Việt Nam thời tiền sử
Việt Nam có một nền văn hoá đặc sắc, lâu đời và là một xã hội đã hình
thành nhà nước sớm nhất ở Đông Nam Á
Hậu thời đại đồ đá cũ
Văn hóa Sơn Vi
Văn hóa Sơn Vi, Vĩnh Phú thuộc hậu kỳ thời đại đá cũ, có niên đại cách
đây 11-18 nghìn năm, phân bố rất rộng trong các hang động và thềm
sông cổ từ Lào Cai đến Nghệ An. Những nhóm cư dân nguyên thủy này
sinh sống bằng hái lượm và săn bắt trong một hệ sinh thái miền nhiệt -
ẩm với một thế giới động vật và thực vật phong phú, đa dạng.
Cách ngày nay khoảng 11.000 năm đến 2.000 trước Công Nguyên các
cư dân Việt cổ đã tụ cư đông đúc tại khu vực trung du Bắc Bộ Việt Nam
phát triển sinh sôi bằng săn bắn hái lượm trên một vùng bán sơn địa dồi
dào sản vật: muông thú, các loài chim, các sản vật động thực vật của các
vùng sông nước lưu vực sông Hồng ngập nước và rút khô, theo các mùa
trong năm.
Thời đại đồ đá mới
Văn hóa Hòa Bình
Những di chỉ khảo cổ phát hiện ở các hang động Hòa Bình rất phong
phú và khá dày đặc tạo thành thuật ngữ "Văn hóa Hòa Bình"
[1]
. Hòa
Bình, một địa danh bên dòng sông Đà, là nơi đầu tiên các nhà khảo cổ
học khám phá ra một nền văn hóa thuộc cuối thời đồ đá cũ đến thời đồ
đá mới trên một vùng ảnh hưởng rộng lớn thuộc Đông Nam Á và Nam
Trung Quốc.
Đặc điểm Bắc Bộ
Văn hóa Đông Sơn là một giai đoạn trong nền văn minh sông Hồng, kế
thừa và phát triển từ Văn hóa Hòa Bình, Văn hóa Phùng Nguyên, Văn
hóa Đồng Đậu và Văn hóa Gò Mun. Văn hoá Đông Sơn có những nét
độc đáo riêng đồng thời vẫn mang nhiều điểm đặc trưng của văn hoá
vùng Đông Nam Á và nền văn minh lúa nước. Đây cũng là thời kỳ ra
đời nhà nước phôi thai đầu tiên của Việt Nam dưới hình thức cộng đồng
làng và siêu làng.
Các nhà khảo cổ học đã khám phá ra một nền văn hóa gồm nhiều di vật
rất sớm. Các công cụ bằng đồng, bằng đồ gốm cùng với di chỉ những
khu luyện đúc đồng thời xa xưa trên đất Việt cổ. Thời kỳ đầu của văn
hóa Đông Sơn, các cư dân người Việt cổ phát triển và giao lưu trong
phạm vi hạn chế do đặc điểm rừng rậm nhiệt đới, sản vật và thức ăn dồi
dào nên chưa chịu ảnh hưởng nhiều của các nền văn hóa ngoài. Việc
khai phá đồng bằng sông Hồng chưa đặt ra cấp thiết do dân cư chưa
đông đúc và nhu cầu kiếm sống và sinh hoạt chưa ra khỏi vùng trung du
Bắc Bộ. Chính yếu tố đó đã giúp người Việt hình thành một cộng đồng
có tính thuần nhất, họ chính là tổ tiên của người Việt hiện đại.
Cụm từ "Văn hóa Hòa Bình" được giới khảo cổ học chính thức công
nhận từ ngày 30 tháng 1 năm 1932, do đề xuất của Madeleine Colani,
sau khi đã được Đại hội các nhà Tiền sử Viễn Đông họp tại Hà Nội
thông qua. Khởi thủy, cụm từ này được dùng để nói đến nền văn hóa
cuội được ghè đẽo trên khắp chu vi hòn cuội để tạo ra những dụng cụ từ
thời đá cũ đến thời đá mới.
Qua thời gian, tất nhiên, cụm từ này đã được đề nghị mang những tên
khác nhau và có những ý nghĩa cũng khác nhau. Lúc đầu, nó chỉ nói về
nền văn hóa có khoảng không gian là miền Bắc Việt Nam, và khoảng
thời gian không quá 5.000 năm trước đây. Nhưng khoảng không gian lẫn
thời gian trên được nới rộng dần. T. M. Matthews có lẽ là người đầu tiên
đã đem "Văn hóa Hòa Bình" vượt khỏi lãnh thổ Việt Nam đến các vùng
Đông Nam Á, và rồi người ta nói đến Văn hóa Hòa Bình ở Miến Điện,
Campuchia, Lào, Malaysia, Sumatra, Thái Lan, Ấn Độ, Tứ Xuyên
Nhưng có lẽ không ai mở rộng ảnh hưởng của Văn hóa Hòa Bình bằng
Gs. W. G. Solheim II. Về không gian, ông đã đưa Văn hóa Hòa Bình,
phía Đông Bắc đến Philippines, Nhật Bản, phía Tây đến Thái Lan, phía
Nam đến tận Úc và phía Bắc bao trùm cả hai nền văn hóa cổ của Trung
Hoa là Văn hóa Ngưỡng Thiều (仰韶, Yangshao) và Văn hóa Long Sơn
(龙山, Longshan). Về thời gian, ông không định rõ, nhưng tuyên bố
không ngạc nhiên nếu thấy việc thuần hóa cây lúa nước đã có tại Hòa
Bình từ 15.000 năm trước Công Nguyên, và những dụng cụ đá mài có
lưỡi bén tìm thấy ở Bắc Úc có tuổi khoảng 20.000 năm trước Công
Nguyên đo bằng cacbon C14 có nguồn gốc từ nền Văn hóa Hòa Bình.
Đấy là chưa kể đến dự phóng của ông về niên đại Hòa Bình lên đến
50.000 năm trước khi ông viết "Đông Nam Á và tiền sử học thế giới"
đăng trong Viễn Cảnh Châu Á, tập XIII năm 1970. Riêng trong phạm vi
nước Việt Nam ngày nay, Văn hóa Hòa Bình được khoa học khảo cổ
phân chia thành ba thời kỳ:
• Hòa Bình sớm, hay Tiền Hòa Bình, có niên đại tiêu biểu là di chỉ
Thẩm Khuyên (32.100 ± 150 trước Công Nguyên), Mái Đá Điều,
Mái Đá Ngầm (23.100 ± 300 TCN).
• Hòa Bình giữa, hay Hòa Bình chính thống, tiêu biểu bởi di chỉ
Xóm Trại (18.000 ± 150 TCN), Làng Vành (16.470 ± 80 TCN).
• Hòa Bình muộn, tiêu biểu bằng di chỉ ở Thẩm Hoi (10.875 ± 175),
Sũng Sàm (11.365 ± 80 BP, BLn - 1541/I).
Văn hóa Bắc Sơn
Văn hóa Bắc Sơn là tên gọi một nền văn hóa Việt Nam ở sơ kỳ thời đại
đồ đá mới có niên đại sau nền văn hóa Hòa Bình, cách ngày nay từ một
vạn đến tám ngàn năm. Bắc Sơn là đặt theo tên huyện Bắc Sơn, nơi phát
hiện đầu tiên những di vật của nền văn hóa này. Các bộ lạc chủ nhân của
văn hóa Hòa Bình đã tạo ra nền văn hóa Đông Sơn.
Không gian của văn hóa Bắc Sơn là các miền đất thuộc các tỉnh Lạng
Sơn, Thái Nguyên, Hòa Bình, Ninh Bình, Thanh Hóa, Nghệ An ngày
nay. Tính đến năm 1997, đã có 51 điểm văn hóa Bắc Sơn được tìm thấy
và khai quật. Trong số đó, có 8 địa điểm tìm thấy di cốt người.
Trên lưu vực sông Hồng, các nhà khảo cổ học đã xác lập chắc chắn được
một phổ hệ gồm 3 giai đoạn trước Văn hóa Đông Sơn và sau Văn hóa
Hòa Bình diễn ra trong thiên niên kỷ thứ hai đến thế kỷ thứ 1 trước
Công Nguyên:
• Giai đoạn Văn hóa Phùng Nguyên thuộc sơ kỳ đồng thau.
• Giai đoạn Văn hóa Đồng Đậu thuộc trung kỳ đồng thau.
• Giai đoạn Văn hóa Gò Mun thuộc hậu kỳ đồng thau.
Thời đại đồ đồng đá
Văn hóa Phùng Nguyên
Bài chi tiết: Văn hóa Phùng Nguyên
Di chỉ đá muộn Phùng Nguyên
Việc phát hiện ra di chỉ ở Phùng Nguyên thuộc về các nhà khảo cổ học
Việt Nam (năm 1959). Giai đoạn này các nhà khảo cổ học chưa tìm thấy
nhiều các hiện vật bằng đồng. Di vật ở lớp văn hóa Phùng Nguyên chủ
yếu là các công cụ đá mài sắc sảo, có vai và đặc biệt khá nhiều đồ trang
sức bằng đá. Có thể liệt kê số di vật tìm thấy ở các lần khai quật di chỉ
Phùng Nguyên là: 1.138 rìu, 59 đục, 3 giáo, 2 mũi nhọn, 7 mũi tên, 1
cưa, 189 bàn mài; 540 vòng tay, 8 khuyên tai, 34 hạt chuỗi, 3 đồ trang
sức và hàng chục vạn mảnh đồ gốm 1.
Theo đánh giá của giới khoa học, cư dân Phùng Nguyên là những người
đã định cư ổn định và sống theo từng cụm dân cư làng xã chặt chẽ và đã
thực sự có những khu vực sản xuất thủ công, mỹ nghệ.
Văn hóa Phùng Nguyên đã phát triển liên tục vào khoảng thiên niên kỷ
thứ 2 trước Công Nguyên tức cách đây khoảng từ 3.000 đến 4.000 năm.
Những kết quả phân tích phóng xạ đồng vị C14 của carbon đã xác định
là những truyền thuyết về kỷ Hồng Bàng khoảng 4000 năm xưa là có cơ
sở
[2]
.
Thời đại đồ đồng
Văn hóa Đồng Đậu
Giai đoạn Đồng Đậu, căn cứ vào di chỉ khảo cổ Đồng Đậu Vĩnh Phúc
phát hiện năm 1964 có niên đại là 3070 ± 100 năm cách ngày nay (nửa
sau thiên niên kỷ II trước công nguyên).
Hiện vật đồ đồng sớm nhất châu Á của người Việt Cổ
Văn hóa Gò Mun
Giai đoạn Văn hóa Gò Mun căn cứ vào di chỉ Gò Mun thuộc Phú Thọ,
phát hiện năm 1961 tồn tại vào nửa đầu thiên niên kỷ I trước công
nguyên, có niên đại C14 là: 3045 ± 120 năm cách năm 1950
[3]
thuộc văn
hóa Gò Mun. Đặc điểm của giai đoạn này là kỹ thuật luyện kim khá phát
triển, công cụ bằng đồng thau chiếm ưu thế (52%).
Thời đại đồ sắt
Văn hóa Đông Sơn
Giai đoạn Đông Sơn căn cứ vào hiện vật thuộc di chỉ Đông Sơn Thanh
Hóa có niên đại sớm là 2820 ± 120 năm
[4]
. Ngoài ra còn nhiều di chỉ
thuộc giai đoạn văn hóa Đông Sơn có niên đại kế tiếp nhau như Việt
Khuê, Làng Vạc, Châu Can đã được phát hiện.
Đây là giai đoạn chuyển tiếp từ sự phát triển rực rỡ của đồ đồng đạt đến
mức hoàn hảo cả về mặt kỹ thuật và mỹ thuật sang sơ kỳ đồ sắt. Giai
đoạn cuối của văn hóa Đông Sơn kéo dài đến vài ba thế kỷ sau Công
nguyên.
Văn hóa Sa Huỳnh
Văn hóa Sa Huỳnh là một nền văn hóa được xác định ở vào khoảng năm
1000 TCN đến cuối thế kỷ thứ 2, tên gọi Sa Huỳnh là một địa danh
thuộc huyện Đức Phổ phía nam tỉnh Quảng Ngãi. Nền văn hóa Sa
Huỳnh là một trong ba cái nôi cổ xưa về văn minh trên lãnh thổ Việt
Nam, cùng với Văn hóa Đông Sơn, Văn hóa Óc Eo tạo thành tam giác
văn hóa của Việt Nam.
Văn hóa Óc Eo
Văn hóa Óc Eo là tên gọi do nhà khảo cổ học người Pháp Louis Malleret
đề nghị đặt cho một địa điểm nằm ở huyện Thoại Sơn phía nam tỉnh An
Giang thuộc đồng bằng sông Cửu Long. Nơi này có thể đã từng tồn tại
một hải cảng sầm uất của vương quốc Phù Nam từ thế kỷ thứ 1 đến thế
kỷ thứ 7.