Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

SKKN Giáo dục pháp luật cho học sinh thông qua bộ môn Giáo dục công dân

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (201.75 KB, 21 trang )

PHẦN 1: MỞ ĐẦU
THÔNG TIN CHUNG VỀ SÁNG KIẾN
1. Tên sáng kiến: “Giáo dục pháp luật cho học sinh thông qua bộ môn
Giáo dục công dân”.
2. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến: Lĩnh vực giáo dục
3.Tác giả:
Họ và tên: Phạm Thị Kim Anh

Nữ

Ngày/ tháng/năm sinh: 22/11/1987
Trình độ chun mơn: Đại học sư phạm
Chức vụ, đơn vị công tác: Giáo viên, trường THCS Trần Phú
Điện thoại: 0974.751.349
4. Đơn vị áp dụng sáng kiến lần đầu: Trường THCS Trần Phú
5. Các điều kiện cần thiết để áp dụng sáng kiến:
Để thực hiện thành công giáo dục pháp luật cho học sinh thông qua
bộ môn giáo dục công dân cần có các điều kiện dạy học như: giáo viên, học
sinh, phương tiện, thiết bị dạy học, tài liệu tham khảo và sự động viên,
khuyến khích của Ban giám hiệu nhà trường trong việc đáp ứng các điều kiện
dạy học, không xem nhẹ vai trò, vị trí của môn học.
6. Thời gian áp dụng sáng kiến lần đầu: Năm học 2019-2020

HỌ TÊN TÁC GIẢ

XÁC NHẬN CỦA CƠ QUAN ĐƠN
VỊ ÁP DỤNG SÁNG KIẾN

1



TÓM TẮT SÁNG KIẾN
           Trong đời sống xã hội, pháp luật giữ vai trò đặc biệt quan trọng, là yếu
tố không thể thiếu để bảo đảm cho sự tồn tại, phát triển của xã hội. Giáo dục
ý thức pháp luật, giáo dục ý thức trách nhiệm, nghĩa vụ đối với bản thân, gia
đình, xã hội là nhiệm vụ cơ bản, thường xuyên của giáo dục con người.
Tuyên truyền, giải thích pháp luật, giáo dục ý thức pháp luật cho học
sinh có tầm quan trọng đặc biệt, là nội dung, nhiệm vụ quan trọng của giáo
dục phổ thông. Thực tế cho thấy, số lượng trẻ vị thành niên nói chung và học
sinh nói riêng phạm pháp đang tăng theo xu hướng trẻ hóa và mức độ vi phạm
ngày càng nghiêm trọng. Tình trạng đạo đức, lối sống, ý thức pháp luật của
một bộ phận giới trẻ hiện nay có nhiều bất ổn, từ thái độ học tập, ý thức chấp
hành nội quy, kỷ luật của nhà trường, chấp hành pháp luật đến những hành vi
tiêu cực trong học tập, thi cử của học sinh và sự xâm nhập của các tệ nạn xã
hội vào học đường.
Thực hiện chương trình của Bộ Giáo dục và Đào tạo về nâng cao ý
thức pháp luật cho học sinh sinh viên, để đáp ứng nguồn nhân lực cho công
cuộc đổi mới, hệ thống giáo dục các cấp đã và đang được Đảng và Nhà nước
ta hết sức quan tâm. Một trong những mục tiêu giáo dục ở nhà trường là giáo
dục toàn diện. Ở trường THCS học sinh được học rất nhiều bộ môn khác
nhau. Tất cả các môn học đó đều góp phần giáo dục tư tưởng, đạo đức cho
học sinh. Bên cạnh đó còn có sự tác động của hoạt động Đồn, Đội. Nhưng
mơn Giáo dục công dân là môn học trực tiếp giáo dục đạo đức, tư tưởng cho
học sinh trong đó có việc giáo dục ý thức pháp luật.
Xuất phát từ nhu cầu thực tiễn trên, tơi xin mạnh dạn trình bày sáng kiến:
“ Giáo dục pháp luật cho học sinh thông qua bộ môn Giáo dục công dân”
nhằm nâng cao sự hiểu biết về pháp luật cho các em học sinh, cung cấp cho
các em những tri thức nền về pháp luật, góp phần thực hiện mục tiêu giáo dục
toàn diện.

2



PHẦN 2: NỘI DUNG
1. Cơ sở lý luận
1.1 Quan điểm về pháp luật
Theo từ điển Tiếng Việt: Pháp luật là “những quy phạm hành vi do nhà
nước ban hành mà mọi người dân buộc phải tuân theo, nhằm điều chỉnh các
quan hệ xã hội và bảo vệ trật tự xã hội” [36; 743] Hoàng Phê chủ biên, Nhà
xuất bản Đà Nẵng - Trung tâm từ điển học Hà Nội - Đà Nẵng 1998.
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin thì pháp luật vốn là sản
phẩm của xã hội có giai cấp đối kháng gắn liền với hoạt động của nhà nước.
Nó là ý chí của giai cấp thống trị được xây dựng thành luật lệ dùng để cai trị
xã hội vì lợi ích của giai cấp thống trị. Pháp luật xã hội chủ nghĩa là toàn bộ
nguyên tắc xử sự do nhà nước chuyên chính vô sản đặt ra, thể hiện ý chí,
nguyện vọng và lợi ích cơ bản của giai cấp công nhân và nhân dân lao động,
có tính chất bắt buộc chung, được bảo đảm chấp hành bằng giáo dục, thuyết
phục hoặc bằng cưỡng chế của nhà nước xã hội chủ nghĩa.
1.2 Quan niệm về ý thức pháp luật:
Ý thức pháp luật là tổng thể các học thuyết, tư tưởng, tình cảm của con
người thể hiện thái độ, sự đánh giá về tính công bằng hoặc không công bằng,
đúng đắn hoặc không đúng đắn của pháp luật hiện hành, pháp luật trong quá
khứ và pháp luật cần phải có, về tính hợp pháp hoặc không hợp pháp trong
cách cư xử của con người, trong hoạt động của các cơ quan, tổ chức.
Đặc điểm của ý thức pháp luật: Với tính cách là một hình thái ý thức xã hội, ý
thức pháp luật chịu sự quy định của tồn tại xã hội nhưng nó có tính độc lập
tương đối. Thể hiện: Nó thường lạc hậu hơn tồn tại xã hội. Thực tế đã chứng
minh tồn tại xã hội cũ mất đi nhưng ý thức nói chung trong đó có ý thức pháp
luật do nó sinh ra vẫn tồn tại dai dẳng trong một thời gian dài. Những tàn dư
của quá khứ được giữ lại đặc biệt ngoan cố trong lĩnh vực tâm lý pháp luật,
nơi mà các thói quen truyền thống đóng vai trò to lớn.

Ví dụ: Những biểu hiện tâm lý của pháp luật phong kiến như sự thờ ơ,
phủ nhận đối với pháp luật vẫn phổ biến trong xã hội ta.
Trong những điều kiện nhất định, nhiều tư tưởng pháp luật, đặc biệt là tư
tưởng pháp luật khoa học có thể vượt lên trên sự phát triển của tồn tại xã hội.
Nếu là tư tưởng pháp luật của giai cấp cầm quyền thì nó sẽ có cơ hội thuận
lợi thể hiện thành pháp luật và tạo ra những tiến bộ trong đời sống xã hội.
Ý thức pháp luật phản ánh tồn tại xã hội của một thời đại nào đó, song nó
3


cũng thừa kế những yếu tố nhất định thuộc ý thức pháp luật của thời đại
trước. Tất nhiên những yếu tố được kế thừa có thể là tiến bộ hoặc không tiến
bộ. Ý thức pháp luật tác động trở lại đối với tồn tại xã hội với ý thức chính
trị. Sự tác động phụ thuộc vào mức độ phản ánh đúng đắn của ý thức pháp
luật đối với thực trạng và nhu cầu đời sống xã hội, vai trò của giai cấp cầm
quyền, cũng như mức độ phổ biến, thâm nhập của tư tưởng pháp luật trong
các tầng lớp nhân dân. Ý thức pháp luật được xem là điều kiện quan trọng, là
tiền đề tư tưởng trực tiếp cho việc xây dựng, phát triển và hoàn thiện hệ thống
pháp luật; là cơ sở hình thành văn hố pháp lý của các chủ thể pháp luật, tạo
cho chủ thể có khả năng và kỹ năng sử dụng có hiệu quả cơ chế điều chỉnh
pháp luật để bảo vệ lợi ích cho bản thân mình, cho nhà nước và cho xã hội,
xử sự đúng đắn, phù hợp trong các mối quan hệ xã hội.
Ý thức pháp luật được tạo nên bởi hệ tư tưởng pháp luật (nhận thức pháp
lý) và tâm lý pháp luật. Nếu hệ tư tưởng pháp luật là kết quả của sự phản ánh
tự giác, có mục đích, có tính tổ chức cao của các hoạt động tư duy lý luận, thì
tâm lý pháp luật chỉ là sự phản ánh những tâm trạng, cảm xúc, thái độ, tình
cảm của con người với pháp luật và quá trình điều chỉnh pháp luật, tinh thần
và hành vi thực hiện pháp luật một cách tự phát nhiều hơn. Tâm lý pháp luật
bị chi phối bởi hệ tư tưởng pháp luật, nó phụ thuộc rất nhiều vào đặc điểm và
trình độ nhận thức lý luận của cá nhân. Và ngược lại, tâm lý pháp luật là tiền

đề thúc đẩy quá trình hình thành và phát triển các tư tưởng, quan điểm pháp
luật phù hợp. Tâm lý pháp luật chứa đựng trong nó những rung động về tâm
hồn của con người đối với những hành vi được điều chỉnh bằng những tiêu
chuẩn pháp lý như: niềm tin, sự trân trọng, định kiến, thù ghét, ác cảm. Tâm
lý pháp luật có ảnh hưởng rất lớn tới việc thực hiện hành vi pháp luật hợp
pháp của chủ thể và góp phần nâng cao phẩm giá, nhân cách con người, từ đó
hình thành trách nhiệm của mỗi người với bản thân, với gia đình, lớn hơn nữa
là với quê hương, nhân loại. Giáo dục ý thức pháp luật để chuyển tải những
thông tin pháp luật theo mục đích chung, nhằm mục đích nâng cao ý thức
pháp luật, hình thành lối sống tuân thủ pháp luật đối với các thành viên trong
xã hội. Theo PGS - PTS Đặng Cảnh Khanh - Viện trưởng Viện nghiên cứu
thanh niên trong “Sống và làm việc theo pháp luật một số vấn đề về giáo dục
pháp luật cho thanh niên”: “Từ giáo dục luật pháp đến giáo dục ý thức pháp
luật cho thanh niên(…).Nếu nhận thức pháp luật là nền tảng cho việc thực thi
luật pháp thì việc tăng cường giáo dục luật pháp cho thanh thiếu niên có thể
được coi là việc làm quan trọng nhằm mở rộng phạm vi các hoạt động tự do
4


và tự giác của họ trong khuôn khổ của cuộc sống pháp lụật. Về phương diện
này, nâng cao nhận thức pháp luật của thanh thiếu niên chính là con đường
đúng đắn nhất để xây dựng một nền văn hóa luật pháp” [25; 10].
Nội dung pháp luật cho thanh niên cũng không thể dừng lại ở những kiến
thức thuần túy luật pháp mà còn phải mở rộng tới rất nhiều những vấn đề có
liên quan, trong đó quan trọng nhấ là giáo dục ý thức luật pháp.
Luật pháp của chúng ta ngày nay, dựa trên nền tảng của một chế độ tiến
bộ và nhân tạo. Nó không nhằm bảo vệ quyền lợi cho giai cấp thống trị cũng
như cho một nhóm người giàu có và quyền thế trong xã hội mà phục vụ cho
quyền lợi của chính số đông những người lao động. Chính vì vậy, về cơ bản,
nó khơng những không mâu thuẩn mà còn phải phù hợp với nhu cầu sống

chung của toàn xã hội, được sự chấp nhận và ủng hộ của đông đảo nhân dân.
2. Thực trạng của việc giáo dục pháp luật cho học sinh thông qua
môn Giáo dục công dân ở trường THCS
2.1. Những thuận lợi và khó khăn
2.1.1. Thuận lợi
Giáo dục công dân là môn học có vị trí hàng đầu trong việc định
hướng, phát triển nhân cách cho học sinh, nhất là đối với học sinh THCS - lứa
tuổi đang hình thành, phát triển, hồn thiện tâm sinh lý. Mơn học đã nhận
được sự quan tâm của các cấp lãnh đạo, từ nhà trường đến Phòng giáo dục, Sở
giáo dục…. Nhiều đợt tập huấn chuyên môn cho giáo viên dạy Giáo dục công
dân đã được triển khai, nhiều chuyên đề được thực hiện, trong đó có nhiều đề
tài chú trọng đến khâu giáo dục pháp luật cho học sinh.
Đội ngũ giáo viên môn Giáo dục công dân đã được bổ sung hàng năm
nhằm đáp ứng nhu cầu về nguồn lực. Nhiều giáo viên đã tích cực học hỏi lẫn
nhau, nghiên cứu tài liệu, học lên sau Đại học… để nâng cao chất lượng, hiệu
quả dạy học. Hình thức dạy học thuyết trình, thụ động, một chiều đang dần
được thay thế bằng các phương pháp dạy học tích cực, lấy học sinh làm trung
tâm.
Nguồn tài liệu cho môn học cũng ngày được cải thiện. Hầu hết các
trường đã có thư viện riêng, bổ sung các đầu sách hàng năm, đã chú trọng đến
mảng sách pháp luật. Nhiều trường đã xây dựng được cả tủ sách pháp luật và
thư viện điện tử, phục vụ tốt cho nhu cầu tra cứu của giáo viên và học sinh.
2.1.2. Khó khăn
5


Để có những bài tập thực tế, giáo viên phải đầu tư thời gian và trí tuệ
để tiếp cận các nguồn thơng tin khác nhau và xây dựng tình huống sát với nội
dung bài học, hướng dẫn học sinh phân vai, viết lời thoại và thể hiện.
Nhiều giáo viên chưa thật sự quyết tâm thực hiện, vẫn bị chi phối bởi

các phương pháp dạy học chỉ thiên về thuyết trình, giảng giải, đàm thoại là
chủ yếu. Giáo viên chưa mạnh dạn, tự tin, chủ động tìm tòi nguồn tư liệu
Học sinh vốn lâu nay đã quen với lối học tập thụ động, ngại suy nghĩ,
nhút nhát, hay xấu hổ, kiến thức phông nền về pháp luật còn hạn chế
Cơ sở vật chất và phương tiện học tập ở một số trường chưa được trang
bị đầy đủ, chưa chú trọng đến mảng giáo dục pháp luật trong nhà trường.
2.2. Những giải pháp cũ thường thực hiện
Thực tế cho thấy, việc dạy phần pháp luật trong chương trình còn sơ
sài. Phần lớn là cách dạy truyền thống, đa số giáo viên đi theo một mô típ
chung: đọc truyện – đàm thoại – hỏi đáp – rút ra nội dung bài học phần ghi
nhớ, nội dung còn khô cứng.
Nếu có đổi mới phương pháp, sử dụng phương pháp đóng vai thì hầu
hết mới chỉ dừng lại ở việc giáo viên cho học sinh đứng tại chỗ đọc phân vai
các mẩu chuyện trong sách giáo khoa (ở phần “Đặt vấn đề” hoặc “Truyện
đọc”). Giáo viên chưa chú trọng đến các tình huống thực tế trong đời sống.
Chính vì thế, học sinh cũng chưa chú ý và hứng thú. Các tình huống đưa ra
thường đơn giản (tình huống khơng có vấn đề), chỉ có một hướng giải quyết,
nên chưa kích thích được sự sáng tạo của học sinh.
Những câu hỏi thường chỉ là hỏi- đáp theo hình thức tái hiện lại phần
nội dung ghi nhớ sách giáo khoa, nên học sinh có khi không chú ý vào bài
giảng nhưng khi giáo viên hỏi thì trả lời trôi chảy bằng cách đọc vẹt nội dung
trong sách nên chất lượng, hiệu quả học tập chưa cao.
Khảo sát việc học môn Giáo dục công dân của học sinh khối 8 khi chưa
áp dụng sáng kiến:
Học sinh khối 8
130 học sinh

Năm học 2019-2020
Xếp lọai


Số lượng

%

6


Giỏi

20

15,4 %

Khá

63

48,5 %

Trung bình

67

36,1 %

Qua kết quả thể hiện trên bảng khảo sát, tôi nhận thấy tỷ lệ học sinh đạt
học lực giỏi còn thấp, trong khi học sinh đạt học lực trung bình mơn Giáo dục
cơng dân chiếm khá cao. Chính vì vậy mà chất lượng giáo dục bộ môn chưa
thực sự đạt yêu cầu, mục tiêu đề ra. Vì vậy, tơi xin được đề xuất một số biện
pháp mới nhằm giảng dạy tốt hơn phần giáo dục pháp luật trong chương trình

bộ mơn.
3. Một vài biện pháp nhằm giáo dục pháp luật cho học sinh thông qua
môn Giáo dục cơng dân
3.1 Căn cứ chương trình giảng dạy
Chương trình mới được xây dựng theo quan điểm tích hợp. Câu trúc chương
trình theo nguyên tắc tích hợp đồng tâm và phát triển. Vì vậy chủ đề pháp luật
được bố trí học tất cả ở các khối lớp (từ lớp 6 đến lớp 9). Gồm 5 chủ đề:
* Quyền trẻ em và quyền, nghĩa vụ cơng dân trong gia đình.
* Quyền và nghĩa vụ cơng dân về trật tự an tồn xã hội.
* Quyền và nghĩa vụ công dân và văn hoá giáo dục và kinh tế.
* Các quyền tự do cơ bản của cơng dân.
* Nhà nước Cộng hồ xã hội chủ nghĩa Việt Nam - Quyền và nghĩa vụ công
dân trong quản lý Nhà nước.
Các chủ đề được bố trí theo trật tự từ những vấn đề có tính chất cụ thể, gần
gũi với cuộc sống học sinh đến những vấn đề khái quát hơn, phản ánh mối
quan hệ của học sinh với môi trường ngày càng lớn. Từng chủ đề có sự xắp
xếp, bố trí các nội dung dạy học theo nguyên tắc phát triển từ thấp đến cao, về
nhận thức cũng như nhu cầu tu dưỡng rèn luyện, phù hợp với lứa tuổi học
sinh trong từng giai đoạn. Về pháp luật chương trình bố trí học từ những nội
dung thuộc hiện thực pháp luật đang diễn ra trong cuộc sống đến những nội
dung vềmm chế độ chính trị, nền pháp chế xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Nội dung kiến thức ở mỗi khối lớp tôi xây dựng theo kiểu tích hợp đồng tâm
phát triển.
3.2 Nội dung kiến thức, phương pháp tổ chức hoạt động
Trong khuôn khổ hạn hẹp của đề tài tôi chỉ xây dựng một chủ đề trong
năm chủ đề của chương trình giáo dục pháp luật trong trường THCS đề các
đồng chí tham khảo.
7



Chủ đề 1: Quyền trẻ em. Quyền và nghĩa vụ cơng dân trong gia đình.

Lớp Bài
6

Cơng ước
liên hợp
quốc về
quyền trẻ
em.

Nội dung
kiến thức
1/ Những quyền cơ
bản của trẻ em theo
Công ước Liên hợp
quốc.

Phương pháp hình thức tổ chức dạy
học
- Học sinh thảo luận nhóm - giúp các em
hiểu nội dung các quyền trẻ em.
- Chia học sinh thành nhóm, mỗi nhóm
thành 6-8 em.
- Phát cho mỗi nhóm một bộ phiếu rời
(mỗi phiếu ghi một quyền trẻ em) và bộ
tranh rời tương đương với quyền đó)
- Dán những bức tranh vào tờ giấy to và
dán những phiếu ghi nội dung quyền phù
hợp xuống phía dưới tranh đó.

- Các nhóm trình bày kết quả.
- Học sinh trong lớp bổ xung.
- Giáo viên chốt lại đáp án.
- Giáo viên kết luận về những cơ bản của
trẻ em.

2/ Ý nghĩa của
quyền trẻ em và
bổn phận của trẻ
em

- Học sinh thảo luận lớp theo câu hỏi:
+ Các quyền của trẻ em cần thiết như thế
nào? Điều gì sẽ xảy ra nếu thiếu quyền,
trẻ em khơng được thực hiện? Lấy ví dụ
cụ thể.
+ Trẻ em là gì? Chúng ta phải làm gì?
- Học sinh phát biểu
- Học sinh khác nhận xét bổ sung.
- Giáo viên chốt lại ý chính.
- Học sinh chơi sắm vai
VD: Sắm vai trong câu lạc bộ phóng
viên trẻ. ở đây các em bày tỏ những suy
nghĩ, nguyện vọng và đề xuất những
việc làm cần thiết cho trẻ em.

3. Luyện tập

VD: Sắm vai trong câu lạc bộ phóng
viên trẻ. ở đây các em bày tỏ những suy

nghĩ, nguyện vọng và đề xuất những
việc làm cần thiết cho trẻ em
8


MỘT SỐ BÀI TẬP - HÌNH ẢNH SỬ DỤNG
CƠNG ƯỚC LIÊN HỢP QUỐC VỀ QUYỀN TRẺ EM

Bài 1: Cho học sinh đánh dấu (X) vào ô trống tương ứng với những việc làm
thực hiện quyền trẻ em,đánh dấu (-) vào ô trống tương ứng với những việc
phạm vi quyền trẻ em.
- Nhận trẻ em mồ côi làm con nuôi



- Y tế xã, phường, thị trấn tổ chức tiêm phòng dịch cho trẻ em 
- Nhà nước phát động phong trào nuôi con bằng sữa mẹ.



- Con đã 6 tuổi nhưng cha, mẹ không cho đi học bắt ở nhà lao
động thêm 3 năm nữa.



- Tập trung trẻ từ 10-12 tuổi đi đánh giày và thu một nửa số tiền
của các em.




- Đánh đập trẻ em bị giam giữ
- Buôn bán trẻ em qua biên giới




Bài tập 2: Hãy kể những việc làm của Nhà nước nói chung, của chính quyền
địa phương em về việc thực hiện tốt quyền trẻ em.
- Trẻ em có quyền được vui chơi giải trí.
- Trẻ em có năng khiếu được phát hiện và bồi dưỡng.
- Trẻ em được quan tâm chăm sóc về sức khoẻ.
- Trẻ em được học tập, những em có hoàn cảnh khó khăn không phải trả học
phí.
- Trẻ em được tiếp cận nhiều thông tin bày tỏ ý kiến và tham gia hoạt động xã
hội.
Bài tập 3: Vợ chồng anh Lai có hai cháu: Cháu Cương 9 tuổi, cháu Hiền 7
tuổi. Cả hai cháu đều chưa được đến trường học. Cán bộ Uỷ ban nhân dân xã
cùng một số cô giáo ở trường Tiểu học thường xuyên đến vận động, khuyên
anh chị Lai cho hai cháu đi học nhưng anh Lai không nghe và nói để các cháu
ở nhà lao động giúp đỡ gia đình thêm mấy năm nữa cũng chẳng sao. Mà gia
đình anh chị có phải thuộc diện quá khó khăn đâu. Khổ thân hai cháu nhỏ bị
bố mẹ bắt ở nhà không cho đi học.
Hỏi: Anh Lai suy nghĩ như vậy có đúng không và không cho con mình đi học
thì có vi phạm pháp luật khơng? Hay đấy là quyền của anh chị?
Trả lời:
Anh Lai suy nghĩ như vậy là hồn tồn sai, vì cơng việc nhà nông bao giờ
chẳng nhiều, nếu cứ để các cháu ở nhà giúp đỡ gia đình thì ở đến bao giờ? Dù
còn nhiều việc nhà, việc đồng ruộng thì cũng phải để con mình đi học chứ.
9



Hơn nữa, không cho hai cháu đi học là vi phạm pháp luật đấy. Điều 8 Luật
Phổ cập giáo dục tiểu học quy định: "Cha mẹ có trách nhiệm tạo điều kiện
cho con hoàn thành phổ cập giáo dục tiểu học". Luật Giáo dục, Luật Bảo vệ,
chăm sóc và giáo dục trẻ em cũng đều quy định cha mẹ có trách nhiệm tạo
điều kiện cho con mình trong độ tuổi quy định được học tập để đạt trình độ
giáo dục phổ cập.
Cha mẹ không có quyền giữ con ở nhà khơng cho đi học khi con mình đang ở
độ tuổi đi học. Pháp luật không cho cha mẹ quyền ấy. Trong việc đảm bảo
thực hiện quyền học tập của trẻ em thì trách nhiệm của cha mẹ là rất lớn: vừa
là trách nhiệm pháp lý, vừa là trách nhiệm đạo đức của bậc sinh thành. Anh
Lai phải cho hai con của mình đi học ngay, khơng được chờ đợi gì thêm nữa.

10


Lớp

7

Bài

Nội dung
kiến thức

Quyền được 1/ Quyền cơ
bảo vệ chăm bản của trẻ em
sóc và giáo
dục của trẻ
em Việt Nam


Phương pháp hình thức tổ chức dạy
học
- Học sinh quan sát tranh SGK,xem
tranh ảnh về các hoạt động chăm sóc,
giáo dục trẻ em.
- Học sinh nêu các quyền và bổn phận
của trẻ em trong Công ước Liên hợp
quốc (học ở bài 12- Lớp 6)
- Học sinh trả lời, học sinh khác nhận
xét, bổ sung.
Giáo viên chốt lại đáp án đúng

2/ Bổn phận - Giáo viên nêu bổn phận của trẻ em
của trẻ em
với gia đình và xã hội.
- Học sinh trả lời cá nhân
- Giáo viên chia bảng làm hai cột cho
học sinh lên bảng ghi ý kiến vào hai
cột cho phù hợp.
- Cả lớp theo dõi nhận xét
Giáo viên đánh giá nhận xét và thưởng
điểm cho học sinh có ý kiến đúng và
nhanh.
3/
Trách - Giáo viên cho học sinh thảo luận cá
nhiệm của gia nhân
đình
nhà - Học sinh chuẩn bị phiếu học tập
nước, xã hội

- Chia phiếu thành 3 loại mỗi loại ứng
với một câu hỏi.
- Giáo viên thu hai phiếu trả lời mỗi
câu hỏi để chữa
- Học sinh trao đổi nhận xét
- Giáo viên phân tích rút ra bài học
4 Luyện tập

- Cho học sinh tự liên hệ bản thân có
những quyền nào em đã được hưởng
còn quyền nào em chưa được hưởng
- Học sinh trả lời
- Giáo viên chốt lại ý chính
11


MỘT SỐ TƯ LIỆU THAM KHẢO - BÀI TẬP - HÌNH ẢNH ỨNG DỤNG
QUYỀN ĐƯỢC CHĂM SĨC VÀ GIÁO DỤC CỦA TRẺ EM VIỆT NAM

Bài tập 1: Chị Hiền mở quán bán hàng ăn uống, giải khát tại thị trấn. Quán
của chị em rất đông khách, không chỉ có người lớn mà còn có cả một số trẻ
em 14-15 tuổi. Bọn trẻ đến quán chị uống rượu, hút thuốc. Chị Hiền rất chiều
chúng, cho bạn trẻ nợ dần nhiều lần mới phải trả tiền rượu, thuốc. Tối thứ bảy
vừa rồi, trong lúc bọn trẻ đang uống rượu ở quán chị Hiền thì ơng chủ tịch thị
trấn cho cơng an đến lập biên bản, phạt chị 200.000đ
Hỏi: Việc ông chủ tịch thị trấn cho công an đến phạt tiền đối với chị Hiền là
đúng hai sai?
Trả lời:
Trẻ em, do còn non nớt về thể chất và tinh thần nên việc các em uống rượu
không chỉ làm tổn hại đến sức khoẻ, đến sự phát triển bình thường mà còn

ảnh hương lớn đến sự hình thành nhân cách của các em.
Nhà nước ta rất quan tâm đến việc bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em, đã
ban hành các quy định pháp luật ngăn cấm việc lôi kéo, dụ dỗ trẻ em uống
tượu, hút thuốc và trừng trị nghiêm khắc các hành vi này. Chị Hiền đã có hành
vi bán rượu, thuộc lá cho trẻ, xúi giục, tạo điều kiện cho trẻ em uống rượu, hút
thuốc, chỉ nghĩ đến lợi ích của mình mà khơng nghĩ đến tác hại của hành vi
này. Chị đã vi phạm khoản 2 điều 14 Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ
em: "Nghiêm cấm việc lôi kéo trẻ đánh bạc, cho trẻ em uống rượu, hút thuốc,
dùng chất kích thích có hại cho sức khoẻ", đồng thời vi phạm điểm c, khoản 1
Điều 25 Nghị định 49/ CP về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực an
ninh, trật tự. Hành vi vi phạm của chị Hiền cần phải bị xử lý theo quy định
của pháp luật. Trong trường hợp này chị phải chịu hình thức phạt tiền là đúng.
Bài tập 2: Cho học sinh đọc đoạn trích và trả lời câu hỏi:
" Năm nay cháu học lớp 9 và chuẩn bị thi vào trung học phổ thông. Do ba mẹ
cháu đặt tên theo vần bố, nên tên của cháu không được hay. ở trong lớp các
bạn cứ trêu cháu rất buồn. Cháu muốn đổi tên có được khơng? Cháu cần phải
làm gì để có thể đổi tên được./
Lê Thị Tơ (Châu Thành - Đồng Tháp)
Trả lời:
Cái tên chỉ là hình thức thơi, không phản ánh nội dung bản chất của học sinh.
Thực ra, cháu cứ học giỏi và chăm ngoan là rất tốt. Cháu cũng không nên bận
tâm quá về tên của mình. Tuy nhiên, nếu cháu cứ dứt khốt muốn đổi tên thì
vẫn có thể đổi được, nhưng phải theo các thủ tục mà pháp luật quy định chứ
không được tự tiện sửa chữa giấy khai sinh, sửa chữa giấy tờ liên quan có tên
mình.
Pháp luật nước ta quy định mỗi người đều có quyền thay đổi họ tên.
12


Điều 29 Bộ Luật Dân sự quy định cá nhân có quyền yêu cầu cơ quan Nhà

nước công nhận việc thay đổi họ tên trong các trường hợp sau đây:
- Theo yêu cầu của người có họ, tên mà việc sử dụng họ, tên đó gây nhầm lẫn,
ảnh hưởng đến tình cảm gia đình, đến danh dự, quyền và lợi ích hợp pháp của
mình.
- Theo yêu cầu của cha, mẹ nuôi về việc thay đổi họ, tên cho con nuôi hoặc
con nuôi yêu cầu lấy lại họ, tên mà cha, mẹ đẻ đã đặt cho mình.
- Thay đổi họ, tên của người lưu lạc từ nhỏ nay tìm ra nguồn gốc huyết thuốc
của mình.
Nếu việc đổi tên của cháu thuộc một trong các trường hợp trên đây thì bố mẹ cháu phải
làm đơn gửi Uỷ ban nhân dân xã xác nhận, kèm theo các giấy tờ khác như sổ hộ khẩu gia
đình, giấy khai sinh (qua Sở Tư pháp). Chỉ khi nào có quyết định của Uỷ ban nhân dân
tỉnh cơng nhận thì mới được chính thức đổi tên.

Nội dung

Lớp

Bài

8

Quyền
và 1/ Quyền và nghĩa
nghĩa vụ của vụ của cha mẹ ông
công dân gia bà
đình

kiến thức

Phương pháp hình thức tổ chức

dạy học
- Giáo viên chia học sinh thành
nhóm
- Mỗi nhóm thảo luận một tình
huống trong bài tập 3,4,5(SGK)
- Các nhóm trình bày kết quả thảo
luận.
- Cả lớp trao đổi đánh giá trên cơ
sở đánh giá và giải pháp mà các
nhóm đưa ra
- Giáo viên thống nhất đáp án
đúng

2/ Quyền và nghĩa - Giáo viên cho học sinh chơi trò
vụ của con cháu
chơi nhận biết.
- Giáo viên đưa ra tình huống
- Học sinh chia thành các nhóm để
chọn một người thi giữa 4 nhóm.
- Giáo viên kết luận chung
3/ Luyện tập

- Tổ chức cho học sinh chơi trò
chơi đóng vai thể hiện cách ứng
xử trong những tình huống có liên
quan đến quyền và nghĩa.

13



MỘT SỐ BÀI TẬP - HÌNH ẢNH ỨNG DỤNG
QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ CỦA CƠNG DÂN TRONG ĐỜI SỐNG GIA ĐÌNH

Bài tập 1: Bố của Hoà có tật nghiện rượu. Nhiều hôm ông đi uống với mấy
người khác và trở về nhà trong tình trạng say khướt. Khi bố tỉnh dậy, Hồ và
mẹ khun ngăn bố thì lại bị bố em măng chửi, xúc phạm, thậm chí còn bị
đánh.
Hỏi: Bố của Hoà đã vi phạm những điều khoản nào của pháp luật?
Trả lời:
Bố của Hoà đã vi phạm khoản 2 điều 34, khoản 1 Điều 37 Luật Hơn nhân và
gia đình, khoản 2 Điều 16 Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em, cụ thể là
đã:
- Ngược đãi, đánh đập, xúc phạm con;
- Không làm gương tốt cho con mà lại có biểu hiện xấu làm ảnh hưởng đến
cuộc sống và tình cảm của con.
Bài tập 2: Hỏi năm nay 18 tuổi, em đã đi làm nên có thu nhập riêng. Bố Hải
mất sớm. Mẹ Hải hơn 50 tuổi, do cuộc sống vất vả hay ốm đau, bệnh tật. Gia
đình Hải có 4 anh em, cuộc sống còn nhiều khó khăn.
Hỏi: Hải có nghĩa vụ đóng góp để nuổi mẹ và các em không? Pháp luật qui
định như thế nào về nghĩa vụ này?
Trả lời:
Xét về tình cảm, đạo đức và pháp lý thì Hải có nghĩa vụ đóng góp mộ phần
thu nhập của mình để ni mẹ và các em, thực hiện đạo lý và nghĩa vụ của
người con cũng như trách nhiệm của một thành viên trong gia đình.
Nghĩa vụ này được quy định trong khoản 2 Điều 36 và khoản 2 Điều 44 Luật
Hôn nhân và gia đình, thể hiện ở hai nội dung sau đây:
- Con có nghĩa vụ chăm sóc, nuôi dưỡng cha mẹ, đặc biệt khi mẹ ốm đau, già
yếu, tàn tật;
- Con từ đủ 15 tuổi trở lên còn sống chung với gia đình có nghĩa vụ chăm sóc
đời sống chung của gia đình; nếu có thu nhập thì đóng góp vào các nhu cầu

thiết yếu của gia đình.

14


Lớp

9

Bài
Quyền
nghĩa vụ
cơng
trong
nhân

Nội dung
kiến thức

Phương pháp hình thức tổ chức
dạy học

và 1/ Khái niệm hôn - Học sinh nhắc lại quyền và nghĩa
của nhân
vụ của cơng dân trong gia đình
dân
(Bài 12 lớp 8).
hôn
- Giáo viên tổ chức cho học sinh
thảo luận lớp.

- Học sinh làm việc cá nhân
- Học sinh cả lớp trao đổi các vấn
đề sau:
+ Cơ sở của tình yêu chân chính.
+ Những sai trái thường gặp trong
tình yêu chân chính
+ Hôn nhân đúng pháp luật là như
thế nào?
+ Thế nào là hôn nhân trái pháp
luật
- Giáo viên liệt kê các ý kiến của
học sinh và kết luận
2/ Nguyên tắc cơ - Học sinh đọc kiểm tra, mục 2
bản của chế độ hôn phần Nội dung bài học
nhân ở Việt Nam
- Học sinh nêu những caqau hỏi
xung quanh nguyên tắc của chế độ
hôn nhân (VD: Thế nào là tự
nguyện?)
- Giáo viên tổ chức cho cả lớp trao
đổi
- Giáo viên kết luận
- Giáo viên chia nhóm và giao cho
các nhóm thảo luận câu hỏi
+ Để được kết hôn cần có những
điều kiện nào?
+ Cấm kết hôn trong những trường
hợp nào?
+ Những hành vi như thế nào là vi
phạm pháp luật về chế độ hôn nhân.

15


+ Vì sao Pháp Luật phải có những
quy định chặt chẽ như vậy và việc
đó có ý nghĩa như thế nào?
- Học sinh các nhóm trình bày
- Cả lớp trao đổi bổ sung
- Giáo viên kết hợp giải thích
những nội dung khó
- Học sinh liên hệ với địa phương
nơi mình ở có trường hợp nào vi
phạm qui định của pháp luật về
hơn nhân khơng? Vi phạm điều gì?
Hậu quả của nó.
4/ Trách nhiệm của - Giáo viên nêu vấn đề
công dân
- Học sinh thảo luận, giải quyết
vấn đề.
- Giáo viên chốt lại ý kiến đúng
5/ Củng cố chủ đề:
Quyền trẻ em;
Quyền và nghĩa vụ
cơng dân trong gia
đình

- Học sinh làm bài tập đánh giá
hành vi của bản thân
- Học sinh cần làm gì để thực hiện
tốt các quyền trẻ em, quyền vệ

sinh nghĩa vụ của cơng dân trong
gia đình.
- Học sinh bày tỏ ý kiến bản thân
- Giáo viên bổng sung.

MỘT SỐ BÀI TẬP - HÌNH ẢNH ỨNG DỤNG
QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ CỦA CÔNG DÂN TRONG HÔN NHÂN.

Bài tập 1:
Hỏi:
Ở quê cháu, thanh niên hay làm đám cưới sớm khi chưa đến tuổi kết hôn.
Trường hợp các cháu có khả năng như vậy.
Cháu và anh Tiến ở cùng thôn, cháu mới 17 tuổi và anh Tiến cũng mới 18 tuổi
nhưng gia đình cháu và gia đình anh ấy cứ ép chúng cháu lấy nhau.Hai gia
đình đã bàn bạc sẽ tổ chức đám cưới vào tháng tôi. Bố cháu còn doạ, nếu
không đồng ý, bố cháu sẽ đánh và đuổi cháu ra khỏi nhà.
Cháu không biết phải làm thế nào đây?
16


Nguyễn Thị Xuân (Lục Ngạn - Bắc Giang)
Trả lời:
Cả hai cháu đều chưa đến tuổi kết hơn, vì theo quy định tại Điều 9 Luật hơn
nhâ, và gia đình về điều kiện kết hơn thì nam từ 20 tuổi trở lên, nữ từ 18 tuổi
trở lên mới được kết hôn.
Hơn nữa việc kết hôn phải do nam nữ tự nguyện quyết định, không ai được
cưỡng ép hoặc cản trở.
Nếu hai cháu cứ bị cưỡng ép phải cưới nhau thì bố mẹ các cháu sẽ vi phạm
Điều 9 Luật hôn nhân và gia đình và việc kết hơn của hai cháu sẽ bị coi là kết
hôn trái pháp luật, phải bị huỷ bỏ. Còn trong trường hợp bố mẹ cháu cố ép

buộc và đánh đập, uy hiếp tinh thần của cháu thì khi ấy bố mẹ cháu vi phạm
Điều 146 Bộ Luật Hình sự và có thể sẽ bị phạt cảnh cáo, cải tạo không giam
giữ đến 3 năm hoặc bị phạt tù từ 3 tháng đếm 3 năm, tuỳ theo mức độ vi
phạm và hậu quả xảy ra.
Bài tập 2:
Hỏi:
Em và anh Chính cùng làm công nhân ở Hà Nội, chúng em yêu thương nhau
và quyết định sẽ lấy nhau. Em muốn tổ chức kết hơn cho đàng hồng vì đời
người chỉ có một lần như thế này. Thế nhưng anh Chính thì lại khun em
khơng nên tổ chức lễ cưới cho tốn kém, cốt anh và em thương nhau là được
rỗi. Thế là chúng em cứ sống chung với nhau như quan hệ vợ chồng. Đến nay,
em mới biết anh Chính đã có vợ và một con gái ở quê. Em đau khổ quá.
Liệu em có thể tiếp tục sống chung với anh Chính nữa không. Nếu cứ quan hệ
như vợ chong thì có vi phạm pháp luật khơng?
Hồng Thị Hương Lan (Quận Thanh Xuân - Hà Nội)
Trả lời
Theo Luật Hơn nhân và gia đình năm 2000, nam nữ không đăng ký kết hôn
mà chung sống với nhau như vợ chồng thì khơng được pháp luật cơng nhận là
vợ chồng.
Bộ Luật Hình sự quy định, người nào đang có vợ, có chồng mà kết hôn hoặc
chung sống như vợ chồng với người khác thì có thể bị xử phạt hành chính,
nếu gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính rồi mà còn vi
phạm thì có thể bị phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ đến một năm hoặc bị
phạt tù từ 3 tháng đến 1năm.
Rõ ràng là cả em và anh Chính đã vi phạm Luật Hơn nhân và gia đình và
thậm chí còn vi phạm quy định trong Bộ luật Hình sự. Em cần chủ động nói
rõ cho anh Chính biết và quyết định thôi không tiếp túc sống với anh ấy nữa.
Một lần lầm lỡ vẫn có thể còn khắc phục được. Tuổi còn trẻ, em nên dứt khoát
trước hết để tự cứu mình, để có điều kiện và cơ hội đi tìm hạnh phúc mới, xây
đắp cho tương lai của mình.

17


4. Những kết quả thu được
Sau khi áp dụng sáng kiến, tôi nhận thấy đa số học sinh các em đều rất
hứng thú tham gia, giờ học của cô trò cũng trở nên sinh động, hào hứng hơn.
Các em tiếp thu kiến thức khá tốt và không đơn thuần chỉ là kiến thức sng
bởi nó còn gắn với những tình huống cụ thể gần gũi trong đời sống. Các em
còn rèn được kỹ năng làm việc nhóm, kỹ năng hợp tác, khả năng quan sát và
phán đoán ... Hiệu quả thiết thực đó được thể hiện một phần qua kết quả học
tập của các em.
Bảng khảo sát:

Năm học 2018-2019
Học sinh
khối 8
130 học
sinh

Xếp lọai

Năm học 2019-2020

SL

%

SL

%


Giỏi

20

15,4 %

45

34,6 %

Khá

63

48,5 %

70

53,8 %

Trung bình

67

36,1 %

15

11,6%


5. Khả năng áp dụng của sáng kiến
Những giải pháp trên đã được tôi áp dụng trong dạy học môn Giáo dục
công dân ở trường THCS phần giáo dục pháp luật và bước đầu mang lại
những kết quả khả quan. Sáng kiến này có thể áp dụng ở phạm vi tất cả các
khối lớp trong trường THCS và ở nhiều môn học khác nhau. Tuy nhiên, theo
quan điểm cá nhân, phương pháp này nên được áp dụng ngay đối với học sinh
đầu khóa, giúp các em làm quen dần, tránh được tâm lý e dè, nhút nhát, ngại
thể hiện khi lên các lớp trên.
6. Hiệu quả của sáng kiến
Với nội dung kiến thức và hình thức tổ chức dạy học đó, giáo viên và
học sinh rất hứng thú khi dạy và học. Các em được tự tìm hiểu, tự đánh giá,
phát huy khả năng của tất cả các đối tượng học sinh trong lớp. Học sinh được
thực hiện trong thực tế, kiểm tra hành vi của nhau. Giáo viên đánh giá kết quả
của học sinh sát hợp hơn.
Những gì học sinh được giáo dục ở trường về pháp luật đã giúp các em
có ý thức cao hơn trong cuộc sống. Trong q trình từ lớp 6 đến lớp 9 tơi thấy
ý thức tuân thủ theo pháp luật của học sinh tốt hơn rất nhiều.Các em đã hiểu
18


được mình có những quyền gì, trách nhiệm của bản thân ra sao, phải xây
dựng đóng góp gì trong việc quản lý Nhà nước
Khi học sinh đã tìm hiểu và thực hiện theo pháp luật thì chính các em lại là
những người tuyên truyền cho người thân trong gia đình, những người xung
quanh để họ biết và thực hiện, để mọi người, mọi nhà đều có ý thức tuân thủ,
nghiêm chỉnh chấp hành "Pháp luật"
PHẦN 3: KẾT LUẬN
1. Kết luận
Giáo dục ý thức Pháp luật cho học sinh là mối quan tâm của gia đình, nhà

trường và xã hội. Học sinh hiểu và thực hiện nghiêm chỉnh "Pháp luật" là
góp phần xây dựng một xã hội văn minh.
Trong khuôn khổ đề tài, tôi không có tham vọng giải quyết tất cả khó khăn,
vướng mắc của giáo viên và học sinh trong dạy và học "Giáo dục Pháp luật"
song với nội dung đã trình bày, tơi hy vọng sẽ giúp cho giáo viên có định
hướng, chủ động hơn khi giảng dạy giáo dục Pháp luật. Mặt khác học sinh
cùng hứng thú say mê hơn với mơn học, xố dần tâm lý coi môn giáo dục
công dân là một môn học phụ.
Đó là những kinh nghiệm của tôi đúc kết được. Trong q trình giảng dạy
Giáo dục cơng dân. Chắc chắn khơng tránh khỏi những sai sót. Rất mong
nhận được ý kiến đóng góp của Hội đồng khoa học cấp trên.
2. Khuyến nghị
a) Đối với giáo viên
Cần chú trọng khâu chuẩn bị của giáo viên và học sinh khi giảng dạy các bài
giáo dục Pháp luật, giáo viên cần tích cực giảng dạy chu đáo cho các dụng cụ
dạy và học và sử dụng thành thạo chúng. Hướng dẫn học sinh chuẩn bị ở nhà
cẩn thận.
- Dành nhiều thời gian cho thực hành, luyện tập. Tạo điều kiện để học sinh
vận dụng những kiến thức đã học vào thực tế. Biến những kiến thức đã học
thành ý thức tự giác chấp hành "Pháp luật"
- Tổ chức cho học sinh thi sắm vai: Đây là một trong những phương pháp có
hiệu quả cao. Song giáo viên cần lưu ý ổn định lớp để hoạt động dạy - học đạt
hiệu quả tối ưu.
- Kiểm tra đánh giá khích lệ động viên học sinh: Cần làm thường xuyên đặc
biệt là những học sinh ý thức chấp hành Pháp luật còn kém.
- Giáo viên giảng dạy phải thường xuyên theo dõi cập nhật những thông tin
liên quan tới vấn đề giáo dục Pháp luật.
b) Đối với học sinh
- Tích cực chuẩn bị tiết học theo hướng dẫn của giáo viên.
19



- Thường xuyên vận dụng kiến thức tìm hiểu trên lớp và thực tế cuộc sống.
- Mạn dạn hỏi những điều chưa rõ về vấn đề Pháp luật và cách sử lý các tình
huống gặp trong cuộc sống.
- Có ý thức tự tìm hiểu về Pháp luật tham gia các hoạt động ở trường, lớp, địa
phương liên quan tới: "Pháp luật và tuyên truyền cho những người xung
quanh"
Về phía nhà trường, cần đầu tư quan tâm nhiều hơn nữa đến môn học bằng
cách trang bị thêm các tài liệu, phương tiện dạy học như sách, báo, tạp chí
pháp luật, băng đĩa... Thường xuyên tổ chức các hoạt động ngoại khóa, lồng
ghép, tích hợp các chủ đề về đạo đức, pháp luật, kĩ năng sống cho học sinh.

20


MỤC LỤC
PHẦN 1: MỞ ĐẦU
Thông tin chung về sáng kiến
Tóm tắt sáng kiến
PHẦN 2: NỘI DUNG
1. Cơ sở lý luận
1.1. Quan niệm về pháp luật
1.2. Quan niệm về ý thức pháp luật
2. Thực trạng của việc giáo dục pháp luật cho học sinh qua
môn Giáo dục công dân
2.1. Thuận lợi
2.2. Khó khăn
2.3. Những giải pháp cũ thường thực hiện
3. Một vài biện pháp nhằm giáo dục pháp luật cho học sinh

qua mơn Giáo dục cơng dân
3.1. Căn cứ chương trình giảng dạy
3.2. Nội dung kiến thức, phương pháp giảng dạy
4. Kết quả thu được
5. Khả năng áp dụng của sáng kiến
6. Hiệu quả của sáng kiến
PHẦN 3: KẾT LUẬN
1. Kết luận
2. Khuyến nghị

Trang
1
2
3
3
3
5
6
6
7
9
7
13
20
21
21
22
22

21




×