Tải bản đầy đủ (.docx) (30 trang)

tiểu luận triết học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (157.86 KB, 30 trang )

1
A- ĐẶT VẤN ĐỀ
I- Lý do chọn đề tài
Sự nghiệp cơng nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa ở nước ta được bắt đầu từ cuối
năm 1960. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III( 9- 1960) của Đảng lao động
Việt Nam đã quyết nghị “ Nhiệm vụ trung tâm của thời kỳ quá độ ở miền Bắc
nước ta là cơng nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa, mà mấu chốt là ưu tiên phát triển
cơng nghiệp nặng”. Sự nghiệp đó đến nay vẫn cịn tiếp tục.
Cơng nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa ở nước ta tiến hành trong hoàn cảnh và
điều kiện rất khó khăn.
Thứ nhất trong suốt thời gian tiến hành cơng nghiệp hóa, tình hình trong
nước và quốc tế luôn diễn biến rất phức tạp và không thuận chiều. Bắt đầu cơng
nghiệp hóa được bốn năm thì đế quốc Mỹ mở rộng chiến tranh phá hoại miền
Bắc. Đất nước phải thực hiện đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược: Miền Bắc vừa
chiến đấu chống chiến tranh phá hoại, vừa xây dựng; miền Nam thực hiện cách
mạng giải phóng dân tộc. Đất nước thống nhất, cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội
được vài năm thì kẻ thù gây ra chiến tranh biên giới. Chiến tranh biên giới kết
thúc lại kéo theo cấm vận của Mỹ.
Thứ hai nếu những năm 60, hệ thống xã hội chủ nghĩa lớn mạnh, phát triển
nhanh không thua kém nhiều so với các nước tư bản chủ nghĩa phát triển, có uy
tín trên thế giới đã tạo ra hoàn cảnh quốc tế thuận lợi cho cơng nghiệp hóa ở
nước ta, thì sang những năm 70, 80 hoàn cảnh quốc tế lại gây bất lợi cho q
trình cơng nghiệp hóa ở nước ta. Sau cuộc khủng hoảng dầu lửa của thế giới
(1973) các nước xã hội chủ nghĩa do chuyển dịch cơ cấu và đổi mới công nghệ
chậm hơn so với các nước tư bản chủ nghĩa, hiệu quả thấp, uy tín trên thị trường
quốc tế giảm, cộng các sai lầm khác đã dẫn đến sự sụp đổ của Liên Xô và các
nước Đông Âu, làm mất đi thị trường lớn và sự giúp đỡ khơng nhỏ từ các nước
này (ước tính 1 năm 1 tỷ đơ la, chiếm 7% GDP ).
Cơng nghiệp hóa ở nước ta xuất phát từ điểm rất thấp về phát triển kinh tếxã hội, về phát triển lực lượng sản xuất và từ trạng thái không phù hợp giữa
quan hệ sản xuất với trình độ và tính chất phát triển của lực lượng sản xuất.
Năm 1960 công nghiệp chiếm 18,2% thu nhập quốc dân sản xuất, 7% lao


động xã hội trong các ngành kinh tế quốc dân; nông nghiệp chiếm tỷ lệ tương
ứng là 42,35 và 83%; sản lượng lương thực bình quân đầu người dưới 300 kg;
GDP bình quân đầu người khoảng dưới 100 đô la. Trong khi phân công lao động


2
xã hội chưa phát triển và lực lượng sản xuất ở trình độ thấp thì quan hệ sản xuất
đã được đẩy lên trình độ tập thể hóa và quốc doanh hóa là chủ yếu. Đến năm
1960: 85,8% tổng số hộ nông dân vào hợp tác xã; 100% hộ tư sản được cải tạo
trong tổng số tư sản công thương nghiệp thuộc diện cải tạo, gần 80% thợ thủ
công cá thể vào hợp tác xã tiểu thủ công nghiệp
Đứng trước thực trạng này Đảng ta đã quyết định xóa bỏ cơ chế hành
chính, quan liêu, bao cấp, và xây dựng một quan hệ sản xuất phù hợp với tính
chất và trình độ của lược lượng sản xuất ở nước ta hiện nay để thúc đẩy q
trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa , nhanh chóng đi lên chủ nghĩa cộng sản.
Chính vì những lý do trên mà em quyết định chọn đề tài: “Vấn đề đổi mới
lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất trong q trình cơng nghiệp hóa,
hiện đại hóa ở Việt Nam”. Em nghĩ rằng việc nghiên cứu đề tài này sẽ giúp em
và các bạn tìm hiểu về vấn đề đổi mới lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất
trong q trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam liệu có phải là tất yếu
và liệu nó có tuân theo một quy luật nào của tự nhiên hay không?.


3
B- NỘI DUNG
I- Cơ sở lý luận của lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất
1- Phương thức sản xuất
Với tính cách là phạm trù của chủ nghĩa duy vật lịch sử, phương thức sản
xuất biểu thị cách thức con người thực hiện quá trình sản xuất vật chất ở những
giai đoạn lịch sử nhất định của xã hội loài người. Với một cách thức nhất định

của sự sản xuất xã hội, trong đời sống xã hội sẽ xuất hiện những tính chất, kết
cấu và những đặc điểm tương ứng về mặt xã hội.
Đối với sự vận động của lịch sử loài người, cũng như sự vận động của mỗi
xã hội cụ thể, sự thay đổi phương thức sản xuất bao giờ cũng là sự thay đổi có
tính chất cách mạng. Trong sự thay đổi đó, các q trình kinh tế, xã hội... được
chuyển sang một chất mới. Phương thức sản xuất là cái mà nhờ nó người ta có
thể phân biệt được sự khác nhau của những thời đại kinh tế khác nhau. Dựa vào
phương thức sản xuất đặc trưng của mỗi thời đại lịch sử, người ta hiểu thời đại
lịch sử đó thuộc về hình thái kinh tế xã hội nào. C. Mác viết: “ Những thời đại
kinh tế khác nhau không phải ở chỗ chúng sản xuất ra cái gì mà là ở chỗ chúng
sản xuất bằng cách nào, với những tư liệu lao động nào”
(1). Phương thức sản xuất, cách thức mà con người ta tiến hành sản
xuất chính là sự thống nhất giữa lực lượng sản xuất ở một trình độ nhất định và
quan hệ sản xuất tương ứng.
2- Lực lượng sản xuất
Trong hệ thống các khái niệm của chủ nghĩa duy vật lịch sử, lực lượng sản
xuất và quan hệ sản xuất là các khái niệm dùng để chỉ quan hệ mà C. Mác gọi là
“ quan hệ song trùng” của bản thân sự sản xuất xã hội: quan hệ của người với tự
nhiên và quan hệ của con người với nhau.
Lực lượng sản xuất biểu hiện mối quan hệ giữa người với giới tự nhiên.
Nghĩa là trong quá trình thực hiện sự sản xuất xã hội, con người chinh phục giới
tự nhiên bằng tổng hợp các sức mạnh hiện thực của mình, sức mạnh đó được
chủ nghĩa duy vật lịch sử khái quát trong khái niệm lực lượng sản xuất. Lực
lượng sản xuất nói lên năng lực thực thực tế của con người trong quá trình sản
xuất tạo ra của cải xã hội. Lực lượng sản xuất bao gồm người lao động với kinh
nghiệm sản xuất, kỹ năng lao động, biết sử dụng tư liệu sản xuất để tạo ra của
cải vật chất.Trong quá trình sản xuất, lao động của con người và tư liệu sản xuất,
trước hết là công cụ lao động kết hợp với nhau tạo thành lực lượng sản xuất.



4
Trong đó, “ lực lượng sản xuất hàng đầu của tồn thể nhân loại là cơng nhân, là
người lao động”( 2).
Do đặc trưng sinh học- xã hội riêng có của mình, cong người, trong nền sản
xuất có sức mạnh và kỹ năng lao động thần kinh cơ - bắp. Trong lao động sức
mạnh và kỹ năng ấy đã được nhân lên gấp nhiều lần. Hơn nữa, lao động của con
người ngày càng trở thành lao động có trí tuệ và lao động trí tuệ. Trí tuệ con
người khơng phải là cái gì siêu tự nhiên,mà là sản phẩm của tự nhiên và của lao
động. Nhưng trong quá trình lịch sử lâu dài của xã hội lồi người, trí tuệ hình
thành phát triển cùng với lao động làm cho lao động ngày càng có hàm lượng trí
tuệ cao hơn. Hàm lượng trí tuệ trong lao động, đặc biệt là trong điều kiện của
khoa học công nghệ hiện nay, đã làm cho con người trở thành một nguồn kực
đặc biệt của sản xuất, là nguồn lực cơ bản, nguồn lực vô tận.
Tư liệu sản xuất bao gồm đối tượng lao động và tư liệu lao động.
Trong tư liệu lao động có cơng cụ lao động và những tư liệu lao động khác
cần thiết cho việc vận chuyển bảo quản sản phẩm....
Đối tượng lao động là những vật mà lao động của con người tác động vào
nhằm biến đổi nó theo mục đích của mình. Đối tượng lao động khơng phải là
tồn bộ giới tự nhiên mà chỉ có một bộ phận của giới tự nhiên được đưa vào sản
xuất. Con người không chỉ tìm trong giới tự nhiên những đối tượng lao động sẵn
có, mà cịn sáng tạo ra bản thân đối tượng lao động. Sự phát triển của sản xuất
có liên quan đến việc đưa những đối tượng ngày càng mới hơn vào q trình
sản xuất. Điều đó hồn tồn có tính quy luật bởi chính những vật liệu mới mở
rộng khả năng sản xuất của con người. Đối tượng lao động chính là yếu tố vật
chất của sản phẩm tương lai. Đối tượng lao động gồm các loại:
+ Loại có sẵn trong tự nhiên. Loại này thường là đối tượng của các ngành
công nghiệp khai thác.
+ Loại đã qua chế biến, nghĩa là đã có sự tác động của lao động gọi là
nguyên liệu. Loại này thường là đói tượng của các ngành công nghiệp chế biến.
Với sự phát triển của Cách mạng khoa học- kỹ thuật hiện đại, vai trò của

nhiều đối tượng lao động dần dần thay đổi, đồng thời loại đối tượng lao động có
chất lượng mới được tạo ra. Nhưng cơ sở của mọi đối tượng lao động vẫn là đất
đai, tự nhiên: “ lao động là cha, còn đất là mẹ của mọi của cải vật chất”( 3).


5
Tư liệu lao động: là một vật hay hệ thống những vật làm nhiệm vụ truyền
dẫn sự tác động của con người lên đối tượng lao động, nhằm biến đổi đối tượng
lao động theo mục đích của mình.
Tư liệu lao động bao gồm công cụ lao động, hệ thống các yếu tố vật chất
phục vụ trực tiếp hoặc gián tiếp quá trình sản xuất (nhà xưởng, kho tàng, bến
bãi, ống dẫn, băng chuyền, đường sá, các phương tiện giao thông vận tải, thông
tin liên lạc...).
Trong các yếu tố hợp thành tư liệu lao động thì cơng cụ lao động có ý nghĩa
quyết định nhất, là một thành tố cơ bản của lực lượng sản xuất. Công cụ lao
động, theo Ph. Ăngghen là “ khí quan của bộ óc con người”, là “ sức mạnh của
tri thức đã được vật thể hóa” có tác dụng “ nối dài bàn tay” và nhân lên sức
mạnh trí tuệ của con người. Cịn Mác gọi là hệ thống xương cốt và cơ bắp của
nền sản xuất Công cụ lao động là vật thể hay phức hợp vật thể mà con người đặt
giữa mình với đối tượng lao động. Trong q trình sản xuất, cơng cụ lao động
luôn luôn được cải tiến, tinh xảo hơn để lao động bớt nặng nhọc và đạt hiệu quả
cao hơn. Nó là yếu tố động nhất và cách mạng nhất trong lực lượng sản xuất.
Cùng với sự biến đổi vá phát triển của cơng cụ lao động thì kinh nghiệm sản
xuất, kỹ năng sản xuất, kiến thức khoa học của con người cũng tiến bộ, phong
phú thêm, những ngành sản xuất mới xuất hiện, sự phân công lao động phát
triển. Chính sự chuyển đổi, cải tiến và hồn thiện khơng ngừng của nó đã gây ra
những biến đổi sâu sắc trong toàn bộ tư liệu sản xuất. Xét cho cùng chính đó là
ngun nhân sâu xa xa của mọi biến cải xã hội. Trình độ phát triển của cơng cụ
lao động là thước đo trình độ chinh phục tự nhiên của con người, là cơ sở xác
định trình dộ phát triển của sản xuất, là tiêu chuẩn để phân biệt sự khác nhau

giữa các thời đại kinh tế. Đối với mỗi thế hệ mới, những tư liệu lao động do thế
hệ trước để lại trở thành điểm xuất phát của sự phát triển tương lai. Vì vậy
những tư liệu đó là cơ sở kế tục của lịch sử.
Tư liệu lao động chỉ trở thành lực lượng tích cực cải biến đối tượng lao
động, khi chúng kết hợp với lao động sống. Chính con người với trí tuệ và kinh
nghiệm của mình đã chế tạo ra tư liệu lao động. Tư liệu lao động dù có ý nghĩa
đến đâu, nhưng nếu tách khỏi người lao động thì cũng khơng thể phát huy được
tác dụng, không thể trở thành lực lượng sản xuất của xã hội.
Trong tác phẩm Sự khốn cùng của triết học, C. Mác đã nêu một tư tưởng
quan trọng về vai trò của lực lượng sản xuất đối với việc thay đổi các quan hệ xã


6
hội. C. Mác viết: “ Những quan hệ xã hội đều gắn liền mật thiết với những lực
lượng sản xuất. Do có được những lực lượng sản xuất mới, lồi người thay đổi
phương thức sản xuất của mình, và do thay đổi phương thức sản xuất, cách kiếm
sống của mình, loài người thay đổi tất cả quan hệ xã hội của mình. Cái cối xay
quay bằng tay đưa lại xã hội có lãnh chúa, cái cối xay chạy bằng hơi nước đưa
lại xã hội nhà tư bản công nghiệp”( 4).
3- Quan hệ sản xuất
Trong hệ thống các khái niệm của chủ nghĩa duy vật lịch sử, khái niệm lực
lượng sản xuất biểu thị mặt thứ nhất của mối “ quan hệ song trùng” của bản thân
sự sản xuất xã hội- quan hệ của con người với tự nhiên; cịn khía niệm quan hệ
sản xuất biểu thị mặt thứ hai của quan hệ đó- quan hệ của con người với con
người trong sản xuất. Sở dĩ qúa trình sản xuất xã hội có thể diễn ra bình thường,
chính là vì trong sự sản xuất đó, mối quan hệ giữa con người với con người tồn
tại thống nhất với mối quan hệ giữa con người với giới tự nhiên. Trong sản xuất,
mối quan hệ giữa con người với tự nhiên thể hiện thành những trình độ khác
nhau của lực lượng sản xuất. Tuy nhiên, mối quan hệ đó được xây dựng trong và
thông qua những quan hệ khác nhau giữa người với người, tức là những quan hệ

sản xuất. Trong tác phẩm Lao động làm thuê và tư bản, C. Mác viết: “ Trong sản
xuất, người ta không chỉ quan hệ với giới tự nhiên. Người ta không thể sản xuất
được nếu khơng kết hợp với nhau theo một cách nào đó để hoạt động chung và
để trao đổi hoạt động với nhau. Muốn sản xuất được người ta phải có những
mối liên hệ và quan hệ nhất định với nhau; và quan hệ của họ với giới tự nhiên,
tức là việc sản xuất”( 5).
Như vậy, trong sự sản xuất ra đời sống xã hội của mình, con người ta, dù
muốn hay khơng cũng buộc phải duy trì và thực hiện những quan hệ nhất định
với nhau. những quan hệ này mang tính tất yếu và khơng phụ thuộc vào ý muốn
của ai cả. Đó chính là những quan hệ sản xuất( 6). Cố nhiên, quan hệ sản xuất là
do con người tạo ra, song nó tuân theo những quy luật tất yếu, khách quan sự
vận động của đời sống xã hội.
Quan hệ sản xuất bao gồm những mặt cơ bản sau đây:
+ Quan hệ giữa người với người đối với việc sở hữu về tư liệu sản xuất.
+ Quan hệ giữa người và người đối với việc tổ chức quản lý.
+ Quan hệ giữa người và người đối với việc phân phối sản phẩm lao động.


7
Với tính cách là những quan hệ kinh tế khách quan, không phụ thuộc vào ý
muốn của con người, quan hệ sản xuất là những quan hệ mang tính vật chất
thuộc đời sống xã hội. Quan hệ sản xuất là hình thức xã hội của lực lượng sản
xuất và là cơ sở sâu xa của đời sống tinh thần xã hội. Ba mặt quan hệ đó trong
q trình sản xuất xã hội ln gắn bó với nhau, tạo thành một hệ thống mang
tính ổn định tương đối so với sự vận động không ngừng của lực lượng sản xuất.
Các quan hệ sản xuất của một phương thức sản xuất là một hệ thống bao gồm
nhiều mối quan hệ phong phú và đa dạng biểu hiện dưới nhiều hình thức. Mỗi
mặt quan hệ của hệ thống quan hệ sản xuất có vai trị và ý nghĩa riêng biệt, xác
định, khi nó tác động tới nền sản xuất xã hội nói riêng và tới tồn bộ tiến trình
lịch sử nói chung.

Tính chất của quan hệ sản xuất trước hết được quy định bởi quan hệ sở hữu
đối với tư liệu sản xuất- biểu hiện thành chế độ sở hữu- là đặc trưng cơ bản của
phương thức sản xuất. Trong hệ thống các quan hệ sản xuất của mỗi nền kinh tếxã hội xác định, quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất ln ln có vai trị quyết
định đối với tất cả các quan hệ xã hội khác . Quan hệ sở hữu là quan hệ xuất
phát, quan hệ cơ bản, quan hệ trung tâm của các quan hệ sản xuất. Chính quan
hệ sở hữu- quan hệ giữa các tập đồn người trong việc chiếm hữu các tư liệu sản
xuất đã quy định địa vị của từng tập đoàn trong hệ thống sản xuất xã hội. Đến
lượt mình, địa vị của từng tập đoàn người trong hệ thống sản xuất lại quy định
cách thức mà các tập đoàn trao đổi hoạt động cho nhau, quy định cách thức mà
các tập đoàn tổ chức quản lý quá trình sản xuất. Cuối cùng, chính quan hệ sở
hữu là cái quyết định phương thức phân phối sản phẩm cho các tập đoàn người
theo địa vị của họ đối với hệ thống sản xuất xã hội. “ Định nghĩa quyền sở hữu
tư sản không phải là gì khác mà là trình bày tất cả những quan hệ xã hội của sản
xuất tư sản”.( 7).
Trong các hình thái kinh tế- xã hội mà lồi người đã từng trải qua, lịch sử
đã chứng kiến sự tồn tại của hai loại hình thức sở hữu cơ bản đối với tư liệu sản
xuất: sở hữ tư nhân và sở hữu cơng cộng. Sở hữu cơng cộng là loại hình mà
trong đó tư liệu sản xuất thuộc về mọi thành viên của mỗi cộng đồng. Nhờ cơ sở
đó nên về mặt nguyên tắc, các thành viên của mỗi cộng đồng bình đẳng với nhau
trong tổ chức lao động và trong phân phối sản phẩm. Do tư liệu sản xuất là tài
sản chung của cả cộng đống nên các quan hệ xã hội trong sản xuất vật chất và
trong đời sống xã hội nói chung, trở thành quan hệ hợp tác, tương trợ giúp đỡ


8
lẫn nhau. Ngược lại, trong các chế độ tư hữu, do tư liệu chỉ nằm trong tay một số
ít người nên của cải xã hội không thuộc về số đông mà thuộc về số ít người đó.
Các quan hệ xã hội, do vậy, trở thành bất bình đẳng, quan hệ thống trị và bị trị.
Đối kháng xã hội trong các xã hội tồn tại chế độ tư hữu tiềm tàng khả năng trở
thành đối kháng gay gắt. Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác- Lê nin đã chỉ rõ

trong các chế độ sở hữu tư nhân của các xã hội điển hình trong lịch sử (sở hữu tư
nhân của xã hội chiếm hữu nô lệ, sở hữu tư nhân trong chế độ phong kiến và sở
hữu tư nhân trong chế độ tư bản) thì chế độ sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa là
đỉnh cao của loại sở hữu này.
C. Mác và Ph. Ăngghen đã chứng minh rằng chế đọ tư bản chủ nghĩa
khơng phải là hình thức sở hữu cuối cùng trong lịch sử xã hội loài người. Chủ
nghĩa xã hội dựa trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất, dù sớm hay muộn
cũng sẽ đóng vai trị phủ định đối với chế độ tư hữu.
Trong hệ thống các quan hệ sản xuất, các quan hệ về mặt tổ chức, quản lý
sản xuất là các quan hệ có khả năng quyết định một cách trực tiếp quy mô, tốc
độ, hiệu quả và xu hướng của mỗi nền sản xuất cụ thể. Bằng cách nắm bắt các
nhân tố xác định của một nền sản xuất, điều khiển và tổ chức cách thức vận
động của các nhân tố đó, các quan hệ tổ chức và quản lý sản xuất có khả năng
đẩy nhanh hoặc kìm hãm các quá trình khách quan của sản xuất.
Các quan hệ về mặt tổ chức và quản lý sản xuất luôn luôn có xu hướng
thích ứng với kiểu quan hệ sở hữu thống trị của mỗi nền sản xuất cụ thể. Do vậy,
việc sử dụng hợp lý các quan hệ tổ chức và quản lý sản xuất sẽ cho phép toàn bộ
hệ thống quan hệ sản xuất có khả năng vươn tới tối ưu. Trong trường hợp ngược
lại, các quan hệ quản lý và tổ chức có thể làm biến dạng quan hệ sở hữu, ảnh
hưởng tiêu cực đến sự phát triển kinh tế- xã hội.
Hiện nay, nhờ ứng dụng những thành tựu to lớn của khoa học quản lý hiện
đại nên vai trò của các quan hệ tổ chức và quản lý đối với sản xuất, đặc biệt đối
với việc điều hành sản xuất, đặc biệt đối với việc điều hành sản xuất ở tầm vĩ
mô, trên thực tế đã tăng lên gấp bội so với vài thập kỷ trước đây. Đây là điều rất
đáng lưu ý trong việc phân tích và đánh giá vai trò của các quan hệ sản xuất hiện
đại.
Bên cạnh các quan hệ về mặt tổ chức- quản lý, trong hệ thống các quan hệ
sản xuất, các quan hệ về mặt phân phối sản phẩm lao động cũng là những nhân
tố có ý nghĩa hết sức to lớn đối với sự vân động của toàn bộ nền kinh tế- xã hội.



9
Mặc dù bị phụ thuộc vào các quan hệ sở hữu và vào trình độ tổ chức quản
lý sản xuất, song do có khả năng kích thích trực tiếp vào lợi ích của con người,
nên các quan hệ phân phối là “ chất xúc tác” của các quá trình kinh tế- xã hội.
Quan hệ phân phối có thể thúc đẩy tốc độ và nhịp điệu của sự sản xuất, làm năng
động toàn bộ đời sống kinh tế- xã hội; hoặc trong trường hợp ngược lại, nó có
khả năng kìm hãm sản xuất, kìm hãm sự phát triển của xã hội.
4- Quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với tính chất và trình
độ của lực lượng sản xuất
Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, chúng tồn tại không tách rời nhau
mà tác động biện chứng lẫn nhau hình thành quy luật phổ biến của tồn bộ lịch
sử loài người- Quy luật về sự phù hợp quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ
của lực lượng sản xuất. Quy luật này vạch ra tính chất phụ thuộc khách quan của
quan hệ sản xuất vào sự phát triển của lực lượng sản xuất. Đến lượt mình, quan
hệ sản xuất tác động trở lại đối với lực lượng sản xuất.
Tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất: Khuynh hướng của sản xuất
xã hội là không ngừng biến đổi theo chiều hướng tiến bộ. Sự biến đổi đó, xét
đến cùng, bao giờ cũng bắt đâù từ sự biến đổi và phát triển của lực lượng sản
xuất, trước hết là của công cụ lao động. Do vậy, lực lượng sản xuất là yếu tố có
tác dụng quyết định đối với sự biến đổi của phương thức sản xuất: Trình độ của
lực lượng sản xuất trong từng giai đoạn của lịch sử lồi người thể hiện trình độ
chinh phục tự nhiên của con người trong giai đoạn lịch sử đó. Khái niệm trình
độ của lực lượng sản xuất nói lên khả năng của con người thơng qua việc sử
dụng cơng cụ lao động thực hiện q trình cải biến giới tự nhiên nhằm đảm bảo
cho sự sinh tồn và phát triển của mình. Trình độ của lực lượng sản xuất thể hiện
ở:
+ Trình độ tổ chức lao động xã hội.
+ Trình độ ứng dụng khoa học vào sản xuất.
+ Kinh nghiệm và kỹ năng lao động của con người.

+ Trình độ phân cơng lao động.
Trình độ của phân cơng lao động thể hiện rõ ràng nhất trình độ của lực
lượng sản xuất.
Bên cạnh khái niệm trình độ của lực lượng sản xuất, cịn có khái niệm tính
chất của lực lượng sản xuất. Chính Ph. Ăngghen đã sử dụng khái niệm này để
phân tích lực lượng sản xuất trong các phương thức sản xuất khác nhau. Tính


10
chất của lực lượng sản xuất là tính chất của quá trình sản xuất ra sản phẩm. Quá
trình này phụ thuộc vào tính chất của tư liệu sản xuất và lao động. Lực lượng
sản xuất có tính chất cá nhân thể hiện tính chất của tư liệu sản xuất là sử dụng
cơng cụ thủ cơng và tính chất của lao động là lao động riêng lẻ. Những công cụ
sản xuất như búa, rìu, cày bừa, xa quay sợi... do một người sử dụng để sản xuất
vật dùng, không cần tới lao động tập thể, lực lượng sản xuất có tính chất cá
nhân. Khi máy móc ra đời địi hỏi phải có nhiều người mới sử dụng được, để
làm ra một sản phẩm cần phải có sự hợp tác của nhiều người. Mỗi người làm
một bộ phận cơng việc mới hồn thành được sản phẩm ấy cho nên lực lượng sản
xuất mang tính chất xã hội hóa. Ph. Ăngghen đã nhận định giai cấp tư sản “
không thể biến những tư liệu sản xuất có hạm ấy thành những lực lượng sản xuất
hùng mạnh mà lại không biến chúng từ chỗ là tư liệu sản xuất do cá nhân sử
dụng thành những tư liệu sản xuất xã hội, chỉ có thể được sử dụng chung bởi
một số đông người”( 8). Trên thực tế, tính chất và trình độ của lực lượng sản
xuất không tách biệt với nhau.
Quan hệ sản xuất được hình thành, biến đổi, phát triển do lực lượng sản
xuất quyết định.
Trong quá trình sản xuất để lao động bớt nặng nhọc và đạt hiệu quả cao
hơn, con người luôn ln tìm cách cải tiến, hồn thiện cơng cụ lao động và chế
tạo ra những công vụ lao động mới, tinh xảo hơn. Cùng với sự biến đổi và phát
triển của cơng cụ lao động thì kinh nghiệm sản xuất, thói quen lao động, kỹ năng

sản xuất, kiến thức khoa học của con người cũng tiến bộ. Lực lượng sản xuất trở
thành yếu tố hoạt động nhất, cách mạng nhất. Còn quan hệ sản xuất là yếu tố
tương đối ổn định, có khuynh hướng lạc hậu hơn sự phát triển của lực lượng sản
xuất. Lực lượng sản xuất là nội dung của phương thức sản xuất, còn quan hệ sản
xuất là hình thức xã hội của nó. Trong mối quan hệ giữa nội dung và hình thức
thì nội dung quyết định hình thức; hình thức phụ thuộc vào nội dung; nội dung
thay đổi trước, sau đó hình thức mới biến đổi theo. Tất nhiên, trong quan hệ với
nội dung , hình thức khơng phải là mặt thụ động, nó cũng tác động trở lại đối với
việc phát triển của nội dung.
Cùng với sự phát triển của lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất cũng hình
thành, biến đổi cho phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất. Sự
phù hợp đó là động lực cho lực lượng sản xuất phát triển mạnh mẽ. Nhưng, lực
lượng sản xuất ln phát triển cịn quan hệ sản xuất có xu hướng tương đối ổn


11
định. Khi lực lượng sản xuất phát triển lên một trình độ mới, quan hệ sản xuất
khơng cịn phù hợp với nó nữa, trở thành chướng ngại đối với sự phát triển của
nó, sẽ nảy sinh mâu thuẫn gay gắt giữa hai mặt của phương thức sản xuất. Sự
phát triển khách quan đó tất yếu dẫn đến việc xóa bỏ quan hệ sản xuất cũ, thay
thế bằng một kiểu quan hệ sản xuất mới phù hợp với tính chất và trình độ mới
của lực lượng sản xuất, mở đường cho lực lượng sản xuất phát triển.
Việc xóa bỏ quan hệ sản xuất cũ, thay thế nó bằng quan hệ sản xuất mới
cũng có nghĩa là sự diệt vong của một phương thức sản xuất đã lỗi thời và sự ra
đời của một phương thức mới. Trong xã hội có giai cấp đối kháng, mâu thuẫn
giữa lực lượng sản xuất mới và quan hệ sản xuất lỗi thời là cơ sở khách quan của
các cuộc đấu tranh giai cấp, đồng thời cũng là tiền đề tất yếu của các cuộc cách
mạng xã hội. C. Mác đã nhận định: “ Tới một giai đoạn phát triển nào đó của
chúng, các lực lượng sản xuất vật chất của xã hội mâu thuẫn với những quan hệ
sản xuất hiện có... trong đó từ trước đến nay các lực lượng sản xuất vẫn phát

triển. Từ chỗ là những hình thức phát triển của lực lượng sản xuất, những quan
hệ ấy trở thành những xiềng xích của các lực lượng sản xuất. Khi đó bắt đầu thời
đại một cuộc cách mạng xã hội”( 9). đó là nội dung quy luật về sự phù hợp của
quan hệ sản xuất với trình độ phát triển nhất định của lực lượng sản xuất.
Chủ nghĩa duy vật lịch sử chứng minh vai trò quyết định của lực lượng sản
xuất đối với quan hệ sản xuất song cũng chỉ rõ rằng quan hệ sản xuất bao giờ
cũng thể hiện tính độc lập tương đối với lực lượng sản xuất. Quan hệ sản xuất là
hình thức xã hội mà lực lượng sản xuất dựa vào đó đó để phát triển, nó tác động
trở lại đối với lực lượng sản xuất: có thể thúc đẩy hoặc lìm hãm sự phát triển của
lực lượng sản xuất.
Quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất
trở thành động lực cơ bản thúc đẩy mở đường cho lực lượng sản xuất phát triển.
Ngược lại, quan hệ sản xuất lỗi thời khơng cịn phù hợp với tính chất và trình độ
của lực lượng sản xuất, bộc lộ mâu thuẫn gay gắt với lực lượng sản xuất thì trở
thành “ xiềng xích trói buộc” kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất.
Song tác dụng kìm hãm đó chỉ là tạm thời, theo tính tất yếu khách quan, cuối
cùng nó sẽ bị thay thế bằng kiểu quan hệ sản xuất mới phù hợp với tính chất và
trình độ của lực lượng sản xuất.
Sở dĩ quan hệ sản xuất có thể tác động mạnh mẽ trở lại đối với lực lượng
sản xuất( thúc đẩy hoặc kìm hãm), vì nó quy định mục đích của sản xuất, quy


12
định hệ thống tổ chức quản lý sản xuất và quản lý xã hội, quy định phương thức
phân phối phần của cải ít hay nhiều mà người lao động được hưởng. Do đó ảnh
hưởng đến thái độ của quảng đại quần chúng lao động- lực lượng sản xuất chủ
yếu của xã hội; nó tạo ra những điều kiện hoặc kích thích hoặc hạn chế việc cải
tiến cơng cụ lao động, áp dụng những thành tựu khoa học và kỹ thuật vào sản
xuất, hợp tác và phân công lao động....
Tuy nhiên, khơng được hiểu một cách giản đơn tính tích cực của quan hệ

sản xuất chỉ là vai trò của những hình thức sở hữu. Mỗi kiểu quan hệ sản xuất là
một hệ thống, một chỉnh thể hữu cơ gồm cả ba mặt: quan hệ sở hữu, quan hệ
quản lý và quan hệ phân phối. Chỉ trong chỉnh thể đó, quan hệ sản xuất mới trở
thành động lực thúc đẩy con người hành động nhằm phát triển sản xuất.
Quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ của
lực lượng sản xuất là quy luật chung nhất của sự phát triển xã hội. Sự tác động
của quy luật này đã đưa xã hội loài người trải qua các phương thức sản xuất:
công xã nguyên thủy, chiếm hữu nô lệ, phong kiến, tư bản chủ nghĩa và phương
thức sản xuất cộng sản tương lai.
Quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ của
lực lượng sản xuất là quy luật vận động, phát triển của xã hội qua sự thay thế kế
tiếp nhau từ thấp lên cao của các phương thức sản xuất. Nhưng không phải bất
cứ nước nào cũng phải nhất thiết, tuần tự trải qua tất cả các phương thức sản
xuất mà loài người đã biết đến. Thực tế phát triển của lịch sử nhân loại cho thấy,
tùy theo điều kiện lịch sử- cụ thể, một số nước có thể bỏ qua một hoặc một số
phương thức sản xuất để tiến lên phương thức sản xuất mới cao hơn. Đó chính là
sự biểu hiện của quy luật chung trong điều kiện cụ thể của mỗi nước. Quy luật
chung chi phối sự vận động phát triển của tất cả các nước; cịn hình thức, bước
đi cụ thể lại tùy thuộc vào điều kiện cụ thể của mỗi nước.
II- Cơ sở lý luận của q trình cơng nghiệp hóa- hiện đại hóa
1-Khái niệm cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa
Cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa là q trình chuyển đổi căn bản, toàn diện
các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế, xã hội từ sử
dụng lao động thủ cơng là chính, sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động
cùng với công nghệ, phương tiện và phương pháp tiên tiến, hiện đại, dựa trên sự
phát triển và tiến bộ khoa học- công nghệ, tạo ra năng suất lao động xã hội cao.
2- Tính tất yếu khách quan của cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa


13

Mỗi phương thức sản xuất xã hội nhất định có một cơ sở vật chất- kỹ thuật
tương ứng.
Cơ sở vật chất của một xã hội là toàn bộ hệ thống các yếu tố vật chất của
lực lượng sản xuất xã hội phù hợp với trình độ kỹ thuật (cơng nghệ) tương ứng
mà lực lượng lao động xã hội sử dụng, tác động vào để sản xuất ra của cải vật
chất đáp ứng nhu cầu xã hội.
Chỗ dựa để xem xét sự biến đổi của cơ sở vật chất- kỹ thuật của một xã hội
là: sự biến đổi và phát triển của lực lượng sản xuất; sự phát triển khoa học- kỹ
thuật; tính chất và trình độ của các quan hệ xã hội, đặc biệt là quan hệ sản xuất
thống trị.
Nói cơ sở vật chất- kỹ thuật của một phương thức sản xuất nào đó là nói cơ
sở vật chất- kỹ thuật đó đạt đến một trình độ nhất định làm đặc trưng cho
phương thức sản xuất đó được khẳng định sự thay thế phương thức sản xuất cũ
và được phát triển đúng trên cơ sở bản thân nó.
Đặc trưng của cơ sở vật chất- kỹ thuật của các phương thức sản xuất trước
chủ nghĩa tư bản là dựa vào công cụ thủ công, nhỏ bé, lạc hậu. Cơ sở vật chấtkỹ thuật của chủ nghĩa tư bản, đặc trưng của nó là nền đại cơng nghiệp cơ khí
hóa và chỉ khi xây dựng xong cơ sở đó, phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa
mới trở thành phương thức sản xuất thống trị.
Chủ nghĩa xã hội- giai đoạn thấp của phương thức sản xuất mới cao hơn
chủ nghĩa tư bản- đòi hỏi một cơ sở vật chất- kỹ thuật cao hơn trên cả hai mặt:
trình độ kỹ thuật và cơ cấu sản xuất, gắn với thành tựu của cách mạng khoa họckỹ thuật hiện đại.
Do vậy có thể hiểu: Cơ sở vật chất- kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội sẽ là nền
cơng nghiệp lớn hiện đại, có cơ cấu kinh tế hợp lý, có trình độ xã hội hóa cao
dựa trên trình độ khoa học- cơng nghệ hiện đại được hình thành một cách có kế
hoạch và thống trị trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân.
Từ chủ nghĩa tư bản hay từ trước chủ nghĩa tư bản quá độ lên chủ nghĩa xã
hội, xây dựng cơ sở vật chất- kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội là một tất yếu khách
quan và được thực hiện thông qua công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Đó là vì: cơ
sở vật chất- kỹ thuật là điều kiện trọng yếu nhất, quyết định nhất có liên quan
đến sự phát triển về chất đối với lượng sản xuất, và năng suất lao động; đối với

việc đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của mọi thành viên trong xã hội và đối với
sự thắng lợi cuối cùng của chủ nghĩa xã hội.


14
Có hai loại nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội: các nước quá độ lên chủ
nghĩa xã hội đã qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa, các nước quá độ lên
chủ nghĩa xã hội chưa qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa ( các nước có
nền kinh tế kém phát triển).
Đối với những nước phát triển quá độ lên chủ nghĩa xã hội, những nước
này đã có sẵn nền đại cơng nghiệp của chủ nghĩa tư bản để lại cho nên chỉ cần
điều chỉnh nền đại cơng nghiệp đó theo u cầu của chủ nghĩa xã hội thì về cơ
bản đã có cơ sở vật chất- kỹ thuật của xã hội mới. Do đó, vấn đề cơng nghiệp
hóa khơng cần phải đặt ra. Sở dĩ chúng ta phải điều chỉnh nền đại cơng nghiệp
cơ khí của chủ nghĩa tư bản theo yêu cầu của xã hội vì nền đại cơng nghiệp cơ
khí của chủ nghĩa tư bản dù hiện đại đến đâu chỉ là tiền đề vật chất cho xã hội
mới chứ chưa phải là cơ sở vật chất cho chủ nghĩa xã hội vì nó dựa trên chế độ
tư hữu tư bản chủ nghĩa, phân bố khơng đều giữa xá ngành, vùng do đó tất yếu
phải điều chỉnh nó.
Đối với những nước có nền kinh tế kém phát triển quá độ lên chủ nghĩa xã
hội chưa qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa, những nước này nền kinh tế
lạc hậu chủ yếu dựa vào sản xuất nơng nghiệp. Vì vậy, muốn có cơ sở vật chấtkỹ thuật của nền sản xuất lớn, hiện đại thì phải tất yếu tiến hành cơng nghiệp
hóa, hiện đại hóa. Cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa là tất yếu khách quan bởi vì:
+ Nó là con đường duy nhất để tạo ra sự phát triển về chất đối với lực
lượng sản xuất và năng suất lao động. Chất của lực lượng sản xuất là hệ thống
công cụ lao động hiện đại với trình độ cơng nghệ hiện đại.
+ Cơng nghiệp hóa tạo điều kiện để đáp ứng nhu cầu vật chất và tinh thần
ngày càng tăng của mọi thành viên trong xã hội bởi vì cơng nghiệp hóa sẽ làm
cho lực lượng sản xuất phát triển, năng suất lao động tăng, khối kượng của cải
sản xuất ra ngày càng nhiều tù đó mới có thể đáp ứng được nhu cầu ngày càng

cao của xã hội nói chung và của con người nói riêng.
+ Là con đường duy nhất để đảm bảo sự thắng lợi cuối cùng vủa chủ nghĩa
xã hội.
Như vậy, cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa khơng những là tất yếu mà cịn là
điều kiện sống cịn của chủ nghĩa xã hội. Cơng nghiệp hóa là tất yếu khách quan
đối với những nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội trong đó có nước ta.
3- Tác dụng của cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa


15
- Tạo điều kiện biến đổi về chất lượng sản xuất, tăng năng suất lao động,
tăng sức chế ngự của con người đối với tự nhiên, tăng trưởng kinh tế và phát
triển kinh tế; do đó góp phần ổn định và nâng cao đời sống của nhân dân; góp
phần quyết định sự thắng lợi của chủ nghĩa xã hội.
- Tạo điều kiện vật chất cho việc củng cố tăng cường vai trò kinh tế của
Nhà nước; nâng cao năng lực tích lũy, tăng cơng ăn việc làm, nhờ đó làm tăng
sự phát triển tự do và toàn diện trong mọi hoạt động kinh tế của con người- nhân
tố trung tâm của nền sản xuất xã hội.
- Tạo điều kiện vật chất cho tăng cường củng cố an ninh và quốc phòng.
- Tạo điều kiện vật chất cho việc xây dựng nền kinh tế dân tộc tự chủ, đủ
sức thực hiện sự phân cơng và hợp tác quốc tế.
Sự phân tích trên cho thấy mối quan hệ gắn bó trực tiếp giữa cơng nghiệp
hóa với lực lượng sản xuất. Cơng nghiệp hóa là để thực hiện xã hội hóa về mặt
kinh tế, kỹ thuật theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Nó có tác dụng có ý nghĩa
cực kỳ quan trọng và toàn diện; do vậy, Đảng ta cho rằng: “ Phát triển lực lượng
sản xuất, cơng nghiệp hóa đất nước... là nhiệm vụ trung tâm”( 10) của thời kỳ
quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
4- Nội dung cơ bản của cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa
a- Trang bị kỹ thuật và công nghệ theo hướng hiện đại trong các
ngành của nền kinh tế quốc dân

Nội dung này được thực hiện qua hai cách:
* Tiến hành cách mạng khoa học- kỹ thuật, xây dựng cơ sở vật chất- kỹ
thuật để tự trang bị
Thế giới đã trải qua hai cuộc cách mạng kỹ thuật: cuộc cách mạng kỹ thuật
mà nội dung chủ yếu của nó là cơ khí hóa xuất hiện đầu tiên ở nước Anh vào ba
mươi năm cuối thế kỷ XVIII và hoàn thành vào những năm 50 đầu thế kỷ Xĩ.
Đến khoảng giữa thế kỷ XX xuất hiện cuộc cách mạng khoa học- công nghệ
hiện đại. Mấy thập niên đã qua, nhất là thập niên gần đây loài người đang chứng
kiến những thay đổi rất to lớn, trên nhiều lĩnh vực của đời sống kinh tế, chính trị
và xã hội. Cuộc cách mạng này có nhiều nội dung, song có 5 nội dung chủ yếu
sau
- Về tự động hóa: Máy tự động q trình, máy công cụ điều khiển bằng số,
rô bốt.


16
- Về năng lượng: Ngoài những dạng năng lượng truyền thống( nhiệt điện,
thủy điện) ngày nay đã và đang chuyển sang lấy dạng năng lượng nguên tử là
chủ yếu.
- Về vật liệu mới: chỉ trong khoảng chưa đầy 40 năm lại đây các vật liệu
mới đã xuất hiện với chủng loại rất phong phú và có nhiều tính chất đặc biệt mà
vật liệu tự nhiên khơng có được. Thí dụ: vật liệu tổ hợp hay còn gọi là composit
với các tính chất mong muốn; gốm zin cơn hoặc các- bua- si- lích chịu nhiệt
cao...
- Về cơng nghệ sinh học: cơng nghệ vi sinh, kỹ thuật cuzin, kỹ thuật gen và
nuôi cấy tế bào được ứng dụng ngày càng nhiều trong cơng nghiệp, nơng
nghiệp, y tế, hóa chất, bảo vệ mơi trường...
Vào khoảng những năm 80, cuộc cách mạng khoa học- kỹ thuật( hay công
nghệ) hiện đại chuyển sang giai đoạn thứ ba- giai đoạn có nhiều quan điểm khác
nhau đặt tên gọi cho nó. Tương ứng với giai đoạn thứ ba cuộc cách mạng này

cịn có một nội dung mới: điện tử và tin học.
- Về điện tử và tin học: một lĩnh vực vô cùng rộng lớn và hấp dẫn, nhất là
lĩnh vực máy tính, diễn ra theo 4 hướng nhanh ( máy siêu tính); nhỏ ( vi tính);
máy tính có xử lý kiến thức ( trí tuệ nhân tạo); máy tính nói từ xa ( viễn tin học).
Cuộc cách mạng này có hai đặc trưng chủ yếu:
Một là, khoa học đã trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Cách đây hơn
100 năm C. Mác đã từng dự đoán về mối quan hệ và sự phát triển giữa khoa học
và lực lượng sản xuất. Người viết “ Thiên nhiên khơng tạo ra máy móc, đầu xe
lửa điện báo... tất cả các thứ đó là thành quả của bộ óc con người, được bàn tay
con người tạo ra là sức mạnh tri thức đã được vật hóa. Sự phát triển vốn cố định
là chỉ tiêu cho thấy rằng tri thức xã hội chung đã biến thành lượng sản xuất với
mức độ cao, và do đó cũng là chỉ tiêu nói lên mức độ phụ thuộc và biến đổi của
chính những điều kiện hoạt động xã hội với trí tuệ chung”( 11).
Nói khoa học trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp là nó bao gồm cả khoa
học tự nhiên- kỹ thuật lẫn khoa học- xã hội, nhất là khoa học kinh té; nó do con
người tạo ra thơng qua con người- nhân tố trung tâm- nhân tố chủ thể- đến lực
lượng sản xuất. Nó địi hỏi phải có chính sách đầu tư đúng đắn cho khoa học kỹ
thuật. Ngày nay, bất cứ sự tiến bộ nào của kỹ thuật ( công nghệ) sản xuất đều
phải dựa trên những thành tựu của khoa học làm cơ sở lý thuyết cho nó.


17
Hai là, thời gian cho một phát minh mới của khoa học rút ngắn lại và phạm
vi ứng dụng của một thành tựu khoa học vào sản xuất và đời sống ngày càng mở
rộng, ở nước ta một nước bỏ qua chế độ tư bản đi lên chủ nghĩa xã hội, cơng
nghiệp hóa và hiện đại hóa được tiến hành trong điều kiện thế giới đã trải qua
hai cuộc cách mạng khoa học- kỹ thuật diễn ra trong xu hướng tồn cầu hóa, khu
vực hóa. Trong hồn cảnh đó cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật ở nước ta phải
bao gồm cơ khí hóa và hiện đại hóa, coi nó là “ then chốt” và coi khoa học- công
nghệ “ động lực” cho sự tăng trưởng và phát triển bền vững.

* Việc trang bị kỹ thuật và công nghệ hiện đại cịn được thực hiện thơng
qua nhận chuyển giao cơng nghệ mới từ các nước tiên tiến
- Nhận chuyển giao công nghệ mới là cách đi sớm đưa nhanh nước ta lên
hiện đại gắn với con đường rút ngắn con đường phát triển hiện đại.
- Thực chất của việc chuyển giao công nghệ mới là sự chuyển đổi quyền sở
hữu và quyền sử dụng hàng hóa kỹ thuật cơng nghệ từ các nước cơng nghiệp
tiên tiến sang các nước có nền kinh tế kém hoặc đang phát triển.
- Nếu như hàng hóa thơng thường thì sự vận động của ló đi từ nơi có giá
thấp đến nơi có giá cao, thì trái lại hàng hóa kỹ thuật cơng nghệ lại có đặc điểm
đi từ nơi có trình độ cao đến nơi có trình độ thấp.
- Để hiện thực hóa việc chuyển giao cần coi trọng các điều kiện về vốn và
đội ngũ làm công tác nhận chuyển giao...
b- Xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lý và phân công lại lao động xã hội
Từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa không qua giai đoạn phát
triển tư bản chủ nghĩa trong q trình cơng nghiệp hóa tất yếu phải phân công
lại lao động xã hội. Phân cơng lao động xã hội là sự chun mơn hóa lao động,
tức là sự chun mơn hóa giữa các ngành trong nội bộ từng ngành và giữa từng
vùng trong nền kinh tế quốc dân. Phân cơng lao động có tác dụng rất to lớn: nó
là địn bẩy của sự phát triển công nghệ và năng suất lao động; cùng với cách
mạng khoa học kỹ thuật nó góp phần hình thành và phát triển cơ cấu kinh tế hợp
lý. Sự phân cơng lại lao động xã hội trong q trình cơng nghiệp hóa tn thủ
các q trình có tính quy luật sau:
- Tỷ trọng và tuyệt đối lao động nông nghiệp giảm dần; tỷ trọng và số tuyệt
đối lao động công nghiệp ngày một tăng lên.
- Tỷ trọng lao động trí tuệ ngày một tăng và chiếm ưu thế so với lao động
giản đơn trong tổng lao động xã hội.


18
- Tốc độ tăng lao động trong các ngành phi sản xuất chất( dịch vụ) tăng

nhanh hơn tốc độ tăng lao động trong các ngành sản xuất vật chất.
Ở nước ta phương hướng phân công lại lao động xã hội hiện nay cần triển
khai trên cả hai địa bàn: tai chỗ và nơi khác để phát triển về chiều rộng kết hợp
phát triển theo chiều sâu.
Trong hai địa bàn này cần ưu tiên địa bàn tại chỗ; nếu cần chuyển sang địa
bàn khác ( đi vùng kinh tế mới) phải có sự chuẩn bị chu đáo.
Vấn đề phân cơng lao động xã hội có liên quan chặt chẽ với việc xây dựng
cơ cấu kinh tế hợp lý.
Cơ cấu kinh tế hiểu theo nghĩa rộng bao gồm: cơ cấu ngành và lĩnh vực
kinh tế, cơ cấu thành phần kinh tế và hướng phát triển tên các vùng kinh tế.
Cơ cấu kinh tế hiểu theo nghĩa hẹp là tổng thể quan hệ kinh tế giữa các
ngành, các lĩnh vực kinh tế, giữa các vùng kinh tế... trong đó, quan hệ giữa cơng
nghiệp, nơng nghiệp và dịch vụ là ba bộ phận có tầm quan trọng- “ bộ xương”
của cơ cấu kinh tế. Các quan hệ này được xem xét dưới các khía cạnh: trình độ
cơng nghệ, quy mơ, nhịp điệu phát triển giữa chúng.
Xây dựng cơ cấu kinh tế là yêu cầu cần thiết khách quan của mỗi nước
trong thời kỳ công nghiệp hóa. Vấn đề quan trọng là tạo ra một cơ cấu kinh tế tối
ưu ( hợp lý). Xây dựng một cơ cấu kinh tế được gọi là tối ưu khi nó đáp ứng
được các yêu cầu sau:
- Phản ánh được và đúng các quy luật khách quan, nhất là các quy luật
kinh tế.
- Phù hợp với xu hướng của sự tiến bộ của khoa học và công nghệ đã và
đang diễn ra như vũ bão trên thế giới.
- Cho phép khai thác tối đa mọi tiềm năng của đất nước, ngành, xí nghiệp,
cả về chiều rộng lẫn chiều sâu.
- Thực hiện sự phân công và hợp tác quốc tế theo xu hướng sản xuất và đời
sống ngày càng được quốc tế hóa, do vậy, cơ cấu kinh tế được tạo dựng phải là “
cơ cấu mở”.
- Xây dựng cơ cấu kinh tế là một quá trình trải qua những chặng đường
nhất định, do vậy xây dựng cơ cấu kinh tế của chặng đường trước phải sao cho

tạo được đà cho chặng đường sau.
Ở nước ta qua hàng chục năm xây dựng cơ cấu kinh tế đã đem lại những
thành công nhất định, tạo dựng được một bộ phận cơ sở vật chất, công nghệ nhất


19
định. Song trong việc bố trí cơ cấu kinh tế có những sai lầm khơng nhỏ về cơ
cấu ngành, chạy theo cơng nghiệp nặng, cơ khí q nhiều, xem nhẹ công nghiệp
và kết cấu hạ tầng; chạy theo quy mô lớn; công nghệ lạc hậu... Qua nhiều lần đại
hội, Nhưng kể từ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI đến nay, dưới ánh sáng của
sự đổi mới nói chung, trong đó có đổi mới việc xây dựng cơ cấu kinh tế, đến nay
đã đưa lại chuyển động bước đầu quan trọng.
Thông qua cách mạng khoa học kỹ thuật và phân cơng lại lao động với
những tính quy luật vốn có của nó, thích ứng với điều kiện nước ta, Đảng ta đã
xây dựng một cơ cấu kinh tế hợp lý: cơ cấu kinh tế công- nông nghiệp- dịch vụ
gắn với phân công và hợp tác quốc tế sâu rộng.
Cơ cấu nói trên ở nước ta trong thời kỳ quá độ được thực hiện theo phương
châm: kết hợp công nghệ với nhiều trình độ, tranh thủ cơng nghệ mũi nhọn- tiên
tiến vừa tận dụng được nguồn nhân lực dồi dào, vừa cho phép rút ngắn khoảng
cách lạc hậu, vừa phù hợp với nguồn vốn có hạn ở trong nước; lấy quy mơ vừa
và nhỏ là chủ yếu, có tính đến quy mô lớn nhưng phải là quy mô hợp lý và có
điều kiện; giữ được nhịp độ ( tốc độ) phát triển hợp lý, tạo ra sự cân đối giữa các
ngành, các lĩnh vực kinh tế và các vùng trong nền kinh tế...
III- Vấn đề đổi mới quan hệ sản xuất dẫn đến phát triển lực lượng sản
xuất trong quá trình cơng nghiệp hóa- hiện đại hóa ở Việt Nam
Ở nước ta trong cơ chế tập trung, quan liêu, bao cấp trước đây, đã có lúc
chúng ta tưởng rằng có thể thiết lập được một quan hệ sản xuất cao hơn, đi trước
để mở đường cho lực lượng sản xuất phát triển. Song kết quả lại diễn ra trái với
mong muốn của chúng ta. đó là lực lượng sản xuất khơng phát triển, tình trạng
trì trệ kéo dài, hàng hóa sản xuất ra kém chất lượng, giá thành cao không thể

cạnh tranh với hàng ngoại, lại khan hiếm không đủ để thỏa mãn nhu cầu của
người tiêu dùng, đời sống nhân dân rất khó khăn.
Tình hình trên do nhiều ngun nhân chủ quan và khách quan khác nhau.
Song, một trong những nguyên nhân quan trọng là do chúng ta đã áp đặt chủ
quan một quan hệ sản xuất không phù hợp với lực lượng sản xuất . Trong điều
kiện lực lượng sản xuất cịn ở trình độ thấp kém, phổ biến là sản xuất nhỏ nhưng
vì muốn tiến nhanh lên chủ nghĩa xã hội, nên chúng ta đã nhấn mạnh quá mức
quan hệ sở hữu mà chưa chú ý đúng mức tới quan hệ tổ chức, quản lý và quan
hệ phân phối, trao đổi. Từ đó đã dẫn đến việc mở rộng ồ ạt hai hình thức sở hữu
tồn dân và tập thể, các thành phần kinh tế khác bị ngăn cấm hoặc xóa bỏ để


20
chuyển sang kinh tế quốc doanh và tập thể qua các đợt cải tạo công thương
nghiệp tư bản tư doanh. Bên cạnh đó, việc duy trì q lâu cơ chế hành chính, tập
trung, quan liêu, bao cấp và kèm theo nó là sự phân phối bình qn, lợi ích cá
nhân chưa được quan tâm đúng mức đã kìm hãm sức sản xuất của xã hội. Các
thành phần kinh tế tư nhân, tư bản nhà nước chưa được phát huy tác dụng. Động
lực sản xuất bị giảm, người lao động xa lánh tư liệu sản xuất, thờ ơ với các kế
hoạch của tập thể và Nhà nước.
Thực tế phát triển kinh tế ở nước ta những năm qua đã chứng minh rằng:
quan hệ sản xuất kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất khơng chỉ khi nó
trở nên lạc hậu, mà cả khi nó được áp đặt một hình thức đi trước quá xa so với
lực lượng sản xuất, một lần nữa quy luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với tính
chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất lại thể hiện rõ tính tất yếu và
tính phổ biến mạnh mẽ của nó bất chấp cả ý muốn chủ quan của con người. Dù
mong muốn đẩy mạnh phát triển sản xuất, nhanh chóng thực hiện cơng nghiệp
hóa, hiện đại hóa nền kinh tế, chúng ta cũng không thể bất chấp quy luật, mà trái
lại phải tôn trọng và hành động đúng quy luật khách quan. Đó là một trong
những bài học lớn mà Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của

Đảng đã chỉ rõ.
Đảng ta đã nhận thức đúng quy luật khách quan nên đã có những đướng lối,
chủ trương đúng đắn, kịp thời. Chỉ thị 100- CT/ TW của ban bí thư ngày
13/01/1981 về khốn sản phẩm cuối cùng đến nhóm và người lao động trong
lĩnh vực nơng nghiệp là khâu đột phá đầu tiên trong tiến trình đổi mới. Nhưng
cái mốc quan trọng đánh dấu sự đổi mới toàn diện và sâu sắc nền kinh tế xã hội
là Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng tháng 12 năm 1986.
Với Nghị quyết Đại hội VI, chúng ta đã dứt khốt đoạn tuyệt với cơ chế
hành chính, tập trung, quan liêu, bao cấp, chuyển dần kinh tế sang cơ chế thị
trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Cơ chế kinh tế mới khuyến khích phát
triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, mở rộng quan hệ kinh tế với các
nước, các khu vực trên thế giới, động viên mọi người làm giàu trong khuôn khổ
luật pháp cho phép.
Đường lối của đảng đã nhanh chóng đi vào cuộc sống, được nhân dân lao
đọng hứng khởi hưởng ứng và đã đem lại nguồn sinh khí mới, tạo đà cho nền
kinh tế phát triển nhanh chóng và dần dần đi vào thế ổn định. Sau tám năm thực
hiện công cuộc đổi mới, chúng ta đã đạt được những thành tựu đáng kể: tăng


21
trưởng kinh tế khá, lạm phát được đẩy lùi, đời sống nhân dân được cải thiện
từng bước. Sở dĩ có sự chuyển biến đi lên theo hướng vững chắc như vậy chính
là nhờ chúng ta đã đổi mới từng bước quan hệ sản xuất cho phù hợp với sự phát
triển của lực lượng sản xuất, do đó đã giải phóng sức sản xuất của xã hội, khai
thác được các tiềm năng cả ở bên trong và bên ngoài, làm cho lực lượng sản
xuất nước ta có những bước phát triển nhảy vọt về chất.
Việc giải phóng lực lượng sản xuất có một ý nghĩa đặc biệt quan trọng
trong tiến trình đổi mới nền kinh tế nước ta, bởi vì:
Thứ nhất: nền kinh tế nước ta còn kém phát triển do điểm xuất phát thấp,
đang ở trạng thái đan xen nhiều loại hình và thành phần kinh tế ở những trình độ

rất khác nhau như phân tán và tập trung, thủ cơng và hiện đại, lạc hậu và tiên
tiến... Trong tình hình đó, nếu khơng kiến tạo được những hình thức quan hệ sản
xuất đa dạng thích ứng với trình độ của lực lượng sản xuất ở tất cả các thành
phần kinh tế hiện có, chúng ta sẽ khơng thể khai thác được tiềm năng to lớn của
những thành phần kinh tế đó. Vì vậy, thừa nhận sự tồn tại lâu dài và thực hiện
nhất quán chính sách phát triển kinh tế nhiều thành phần là giải pháp quan trọng
nhất để giải phóng và phát triển lực lượng sản xuất ở nước ta.
Thứ hai: Khi lực lượng sản xuất được giải phóng sẽ tạo ra động lực để khai
thác và sử dụng có hiệu quả tất cả các nguồn kực hiện có như nguồn lực nhàn rỗi
trong dân cư, tài nguyên thiên nhiên, đất đai, lao động và trí tuệ con người.
Thứ ba: Chỉ khi lực lượng sản xuất được giải phóng, mọi tiềm năng sản
xuất được gợi mở, khơi thơng, chúng ta mới có thể thu hút mạnh mẽ vốn đầu tư
của nước ngoài để tranh thủ vốn, kỹ thuật công nghệ hiện đại và tri thức quản lý
kinh nghiệm tiên tiến nhằm thúc đẩy nhanh chóng tiến trình cơng nghiệp hóa,
hiện đại hóa nền kinh ế nước ta.
Giải phóng lực lượng sản xuất thực chất là giải tỏa, tháo gỡ những lực
lượng cản kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất. Giải phóng và phát
triển lực lượng sản xuất là hai quá trình diễn ra đồng thời và có tác động qua lại
hỗ trợ lẫn nhau.
Q trình phát triển lực lượng sản xuất đòi hỏi chúng ta phải thường xuyên
đổi mới quan hệ sản xuất, khai thác và sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực có
thể có, cả nguồn lực bên trong và bên ngồi. Ngày nay, với sự phát triển mạnh
mẽ của cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật và công nghệ hiện đại, lực lượng sản
xuất của nhiều quốc gia trên thế giới phát triển nhanh chóng và ngày càng mang


22
tính chất quốc tế hóa cao. Do đó giữa các quốc gia trên thế giới hiện nay đang
diễn ra xu hướng vừa cạnh tranh gay gắt vừa giao lưu và hợp tác kinh tế, văn
hóa, khoa học, cơng nghệ... Bất cứ quốc gia nào muốn tồn tại và phát triển cũng

phải hịa nhập vào xu thế chung đó. Đối với nước ta, để thoát khỏi nguy cơ tụt
hậu xa hơn so với các nước xung quanh, giữ được ổn định chính trị, xã hội, bảo
vệ được độc lập chủ quyền và định hướng phát triển xã hội chủ nghĩa thì nhiệm
vụ trung tâm có tầm quan trọng hàng đầu trong thời gian tới là phải thúc đẩy sự
chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa. Điều đó
địi hỏi chúng ta phải tăng cường mở rộng quan hệ hợp tác trên nhiều lĩnh vực
với tất cả các nước, các khu vực trên thế giới. Để giải phóng và phát triển lực
lượng sản xuất, chúng ta thừa nhận sự tồn tại lâu dài của nền kinh tế hàng hóa
nhiều thành phần, trong đó có thành phần kinh tế tư bản chủ nghĩa.
Một đất nước vừa phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa lại vừa thừa
nhận sự phát triển của thành phần kinh tế tư bản chủ nghĩa. Điều đó khơng phải
là một nghịch lý, vấn đề đặt ra ở đây là, chúng ta sẽ sử dụng chủ nghĩa tư bản
như thế nào để phát triển nhanh chóng lực lượng sản xuất mà vẫn xây dựng
được đát nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Hơn bảy mươi năm trước đây, Chính sách kinh tế mới được Lê nin đề ra
cùng với sự thừa nhận, “ toàn bộ quan điểm của chúng ta về chủ nghĩa xã hội đã
thay đổi căn bản”( 12) đã cứu vãn kinh tế nước Nga Xô viết trẻ tuổi khỏi sụp đổ.
Đó là quan điểm từ bỏ nền kinh tế tập trung, quan liêu, bao cấp chuyển sang nền
kinh tế hàng hóa, mở rộng trao đổi, thực hiện chủ nghĩa tư bản nhà nước. Chủ
nghĩa tư bản nhà nước theo Lê nin là cao hơn nhiều so với nền sản xuất nhỏ,
rằng: “ Chúng ta phải lợi dụng chủ nghĩa tư bản, ( nhất là bằng cách hướng nó
vào con đường chủ nghĩa tư bản nhà nước) làm mắt xích trung gian giữa nền
tiểu tư sản và chủ nghĩa xã hội, làm phương tiện, con đường, phương pháp,
phương thức để tăng lực lượng sản xuất lên”( 13).
Chúng ta sẽ không thể xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội nếu không
xây dựng nền công nghiệp tiên tiến. Nước ta xuất phát từ một nền kinh tế tiểu
nông, con đường phát triển mang tính tự phát sẽ là trải qua chủ nghĩa tư bản,
song để tránh cho nhân dân khỏi những đau khổ mà chế độ tư bản chủ nghĩa có
thể gây ra, Đảng ta dứt khoát lựa chọn con đường xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên
để thực hiện cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, chúng ta cần sử dụng chủ

nghĩa tư bản nhà nước như một công cụ hữu hiệu, bắt nhà nước tư bản phải “


23
cày trên mảnh đất vô sản”, biến thành phần kinh tế tư bản tư nhân thành “ một
trợ thủ đắc lực cho chủ nghĩa xã hội”.
Rõ ràng, công cuộc đổi mới đòi hỏi một tư duy mềm dẻo, năng động và
nhạy bén, phải “ vận dụng sáng tạo và tiếp tục phát triển chủ nghĩa Mác- Lê nin
và tư tưởng Hồ Chí Minh, đặc biệt là tư tưởng của Lê nin về chính sách kinh tế
mới, về chủ nghĩa tư bản nhà nước, sáng tạo nhiều hình thức quá độ, những nấc
thang trung gian đa dạng, phù hợp với hoàn cảnh lịch sử cụ thể để đưa nước ta đi
lên chủ nghĩa xã hội một cách vững chắc”( 14).
IV- Những thành tựu Việt Nam đã đạt được
Sau 35 năm thực hiện công cuộc đổi mới, đất nước ta đã đạt được những
thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, phát triển mạnh mẽ, tồn diện. Quy mơ,
trình độ nền kinh tế được nâng lên; đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân
được cải thiện rõ rệt. Đất nước chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và
uy tín như ngày nay. Đây là niềm tự hào, là động lực, nguồn lực quan trọng, là
niềm tin để toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta vượt qua mọi khó khăn, thách
thức, tiếp tục vững bước trên con đường đổi mới toàn diện, đồng bộ; phát triển
nhanh và bền vững đất nước.
Quy mô nền kinh tế tăng nhanh
Trong suốt 35 năm qua, kinh tế Việt Nam đã đạt tốc độ tăng trưởng khá ấn
tượng. Nếu như trong giai đoạn đầu đổi mới (1986 - 1990), mức tăng trưởng
GDP bình quân hằng năm chỉ đạt 4,4% thì giai đoạn 1991 - 1995, GDP bình
quân đã tăng gấp đơi, đạt 8,2%/năm; các giai đoạn sau đó đều có mức tăng
trưởng khá cao; giai đoạn 2016 - 2019 đạt mức bình quân 6,8%. Mặc dù năm
2020, kinh tế chịu ảnh hưởng nặng nề của dịch bệnh Covid-19 nhưng tốc độ
tăng GDP của Việt Nam vẫn thuộc nhóm các nước tăng trưởng cao nhất khu
vực, thế giới.

Quy mơ, trình độ nền kinh tế được nâng lên, nếu như năm 1989 mới đạt 6,3
tỷ USD/năm thì đến năm 2020 đã đạt khoảng 268,4 tỷ USD/năm. Đời sống nhân
dân cả về vật chất và tinh thần được cải thiện rõ rệt, năm 1985 bình quân thu
nhập đầu người mới đạt 159 USD/năm thì đến năm 2020 đạt khoảng 2.750
USD/năm.
Những nỗ lực đổi mới trong 35 năm qua đã giúp cho môi trường đầu tư liên
tục được cải thiện, nhờ đó đã thu hút ngày càng nhiều hơn vốn đầu tư cho
phát triển. Tính riêng năm 2019, vốn đầu tư phát triển tồn xã hội thực hiện theo


24
giá hiện hành đạt 2.046,8 nghìn tỷ đồng; tổng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài
(FDI) đạt 38,02 tỷ USD, cao nhất trong vòng 10 năm lại đây. Năm 2020, trong
bối cảnh đại dịch Covid-19, Việt Nam vẫn là một điểm đến tin cậy cho các nhà
đầu tư với tổng vốn FDI đạt 28,5 tỷ USD. Ngoài ra, tại Việt Nam đã hình thành
các vùng kinh tế trọng điểm để làm động lực cho phát triển kinh tế vùng, miền
và cả nước; phát triển các khu kinh tế, khu công nghiệp tập trung nhằm thu hút
vốn đầu tư phát triển, đồng thời hình thành các vùng chun mơn hóa cây trồng,
vật ni gắn với chế biến cơng nghiệp... Nhìn chung, các ngành, lĩnh vực của
nền kinh tế đều có bước phát triển mạnh mẽ.
Qua 35 năm, từ chỗ thiếu ăn, Việt Nam đã trở thành một trong những nước
xuất khẩu nông sản lớn trên thế giới. Kim ngạch xuất khẩu của nhiều mặt hàng
nông sản, như cà phê, gạo, hạt điều, rau quả, tôm, gỗ và sản phẩm từ gỗ... ln
duy trì ở mức cao. Các mặt hàng xuất khẩu khác cũng có bước tiến lớn. Đặc
biệt, trong bối cảnh bị ảnh hưởng nặng nề bởi dịch Covid-19 khiến hoạt động
thương mại và đầu tư thế giới suy giảm, thì tổng kim ngạch xuất nhập khẩu hàng
hóa của Việt Nam năm 2020 vẫn đạt 543,9 tỷ USD, tăng 5,1% so với năm 2019;
xuất siêu 19,1 tỷ USD - cao nhất trong 5 năm liên tiếp xuất siêu kể từ năm 2016.
Với kim ngạch xuất nhập khẩu ấn tượng đã đưa Việt Nam xếp thứ 22 thế giới về
quy mô kim ngạch và năng lực xuất khẩu, đứng thứ 26 về quy mơ thương mại

quốc tế.
Phát triển gắn kết hài hịa với phát triển văn hóa - xã hội
Trong suốt quá trình 35 năm đổi mới, việc tăng trưởng kinh tế đã cơ bản
gắn kết hài hòa với phát triển văn hóa, xây dựng con người, tiến bộ và cơng
bằng xã hội, bảo vệ tài nguyên và môi trường. Tăng trưởng kinh tế đi đôi với
bảo đảm tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước phát triển. Từ chỗ
Nhà nước bao cấp toàn bộ trong việc giải quyết việc làm đã dần chuyển trọng
tâm sang thiết lập cơ chế, chính sách để các thành phần kinh tế và người lao
động đều tham gia tạo việc làm; từ chỗ khơng chấp nhận có sự phân hóa giàu nghèo đã đi đến khuyến khích mọi người làm giàu hợp pháp đi đơi với tích cực
xóa đói giảm nghèo. Cơng tác giảm nghèo của Việt Nam đã đạt được những
thành tựu ấn tượng. Tỷ lệ hộ nghèo trên cả nước đã giảm từ 58% năm 1993
xuống 22% năm 2005; 9,45% năm 2010, 7% năm 2015 và còn dưới 3% năm
2020 (theo chuẩn nghèo đa chiều).


25
Quy mô giáo dục tiếp tục được phát triển, cơ sở vật chất được nâng cao,
chất lượng đào tạo từng bước đáp ứng yêu cầu về nguồn nhân lực. Nhiều chỉ số
về giáo dục phổ thông của Việt Nam được đánh giá cao trong khu vực, như: Tỷ
lệ huy động trẻ 6 tuổi vào lớp 1 đạt 99% (đứng thứ 2 trong khu vực ASEAN sau
Singapore); tỷ lệ học sinh đi học và hồn thành chương trình tiểu học sau 5 năm
đạt 92,08%, đứng ở tốp đầu của khối ASEAN.
Vị thế các trường đại học của Việt Nam đã được nâng lên trong bảng xếp
hạng châu Á và thế giới, năm 2019 xếp thứ 68/196 quốc gia trên thế giới, tăng
12 bậc so với năm 2018. Lần đầu tiên, Việt Nam có 4 cơ sở giáo dục đại học
được vào top 1.000 trường đại học tốt nhất thế giới. Việt Nam đang là điểm đến
được lựa chọn của nhiều sinh viên quốc tế trong những năm gần đây.
Năng lực của hệ thống các cơ sở y tế được củng cố và phát triển. Nhờ đó,
người dân dễ dàng tiếp cận với các dịch vụ y tế hơn. Bên cạnh đó, cơ sở vật
chất, trang thiết bị y tế cũng được chú trọng đầu tư, đáp ứng tốt hơn nhu cầu

khám, chữa bệnh của nhân dân… Việt Nam là một trong số ít quốc gia có hệ
thống y tế hồn chỉnh, tổ chức rộng khắp tới tận thôn, bản; làm chủ được nhiều
kỹ thuật công nghệ cao mang tầm thế giới như: ghép chi, tim, gan, thận...; kiểm
soát được nhiều dịch bệnh nguy hiểm, trong đó có Covid-19; chủ động sản xuất
được nhiều loại vắcxin phòng bệnh, mới đây nhất là vắcxin phịng Covid-19...
Bên cạnh đó, cơng tác bảo đảm an sinh xã hội luôn được Đảng và Nhà
nước quan tâm thực hiện. Đến nay, diện thụ hưởng chính sách an sinh xã hội
ngày càng mở rộng, mức hỗ trợ được nâng lên, đời sống vật chất và tinh thần
của người dân, đặc biệt là người nghèo, đồng bào dân tộc thiểu số. Trong 25
năm qua, ngành Bảo hiểm xã hội đã giải quyết cho hơn 112,5 triệu lượt người
hưởng các chế độ bảo hiểm xã hội. Từ năm 2003 - 2018, ngành Bảo hiểm xã hội
phối hợp với ngành Y tế đã đảm bảo quyền lợi cho trên 1.748 triệu lượt người
tham gia khám, chữa bệnh bảo hiểm y tế, bình qn mỗi năm có trên 109 triệu
lượt người thanh tốn chi phí khám chữa bệnh bảo hiểm y tế.
Ngồi ra, các phong trào “Tương thân tương ái,” “Đền ơn đáp nghĩa,”
“Uống nước nhớ nguồn” do các cấp và các đoàn thể, các tổ chức xã hội, các
doanh nghiệp và toàn thể nhân dân thực hiện và hưởng ứng tham gia trong
những năm qua cũng đã phát huy truyền thống tốt đẹp của dân tộc, đóng góp
đáng kể an sinh xã hội cho nhân dân, nhất là người nghèo, vùng khó khăn.
Hội nhập quốc tế sâu rộng, vị thế ngày càng được nâng cao


Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×