Tải bản đầy đủ (.pdf) (8 trang)

Kinh tế đất ngập nước tại các vùng hồ lớn của Việt Nam - Trường hợp hồ Thác Bà, tỉnh Yên Bái

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (411.19 KB, 8 trang )

KINH TẾ ĐẤT NGẬP NƯỚC TẠI CÁC VÙNG HỒ LỚN CỦA
VIỆT NAM - TRƯỜNG HỢP HỒ THÁC BÀ, TỈNH YÊN BÁI
PGS.TS Nguyễn Minh Ngọc
Trường Đại học Tài Chính - Marketing

Tóm tắt
Đất ngập nước ngọt là một vùng mà đất bị bão hịa có độ ẩm theo mùa hay vĩnh
viễn. Các vùng này cũng có thể bị bao phủ một phần hay hoàn toàn bởi hồ cạn.[1] Các
vùng đất ngập nước bao gồm đầm lầy, đồng lầy, đầm, và bói lầy, hoặc hỗn hợp gồm các
loại rừng ngập nước.
Các vùng đất ngập nước được xem là có sự đa dạng sinh học cao nhất trong tất cả
các hệ sinh thái. Thực vật trong vùng ngập nước gồm súng, cỏ nến, lau, lá, thơng
đen, bách, bạch đàn, tràm và các lồi khác. Động vật bao gồm các loài khác nhau
như lưỡng cư, rùa, chim, cơn trùng, và động vật có vú.[10] Các vùng đất ngập nước cịn
có vai trị là hệ lọc nước thải tự nhiên - ví dụ như ở Calcutta, Ấn Độ và Arcata,
California. Nghiên cứu các vùng đất ngập nước gần đây được gọi bằng thuật
ngữ paludology (tiếng Anh) trong một số ấn phẩm[5].
Hồ Thác Bà là hồ nước ngọt rộng nhất miền Bắc Việt Nam. Hồ có 2 mùa nước nổi
và cạn với độ chênh lệch mực nước giữa 2 mùa khoảng 12m. Từ đó diện tích đất ngập
nước dao động dự tính khoảng hơn 2.000 ha. Từ khi hình thành nhà máy thủy điện Thác
Bà năm 1970 đến nay, gần như tồn bộ (99 %) diện tích đất ngập nước này chưa được
quản lý, khai thác dẫn đến nhiều hệ lụy xấu. Đặc biệt bị bỏ hoang dưới góc độ kinh tế.
Bài viết làm rõ hơn đặc điểm, chức năng, vai trò của đất ngập nước (nước ngọt) trong
các hồ (chủ yếu là các vùng hồ lớn tại Việt Nam) nhằm quản lý hiệu quả và khai thác bền
vững giá trị kinh tế các vùng đất này[6].
1. Tổng quan về khía cạnh kinh tế của đất ngập nước ngọt
1.1. Hệ thống phân loại đất ngập nước ngọt
Bậc I
Bao gồm những loại đất ngập nước không nhận nước từ biển mặc dù chúng có thể
nằm ven biển. Trong hệ thống này có những cánh đồng trồng cây nơng nghiệp đó được
ngọt hóa bằng hệ thống đê ngăn mặn. Các vùng đồng bằng ngập nước định kỳ hay ngập


nước theo mùa, nguồn nước từ các sông hoặc hồ chứa, các vùng đầm lầy, hồ tự nhiên
hoặc nhân tạo, các đồng cỏ hoặc rừng đầm lầy ngập nước định kỳ hoặc theo mùa, các
đồng ruộng trồng cây công nghiệp hoặc ni trồng thủy sản có thời gian ngập nước ít
nhất 6 tháng trên một năm ở đồng bằng, trung du hoặc vùng núi. Các kênh rạch, sơng,
suối có nước chảy thường xuyên ít nhất là 6 tháng trên một năm. Các dịng chảy ngầm
trong các địa hình cax-tơ[3].
Có 3 hệ thống phụ trong hệ thống đất ngập nước ngọt là:


Đất ngập nước ngọt thuộc sông



Đất ngập nước ngọt thuộc hồ



Đất ngập nước ngọt thuộc đầm
427


Đất ngập nước ngọt thuộc hồ
Hồ là những mặt nước cố định chiếm giữ những khu vực rộng lớn hoặc những vùng
trũng diện tích nhỏ góp phần làm phong phú thêm các loại hình đất ngập nước. Những
mặt nước này bao gồm từ những loại như hồ có quy mơ lớn thường có mực nước sâu và
nhiệt độ thay đổi tùy thuộc vào độ sâu, cho đến những ao nhỏ thường là nơng và nước có
cùng nhiệt độ. Chúng có thể là tự nhiên hoặc nhân tạo. Đất ngập nước hình thành ở những
rìa nơng của hồ, ao tùy vào hướng độ dốc và độ sâu của nước.
Đất ngập nước ngọt là đầm
Đầm lầy nước ngọt thường xuất hiện ở những vùng nước cạn dọc bờ hồ, sông, đặc

biệt là những phần sơng cụt chẳng hạn như những hồ hình thành từ những nhánh sông
chết. Những vùng trũng sâu ở đồng bằng ngập lũ - là những điều kiện hình thành đầm lầy
nước ngọt - thường phải qua một quá trình diễn thế sinh thái. Đầm lầy tồn tại nhờ vào
nước nguồn hơn là nước mưa. Các hoạt động của con người như đắp đê bao giữ nước
đóng vai trị quyết định cho sự tồn tại của đầm.
Bậc II
Là các lớp đất ngập nước được phân chia theo chế độ địa chất thủy văn: ngập thường
xuyên hay không thường xuyên.
Các loại hình thuộc hệ thống đất ngập nước ngọt (thuộc sông, đầm, hồ)
Đất ngập nước ngọt thường xuyên là những loại hình đất ln ln bị ngập nước
khi mực nước xuống thấp nhất hàng năm tới độ sâu 6m, khi mực nước xuống thấp nhất
bình quân hằng năm.
Đất ngập nước ngọt khơng thường xun là những loại hình bị ngập nước ngọt nếu
thời gian ngập liên tục từ 3 tháng trở lên.
Những loại hình khơng được xếp vào đất ngập nước ngọt nếu thời gian ngập liên
tục hàng năm không đạt 3 tháng.
Theo đó có các lớp đất ngập nước như sau[4]:
 Đất ngập nước ngọt thuộc sông ngập thường xuyên
 Đất ngập nước ngọt thuộc sông không thường xuyên
 Đất ngập nước ngọt thuộc hồ ngập thường xuyên
 Đất ngập nước ngọt thuộc hồ không ngập thường xuyên
 Đất ngập nước ngọt thuộc đầm ngập thường xuyên
 Đất ngập nước ngọt thuộc đầm ngập không thường xuyên
1.2. Chức năng kinh tế của đất ngập nước
Cung cấp nước cho sinh hoạt
Đất ngập nước là những dịng sơng, suối, các hồ chứa nước và các thủy vực nước
ngọt chính là nguồn cung cấp nước cho nhu cầu sinh hoạt của con người. Việt Nam là
một nước có hệ thống sơng ngịi rất phong phú, nhưng tài nguyên nước mặt lại phân bố
không đều trên phạm vi lãnh thổ và thường 70 - 80% lượng nước sơng tập trung trong
mùa lũ, cịn 6-9 tháng mựa khơ hạn chỉ có 20 – 30%, làm cho tình trạng thiếu nước trở

nên gay gắt hơn khi dân số ngày càng tăng và khi độ che phủ của rừng ngày càng giảm
do tình trạng rừng đầu nguồn bị tàn phá. Chưa có cơng trình nghiên cứu nào ở Việt
Nam tính đến giá trị kinh tế của đất ngập nước trong chức năng cung cấp nước sinh
428


hoạt của người dân, nhưng nước đối với cuộc sống của con người là sự tồn tại và phát
triển, sẽ trở nên vơ cùng q giá, khơng tính được thành tiền[7].
Đất ngập nước là những vùng sản xuất quan trọng
Hệ thống đất ngập nước tự nhiên sản xuất một loạt các thảm thực vật và các sản
phẩm sinh thái khác có thể thu hoạch để sử dụng cá nhân và thương mại. Quan trọng nhất
trong số này là cá, có tất cả hoặc một phần của chu kỳ cuộc sống của nó xảy ra trong một
hệ thống đất ngập nước. Cỏ nước ngọt và nước mặn là nguồn protein chính của cho một
tỷ người và chiếm 15% trong hai tỷ khẩu phần ăn của người dân. Ngoài ra, cá tạo ra một
ngành công nghiệp đánh bắt cá cung cấp 80% thu nhập và việc làm cho người dân ở các
nước đang phát triển. Lương thực được tìm thấy trong hệ thống đất ngập nước là gạo, hạt
phổ biến được tiêu thụ với tỷ lệ 1/5 tổng số lượng calo toàn cầu.
Ở Bangladesh, Campuchia và Việt Nam, nơi những cánh đồng lúa đang chiếm ưu thế về
cảnh quan, tiêu thụ gạo đạt 70%.[6] Các sản phẩm có nguồn gốc từ rừng ngập mặn khác:


Củi



Thức ăn gia súc



Y học cổ truyền (ví dụ như từ vỏ cây)




Sợi cho hàng dệt may



Thực vật có giá trị kinh tế như cói, chàm...

Đất ngập nước là vùng sản xuất thủy sản
Đó là những vùng đất ngập nước nước ngọt sản xuất thủy sản cung cấp cho nhu cầu
xã hội và xuất khẩu, giúp phần đưa Việt Nam trở thành nước xuất khẩu thủy sản hàng đầu
thế giới. Nước trong các sông hồ Việt Nam rất giàu các sinh vật phù du là nguồn thức ăn
cho cá. Các khu rừng ngập nước là những nơi cung cấp giống, bãi đẻ, thức ăn cho các
loài thủy sản.[4]
Lưu trữ nước và Chống ngập
Hệ thống đất ngập nước của vùng đồng bằng được hình thành từ các dịng sơng lớn
phía hạ lưu đầu nguồn. Các vùng lũ của con sông lớn làm hồ chứa tự nhiên, cho phép
nước dư thừa để lây lan ra trên một diện tích rộng, làm giảm độ sâu và tốc độ của nó.
Vùng đất ngập nước gần thượng nguồn của sơng suối có thể làm chậm dịng chảy nước
mưa để nó khơng chạy thẳng ra đất vào các dịng nước. Điều này có thể giúp ngăn ngừa
lũ lụt đột ngột, gây thiệt hại ở hạ lưu.[8]
Chứa giá trị về đa dạng sinh học
Đất ngập nước vùng đầm phá là nơi cư trú của nhiều loài cá nơi dừng chân của
nhiều loài chim di cư. Các vùng đầm phá ven biển miền trung còn mang những nét độc
đáo về sinh cảnh tự nhiên và chứa đựng giá trị đa dạng sinh học rất lớn cho khu hệ sinh
vật thủy sinh. Các vùng đất ngập nước nội địa như U Minh, Đồng Tháp Mười và các hệ
thống sông suối, hồ là những nơi chứa đựng nhiều lồi động vật, thực vật đặc hữu hoặc
những lồi có tầm quan trọng về đa dạng sinh học toàn cầu.
Nơi sinh sống cư trú lâu đời của cộng đồng dân cư

Đất ngập nước và các cộng đồng dân cư nông thơn đó gắn bó với nhau từ hàng ngàn
năm. Cộng đồng dân cư Việt Nam sống với nhau thành những môi trường xã hội.
Những quan cảnh đẹp để phát triển du lịch
Có thể nói Việt Nam là một đất nước có cảnh quan đẹp, trong đó hầu hết các vùng
429


đất ngập nước là những nơi có cảnh quan đẹp nhất. Có những vùng đất ngập nước đó nổi
tiếng trong cả nước và trên thế giới là điểm đến của các du khách trong nước và quốc tế
như Hạ Long, Cát Bà, Phú Quốc và Đồng Bằng sông Cửu Long.
Thảm thực vật rừng
Về thảm thực vật tự nhiên trên các vùng ngập nước. Cây Tràm là một loài cây quan
trọng ở những vùng đất ngập nước theo mùa như đồng bằng sơng cửu long. Trong các
đầm lầy, các lồi lau, sậy, cói cỏ cũng là lồi thực vật chiếm ưu thế. Chúng thường được
gọi là lồi thực vật nhơ vì thân của những loài này một phần ở trong nước và một phần
nhô cao khỏi mặt nước. thực vật đầm lầy đặc trưng dọc các con kênh chia cắt các vùng
đầm lầy khỏi những vùng bằng phẳng ở khu vực đồng bằng nơi ít bị ngập hơn những
phần cịn lại của vùng.
Những loài thực vật chiếm ưu thế trong hầu hết những vùng đầm lầy nước ngọt bao
gồm những loài lau sậy, bồn bồn, lác, cỏ năng, cỏ ống, cói. Đặc tính của mỗi thảm thực
vật thay đổi theo địa lý và chế độ địa chất thủy văn của từng đầm lầy. Liên quan đến hệ
sinh thái đất ngập nước ngọt, quần thể thực vật đáng chú ý là các quần xã thực vật thủy
sinh trong các ao hồ là những đối tượng quan trọng.
Từ những phân tích trên đây cho thấy, đất ngập nước ngọt có vai trị, chức năng
quan trọng trong phát triển kinh tế. Đồng thời chỉ ra tầm quan trọng, nhiệm vụ của các tổ
chức quản lý, định hướng và xây dựng chính sách liên quan đến đất ngập nước ngọt.
Trách nhiệm này là duy nhất và thuộc về các tổ chức quản lý Nhà nước trọng việc định
hướng sử dụng và phát triển kinh tế bền vững. Nếu sự quản lý thiếu trách nhiệm, không
khoa học sẽ tạo ra hệ lụy kinh tế xã hội rất lâu dài và thậm chí khơng thể sửa chữa được.
Công ước Ramsar

Công ước Ramsar[2] là một công ước quốc tế về bảo tồn và sử dụng một cách hợp
lý và thích đáng các vùng đất ngập nước (ĐNN), với mục đích ngăn chặn q trình xâm
lấn ngày càng gia tăng vào các vùng ĐNN cũng như sự mất đi của chúng ở thời điểm
hiện nay và trong tương lai; công nhận các chức năng sinh thái học nền tảng của các
vùng ĐNN và các giá trị giải trí, khoa học, văn hóa và kinh tế của chúng. Hiện nay,
hơn 2.000 vùng ĐNN có tầm quan trọng quốc tế được công nhận thành khu Ramsar,
cần được bảo vệ đặc biệt với diện tích hơn 1,85 triệu km2, trong đó vùng ĐNN Cơn
Đảo đó được cơng nhận 7 tiêu chí trở thành khu Ramsar.
2. Đất ngập nước thuộc vùng hồ Thác Bà
2.1. Tổng quan về vùng hồ Thác Bà
Hồ Thác Bà là một trong ba hồ nước nhân tạo lớn nhất Việt Nam và là một trong
những điểm đến độc đáo của tỉnh Yên Bái. Tuy là hồ nhân tạo nhưng cảnh quan của hồ
là sự kết hợp hài hòa của thiên nhiên với bàn tay con người. Hồ yên ả, khơng khí trong
lành, xanh, mát cùng với những vạt rừng xanh mượt trùng điệp nhấp nhô tới bất tận...
Hồ Thác Bà nằm trên địa phận hai huyện Yên Bình và Lục Yên của tỉnh Yên Bái,
hồ được hình thành khi đắp đập ngăn dịng sơng Chảy để xây dựng Nhà máy thủy điện
Thác Bà Yên Bái đầu tiên của miền Bắc, hoàn tất vào năm 1970. Đến năm 1996, hồ Thác
Bà ở n Bái được cơng nhận Di tích lịch sử danh thắng cấp quốc gia. Ngày 19/12/2018,
Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số 1775/QĐ-TTg 2018 phê quyệt Quy hoạch Khu
Du lịch quốc gia hồ Thác Bà, tỉnh Yên Bái đến năm 2025, tầm nhìn đến năm 2030.
Diện tích vùng hồ rộng 23.400 ha, trong đó có 19.050 ha mặt nước và hơn 1.300
430


hòn đảo lớn nhỏ, chứa được 3 - 4 tỉ mét khối nước. Ngồi dịng sơng Chảy là nơi cung
cấp nước chủ yếu, hồ cịn được các sơng lớn như ngòi Hành, ngòi Cát... đổ về, bồi lắng
phù sa quanh năm, tạo điều kiện cho hệ động thực vật phát triển phong phú.
2.2. Kinh tế đất ngập nước vùng hồ Thác Bà
Sau gần 50 năm đi vào vận hành hồ chứa để phục vụ phát điện và cấp nước cho
vùng hạ du, mực nước của hồ Thác Bà có khoảng dao động khá lớn từ cốt 46 đến cốt 58,

tức là khoảng cách dao động về mực nước hồ Thác Bà lên tới 12 m. Khoảng dao động ấy
đã tạo ra một diện tích bán ngập nước lên đến hơn 2.000 nghìn ha. Theo báo cáo của
huyện Yên Bình, bình quân mỗi năm, nông dân cấy được từ 120 - 220 ha lúa, trồng 200
- 400 ha ngô và 300 - 600 ha lạc (diện tích canh tác mỗi năm phụ thuộc vào độ dao động
của mực nước trên hồ) [10]. Phần lớn diện tích lúa và màu đều được gieo trồng tại những
vị trí bằng phẳng, cốt nước cao, cịn lại đa số diện tích bán ngập hồ Thác Bà đều bị bỏ
hoang hóa... Thực trạng hiện nay khơng có cơ quan, tổ chức Nhà nước (và tư nhân) nào
có hệ thống thơng tin - cho dù chỉ là những thơng tin cơ bản - về diện tích, vị trí, điều
kiện ... của những thửa đất ngập nước này. Dẫn đến việc khơng thể quản lý, gây lãng phí
và thất thốt.

Năm 2001, Sở Nơng nghiệp và phát triển nơng thôn Yên Bái xây dựng đề tài khoa
học "Trồng cây tràm Úc trên vùng đất bán ngập hồ Thác Bà", với diện tích hơn 20 ha,
đơn vị được giao triển khai đề tài là Lâm trường Thác Bà. Mục tiêu của đề tài là để phủ
xanh đất bán ngập trong mùa nước cạn, đồng thời còn để "tiêu diệt" diện tích cây mai
dương xâm thực vùng đất này. Cây mai dương là loài cây bụi, dây leo rậm rạp gai chằng
chịt được ví như là một cái bẫy đối đàn cá và một số loài thủy sản khác trên hồ Thác Bà,
nhất là đối với đàn cá bố mẹ vào mùa sinh sản. Việc tiêu diệt cây mai dương để bảo vệ
nguồn lợi thủy sản cho hồ.
Thực hiện đề án trên, gần 30 ha tràm Úc đã được trồng từ năm 2003 - 2005 bằng
việc gieo ươm hạt giống trong vườn ươm sau đó mang ra trồng trên vùng đất bán ngập
với mật độ 5.000 cây/ha, khoảng cách 1m/cây, giữa các hàng là 2 m. Tổng kinh phí đầu
tư cho dự án lúc đó là 200 triệu đồng, thực chi hết 170 triệu đồng. Tính ra, chi phí trồng
cây trám Úc chưa đầy 6 triệu đồng/ha. Đến nay, chi phí cho mỗi ha trồng cây tràm Úc
trên vùng đất bán ngập hồ Thác Bà ước khoảng 18 - 20 triệu đồng. Như vậy, nếu tỉnh Yên
Bái đầu tư trồng cây tràm Úc trên tồn bộ diện tích bán ngập hồ Thác Bà, tổng chi phí hết
chừng 40 - 45 tỷ đồng.

431



Tuy Đề tài khoa học chứng minh có hiệu quả khi khai thác đất ngập nước nhưng
không được áp dụng vào thực tế là do nếu trồng rừng kinh tế, cây tràm Úc phát triển
chậm, chu vi thân gỗ nhỏ, phần lớn lại cong keo nên gỗ tràm không thể đóng đồ dân dụng,
đưa vào xẻ thanh hoặc bóc ván cũng hạn chế vì sản phẩm thu hồ rất ít. Gỗ tràm chỉ được
tiêu thụ bằng cách nghiền dăm, giá bán thấp, trong khi đó vỏ tràm rất dày và khó bóc, chi
phí cho chế biến tăng cao. Do vậy, trồng rừng kinh tế không hiệu quả. Nếu để trồng phòng
hộ giữ đất và làm cây cảnh quan cho hồ Thác Bà, khơng cây gì hơn được. Song vùng đất
này lại khơng phải là đất rừng phịng hộ. Có chăng chỉ là trồng để lấy cảnh quan cho phát
triển du lịch.

Tuy nhiên góc độ tiếp cận này mới chỉ tính đến giá trị khai thác gỗ mà chưa đề cập
hết được các khía cạnh kinh tế đa dạng mà việc trồng cây tràm có thể mang lại, ví dụ như
du lịch, nghỉ dưỡng, thủy sản và bất động sản. Với điều kiện kinh tế - xã hội hiện nay,
việc khai thác tiềm năng du lịch này đã thuận lợi hơn và có chiều hướng phát triển tốt.
Đặc biệt, ngày 19/12/2018, Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định 1775/QĐ-TTg 2018
Quy hoạch Khu du lịch quốc gia hồ Thác Bà, tỉnh Yên Bái đến năm 2025, tầm nhìn đến
năm 2030 thì việc đầu tư cho du lịch hồ Thác Bà đã thuận lợi hơn nhiều. Quy hoạch cũng
đã nêu rõ vùng đất bán ngập hồ Thác Bà được trồng bằng cây tràm nước ngọt để tạo cảnh
quan cho du lịch.
Thực trạng cho thấy, nhiều khu đất bán ngập nằm trong hồ Thác Bà nằm ở những
vị trí thuận lợi cho phát triển du lịch và bất động sản. Nếu được quy hoạch hợp lý và khai
thác khoa học sẽ mang lại nguồn doanh thu rất lớn, bền vững so với việc trồng tràm.
432


Bên cạnh đó, với tiềm năng phát triển hệ sinh thái kinh tế hồ, trên cơ sở ý tưởng
xây dựng vùng đô thị hồ đầu tiên tại Việt Nam, nhiều dịch vụ phụ trợ có thể phát triển
cùng tương tác với nhau. Khi đó, vai trị của kinh tế đất đai sẽ là nền tảng cho các hoạt
động đầu tư phát triển.


3. Một số đề xuất
Trên cơ sở nắm rõ thực trạng về đất ngập nước thuộc vùng hồ Thác Bà, tác giả đề
xuất một số giải pháp phát triển kinh tế đất ngập nước vùng hồ Thác Bà nói riêng, đất
ngập nước ngọt tại Việt Nam nói chung như sau:
- Tăng cường quản lý đất ngập nước trong vùng hồ. Cụ thể như sau:
+ Rà soát hiện trạng, kiểm đếm, đo đạc thực trạng diện tích đất ngập nước trong
toàn vùng hồ Thác Bà.
+ Phân loại, đánh giá theo từng tiêu chí gồm: Nơng - lâm nghiệp; thủy sản; du
lịch; nghỉ dưỡng, bất động sản. Nói cách khác là phân loại theo góc tiếp cận đất nơng
nghiệp và phi nông nghiệp (đất thương mại - dịch vụ).
+ Lập danh sách các cá nhân, tổ chức hiện đang sử dụng đất (theo thời vụ hay cố
định); xác định tính pháp lý và lịch sử của từng thửa đất.
+ Hình thành tổ chức, giao nhiệm vụ quản lý diện tích đất ngập nước này.
- Đưa vấn đề đất ngập nước vào các kế hoạch, chỉ tiêu của tỉnh Yên Bái, huyện Yên
Bình và huyện Lục Yên. Đồng thời cập nhật vấn đề này vào các quy hoạch chức năng
như: quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế xã hội, sử dụng đất; du lịch...
433


- Xã hội hóa quản lý và sử dụng thơng qua giao đất, đấu thầu, cho thuê đất ... nhằm
khai thác tối đa nguồn lực xã hội trong nghiên cứu và phát triển kinh tế đất ngập nước. Các
nguồn lực xã hội là đa dạng; năng lực đầu tư nghiên cứu, phát triển thực sự tiềm năng.
- Đầu tư thích đáng cho việc nghiên cứu khả năng khai thác đất ngập nước cho mục
tiêu: nông nghiệp - du lịch - bất động sản.
Diện tích đất ngập nước ngọt tại hồ Thác Bà nói riêng và tồn bộ tại các sơng, hồ
nói chung trong cả nước là rất lớn. Việc xây dựng hệ thống quản lý thống nhất, khoa học
sẽ mang lại nguồn lực, doanh thu rất lớn cho Nhà nước và các cá nhân, tổ chức trong xã
hội. Thực trạng loại đất này từ trước đến nay ít được chú ý, quản lý và khai thác mặc dù
tiềm năng là thực sự to lớn và hiệu quả.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đất ngập nước Việt Nam - Hệ thống phân loại của Phân viện điều tra quy hoạch
rừng II, trang 41. Nhà xuất bản Nông nghiệp, năm 2004.
2. The Ramsar Information Sheet on Wetlands of International Importance. 2009.
3. Đào Đình Bắc , địa mạo đại cương, NXB đại học Quốc gia Hà Nội. 2010.
4. Định hướng xây dựng hệ phân loại đất ngập nước của Việt Nam - Viện Khoa
học Lâm nghiệp Việt Nam”. 2014.
5. Moore Jr., PA & Reddy, KR 1994, ‘Role of Eh and pH on phosphorus
geochemistry in sediments of Lake Okeechobee, Florida’ Journal of
Environmental Quality, vol. 23, pp. 955-964.
6. Nguyễn Minh Ngọc, Nghiên cứu, đề xuất giải pháp thu hút đầu tư phát triển du
lịch vùng hồ Thác Bà, tỉnh Yên Bái, Đề tài khoa học cấp tỉnh, 2018.
7. />
434



×