Tải bản đầy đủ (.pdf) (5 trang)

Tài liệu Phòng ngừa, chữa trị bệnh thuỷ đậu pptx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (176.39 KB, 5 trang )

Phòng ngừa, chữa trị
bệnh thuỷ đậu


Bệnh thuỷ đậu (Chickenpox) hay còn gọi dân dã là bệnh trái rạ hay
bỏng rạ, là căn bệnh truyền nhiễm cấp tính, dễ lây, thường gặp ở trẻ nhỏ, thủ
phạm chính là do virus Varicella zoster.
Nhiều người coi đây là căn bệnh ít nguy hiểm nên dễ bỏ qua. Bệnh thường
kéo dài hai tuần và nếu không phát hiện và điều trị kịp thời có thể gây biến chứng
và tử vong.
Triệu chứng
Bệnh thuỷ đậu ở trẻ lúc mới phát bệnh thường không sốt nhưng lại phát
bóng nước đột ngột còn ở người lớn thì ngược lại, có tiền chứng sốt, mệt mỏi,
biếng ăn và đau cơ. Khi nhiễm bệnh, các nốt thuỷ đậu xuất hiện rất nhanh trong
vòng một ngày trên toàn thân, có người mọc thưa có người mọc dày, kể cả trong
cổ họng, trong mắt, niêm mạc và trong bộ phận sinh dục. Lúc đầu những nốt này
có màu đỏ trông giống như ban sởi, vài giờ sau thành nốt phồng. Tuỳ theo sức
khoẻ của trẻ mà trong vòng 1-2 tuần, nốt đậu đóng vảy và bong ra. Trong quá trình
phát bệnh xuất hiện các nốt đậu thường đi kèm với các triệu chứng như sốt, đau
bụng, đau đầu, ho nhẹ và người khó chịu, riêng ở nhóm trẻ khoẻ mạnh thì các dấu
hiệu này thường không đáng kể. Còn ở phụ nữ có thai lại dễ mắc bệnh ở giai đoạn
đầu, nếu mắc bệnh gần sát đến ngày sinh thì rủi ro đối với thai nhi là rất lớn.

Nhóm người có nguy cơ mắc bệnh cao

Là căn bệnh truyền nhiễm nên nguy cơ lây lan từ người sang người là rất
lớn (trên 90%). Tỷ lệ trẻ mắc bệnh thuỷ đậu rất cao, nhất là nhóm từ 5-11 tuổi
chưa tiêm phòng vắcxin (khoảng trên 50%) và rất ít khi xảy ra ở nhóm dưới 6
tháng tuổi. Người lớn nếu khi còn nhỏ chưa mắc bệnh thì nguy cơ mắc bệnh rất
cao. Các biến chứng của bệnh thuỷ đậu
Khi bị nhiễm bệnh, virus Varicella zoster sẽ còn lưu lại trong các tế bào


thần kinh và tái xuất hiện trong suốt thời gian dài, đây là biến chứng gây tác hại
đến hệ thần kinh với tỷ lệ rất cao, gây bệnh viêm não và hội chứng Rey, căn bệnh
về não có mức độ tử vong tới trên 40 %.

Cách điều trị

Thông thường, những đứa trẻ khoẻ mạnh, bệnh thuỷ đậu không gây vấn đề
gì, bác sỹ có thể kê đơn dùng thuốc giảm đau nhưng ở những người có sức khoẻ
yếu và nguy cơ biến chứng cao, bác sỹ sẽ có thể kê đơn cho thuốc để rút ngắn thời
gian lây nhiễm, như thuốc chống virus acyclovir (Zoviras) hoặc các loại thuốc có
tên là intraveneous immune globin (IGIV), thuốc Valtres hay Famvir…Trẻ mắc
bệnh nên cách ly tại nhà trong suốt thời gian nhiễm bệnh và khi khỏi nên tắm rửa
sạch sẽ, giữ vệ sinh sạch sẽ, cắt móng tay, hạn chế không cho trẻ gãi, hàng ngày
nên nhỏ mắt, nhỏ mũi sát khuẩn bằng chloraphenicoa 0,4%. Khi các nốt bỏng vỡ
nên bôi thuốc xanh metilen, không được dùng thuốc kháng sinh để bôi lên các nốt
vỡ này. Khi dùng kháng sinh nhất thiết phải tư vấn chuyên môn, trường hợp sốt
cao, nốt đậu mọc nhiều, sợ ánh sáng thì phải đưa trẻ đi khám và chú ý ăn uống vệ
sinh và đầy đủ. Để phòng ngừa bệnh thuỷ đậu nên đưa trẻ đi tiêm vắcxin phòng
bệnh (Varivax) theo lịch như dưới đây, riêng phụ nữ có thai, những người có hệ
miễn dịch yếu, dễ dị ứng với gelatin hoặc neomycin kháng sinh thì không nên tiêm
phòng.

Đối với trẻ nhỏ: Tiêm hai liều Varivax, liều đầu tiên khi trẻ được 12-15
tháng tuổi, mũi hai khi trẻ được 4-6 năm tuổi.

Nhóm trẻ lớn chưa tiêm phòng: Trẻ 7-13 tuổi chưa tiêm thì tiêm hai mũi
Varivax, hai mũi cách nhau ít nhất 3 tháng, riêng nhóm trên 13 cũng áp dụng tiêm
2 mũi nhưng thời gian cách nhau ít nhất 4 tuần.

Người lớn chưa tiêm bao giờ cũng có mức độ rủi ro mắc bệnh cao, nhất là

những người làm công tác xã hội như nuôi dạy trẻ, nhân viên ngành hàng không, y
tế Cũng nên tiêm hai mũi, khoảng cách giữa hai lần tiêm cách nhau 4-8 tuần.

×