Tải bản đầy đủ (.doc) (101 trang)

“Dạy học dự án “sản xuất son môi từ thiên nhiên” theo định hướng giáo dục STEAM”

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.45 MB, 101 trang )

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

DH
DA

:
:

Dạy học
Dự án

DAHT

:

Dự án học tập

DHTDA

:

Dạy học theo dự án

PP

:

Phương pháp

GD


:

Giáo dục

GV

:

Giáo viên

HS

:

Học sinh

SL

:

Số lượng

0


PHẦN 1. MỞ ĐẦU
I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Cách mạng công nghiệp lần thứ tư (CMCN 4.0) đã và đang diễn ra một cách
nhanh chóng, mạnh mẽ, gây tác động sâu sắc đến mọi lĩnh vực của đời sống xã
hội. Bản chất của CMCN 4.0 là dựa trên nền tảng cơng nghệ số và tích hợp tất

cả các cơng nghệ thông minh. Tất yếu với những bước nhảy vọt về công nghệ,
CMCN 4.0 đặt thế giới trước nhiều thách thức, dự báo sẽ phá vỡ thị trường lao
động cũ, khiến cho nhiều ngành nghề truyền thống biến mất và tiến tới thiết lập
một thị trường lao động mới với rất nhiều ngành nghề mới mà ở đó sự cạnh
tranh của tri thức sáng tạo, của nền giáo dục chất lượng cao.
Trong bối cảnh đó, con người nếu khơng muốn bị tụt hậu và đào thải thì cần
phải trang bị những kĩ năng mới. Những kĩ năng cần thiết mà mỗi cá nhân cần
trang bị đó là kĩ năng giải quyết vấn đề phức tạp, tư duy phản biện, sáng tạo,
quản lý nguồn lực con người, phối hợp với đồng nghiệp, trí tuệ cảm xúc, đánh
giá và ra quyết định, định hướng dịch vụ, đàm phán, linh hoạt trong nhận thức…
Điều này đặt ra cho giáo dục và đào tạo sứ mệnh cấp bách là đào tạo được đội
ngũ nhân lực chất lượng cao, có đầy đủ kĩ năng đáp ứng yêu cầu của thời đại,
chuyển từ nền giáo dục mang tính hàn lâm, xa rời thực tiễn sang chú trọng việc
hình thành năng lực hành động, phát huy tính chủ động, sáng tạo của người học.
Giáo dục STEM ra đời được xem là một bước đi quyết liệt, giúp giải quyết
vấn đề đổi mới giáo dục hiện nay. Trong chương trình giáo dục phổ thơng năm
2018, giáo dục STEM vừa mang ý nghĩa thúc đẩy giáo dục các lĩnh vực khoa
học, cơng nghệ, kĩ thuật và tốn học; vừa thể hiện phương pháp tiếp cận liên
môn, vận dụng kiến thức liên môn giải quyết vấn đề thực tiễn, phát triển năng
lực và phẩm chất người học. Tuy nhiên, giáo dục STEM mới chỉ dừng lại ở lĩnh
vực khoa học tự nhiên. Trong những năm gần đây, các nhà giáo dục đề xuất rằng
để cho ra một sản phẩm công nghệ có thể thương mại được, chúng ta khơng chỉ
có tích hợp các kiến thức STEM mà phải cần có tư duy thiết kế, yếu tố nghệ
thuật hay thẩm mĩ cần được tính đến trong q trình sáng tạo sản phẩm và giải
quyết vấn đề, nghĩa là STEM sẽ trở thành STEM + Art = STEAM. Khái niệm
STEAM được chào đón và ngày càng nhiều chương trình STEM được thiết kế
với Arts để học sinh không chỉ hợp tác sáng tạo khoa học, mà cả sáng tạo khai
phóng, sáng tạo nhân văn.
Tại Việt Nam, ngày 4-5-2017, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Chỉ thị
16/CT-TTg về tăng cường năng lực tiếp cận cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0,

trong phần giải pháp có nêu: “Thay đổi mạnh mẽ các chính sách, nội dung,
phương pháp giáo dục và dạy nghề nhằm tạo ra nguồn nhân lực có khả năng tiếp
nhận các xu thế cơng nghệ sản xuất mới, trong đó cần tập trung vào thúc đẩy đào
tạo về khoa học, công nghệ, kỹ thuật và toán học (STEM), ngoại ngữ, tin
1


học trong chương trình giáo dục phổ thơng”. Trên phương hướng đó, giáo dục
STEM là một trong những nội dung được chú ý ở các cơ sở giáo dục hiện nay.
Là giáo viên bộ mơn Hố học – nhóm khoa học tự nhiên, là một trong những
thành phần chính của giáo dục STEAM, chúng tôi đã thực hiện dạy học một số
chủ đề. Bên cạnh đó, để triển khai các chủ đề theo giáo dục STEAM có rất nhiều
phương pháp dạy học. Trong đó, dạy học theo dự án là phương pháp mà ở đó
các hoạt động có thể tiến hành linh hoạt ngoài giờ lên lớp và vẫn đảm bảo các
mục tiêu học tập nên được lựa chọn để triển khai cho HS.
Xuất phát từ vấn đề thực tiễn rất gần gũi mà HS quan tâm hiện nay: mỹ
phẩm và vấn đề mỹ phẩm an tồn, trong đó son môi là mỹ phẩm phổ biến nhất
và độ tuổi sử dụng ngày càng trẻ hoá, hầu như các bạn HS nữ ai cũng có ít nhất
một thỏi son mơi. Mặt khác, son được trang điểm ngay trên môi – các thành
phần có trong son rất dễ dàng đi vào cơ thể; ngày nay, vì mục đích lợi nhuận,
khơng ít nhà sản xuất sẵn sàng bỏ qua sức khoẻ người tiêu dùng, sử dụng các
hoá chất độc hại quá mức cho phép để pha chế son, điển hình các kim loại nặng
như chì… Vì thế son mơi đến từ thiên nhiên đang là trào lưu rất được ưa chuộng
hiện nay. Trên tinh thần đó, chúng tơi tiến hành lựa chọn và áp dụng sáng kiến:
“Dạy học dự án “Sản xuất son môi từ thiên nhiên” theo định hướng giáo dục
STEAM” với mong muốn nghiên cứu khả năng vận dụng giáo dục STEAM góp
phần nâng cao chất lượng dạy học trong giai đoạn đổi mới căn bản và toàn diện
giáo dục hiện nay. Đề tài bao gồm các nội dung sau: Làm rõ khái niệm giáo dục
STEAM, đề xuất qui trình tổ chức cho HS THPT tham gia dự án giáo dục
STEAM, vận dụng thực tiễn vào tổ chức dạy học dự án với các nội dung gắn

liền với thực tiễn của địa phương nói riêng và xã hội nói chung.
II. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI
Giáo dục STEAM quan trọng vì những lý do sau đây:
- Thực lực kinh tế là nhân tố đảm bảo vị trí của một quốc gia trên trường
quốc tế. Ngày nay, khi mà trí tuệ đã trở thành yếu tố hàng đầu thể hiện quyền lực
và sức mạnh của một quốc gia, thì các nước trên thế giới đều ý thức được rằng
giáo dục không chỉ là phúc lợi xã hội, mà thực sự là đòn bẩy quan trọng để phát
triển kinh tế, phát triển xã hội. Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang diễn ra
thông qua hàng loạt các phát minh và sự phát triển nhảy vọt đã tác động mạnh
mẽ trên nhiều lĩnh vực và nhiều quốc gia. Trong tương lai có nhiều việc làm
chân tay sẽ khơng cịn nữa, được thay thế bằng robot, nhưng cũng sẽ có những
ngành nghề mới ra đời với ứng dụng mới mẻ của kỹ thuật số mà chúng ta vẫn
chưa hình dung hết được, chẳng hạn như nghề bác sĩ cho robot. Trong đó, ngành
cơng nghiệp chế tạo vẫn tiếp tục đóng vai trị chủ đạo cho sự phát triển kinh tế
của toàn cầu. Dự kiến trong 15 năm tới, mức tiêu thụ hàng hố tồn cầu sẽ tăng
gấp đơi, đạt 64 nghìn tỉ USD, dẫn đến nhu cầu về các hàng hoá và dịch vụ ngày
càng cao. Xuất phát từ những thay đổi trong nền kinh tế, các kỹ năng của người
lao động cũng đòi hỏi phải thay đổi để đáp ứng cho phù hợp. Trong xu hướng
2


của cách mạng công nghiệp 4.0, nguồn lao động chất lượng cao khơng chỉ cần
có kiến thức chun ngành mà địi hỏi có sự hiểu biết của liên ngành. Ngồi ra
các kỹ năng sử dụng kiến thức để giải quyết vấn đề, tạo sản phẩm sáng tạo và
làm việc nhóm ngày càng được đề cao. Trong khi đó, ảnh hưởng của khoa học,
công nghệ, đặc biệt công nghệ thông tin dần chiếm ưu thế trên mọi mặt của đời
sống. Quá trình dạy và học liên ngành sẽ trở thành đặc trưng cúa xu hướng giáo
dục tương lai, trong đó sẽ có những ngành nghề cũ mất đi, và sẽ có những ngành
nghề mới ra đời. Giáo dục STEM là một hướng tiếp cận nổi bật giúp trang bị
cho học sinh những kiến thức cần thiết liên quan đến 4 lĩnh vực quan trọng là:

khoa học (Science), công nghệ (Technology), kỹ thuật (Engineering) và toán
(Mathematics). Điểm nổi bật của STEM là kết nối, liên hệ thông tin giữa các
lĩnh vực vào trong thực tế cuộc sống. Trong các diễn đàn kinh tế thế giới (WEF)
hàng năm, các nhà chính trị, lãnh đạo doanh nghiệp lại bàn với nhau về xu
hướng của những ngành nghề và các kỹ năng cần thiết trong tương lại. Theo đó,
trong thế kỷ 21 này, các nhóm ngành liên quan đến khoa học và cơng nghệ đóng
góp một giá trị kinh tế lớn hơn so với bất kỳ ngành nghề nào, nhu cầu việc làm
trong các lĩnh vực STEM ngày một tăng. Bên cạnh đó, thu nhập của người lao
động trong khối ngành này cũng cao hơn khối ngành không liên quan đến
STEM.

Sự chênh lệch về tăng trưởng việc làm giữa nhóm ngành STEM và khơng STEM tại Mỹ

Do đó, muốn phát triển kinh tế, nâng cao vị thế đất nước trên trường quốc
tế, dạy học STEM đang là xu hướng tất yếu trong thời đại hiện nay.
- Bên cạnh đó, sự ảnh hưởng của khoa học và cơng nghệ đối với đời sống
của con người nói chung cũng trở thành một xu hướng tất yếu không thể đảo
ngược được. Ngay từ khi một đứa bé mới sinh ra, cho đến khi đi học và trưởng
thành, tìm kiếm việc làm, từ nhà văn, nhân viên bán hàng cho đến các nhà ngoại
giao, chính trị, tất cả đều phải sử dụng các tiện ích từ sự phát triển của khoa học
– cơng nghệ, và chúng ta đều có ít nhiều tham gia vào những quyết định liên
quan đến các vấn đề mà khoa học và cơng nghệ có ảnh hưởng. Chẳng hạn như:
3


chúng ta phản ứng như thế nào đối với ô nhiễm mơi trường, biến đổi khí hậu, có
nên ủng hộ cây trồng biến đổi gene, có sử dụng biện pháp thụ tinh trong ống
nghiệm (IVF), hay phòng chống các bệnh lây nhiễm như SARS, virus Zika,
virus Corona (Covid – 19)... Đó là những vấn đề của xã hội nhưng liên quan
chặt chẽ và mật thiết đến sự phát triển bùng nổ của các thành tựu khoa học –

công nghệ. Do vậy, ngoài những kiến thức và kỹ năng cơ bản trong đời sống xã
hội, chúng ta còn phải giúp cho học sinh có được những năng lực mang tính chất
nền tảng liên ngành về STEM để có thể trở thành những cơng dân tồn cầu thích
ứng trong thế giới tương lai.
- Một xã hội cần những người công dân phải có kiến thức và tư duy khoa
học – logic, nhưng cái xã hội ấy đâu chỉ khô khan với những sản phẩm công
nghệ và những con robot lặng lẽ, vô hồn. Vẫn là xã hội của loài người với những
mối quan hệ người với người sâu đậm, với những nhu cầu về tinh thần, văn hóa.
Thậm chí lúc đó thì các nhu cầu về văn hóa, nghệ thuật lại càng cao hơn, từ đó
thì giáo dục STEM đã phải phát triển đến việc giảng giải cả nghệ thuật cho học
sinh. Và ta có thể nghĩ đến chương trình giáo dục STEAM, với A là nghệ thuật
(Arts). Với giáo dục STEAM, mở ra cho chúng ta những yêu cầu tuyệt vời của
việc chuẩn bị cho một thế hệ công dân mới, khoa học, kỹ thuật – công nghệ,
logic, nghệ thuật và giao tiếp lẫn nhau, một xã hội loài người với giá trị của thời
đại, như triết gia Aristote đã từng nói: “ Giáo dục trí tuệ mà khơng giáo dục con
tim thì khơng phải là giáo dục”.
III. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU
Đề xuất biện pháp giáo dục STEAM cho học sinh thơng qua dự án học
tập, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục 4 lĩnh vực Khoa học, Công nghệ, Kĩ
thuật và Tốn học nói chung; nâng cao hiệu quả dạy và học mơn hố học nói
riêng; phát triển năng lực của học sinh để có thể trở thành những cơng dân tồn
cầu thích ứng trong thế giới tương lai.
Áp dụng thiết kế dự án học tập “Sản xuất son mơi từ thiên nhiên” theo
định hướng giáo dục STEAM.
IV. TÍNH MỚI, TÍNH SÁNG TẠO CỦA ĐỀ TÀI:
- Với những tiếp cận khác nhau, giáo dục STEM sẽ được hiểu và triển khai
theo những cách khác nhau. Ở Việt Nam, từ năm học 2017-2018 giáo dục STEM đã
được tổ chức thí điểm ở một số trường học và từ đó đến nay, các hình thức triển
khai rất đa dạng; chúng tơi chưa bao giờ bắt gặp bài soạn STEM nào giống nhau,
mỗi giáo viên đều có một cách tiếp cận trình bày bài giảng rất riêng. Bản thân

chúng tôi, sau một quá trình nghiên cứu, tổng hợp các tài liệu và may mắn tham gia
các khóa học của các nhà giáo dục trong và ngồi nước về giáo dục STEM, chúng
tơi đã áp dụng thử nghiệm vào công tác giảng dạy, đề tài của chúng tơi hi vọng
đóng góp một hình thức tổ chức giáo dục STEM đem lại hiệu quả trong nhà trường.
- Đề tài của chúng tơi có sự mở rộng STEM lồng ghép thêm yếu tố Arts (STEAM): để
học sinh không chỉ hợp tác sáng tạo khoa học, mà cả sáng tạo khai phóng, sáng tạo nhân
4


văn; học sinh được khuyến khích vận dụng óc sáng tạo về các môn nghệ thuật, các
kiến thức xã hội và nhân văn để tạo ra một sản phẩm mới, có giá trị và ý nghĩa hơn.
- Đề tài đã làm rõ cơ sở lí luận và thực tiễn về việc tổ chức cho HS THPT tham gia
dự án theo định hướng giáo dục STEAM. Đề xuất quy trình tổ chức dạy học dự án theo
giáo dục STEAM. Xây dựng thành công dạy học dự án “Sản xuất son môi từ thiên nhiên”
theo định hướng giáo dục STEAM, góp phần đổi mới phương pháp dạy học, đổi mới kiểm
tra – đánh giá, từng bước tiếp cận chương trình giáo dục phổ thông mới.

V. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
- Đối tượng: Phương pháp dạy học theo dự án và ứng dụng của phương
pháp dạy học theo dự án vào giáo dục STEAM cho học sinh.
- Phạm vi nghiên cứu: + Giới hạn về nội dung: Đề tài tập trung nghiên
cứu về giáo dục STEAM cho học sinh THPT qua dự án học tập.
+ Giới hạn về phạm vi nghiên cứu: Học sinh lớp 12 của
một số trường THPT trên địa bàn thành phố Vinh, Tỉnh Nghệ An.
VI. NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU
- Nghiên cứu cơ sở lý luận của giáo dục STEAM cho học sinh qua dự án
học tập.
- Nghiên cứu cơ sở thực tiễn của giáo dục STEAM cho học sinh qua dự án
học tập.
- Đề xuất quy trình, thiết kế, tổ chức giáo dục STEAM cho học sinh qua dự

án học tập.
- Tổ chức thực nghiệm sư phạm để kiểm chứng giả thuyết khoa học của đề
tài nghiên cứu.
VII. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
- Phương pháp nghiên cứu lí luận:
Nghiên cứu các tài liệu về tâm lí học; lí luận và phương pháp dạy học
(PPDH) ở trường phổ thông; lí luận và PPDH liên quan đến vấn đề nghiên cứu.
- Phương pháp nghiên cứu thực tiễn: Khảo sát điều tra, Phỏng vấn trao đổi,
Nghiên cứu sản phẩm
- Phương pháp nghiên cứu thực nghiệm
Tổ chức dạy học thực nghiệm và thực nghiệm sư phạm
- Phương pháp thống kê toán học
Sử dụng cơng cụ tốn học thống kê xử lí các số liệu điều tra và kết quả
thực nghiệm. VIII. THỜI GIAN NGHIÊN CỨU
- Từ tháng 6/2019 đến tháng 10/2019 hình thành ý tưởng
- Từ tháng 11/2019 đến tháng 2/2021 nghiên cứu và thử nghiệm.
- Từ tháng 2 /2021 đến tháng 3/2021 viết thành đề tài.
IX. CẤU TRÚC ĐỀ TÀI
Gồm 96 trang: Phần mở đầu (05 trang); Phần nội dung (44 trang), bao
gồm 1. Cơ sở lí luận, 2. Cơ sở thực tiễn, 3. Các giải pháp đã sử dụng để giải
quyết vấn đề, 4. Thực nghiệm sư phạm; Phần kết luận và kiến nghị (03 trang),
bao gồm 1. Kết luận, 2. Kiến nghị, 3. Hướng phát triển của đề tài; Tài liệu tham
khảo (01 trang); 04 Phụ lục (44 trang).
5


PHẦN II. NỘI DUNG
I. CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI
I.1. Khái niệm giáo dục STEM
Một trong những tổ chức uy tín nhất hiện nay trong lĩnh vực giáo dục khoa

học trên thế giới là Hiệp hội các giáo viên dạy khoa học quốc gia Mỹ (National
Science Teachers Association – NSTA) được thành lập năm 1944, đã đề xuất ra
khái niệm giáo dục STEM (STEM education) với cách định nghĩa như sau:
“Giáo dục STEM là một cách tiếp cận liên ngành trong q trình học, trong đó
các khái niệm học thuật mang tính nguyên tắc được lồng ghép với các bài học
trong thế giới thực, ở đó các học sinh áp dụng các kiến thức trong KHOA HỌC,
CÔNG NGHỆ, KỸ THUẬT và TOÁN vào trong các bối cảnh cụ thể, giúp kết nối
giữa trường học, cộng đồng, nơi làm việc và các tổ chức tồn cầu, để từ đó phát
triển các năng lực trong lĩnh vực STEM và có thể góp phần vào cạnh tranh
trong nền kinh tế mới” (Tsupros, Kohler, & Hallinen, 2009).

Các lĩnh vực trong giáo dục STEM
Từ cách định nghĩa trên, có 3 đặc điểm quan trọng khi nói về giáo dục STEM:

- CÁCH TIẾP CẬN LIÊN NGÀNH
- LỒNG GHÉP VỚI CÁC BÀI HỌC TRONG THẾ GIỚI THỰC
- KẾT NỐI VỚI CỘNG ĐỒNG TẠI ĐỊA PHƯƠNG VÀ TOÀN CẦU
Ở Việt Nam, giáo dục STEM được sử dụng theo mơ tả trong Chương trình
giáo dục phổ thơng năm 2018 như sau: Giáo dục STEM là mơ hình giáo dục dựa
trên cách tiếp cận liên môn, giúp học sinh áp dụng các kiến thức khoa học, công
nghệ, kĩ thuật và toán học vào giải quyết một số vấn đề thực tiễn trong bối cảnh
cụ thể.
Khi nói về yêu cầu đưa ý thức khoa học đến với học sinh một cách tự
nhiên, Jean Jacques Rousseau đã phát biểu : “Ta không nên dạy trẻ nhỏ khoa
học, mà hãy để trẻ nếm trải nó”. Câu nói đơn giản mà bộc lộ cả triết lý và
phương pháp giảng dạy của STEM.
I.2. Từ giáo dục STEM đến giáo dục STEAM
Giáo dục STEM không chỉ gói gọn trong sự liên mơn giữa các nhóm kiến
thức khoa học tự nhiên mà giờ đây các giáo viên đã chủ động lồng ghép thêm
các yếu tố về văn hóa, xã hội, nhân văn, nghệ thuật... Do vậy STEM được phát

6


triển lên thành STEAM với chữ A thỉnh thoảng được viết trong ngoặc đơn như
một cách nhấn mạnh. Ở đó, học sinh được khuyến khích vận dụng óc sáng tạo
về các môn nghệ thuật, các kiến thức về lịch sử và nhân văn để tạo ra một sản
phẩm mới, có giá trị và ý nghĩa cho xã hội.
Khái niệm STEAM được chào đón và ngày càng nhiều chương trình
STEM được thiết kế với Arts để học sinh không chỉ hợp tác sáng tạo khoa học,
mà cả sáng tạo khai phóng, sáng tạo nhân văn. STEM + Arts là xu thế tất yếu
khách quan của chương trình giáo dục vì nó đảm bảo phát triển toàn diện cho
học sinh.
Tuy nhiên, cho đến nay, STEAM chưa được định nghĩa trên khía cạnh luật.
STEM vẫn là định nghĩa duy nhất và trên các văn bản chính sách vẫn sử dụng
thuật ngữ STEM. Và cho đến tận 2019, Hạ viện Mỹ mới giới thiệu 2 đạo luật
mới quan trọng liên quan đến STEAM. Do đó, trong đề tài này, các cơ sở lý luận
chúng tôi vẫn dùng chủ yếu trên nền tảng STEM.
I.3. Mục tiêu của giáo dục STEM

Mục tiêu giáo dục STEM
Mục tiêu giáo dục STEM không nhằm đào tạo ngay ra những nhà khoa học
hay để tạo ra các sản phẩm có tính thương mại, cạnh tranh, mà nhằm tạo ra
những con người tương lai, có đầy đủ phẩm chất, năng lực, bản lĩnh để thích
nghi với cuộc sống hiện đại.
I.4. Các bước triển khai dạy và học theo định hướng giáo dục STEAM
I.4.1. Lựa chọn chủ đề STEM
I.4.1.1. Chủ đề STEM
Chủ đề dạy học STEM trong trường trung học (gọi tắt là chủ đề STEM) là
chủ đề được thiết kế dựa trên vấn đề thực tiễn kết hợp với chuẩn kiến thức, kỹ
năng của các mơn khoa học trong chương trình phổ thơng. Trong q trình dạy

học, GV tổ chức cho HS làm việc nhóm, sử dụng cơng cụ truyền thống và hiện
đại, cơng cụ tốn học để tạo ra sản phẩm có tính ứng dụng thực tế, phát triển kỹ
năng và tư duy của học sinh.
Những ứng dụng đó có thể là: Sữa chua/dưa muối – Vi sinh vật – Quy trình
làm sữa chua/muối dưa; Thuốc trừ sâu – Phản ứng hóa học – Quy trình xử lí dư
7


lượng thuốc trừ sâu; Hóa chất – Phản ứng hóa học – Quy trình xử lí chất thải;
Rau an tồn – Hóa sinh – Quy trình trồng rau an tồn; ….
I.4.1.2. Chủ đề STEM cần đảm bảo các tiêu chí:
- Chủ đề STEM hướng tới giải quyết các vấn đề trong thực tiễn
- Chủ đề STEM phải hướng tới việc HS vận dụng các kiến thức trong lĩnh
vực STEM để giải quyết vấn đề
- Chủ đề STEM định hướng hoạt động - thực hành
- Chủ đề STEM khuyến khích làm việc nhóm giữa các HS
I.4.2. Xác định câu hỏi/vấn đề cần giải quyết trong chủ đề
Sau khi chọn chủ đề của bài học, cần xác định vấn đề cần giải quyết để
giao cho học sinh thực hiện sao cho khi giải quyết vấn đề đó, học sinh phải học
được những kiến thức, kĩ năng cần dạy trong chương trình mơn học đã được lựa
chọn (đối với STEM kiến tạo) hoặc vận dụng những kiến thức, kỹ năng đã biết
(đối với STEM vận dung) để xây dựng bài học.
Theo những ví dụ nêu trên, nhiệm vụ giao cho học sinh thực hiện trong các
bài học có thể là: Xây dựng quy trình làm sữa chua/muối dưa; Xây dựng quy
trình xử lí dư lượng thuốc trừ sâu trong rau/quả; Xây dựng quy trình xử lí hóa
chất ơ nhiễm trong nước thải; Quy trình trồng rau an tồn…
Trong q trình này, việc thử nghiệm chế tạo trước các nguyên mẫu có thể
hỗ trợ rất tốt quá trình xây dựng chủ đề. Qua quá trình xây dựng, giáo viên có
thể hình dung các khó khăn học sinh có thể gặp phải, các cơ hội vận dụng kiến
thức để giải quyết vấn đề cũng như xác định được đúng đắn các tiêu chí của sản

phẩm trong mục I.4.5.
I.4.3. Xác định mục tiêu học tập trong chủ đề
Mục tiêu học tập ở đây là những kiến thức, kỹ năng, thái độ và quan trọng
hơn cả là năng lực được hình thành sau hoạt động STEAM của học sinh.
I.4.4. Phân tích các nội dung STEAM liên quan chủ đề
Là những kiến thức trong chủ đề đã đưa ra liên quan đến tính sử dụng kiến
thức khoa học nào để giải quyết, sử dụng cơng cụ gì để tạo ra cơng nghệ, kỹ
năng gì để thực hiện quy trình kỹ thuật và tính tốn những thơng số hay phân
tích số liệu như thế nào trong tốn học, đặc biệt là mang tính nghệ thuật và nhân
văn trong cách giải quyết vấn đề đó.
I.4.5. Dự kiến sản phẩm, xây dựng tiêu chí của sản phẩm/giải pháp giải quyết
vấn đề
Sau khi đã xác định vấn đề cần giải quyết/sản phẩm cần chế tạo, cần xác
định rõ tiêu chí của giải pháp/sản phẩm. Những tiêu chí này là căn cứ quan trọng
để đề xuất giả thuyết khoa học/giải pháp giải quyết vấn đề/thiết kế mẫu sản
8


phẩm. Đối với các ví dụ nêu trên, tiêu chí có thể là: Quy trình sản xuất sữa
chua/muối dưa với tiêu chí cụ thể của sản phẩm (độ ngọt, độ chua, dinh
dưỡng...); Quy trình xử lí dư lượng thuốc trừ sâu với tiêu chí cụ thể (loại thuốc
trừ sâu, độ "sạch" sau xử lí); Quy trình trồng rau sạch với tiêu chí cụ thể ("sạch"
cái gì so với rau trồng thơng thường)...
Xây dựng bộ tiêu chí định hướng cho sản phẩm, tuy nhiên sản phẩm không
phải là đầu ra của hoạt động STEAM, mà đầu ra ở đây là quá trình tìm tịi,
nghiên cứu, khám phá và chấp nhận sai lầm để hướng tới một sản phẩm hồn
thiện (có thể cải tiến ở tương lai).Tiêu chí sản phẩm nên được phân ra thành tính
khoa học, kỹ thuật, thẩm mỹ, tính an tồn và tính nhân văn.
I.4.6. Xây dựng bộ câu hỏi định hướng chủ đề STEAM
Là các câu hỏi đi từ khái quát đến cụ thể của vấn đề cần giải quyết, được

đặt ra cho học sinh để gợi ý học sinh hình thành KIẾN THỨC NỀN, đề xuất giải
pháp, nhiệm vụ nhằm đạt được mục tiêu đã đặt ra. Bộ câu hỏi này rất quan trọng
với chủ đề STEAM phát triển năng lực sáng tạo, định hướng tương lai, trong quá
trình dạy và học, giáo viên cần thường xuyên đặt câu hỏi định hướng hoặc có thể
thiết kế bộ câu hỏi thơng qua phiếu học tập.
I.4.7.Thiết kế tiến trình tổ chức hoạt động dạy học STEAM
Bước này thể hiện rõ dự kiến việc tổ chức dạy học chủ đề. Để thực hiện
việc này cần làm rõ: Chủ đề có những hoạt động nào, từng hoạt động đó thực
hiện vai trị gì trong việc đạt được mục tiêu tồn bài?
Tiến trình tổ chức hoạt động dạy học được thiết kế theo các phương pháp và kĩ
thuật dạy học tích cực. Mỗi hoạt động được thiết kế rõ ràng về mục đích, nội
dung và sản phẩm học tập mà học sinh phải hồn thành. Các hoạt động đó có thể
được tổ chức cả ở trong và ngoài lớp học (ở trường, ở nhà và cộng đồng). Ứng
với mỗi hoạt động, giáo viên cần thực hiện các công việc sau:
- Xác định mục tiêu hoạt động.
- Xây dựng các nội dung học dưới dạng các tư liệu học tập: phiếu học tập,
thông tin.
- Chuẩn bị phương tiện, thiết bị dạy học cho hoạt động.
- Dự kiến nguồn nhân, vật lực để tổ chức hoạt động.
- Lập kế hoạch tổ chức hoạt động dạy học: Có thể áp dụng nhiều cách thức
tổ chức hoạt động học tập: hoạt động cá nhân, hoạt động nhóm, hoạt động theo
trạm, thực hiện dự án…
- Xây dựng công cụ đánh giá mục tiêu hoạt động: Mỗi hoạt động giáo viên
đều cần có cơng cụ đánh giá tương ứng. Cơng cụ đánh giá có thể là một câu hỏi,
9


một bài tập hoặc một nhiệm vụ cần thực hiện và phiếu tiêu chí đánh giá hoạt
động đó (rubric).
- Dự kiến thời gian cho mỗi hoạt động.

Việc thiết kế các hoạt động có thể tham khảo các quy trình tổ chức hoạt
động STEM ở mục I.5.
I.4.8. Tổng kết và đánh giá hoạt động STEAM, mở rộng chủ đề
Một bước không thể thiếu trong một bài học STEAM là tổng kết lại vấn
đề, rút ra những ưu nhược điểm của quy trình và sản phẩm, từ đó tìm ra hướng
khắc phục và cải tiến. Cuối cùng, sau mỗi một hoạt động hay một bài học
STEAM, giáo viên sẽ là người đánh giá lại hoạt động dạy và học sao cho phù
hợp và dựa vào tiêu chí là mục tiêu đã đặt ra để đánh giá theo thang điểm được
quy ước trong lớp học. Ở đây có thể mở rộng chủ đề, đặt ra vấn đề từ chủ đề đã
thực hiện để giải quyết một vấn đề vĩ mơ hơn.
I.5. Quy trình tổ chức thực hiện giáo dục
STEAM I.5.1. Quy trình thiết kế kĩ thuật
Cấu trúc bài học STEAM thường được phỏng theo quy trình thiết kế kĩ
thuật:
Shulman (2006) lập luận rằng quy trình thiết kế kĩ thuật có thể trở thành
một chiến lược sư phạm, hỗ trợ hình thành các thói quen tư duy kĩ thuật. Quy
trình thiết kế kĩ thuật mô tả cách mà các kĩ sư dùng để giải quyết vấn đề, bắt đầu
bằng đặt câu hỏi, hình dung các giải pháp, thiết kế kế hoạch, tạo và kiểm tra mơ
hình và sau đó thực hiện cải tiến.
Với những bài học cần tích hợp các kỹ năng vận dụng kiến thức khoa học
vào giải quyết các vấn đề mang tính kỹ thuật và cơng nghệ, thơng thường giáo
viên soạn bài học dựa trên quy trình thiết kế kỹ thuật.
Theo quy trình này, học sinh thực hiện theo các bước sau:
I.5.1.1. Đối với khối mầm non
Quy trình gồm 3 bước: Giáo viên đưa ra bối cảnh vấn đề cùng các bé
khám phá, sau đó tạo dựng và tiến hành cải thiện.

3. Cải thiện

1. Khám phá

Quy trình kĩ thuật

2. Tạo dựng

mầm non

1
0


I.5.1.2. Đối với khối tiểu học
Quy trình gồm 7 bước như sau:

I.5.1.3. Đối với khối trung học
Quy trình tương tự khối tiểu học, nhưng có thêm bước Khảo sát:

Bước 1: Đặt một vấn đề - hoặc một yêu cầu thiết kế và chuyển giao nhiệm vụ:
▪ Trong các bài học STEM, học sinh được đặt trước các nhiệm vụ thực
tiễn: giải quyết một tình huống hoặc tìm hiểu, cải tiến một ứng dụng kĩ thuật nào
đó.Vấn đề STEM được lựa chọn gắn với ứng dụng của kiến thức cần dạy, có liên
quan tới các vấn đề xã hội, kinh tế, môi trường; thường gắn với cá nhân học
sinh, bối cảnh địa phương hay vấn đề nổi bật, thời sự. Các vấn đề này phải thú
vị, hấp dẫn để các nhóm tự nảy sinh nhu cầu giải quyết vấn đề, tiếp nhận nhiệm
vụ mang tính thiết kế theo cách tự nhiên. Thông thường, khi giải quyết các vấn
đề STEM, học sinh ứng dụng được ngay trong cuộc sống, hay hỗ trợ vui chơi,
giải trí. Ví dụ: Giáo viên cung cấp thơng tin son mơi có chứa các hố chất độc
hại, ví dụ như kim loại chì từ thời sự VTV1, và xu hướng hiện nay là tự làm mỹ
phẩm sạch handmade, các nhóm sẽ tự nảy sinh và tiếp nhận nhiệm vụ “sản xuất
son môi từ thiên nhiên”.
Thực hiện nhiệm vụ này, học sinh cần phải thu thập được thông tin, phân

tích được tình huống, giải thích được ứng dụng kĩ thuật, từ đó xuất hiện các câu
hỏi hoặc xác định được vấn đề cần giải quyết.
11


▪ Sau khi đặt vấn đề, yêu cầu học sinh tìm hiểu kiến thức nền:
Từ vấn đề cần giải quyết kèm theo sản phẩm phải hồn thành với các tiêu
chí cụ thể, học sinh cần phải nghiên cứu về kiến thức có liên quan cần sử dụng
trong việc giải quyết vấn đề, thiết kế sản phẩm. Đó là những kiến thức, kĩ năng
đã biết hay cần dạy cho học sinh trong chương trình giáo dục phổ thơng. Hoạt
động này bao gồm: nghiên cứu tài liệu khoa học (bao gồm sách giáo khoa); quan
sát/thực hiện các thí nghiệm, thực hành; giải các bài tập/tình huống có liên quan
để nắm vững kiến thức, kĩ năng.
Bước 2: Khảo sát:
Khi đưa ra một vấn đề thì giáo viên hướng học sinh khảo sát, điều tra xem
vấn đề đó có phải là nhu cầu/giải pháp cần thiết? Trước đó người ta đã giải quyết
vấn đề này như thế nào rồi?
Bước 3:Ý tưởng:
Dựa trên kiến thức đã học và trí tưởng tượng, học sinh đề xuất các ý tưởng.
Giáo viên khuyến khích học sinh đề xuất nhiều phương án thiết kế sản phẩm.
Đầu tiên, các nhóm phác thảo bản vẽ kĩ thuật nhằm cụ thể các ý tưởng,
phương án thiết kế. Giáo viên khuyến khích các nhóm tự do phác thảo bản vẽ và
khơng nên nhận xét hay đánh giá bản vẽ của các nhóm khác nhằm tránh trường
hợp hạn chế tính sáng tạo của các nhóm. Sau đó, các nhóm lần lượt thuyết trình
về bản vẽ thiết kế sản phẩm. Phần thuyết trình cần làm rõ cơ cấu sản phẩm, vật
liệu dự kiến sử dụng… Các nhóm cịn lại phản biện, chỉ ra ưu điểm và nhược
điểm của từng bản vẽ thiết kế.
Trong bước này, học sinh có nhiều cơ hội để rèn luyện và phát triển năng
lực ngôn ngữ và giao tiếp. Cuối cùng, giáo viên tổ chức các nhóm thảo luận,
thống nhất bản vẽ thiết kế tối ưu, phù hợp với nguồn lực: kinh phí, dụng cụ, vật

liệu, năng lực các nhóm.
Bước 4: Kế hoạch:
Sau khi các nhóm chọn một ý tưởng tối ưu nhất, bước này lên kế hoạch
chi tiết chế tạo sản phẩm:
- Phác họa sơ đồ cấu tạo chi tiết
- Phân công công việc và thời gian thực hiện
Bước 5: Tạo dựng:
Trong hoạt động này, giáo viên sẽ tổ chức một khoảng thời gian để học
sinh có thể tiến hành chế tạo mẫu theo bản thiết kết nối ưu đã chọn ở bước 3 và
theo kế hoạch chi tiết ở bước 4.
Trong bước này, học sinh có nhiều cơ hội rèn luyện và phát triển tư duy kĩ
thuật, năng lực thực hành, hình thành và phát triến các kĩ năng gia công vật liệu
cơ bản như: sử dụng cưa máy hay cưa cầm tay, cắt gọt bằng dao kéo… Giáo
viên cần quản lí, nhắc nhở các nhóm tn thủ các quy tắc an toàn.
1
2


Bước 6: Kiểm tra, vận hành thử nghiệm và đánh giá sản phẩm:
Các nhóm cần thử nghiệm mẫu thiết kế của mình và thu thập số liệu. Có
thể tiến hành 1 hay nhiều lần thử nghiệm, phụ thuộc vào định dạng số liệu, dữ
liệu sẽ thu thập. Sau đó các đội cần phân tích số liệu và đánh giá mẫu thử
nghiệm theo các tiêu chí đã đề ra.
Nếu sản phẩm hoạt động ổn định, phù hợp với dự đốn thì các nhóm tiến
hành viết báo cáo, chuẩn bị thực hiện báo cáo sản phẩm.
Nếu sản phẩm hoạt động không ổn định, kết quả khơng phù hợp với dự đốn thì
nhóm cần tiếp tục bước 7 và quay lại theo vòng 4, 5, 6 đến khi sản phẩm ổn
định. Bước 7: Cải thiện:
Sau bước 6, nếu sản phẩm chưa ổn định, thì cần cải thiện sản phẩm đến
khi hồn chỉnh.

Bước 8: Chia sẻ:
Các nhóm có thể trình bày số liệu của mình trước tồn lớp và sau đó xác
định nhóm nào đạt kết quả tốt nhất.
Đầu tiên, giáo viên tổ chức cho các nhóm lần lượt báo cáo về sản phẩm.
Yêu cầu các nhóm trình bày được q trình gia cơng, chế tạo, đặc biệt nêu được
các khó khăn trong quá trình thực hiện và làm rõ được các giải pháp để giải
quyết các khó khăn trên. Giáo viên cần khuyến khích và hướng dẫn các nhóm
phối hợp thuyết minh với vận hành sản phẩm để minh họa, khích lệ các nhóm
huy động nhiều học sinh tham gia thuyết trình.
Sau đó, giáo viên tổ chức các nhóm phản biện, góp ý về sản phẩm, phần trình
bày của các nhóm.
Cuối cùng, giáo viên tổ chức các nhóm đánh giá báo cáo sản phẩm thơng
qua các tiêu chí đánh giá. Và căn cứ vào sự quan sát hoạt động của các nhóm,
kết quả đánh giá của các nhóm và của giáo viên để kết luận về hoạt động. Dựa
vào đó, giáo viên khen thưởng đối với nhóm hoạt động tốt.
Trong quy trình thiết kế kĩ thuật, các nhóm học sinh thử nghiệm các ý
tưởng dựa trên nghiên cứu của mình, sử dụng nhiều cách tiếp cận khác nhau,
mắc sai lầm, chấp nhận và học từ sai lầm, và thử lại. Sự tập trung của học sinh là
phát triển các giải pháp. Tiến trình bài học STEM tính đến có nhiều đáp án đúng
và coi sự thất bại như là một phần cần thiết trong học tập. Một câu hỏi nghiên
cứu đặt ra, có thể đề xuất nhiều giả thuyết khoa học; một vấn đề cần giải quyết,
có thể đề xuất nhiều phương án, và lựa chọn phương án tối ưu. Trong các giả
thuyết khoa học, chỉ có một giả thuyết đúng. Ngược lại, các phương án giải
quyết vấn đề đều khả thi, chỉ khác nhau ở mức độ tối ưu khi giải quyết vấn đề,
bài học STEM khơng có câu trả lời đúng duy nhất. Điều đó định hướng việc
đánh giá trong các bài học STEM cần đảm bảo đi sâu vào quá trình chứ khơng
chỉ dựa trên kết quả. Tiêu chí này cho thấy vai trò quan trọng của năng lực giải
quyết vấn đề và sáng tạo trong dạy học STEM.
Điều thú vị là các chương trình giáo dục STEM giúp học sinh được trải
nghiệm qua các cảm xúc của thất bại cũng như thành cơng trong q trình học

1
3


tập, một điều rất cần thiết cho sự phát triển trí thơng minh cảm xúc và tạo động
lực cho sự trưởng thành của trẻ.
I.5.2. Quy trình 5E
Quy trình 5E cũng là mơ hình phổ biến trong xây dựng bài học. 5E là viết
tắt của 5 từ bắt đầu bằng chữ E trong tiếng Anh: Gắn kết (Engage), Khám phá
(Explore), Diễn giải (Explain), Củng cố (Elaborate), Đánh giá (Evaluate). Đây là
một công cụ hữu hiệu giúp cho cả người học và người dạy cảm thấy bài học có
tính hệ thống, liền mạch, có cơ hội phát triển theo tâm lý thích được tự khám
phá và kiến tạo kiến thức.
Quy trình dạy học này giúp giáo viên giảm được thời lượng dạy lý thuyết
mà thay vào đó, tạo ra các hoạt động thực hành và khám phá. Ngồi ra, theo mơ
hình dạy học 5E, học sinh từng bước khám phá kiến thức mới dựa trên các kiến
thức đã biết trước đó, có thể cá nhân hóa q trình học của mình, tạo được sự
gắn kết với q trình học hơn.
Gần đây, mơ hình 5E cịn được mở rộng thành 6E (thêm yếu tố công nghệ
- Engineering) và 7E (thêm yếu tố Khơi gợi - Elicit, và Mở rộng - Extend) tùy
theo đặc thù của từng buổi học. Mặc dù vậy, mơ mình cốt lõi 5E vẫn được vận
dụng phổ biến nhất.
I.6. Tổ chức giáo dục STEAM cho HS qua dự án học tập
Có nhiều phương pháp và hình thức tổ chức giáo dục STEAM cho HS, ví
dụ như: dạy học giải quyết vấn đề, phương pháp “bàn tay nặn bột”, dạy học dự
án, dạy học trải nghiệm,… Mỗi cách tiếp cận lại mang lại hiệu quả giáo dục
khác nhau. Tuy nhiên, giáo dục STEAM nên được thực hiện bằng những hoạt
động trải nghiệm thực tiễn, chứa đựng các nhiệm vụ cụ thể để học sinh tham gia
giải quyết, từ đó học sinh rút ra được những bài học, hình thành và phát triển
năng lực qua quá trình giải quyết các nhiệm vụ. Đó chính là giáo dục STEAM

cho học sinh qua dự án học tập. Với đặc trưng tích hợp, định hướng hoạt động,
có ưu thế trong dạy học các vấn đề thực tiễn, và đặc biệt là trong việc hình thành
và phát triển năng lực thực tiễn cho HS.
I.6.1. Dạy học theo dự án
I.6.1.1. Khái niệm:
DHDA có thể có nhiều tên gọi (như dạy học theo DA, DHDA, PPDHDA)
và định nghĩa khác nhau. Trong đề tài này, chúng tôi sử dụng tên gọi DHDA.
Có thể khái quát hai nhóm khái niệm chính về DHDA hiện nay như sau:

– Khái niệm DHDA theo nghĩa rộng nhấn mạnh tính tự lực cao của HS.
Hoạt động thực hành không được coi là bắt buộc.
– Khái niệm DHDA theo nghĩa hẹp hơn yêu cầu DHDA gắn với hoạt
động thực hành và có tạo ra các sản phẩm hành động của DA.
Việc xếp loại DHDA cũng có nhiều quan niệm khác nhau:
1
4


– DHDAvới tư cách là một hình thức dạy học: Do trong DHDA có nhiều
phương pháp cụ thể khác nhau được sử dụng.
– DHDA được hiểu theo nghĩa rộng nhất như một quan điểm, mơ hình
hay ngun tắc dạy học với thuật ngữ dạy học định hướng DA.
Như vậy, DHDA là một hình thức dạy học, trong đó HS dưới sự điều
khiển và giúp đỡ của GV, thực hiện một nhiệm vụ học tập phức hợp, có sự kết
hợp giữa lí thuyết và thực hành, tạo ra các sản phẩm có thể giới thiệu. Nhiệm vụ
này được HS thực hiện với tính tự lực cao trong tồn bộ q trình học tập, từ
việc xác định mục đích, lập kế hoạch, đến việc thực hiện DA, kiểm tra, điều
chỉnh, đánh giá q trình và kết quả thực hiện. Làm việc nhóm là hình thức làm
việc cơ bản của DHDA. DA là một bài tập tình huống mà HS phải giải quyết
bằng các kiến thức theo nội dung bài học.

I.6.1.2. Quy trình dạy học theo dự án
Các bước tổ chức hoạt động dạy học theo dạy học dự án, xem bảng dưới đây:
Bước

Hoạt động của GV
- Xây dựng bộ câu hỏi định
hướng hợp với nội dung học
Bước 1
và mục tiêu cần đạt được.
- Thiết kế dự án: xác định lĩnh
Chuẩn bị
vực thực tiễn ứng dụng nội
(Xây dựng
dung học, đối tượng sử dụng,
ý tưởng,
ý tưởng và tên dự án.
lựa chọn
- Thiết kế các nhiệm vụ cho
chủ đề, xây
HS sao cho khi HS thực hiện xong
dựng kế
thì bộ câu hỏi được giải quyết và
hoạch thực
các mục tiêu cũng đạt được.
hiện dự án)
- Chuẩn bị tài liệu hỗ trợ HS
và dự kiến các điều kiện thực
hiện dự án trong thực tế.
- Theo dõi, hướng dẫn, đánh
giá HS trong quá trình thực hiện.

Bước 2
Thực hiện
dự án

Bước 3
Kết thúc
dự án

- Liên hệ các cơ sở, cố vấn,
khách mời cần thiết cho HS.
- Chuẩn bị cơ sở vật chất, tạo
điều kiện cho HS thực hiện.
- Sơ bộ thông qua sản phẩm
cuối của các nhóm HS.

- Chuẩn bị cơ sở vật chất cho
buổi báo cáo dự án.
- Theo dõi, đánh giá sản phẩm
dự án của các nhóm.

Hoạt động của HS
- Làm việc nhóm để lựa chọn chủ
đề dự án.
- Xây dựng kế hoạch dự án: xác
định những công việc cần làm,
thời gian dự kiến, vật liệu, kinh
phí, phương pháp tiến hành và
phân cơng cơng việc trong nhóm.
- Tìm các nguồn thông tin tin cậy
để chuẩn bị thực hiện dự án.

- Cùng GV thống nhất các tiêu
chí đánh giá dự án.
- Phân cơng nhiệm vụ các thành
viên trong nhóm thực hiện dự án
theo đúng kế hoạch.
- Tiến hành thu thập, xử lý thông
tin thu được.
- Xây dựng sản phẩm/ báo cáo.
- Liên hệ, tìm nguồn giúp đỡ.
- Thường xun thơng tin cho
GV và các nhóm khác.
- Chuẩn bị giới thiệu sản phẩm.
- Tiến hành giới thiệu sản phẩm.
- Tự đánh giá sản phẩm dự án của
nhóm theo tiêu chí.
- Đánh giá sản phẩm nhóm khác.
15


Những hoạt động quan trọng trong các bước của quy trình này:
• Quyết định chủ đề và xác định mục tiêu DA:
Việc lựa chọn chủ đề DA phụ thuộc vào sự hứng thú, quan tâm của HS và
kinh nghiệm các em đã có. Chủ đề DA có thể hấp dẫn với một nhóm HS, với cả
lớp, hay với một số HS nhất định. Bằng việc quan sát và thảo luận trên lớp, GV
sẽ phát hiện ra HS quan tâm tới vấn đề gì, vấn đề gì thực sự hấp dẫn đối với các
em và khuyến khích HS đưa ra các ý tưởng, chủ đề DA. Để khuyến khích HS
trình bày ý tưởng, GV có thể sử dụng hộp thư gợi ý thu thập sáng kiến, đề nghị
của HS, đưa ra sự kiện mang tính thời sự để HS thảo luận, lấy ý kiến của các
nhóm HS.
Chủ đề được diễn đạt tốt nhất dưới dạng một vấn đề và nên bắt đầu bằng

một vấn đề cần phải giải quyết. Kết quả cuối cùng của DA sẽ là lời giải cho vấn
đề đó.
Điều này kích thích HS hoạt động, lên kế hoạch và đặt mục tiêu đề ra.
• Xây dựng kế hoạch thực hiện: Trong giai đoạn này, với sự hướng dẫn của
GV. HS xây dựng đề cương và kế hoạch cho việc thực hiện DA, bao gồm những
công việc cần làm, thời gian dự kiến, vật liệu, kinh phí, phương pháp tiến hành
và phân cơng cơng việc trong nhóm.
• Thực hiện DA: Các thành viên thực hiện công việc theo kế hoạch đã đề ra cho
nhóm và cá nhân. Trong giai đoạn này, HS thực hiện các hoạt động trí tuệ và
hoạt động thực tiễn, thực hành; những hoạt động này xen kẽ và tác động qua lại
lẫn nhau, như:
– Thu thập các đồ dùng, tài liệu cần thiết; nghiên cứu trong lớp; trong thư
viện; qua mạng Internet.
– Có sự tham gia của phụ huynh HS.
– Xin “chuyên gia” tư vấn – viết thư – phỏng vấn – gọi điện thoại xin hẹn.
– Thu thập thông tin, chỉnh sửa và viết lại sao cho dễ hiểu.
Trong q trình đó, sản phẩm của DA học tập và thông tin mới được tạo ra.

• Thu thập kết quả và cơng bố sản phẩm: Kết quả thực hiện DA có thể được
cơng bố dưới dạng bài thu hoạch, báo cáo bằng văn bản, bài trình diễn
powerpoint, poster, mơ hình, lập trang web, tạo mơ hình hay vật thật,... Hoặc
những hành động phi vật chất, như biểu diễn một vở kịch, việc tổ chức một buổi
tuyên truyền nhằm tạo ra các tác động xã hội, phòng triển lãm trưng bày tranh
ảnh, quay video clip,…
Sản phẩm của DA học tập có thể được trình bày giữa các nhóm HS trong
một lớp, có thể được giới thiệu trước tồn trường, hay ngồi xã hội.
• Đánh giá DA học tập:
GV và HS đánh giá quá trình thực hiện và kết quả cũng như kinh nghiệm
đạt được. Việc đánh giá có thể tiến hành trước, trong và sau khi kết thúc DA,
bằng cả các phương pháp quan sát, vấn đáp và viết. Khi đánh giá, cần phải trả

lời các câu hỏi sau:
– DA vừa thực hiện có tạo điều kiện cho HS học tập tích cực khơng?
1
6


– Trong tương lai DA có thể thực hiện khác được không?
– Hướng phát triển tiếp theo của DA là gì?
Cần sử dụng những phương pháp đánh giá khác nhau như: trao đổi bằng
thư, đánh giá toàn lớp, đánh giá đồng đẳng, tự đánh giá, HS nêu câu hỏi, đánh
giá các nhóm... theo các tiêu chí đưa ra.
I.6.2. Giáo dục STEAM cho HS qua dự án học tập
Dạy học theo dự án và dạy học theo mơ hình giáo dục STEM có những
điểm tương đồng như:
- Đều hướng tới mục tiêu lâu dài, lấy người học làm trung tâm, gắn liền nội
dung và tích hợp với các vấn đề thực hành thực tế. GV chỉ đóng vai trị dẫn dắt
và trao quyền cho HS làm chủ quá trình học tập, từ đó tạo dựng mơi trường học
tập chủ động hơn.
- Đều là cách tiếp cận để giúp nhà trường, lớp học có thể tạo dựng được
mơi trường học tập và từng bướng hình thành khung năng lực của thế kỷ 21,
trong đó có mơ hình 4Cs: Tư duy phản biện; tư duy sáng tạo; kỹ năng giao tiếp;
kỹ năng hợp tác. Qua đó, HS rèn luyện kĩ năng nghề nghiệp và kĩ năng sống.
- HS được tham gia trải nghiệm vào các hoạt động trong tiến trình học theo
dự án: Lựa chon chủ đề - Lập kế hoạch – Thu thập thơng tin – xử lí thơng tin –
Trình bày kết quả - Đánh giá kết quả; tiến trình học theo dự án tiếp cận với tiến
trình nghiên cứu khoa học.
- Sau khi kết thúc các hoạt động học tập, HS thường có sản phẩm, tuy
nhiên sản phẩm học tập không phải là điều quan trọng nhất để đánh giá HS mà
đó là năng lực, kiến thức và thái độ HS có được trong q trình tạo ra sản phẩm.
- HS vận dụng kiến thức tích hợp của nhiều lĩnh vực, môn học để giải quyết

vấn đề đặt ra. Và do vậy, dạy học theo dự án hay theo mô hình giáo dục STEM
thường gắn với dạy học tích hợp liên môn các môn học trong nhà trường.
- Về mặt tổ chức các hoạt động:
+ GV tổ chức cho HS cùng tham gia đề xuất, lựa chọn chủ đề khoa học - kĩ
thuật, xác định mục tiêu, dự kiến sản phẩm, cách làm, thời gian thực hiện dự án.
+ GV thường dùng bộ câu hỏi định hướng để giúp HS tự hoạt động nhóm
thu thập, xử lý, tổng hợp thơng tin, xây dựng sản phẩm khoa học - kĩ thuật.
+ GV tổ chức cho HS báo cáo, trình bày sản phẩm khoa học - kĩ thuật, đánh
giá, rút kinh nghiệm, đúc kết các kiến thức trọng tâm thu được…
Như vậy, từ những phân tích ở trên, có thể rút ra rằng “ dạy học dự án là
phương pháp dạy học tích cực rất phù hợp để tổ chức dạy học các chủ đề/bài học
STEM đòi hỏi chế tạo sản phẩm”. Và việc tổ chức học tập dự án theo giáo dục
STEM là hoạt động học tập nhằm tạo cơ hội cho HS tổng hợp kiến thức từ nhiều
lĩnh vực học tập, và áp dụng một cách sáng tạo vào thực tiễn; thể hiện “học đi
đôi với hành, lý luận gắn với thực tiễn”.
1
7


I.6.3. Qui trình tổ chức dạy học dự án theo định hướng giáo dục STEAM cho HS

Qua quá trình nghiên cứu tổ chức dạy học theo định hướng giáo dục STEAM và
dạy học dự án, chúng tôi xin đề xuất quy trình chuẩn bị, tổ chức một dự án theo
giáo dục STEAM cho học sinh THPT theo các bước sau:
Nêu ý tưởng; xác định mục tiêu; lựa chọn chủ đề
dự án, xây dựng các tiểu chủ đề

Chuẩn bị dự án

Xác định đối tượng, hình thức, tên dự án, các yếu tố

STEAM
Thiết kế tiến trình chi tiết dự án
Chuẩn bị CSVC, thiết bị, tài liệu, kinh phí cần thiết
Giới thiệu dự án, lập nhóm, chuyển giao nhiệm vụ cho
HS, thống nhất cách thức thực hiện, tiêu chí đánh giá

Thực hiện dự án
Triển khai thực hiện theo tiến trình dự án

Tổng hợp kết quả
dự án

Báo cáo kết quả, chia sẻ sản phẩm và đánh giá dự án

Quy trình các bước thực hiện một dự án theo giáo dục STEM cho HS THPT
Bước 1. Chuẩn bị dự án
• Nêu ý tưởng:
Một ý tưởng hay vấn đề thường xuất phát từ một câu hỏi, một sự nghi ngờ.
Vấn đề có thể mang tính lí thuyết (về các hiện tượng, khái niệm, cơng thức,…)
hay tính thực tiễn; thuộc mảng xã hội hay kĩ thuật; có thể mơ tả ngắn gọn hoặc
hết sức trừu tượng. Hồi nghi và đặt vấn đề chính là điểm mấu chốt, khởi đầu
cho sự học tập không ngừng nghỉ của HS. Với mỗi đề tài, cách đặt vấn đề tạo
tình huống bằng một câu chuyện, bằng các hình ảnh, bằng mơ hình, … phải thực
sự gây chú ý, tạo sự tị mò khoa học; phải giúp HS xác định rõ ràng vấn đề mà
HS phải giải quyết trong dự án.
1
8


GV nên lựa chọn các vấn đề phù hợp, vừa sức, khơng q phức tạp, có thể

liên hệ từ các tình huống trong thực tiễn để HS dễ hình dung ra vấn đề. Sau đó,
cho HS thảo luận, thống nhất về các tiểu chủ đề cần tìm hiểu để thực hiện dự án.
Ở mỗi tiểu chủ đề, GV nên có bộ câu hỏi định hướng ngay từ đầu để HS có thể
hình dung được vấn đề mình cần giải quyết.
• Xác định mục tiêu về kiến thức, kĩ năng, thái độ, năng lực HS cần đạt được sau
khi thực hiện dự án. Mục tiêu cần rõ ràng, chi tiết có tính khả thi phù hợp với
năng lực HS và điều kiện của trường học. GV chú ý rằng do dự án địi hỏi sử
dụng kiến thức tích hợp liên mơn nên trong mục tiêu cần chỉ rõ kiến thức của
từng môn học đạt được. GV cần chú ý các năng lực HS đạt được khi thực án
theo giáo dục STEAM như năng lực hợp tác, năng lực tự học, năng lực giải
quyết vấn đề; các kĩ năng cần thiết để hoàn thành dự án, đặc biêt các kĩ năng liên
quan đến cơng nghệ và kĩ thuật.
• Xác định đối tượng, hình thức, tên dự án, các yếu tố STEAM
- Xác định đối tượng phù hợp với dự án trên cơ sở nội dung bám sát với
chương trình phổ thơng của Bộ Giáo dục và Đào tạo. Xác định thời gian phù
hợp gồm cả thời gian chuẩn bị, thời gian thực hiện. Mỗi dự án nên xây dựng thời
gian thực hiện trên lớp từ 60 đến 120 phút.
- Hình thức tổ chức: có thể tổ chức trong giờ học chính khóa tại các phòng
STEM/phòng học của nhà trường hoặc tại các cơ sở sản xuất, phòng STEM các
doanh nghiệp, các trường đào tạo nghề. Ví dụ tại trường THPT Huỳnh Thúc
Kháng, HS được tổ chức ở phòng học STEAM mới của trường với đầy đủ các
thiết bị hiện đại. Khi tổ chức tại trường, GV cần chú ý tuân thủ theo nội quy của
trường như giờ giấc sinh hoạt, việc sử dụng internet và điện thoại, các biện pháp
an toàn cho HS…Do vậy, GV cần thường xuyên nhắc nhở, theo dõi quá trình
làm việc của HS phải đúng các yêu cầu của kế hoạch dự án đã đề ra.
- Xác định các yếu tố STEAM liên quan: Khác với các dự án thơng
thường, dự án STEAM cịn thêm bước xác định các yếu tố STEAM liên quan
khi thực hiện dự án. GV cần phân tích, làm rõ các thành phần S, T, E, A, M khi
chuẩn bị dự án. Tuy nhiên khi giới thiệu dự án cho HS, GV nên để HS tự phân
tích các yếu tố này, cịn GV chỉ đóng vai trị hướng dẫn mà khơng nên làm thay

HS. GV cần yêu cầu HS chỉ rõ đâu là kiến thức của từng mơn học, nội dung đó
nằm trong lớp nào, chương nào, vận dụng để giải quyết nội dung gì…
• Thiết kế tiến trình chi tiết dự án
Sau khi thực hiện các bước trên, GV vạch tiến trình chi tiết các bước thực
hiện một dự án. Bao gồm: Xác định ý tưởng; xác định mục tiêu của dự án theo
giáo dục STEAM; xác định được quy trình (các hoạt động hoặc chuỗi hoạt
động) kĩ thuật để thực hiện dự án theo giáo dục STEAM. Việc thiết kế cần chi
tiết, rõ ràng, đảm bảo đúng với mục tiêu đề ra.
Giáo án ở bước này nên được tổ chức qua 5 hoạt động cơ bản như sau:
1
9


Hoạt động 1: Chuyển giao nhiệm vụ cho HS
Hoạt động 2: Nghiên cứu kiến thức nền; khảo sát vấn đề, đề xuất phương
án chế tạo sản phẩm.
Hoạt động 3: Trình bày và bảo vệ phương án; lên kế hoạch chế tạo sản phẩm.

Hoạt động 4: Chế tạo sản phẩm theo phương án thiết kế đã chọn.
Hoạt động 5: Chia sẻ sản phẩm và thảo luận.
Mối hoạt động cần chỉ rõ: thời gian, hình thức thực hiện, mục đích, nội
dung, sản phẩm dự kiến của HS và cách thức tổ chức hoạt động.
• Chuẩn bị CSVC, thiết bị, tài liệu, kinh phí cần thiết
- Dự án tiến hành ở đâu? Bố trí, sắp xếp phịng ốc, địa điểm như thế nào?
- Dự kiến thiết bị (tìm ở đâu/mua ở đâu?), tài chính cần thiết cho dự án?
(Có thể huy động tài chính từ những nguồn nào?..)
• Giới thiệu dự án, chuyển giao nhiệm vụ cho HS
- GV giới thiệu dự án tới HS: Tên dự án, mục tiêu, những nội dung cần giải
quyết của dự án. GV cần lưu ý vừa gợi mở ý tưởng cho HS nhưng cũng không
làm hộ hồn tồn hết các bước cho HS.

- Chia nhóm, chuyển giao nhiệm vụ: GV có thể để HS tự lựa chọn nhóm
làm việc của mình. Tuy nhiên cần thống nhất với HS ngay từ đầu về số lượng
các thành viên nhóm, cách thức chia nhóm.
- Gợi ý HS/ nhóm HS xác lập nhóm các vấn đề cần phải lần lượt giải quyết
để làm căn cứ giải quyết câu hỏi chính của dự án.
- Định hướng HS tìm và sử dụng các vật liệu liên quan. Giới thiệu những
người có khả năng hỗ trợ cho HS khi thực hiện dự án, hướng dẫn HS liên hệ, tìm
nguồn giúp đỡ khi cần, hoặc cách thức tra cứu tài liệu trên Internet, trong thư
viện, …
- Quy định cách thức thực hiện, tiêu chí đánh giá: GV và các nhóm thống
nhất các tiêu chí đánh giá trên cơ sở các nội dung ở kế hoạch GV đã vạch ra. Có
thể bao gồm đánh giá của GV, đánh giá giữa các nhóm và đánh giá các thành
viên trong nhóm với nhau. Các tiêu chí đưa ra nên rõ ràng, có điểm số. Đối với
dự án theo giáo dục STEAM cần nhấn mạnh việc đánh giá không chỉ riêng sản
phẩm cuối cùng của dự án mà cịn cả q trình thực hiện dự án.
- Chuẩn bị các mẫu vật, hóa chất, dụng cụ, vị trí để thực hiện dự án STEAM:
Trên cơ sở nội dung, mục tiêu chủ đề, HS chuẩn bị đầy đủ cơ sở vật chất, dụng
cụ… cần thiết để tổ chức thực hiện dự án; GV hỗ trợ HS khi cần thiết.
Bước 2. Thực hiện dự án
Triển khai thực hiện theo tiến trình dự án. Qui trình này thường được thực
hiện theo qui trình thiết kế kĩ thuật của giáo dục STEAM (đã nêu ở trên)
2
0


HS trong q trình thực hiện dự án phải ln luôn liên hệ, báo cáo kết quả
thực hiên định kỳ với giáo viên phụ trách để được tư vân, hỗ trợ kịp thời.
Bước 3. Tổng hợp kết quả dự án
Báo cáo kết quả, chia sẻ sản phẩm và đánh giá dự án
- Hướng dẫn, hỗ trợ HS trình bày, tranh luận, bảo vệ kết quả nghiên cứu.

HS báo cáo kết quả quá trình ứng dụng STEAM giải quyết vấn đề thực tiễn, có
thể đề xuất một số vấn đề mới phát sinh, ý tưởng mới liên quan đến chủ đề.
Đối với dự án theo giáo dục STEAM thì sản phẩm không phải là mục tiêu
quan trọng nhất. GV cần chú ý rằng quá trình HS vận dụng các kiến thức liên để
giải quyết vấn đề cũng là một bước hết sức quan trọng. HS không chỉ nắm kiến
thức lý thuyết trong chương trình mà cịn biết vận dụng các kiến thức đó để giải
quyết vấn đề thực tiễn. Và thậm chí các kiến thức đó khơng chỉ được vận dụng
đơn lẻ trong nội mơn, chúng cịn được liên kết, xâu chuỗi với nhau ở nhiều mơn
học. Đó là một trong những ý nghĩa tích cực mà dạy học theo giáo dục STEAM
đem lại cho HS.
- Tổng kết, đánh giá theo tiêu chí đề ra, khen thưởng khi kết thúc buổi trình
bày dự án. GV cần phải khẳng định thành quả tìm tịi nghiên cứu của từng
nhóm. Chỉ ra những ưu, nhược điểm của từng nhóm trong việc lập kế hoạch tìm
hiểu, nghiên cứu của nhóm, việc phân cơng, hợp tác thực hiện giữa các thành
viên trong nhóm.
- GV có thể cho HS tiếp tục mở rộng, nghiên cứu phát triển dự án.
I.7. Đánh giá năng lực trong dạy học dự án định hướng giáo dục STEAM
Một vấn đề rất lớn trong giáo dục STEAM đó là đánh giá kết quả học tập
của học sinh. Vì cách dạy thay đổi, cách học cũng thay đổi, kể cả môi trường
học cũng thay đổi nên cách đánh giá không thể áp dụng theo kiểu truyền thống
được. Chúng ta cần có một hệ thống và bộ tiêu chuẩn và cả phương pháp đánh
giá mới. Đây là một vấn đề lớn và rất quan trọng, thể hiện được chất lượng
chương trình, giúp giáo viên biết được quá trình dạy học của mình, cũng như
học sinh biết được sự tiến bộ của bản thân. Đặc điểm của giáo dục STEAM là
định hướng sản phẩm, phương pháp giảng dạy là dạy học dựa trên dự án, học tập
theo nhóm… Do vậy, việc đánh giá thường xuyên, đa dạng hóa các hình thức và
cơng cụ đánh giá là rất cần thiết.
Mục tiêu trong giáo dục STEAM là mục tiêu phát triển năng lực, phẩm
chất học sinh do đó nguyên tắc đánh giá trong giáo dục STEAM bám sát nguyên
tắc đánh giá năng lực, đó là:

- Đánh giá bám sát mục tiêu phát triển năng lực.
- Đánh giá quá trình kết hợp với đánh giá kết quả. Đánh giá q trình thơng
qua quan sát trực tiếp, thơng qua sản phẩm của q trình. Đánh giá kết quả thơng
qua sản phẩm cuối cùng, thông qua bài kiểm tra.
- Đánh giá của giáo viên sử dụng cả các kết quả tự đánh giá và đánh giá
đồng đẳng.
2
1


II. CƠ SỞ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI
II.1. Giáo dục STEAM trên thế giới

Trên toàn thế giới, các nhà lãnh đạo, các nhà khoa học đều nhấn mạnh vai
trò của giáo dục STEM. Chẳng hạn, ở Mỹ, Quốc hội, Tổng thống, và Bộ Lao
động cùng chung quan điểm thúc đẩy, khuyến khích giáo dục STEM, xuất phát
từ bài tốn liên quan đến chất lượng nhân lực trong tương lai. Sự kiện Science
Fair hằng năm ở Nhà Trắng cho thấy Chính phủ Mỹ quan tâm truyền hứng thú
tìm tịi khoa học cho học sinh như thế nào. Tổng thống Barack Obama phát biểu
tại Hội chợ Khoa học Nhà Trắng hàng năm lần thứ ba, tháng 4 năm 2013: “Một
trong những điều mà tôi tập trung khi làm Tổng thống là làm thế nào chúng ta
tạo ra một phương pháp tiếp cận tồn diện cho khoa học, cơng nghệ, kỹ thuật và
tốn học (STEM)... Chúng ta cần phải ưu tiên đào tạo đội ngũ giáo viên mới
trong các lĩnh vực chủ đề này và để đảm bảo rằng tất cả chúng ta là một quốc gia
ngày càng dành cho các giáo viên sự tôn trọng cao hơn mà họ xứng đáng.”
Sau 2014, thực tiễn triển khai STEM tại Mỹ tiếp tục đưa ra thách thức tiếp theo
cho các nhà lập pháp: đó là sự mở rộng của các chương trình STEM để bao gồm yếu tố

Arts: các lĩnh vực nghệ thuật trong nội hàm của Giáo dục khai phóng.
Khái niệm STEAM được chào đón và ngày càng nhiều chương trình

STEM được thiết kế với Arts để học sinh không chỉ hợp tác sáng tạo khoa học,
mà cả sáng tạo khai phóng, sáng tạo nhân văn.
II.2. Giáo dục STEAM tại Việt Nam
II.2.1. Thực trạng giáo dục STEAM tại Việt Nam
Nếu như các nước phát triển trên thế giới, STEM/STEAM xuất phát từ
trường học trước khi bước ra thị trường, thì ở Việt Nam STEM/STEAM bước ra
thị trường trước khi đi vào trường học và hiện đang phát triển ở khía cạnh
thương mại mạnh hơn so với khía cạnh giáo dục cộng đồng. Hay nói cách khác,
giáo dục STEM/STEAM ở Việt Nam mới chỉ bùng nổ trên thị trường, chưa thực
sự phát triển mạnh mẽ ở học đường.
Giáo dục STEM/STEAM được giới thiệu ở Việt Nam lần đầu cách đây
khoảng 7 năm, ở thời điểm đó nó hướng đến thị trường cao cấp ở những thành
phố lớn và cũng chỉ tập trung vào mảng Robot và lập trình. Từ đó đến nay giáo
dục STEM/STEAM đã bắt đầu có sự lan toả với nhiều hình thức, nhiều cách
thức thực hiện, nhiều tổ chức hỗ trợ khác nhau. Hệ thống các công ty giáo dục tư
nhân Việt Nam đã rất nhanh nhạy đưa giáo dục STEM/STEAM, mà chủ yếu là
các hoạt động Robot vào giảng dạy tại các trường tiểu học, trung học phổ thông
tại một số thành phố lớn như Hà Nội, Hồ Chí Minh, Đà Nẵng bằng hình thức xã
hội hố. Giáo dục STEM/STEAM hiện nay tại Việt Nam hầu hết là cuộc chơi
2
2


của các công ty tư nhân tại các thành phố lớn và một số hoạt động phong trào tại
nhiều địa phương. Và những phát triển ào ạt đó khiến người ta đôi lúc quên mất
rằng, giáo dục STEM/STEAM theo nghĩa rộng là một định hướng dạy học mang
tính thực hành và gắn liền với thực tiễn cuộc sống chứ không đơn thuần là
hướng dẫn cách làm những thí nghiệm vật lý, hóa học hay lắp ráp, lập trình cho
một con Robot cụ thể. Tiến hành một thí nghiệm thì dễ nhưng giúp học sinh hiểu
bản chất của thí nghiệm và liên kết được thí nghiệm với các ứng dụng trong

cuộc sống lại không hề đơn giản; việc xây dựng một định hướng dạy và học mới
trong nhà trường cũng như vậy, vô cùng thách thức.
Với Chỉ thị số 16/CT-TTg vào ngày 4 tháng 5 năm 2017 của Thủ tướng
Chính phủ về việc tăng cường năng lực tiếp cận cuộc cách mạng cơng nghiệp
lần thứ tư, trong đó có những giải pháp và nhiệm vụ thúc đẩy giáo dục
STEM/STEAM tại Việt Nam, giáo dục STEM/STEAM đã bắt đầu sôi nổi tại học
đường. Nhiều trường học triển khai thúc đẩy các hoạt động STEM/STEAM
thơng qua các câu lạc bộ hay chương trình ngoại khóa. Các hoạt động
STEM/STEAM đã tạo được hiệu ứng tích cực nhưng cũng có nhiều vấn đề đáng
nói. Các CLB STEM/STEAM hiện giờ chủ yếu do giáo viên định hướng và tổ
chức hoạt động, học sinh về cơ bản chỉ thực hành theo hướng dẫn. Trong khi đó,
một CLB STEM/STEAM có nội lực đúng nghĩa phải là nơi học sinh tự vận hành
được CLB, giáo viên chỉ đóng vai trị hỗ trợ khi cần thiết. Có những CLB
STEM/STEAM nổi tiếng với những học sinh có thể lắp ráp, lập trình những
robot tương đối phức tạp, nhưng nếu tìm hiểu kỹ thì đó là do nỗ lực của cá nhân
học sinh và gia đình học sinh bởi vậy sự xuất sắc đó khơng phản ánh đúng nội
lực của câu lạc bộ. Còn các ngày hội STEM/STEAM lẽ ra phải là nơi trưng bày
và trình diễn các sản phẩm thể hiện hoạt động trong suốt một năm của CLB
STEM/STEAM ở các trường nhưng thực tế nhiều đơn vị đến gần ngày hội mới
lên chương trình, xây dựng sản phẩm và các thầy cơ vẫn là những đạo diễn
chính. Bên cạnh đó, một số trung tâm ngoại ngữ sẵn sàng huy động giáo viên
tiếng Anh sang dạy STEM/STEAM với quan điểm chỉ cần lên mạng, tải tài liệu
hướng dẫn về là có thể đứng lớp STEM/STEAM.
Tuy nhiên, bất kì sự thay đổi lớn nào cũng có những khó khăn khi mới
bắt đầu, bằng sự quan tâm của các cấp lãnh đạo đặc biệt những năm gần đây,
chúng tôi tin rằng giáo dục STEM/STEAM sẽ ngày càng được chuẩn hóa nội
dung, cùng đội ngũ giáo viên và công tác đánh giá. Và chúng ta chờ đợi sự bùng
nổ của STEM/STEAM trên học đường vào một ngày khơng xa.
II.2.2. Những thuận lợi và khó khăn khi triển khai giáo dục STEAM tại Việt
Nam II.2.2.1. Thuận lợi

- Về phía giáo viên: Nhiều người lo ngại rằng giáo dục STEAM sẽ làm mất
đi các thành tựu đạt được của ngành giáo dục hiện nay và buộc giáo viên phải
thay đổi hoàn toàn về nội dung và phương pháp giảng dạy. Trên thực tế, giáo
viên dạy các môn khoa học và kỹ thuật ở Việt Nam đã có một nền tảng lý thuyết
2
3


tốt, nay các giáo viên chỉ cần được trang bị thêm kỹ năng, phương pháp xây
dựng bài giảng theo hướng tích hợp và gắn với thực tế nhiều hơn. Để làm được
như vậy, khung chương trình đào tạo có thêm các khoảng thời gian sáng tạo, học
sinh được học thực hành và trải nghiệm thực tế nhiều hơn. Giáo viên có thể kế
thừa và chủ động trong việc xây dựng bài giảng trên cơ sở một chương trình
khung, có thể tham khảo nhiều nguồn sách giáo khoa và chọn tài liệu giảng dạy
tùy vào đặc điểm của lớp học và sự hứng thú của học sinh. Do đó giáo dục
STEAM giúp giáo viên chủ động hơn trong việc dạy học sáng tạo và truyền cảm
hứng, một cơ hội giúp giáo dục Việt Nam theo kịp các nền giáo dục tiên tiến trên
thế giới.
- Về phía học sinh: Kinh nghiệm giáo dục STEAM tại Mỹ được xây dựng
từ nền tảng của giáo dục các môn khoa học tự nhiên, do vậy, rất cần chuẩn hóa
lại các chương trình giáo dục khoa học tự nhiên ở các bậc học theo hướng tiếp
cận giáo dục STEAM. Ví dụ: giáo viên dạy Vật lý sẽ hướng các bài tập thực
hành vật lý tích hợp với cơng nghệ, kỹ thuật và tốn nữa. Hay giáo viên sinh học
cũng cần được hỗ trợ để tích hợp thêm cả cơng nghệ, kỹ thuật và tốn vào các
hoạt động dạy học và thực hành... Với thành tích gần đây của học sinh Việt Nam
tại các kỳ thì khoa học tự nhiên quốc tế, chúng ta có được một động lực mạnh
mẽ để tiếp tục kế thừa và phát triển giáo dục các môn này lên tầm cao mới,
hướng đến thực hành và tích hợp liên ngành nhiều hơn, đưa các bài học lý thuyết
gần hơn với thực tiễn. Ngồi ra, bên cạnh các giờ học chính khóa, cần có thêm
đa dạng các hoạt động ngoại khóa, giúp tăng sự trải nghiệm và vận dụng kiến

thức của học sinh.
- Giáo dục STEAM không nhất thiết đầu tư nhiều vào cơ sở vật chất: hầu
hết các hoạt động giáo dục đều cần mức đầu tư nhất định, giáo dục STEAM có
rất nhiều mức độ, trong đó hầu hết các hoạt động giáo dục đều cần mức đầu tư
chi phí giống như các hoạt động giáo dục khác, chỉ có một số hoạt động giáo dục
có tính đặc thù mới địi hỏi mua sắm thiết bị hiện đại, còn phần lớn đều tận dụng
các cơ sở vật chất có sẵn giống như ở các trường học khi dạy các mơn thí
nghiệm thực hành cho học sinh. Ví dụ khi dạy chủ đề STEAM liên quan đến
môi trường, học sinh chỉ cần thực hiện trồng một chậu cây nhỏ ở nhà và quan sát
sự phát triển của cây, hay chỉ là tận dụng các vật liệu có sẵn trong gia đình như
bình nước nhựa, hộp giấy, vỏ chai… Thậm chí có những bài học STEAM tốn rất
ít chi phí, chẳng hạn như khi lớp học được tổ chức ở những nơi công cộng, sở
thú, bảo tàng, công viên, vườn cây… giúp học sinh rèn luyện kỹ năng quan sát,
phân tích và đánh giá.
II.2.2.2. Khó khăn
- Giáo dục Việt Nam cịn q chú trọng kiến thức hàn lâm, thi cử: Một
điều thú vị, mặc dù nước Mỹ là cái nôi khai sinh ra khái niệm STEAM, nó đã
lan tỏa đi khắp thế giới, nhưng thành tích của giáo dục phổ thơng thường kém xa
với các nước châu Á, trong đó có Việt Nam. Có nhiều nguyên nhân để lý giải
2
4


×