẩu kinh doanh trái pháp luật, thiếu sự quản lý của các cơ
quan chức năng nhà nước, cũng như vấn đề khác liên quan đến hoạt động
kinh doanh xuất nhập khẩu, đã gây khó khăn không nhỏ đối với Công ty trong
quá trình thực hiện nhiệm vụ của mình.
Tóm lại, có thể nói rằng trong những năm qua Công ty đã đạt được những
thành tựu to lớn trong lĩnh vực nhập khẩu hàng hoá, góp phần vào sự phát triển
của nền kinh tế đất nước. Nhưng bên cạnh đó Công ty vẫn còn một số khó khăn

×