Tải bản đầy đủ (.doc) (32 trang)

Tư tưởng hồ chí minh về liên minh công nông trí thức và sự vận dụng của đảng cộng sản việt nam trong cách mạng nước ta

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (142.26 KB, 32 trang )

MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN
DANH MỤC CHỮ CÁI VIẾT TẮT
MỞ ĐẦU ............................................................................................................. 4
CHƯƠNG 1: QUAN NIỆM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC – LÊNIN VỀ LIÊN
MINH CỦA GCCN TRONG CÁCH MẠNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
1.1. Một số khái niệm cơ bản… ………………………………………………. 10
1.2. Quan niệm chủ nghĩa Mác – Lênin về liên minh của GCCN trong
CMXHCN……………………………………………………………………. 11
CHƯƠNG 2: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ LIÊN MINH CƠNG NƠNG
TRÍ THỨC
2.1. Tính tất yếu của liên minh cơng nơng trí thức…………………………. 17
2.2. Ngun tắc tiến hành liên minh…………...…………………...………… 19
2.3. Nội dung của liên minh công nơng trí thức……………………...………. 22
2.4. Vai trị của khối liên minh đối với sự nghiệp cách mạng của dân tộc…. 23
CHƯƠNG 3: SỰ VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ LIÊN MINH
CƠNG TRÍ THỨC CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM TRONG CÁCH MẠNG
NƯỚC TA
3.1. Đảng ta thực hiện liên minh cơng, nơng và trí thức trong cách mạng
dân tộc dân chủ nhân dân…………………………………………………… 27
3.2. Củng cố và mở rộng liên minh cơng, nơng và trí thức trong chặng đường
đầu thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội…………………………………... 35
3.3. Những kinh nghiệm xây dựng và củng cố liên minh công, nơng và
trí thức……………………………………………………………………… 45
KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
LỜI CAM ĐOAN


MỞ ĐẦU
1. Lý do nghiên cứu đề tài:


Đến với học thuyết Mác - Lênin về chủ nghĩa xã hội, Hồ Chí Minh đã kế thừa và
tiếp thu có chọn lọc, vận dụng và phát triển lý luận này một cách sáng tạo, hồn tồn xa
lạ với những gì là giáo điều, kinh viện. Những vấn đề lý luận và thực tiễn xây dựng chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam đã được Người luận giải trên cơ sở gắn nguyên lý với hành
động, lý luận với thực tiễn, những nguyên lý phổ biến của chủ nghĩa Mác - Lênin với
tinh hoa văn hóa Việt Nam và phương Đơng, đồng thời nắm vững cái cốt lõi, “linh hồn
sống” của chủ nghĩa Mác - Lênin là phương pháp biện chứng, trên tinh thần nâng cao tác
phong độc lập suy nghĩ và tự do tư tưởng. Đến với học thuyết Mác - Lênin về chủ nghĩa
xã hội trên tinh thần và cách tiếp cận đó, tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội
chính là học thuyết Mác - Lênin về chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam mà nội dung cốt lõi là
độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Một trong những cơng lao to lớn của Hồ
Chí Minh trong việc bảo vệ học thuyết Mác-Lênin là Người đã làm sâu sắc hơn, phong
phú hơn lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin về liên minh của GCCN trong CMXHCN và
vận dụng nó một cách sáng tạo vào hoàn cảnh lịch sử cụ thể của cách mạng Việt Nam.
C.Mác, Ph.Ăngghen và V.I.Lênin đã khẳng định vai trò của liên minh cơng nơng
trong sự nghiệp đấu tranh xóa bỏ áp bức, bóc lột - lực lượng cơ bản trong cuộc cách
mạng XHCN. Giai cấp công nhân là con đẻ của nền đại công nghiệp, trực tiếp sản xuất
trong dây chuyền đại công nghiệp, và ứng dụng những thành tựu khoa học kỹ thuật vào
sản xuất, họ có tri thức, hiểu được quy luật tiến hóa của tự nhiên và của xã hội. Giai cấp
nông dân chiếm số đông trong xã hội, trực tiếp sản xuất ra của cải vật chất, có nhiệt tình
cách mạng và đặc biệt có cùng chung lợi ích, lý tưởng với giai cấp cơng nhân. Hai giai
cấp này liên minh với nhau sẽ tạo thành sức mạnh vơ địch, khơng gì có thể ngăn cản nổi,
đúng như C.Mác đã khẳng định: một khi liên minh được thực hiện thì “cách mạng vơ
sản mới thực hiện được bài đồng ca mà nếu khơng có được bài đồng ca này thì, trong tất
cả các quốc gia nơng dân, bài đơn ca của cách mạng vô sản sẽ trở thành một bài ai điếu”.


Vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, Hồ Chí Minh đã thực hiện triệt để liên
minh giai cấp công nông trong sự nghiệp cách mạng Việt Nam. Trong cách mạng giải
phóng dân tộc, Hồ Chí Minh đã chỉ rõ nông dân là “quân chủ lực của cách mạng, là bạn

đồng minh chủ yếu và tin cậy nhất của giai cấp công nhân”. Cho nên, “Thực hiện cho
được liên minh cơng nơng vì đó là sự đảm bảo chắc chắn nhất những thắng lợi của cách
mạng. Chỉ có khối liên minh công nông do giai cấp công nhân lãnh đạo mới có thể kiên
quyết và triệt để để đánh đổ các thế lực phản cách mạng, giành lấy và củng cố chính
quyền của nhân dân lao động, hồn thành nhiệm vụ lịch sử của cách mạng dân chủ và
tiến lên chủ nghĩa xã hội”.
Trước tình hình trên đó, một nhiệm vụ cấp bách được đặt ra cho công tác tư
tưởng, lý luận trong thời kỳ mới là phải kế thừa, bảo vệ và phát triển những nguyên lý
của chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, đặc biệt là tư tưởng về liên minh
GCCN với GCND và TLTT, để vận dụng vào thực tiễn Việt Nam nhằm ngăn chặn, đẩy
lùi những xu hướng phản động chính trị, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân, làm nên
sức mạnh của dân tộc, đủ sức đương đầu với những thách thức, khó khăn, đạt được mục
tiêu của sự nghiệp cách mạng. Là sinh viên chuyên ngành Chủ nghĩa xã hội khoa học,
nhận thấy tầm quan trọng của nhiệm vụ đó, tơi chọn vấn đề: “Tư tưởng Hồ Chí Minh về
liên minh cơng nơng trí thức và sự vận dụng của Đảng Cộng sản Việt Nam trong cách
mạng nước ta” làm đề tài tiểu luận kết thúc học phần: “Tác phẩm Hồ Chí Minh về Chủ
nghĩa xã hội khoa học”.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài:
Vấn đề liên minh giai cấp của GCCN trong CMXHCN không phải là vấn đề mới
nhưng ln mang tính thời sự và ý nghĩa quan trọng, và vì vậy nó ln thu hút được sự
quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu trong và ngồi nước. Khơng chỉ những nhà khoa học
chun ngành mà cịn những trí thức quan tâm đến nó. Nghiên cứu vấn đề này không chỉ
bảo vệ và phát triển lý luận Mác-Lênin liên minh giai cấp, mà còn tạo cơ sở lý luận cho
công cuộc xây dựng thành công CNXH ở tất cả các nước trong thời đại ngày nay. Trong
đó có thể kể đến một số cơng trình tiêu biểu sau:


Nhìn chung, các bài viết, cơng trình nghiên cứu về vấn đề liên minh giai cấp của
GCCN bao gồm cả lý luận và thực tiễn ở nước ta rất phong phú, nhưng do xuất phát từ
nhiệm vụ đáp ứng thực tiễn nên các tác giả thường tập trung nhiều vào các mảng đề tài

lớn có tính chất tổng hợp, ít có những cơng trình chun sâu, đặc biệt là về tư tưởng Hồ
Chí Minh về liên minh GCCN với GCND và TLTT. Trong tiểu luận, tôi sẽ tập trung đi
sâu làm rõ vấn đề này qua một số tác phẩm của Hồ Chí Minh
3. Phạm vi và giới hạn nghiên cứu:
3.1. Đối tượng nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu của đề tài này chính là: Tư tưởng Hồ Chí Minh về liên
minh cơng nơng trí
3.2. Khách thể nghiên cứu:
Liên minh cơng nơng trí là một trong những vấn đề lý luận quan trọng được
V.I.Lênin tập trung thể hiện trong nhiều tác phẩm của mình, nhưng do sự hạn hẹp của
thời gian, nên trong tiểu luận này với sự nỗ lực của bản thân, tơi cố gắng khái qt, trình
bày và làm rõ tư tưởng của Hồ Chí Minh thơng qua các tác phẩm đã được nghiên cứu
trong quá trình học tập chuyên ngành đó là:
-

“Phát biểu tại phiên họp thứ bảy hội nghị lần thứ nhất Quốc tế nơng dân”,

Hồ Chí Minh tt, NXB Chính trị quốc gia – Sự thật, HN, 2011, tập 1, trang 229-232
-

“Văn kiện thành lập Đảng”, Hồ Chí Minh tt, NXB Chính trị quốc gia – Sự

thật, HN, 2011, tập 3, trang 1-22
-

“Thường thức chính trị”, Hồ Chí Minh tt, NXB Chính trị quốc gia – Sự

thật, HN, 2011, tập 8, trang 245-296
-


“Đường cách mệnh”, Hồ Chí Minh tt, NXB Chính trị quốc gia – Sự thật,

HN, 2011, tập 2, trang 277-320
-

“Báo cáo tại Hội nghị lần thứ ba của Ban Chấp hành Trung ương Đảng”,

Hồ Chí Minh tt, NXB Chính trị quốc gia – Sự thật, HN, 2011, tập 7, trang 18-42
4. Mục tiêu, nhiệm vụ nghiên cứu
4.1. Mục tiêu nghiên cứu


Mục tiêu nghiên cứu của tiểu luận là làm rõ tư tưởng của Hồ Chí Minh về liên
minh cơng nơng trí. Từ đó thấy được ý nghĩa lý luận và thực tiễn tư tưởng Hồ Chí Minh
về liên minh cơng nơng trí vào cơng cuộc xây dựng thành cơng CNXH ở Việt Nam cũng
như ở các nước khác trên thế giới.
4.2. Nhiệm vụ nghiên cứu:
Để đạt được mục tiêu ấy, tác giả tiểu luận xác định cần hoàn thiện những nhiệm
vụ nghiên cứu chủ yếu dưới đây:
- Tìm hiểu những quan điểm cơ bản của học thuyết Mác - Lênin về liên minh của
GCCN với GCND và các tầng lớp nhân dân lao động khác
- Làm rõ tư tưởng của Hồ Chí Minh về liên minh cơng nơng trí
- Liên hệ sự vận dụng những quan điểm của Hồ Chí Minh của Đảng cộng sản Việt
Nam trong quá trình xây dựng CNXH ở Việt Nam.
5. Đóng góp mới của tiểu luận
Là một sinh viên chuyên ngành CNXHKH, tiểu luận giúp tôi thấm nhuần hơn
những tư tưởng, quan điểm của Hồ Chí Minh liên minh cơng nơng trí. Thấy rõ tầm quan
trọng của việc nghiên cứu vấn đề này đối với con đường tiến lên CNXH ở nước ta hiện
nay. Tiểu luận được hồn thành có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo cho sinh
viên các khóa tiếp theo khi học tập các học phần liên quan đến CNXH.

6. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài được thực hiện trên cơ sở vận dụng các quan điểm chủ nghĩa duy vật lịch
sử và chủ nghĩa duy vật biện chứng đề làm cơ sở lý luận và phương pháp luận nhằm
phân tích, luận chứng làm sáng tỏ các khía cạnh của đề tài - đặc biệt trong đó là làm rõ
mối quan hệ giữa hoàn cảnh lịch sử với sự vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh trong xây
dựng CNXH
Vận dụng phương pháp chủ đạo là phân tích và so sánh để qua đó làm rõ nội dung
tư tưởng Hồ Chí Minh về liên minh cơng nơng trí
Đồng thời kết hợp một số phương pháp cụ thể logic - lịch sử và diễn dịch, quy
nạp.


7. Kết cấu tiểu luận
Ngoài phần mở đầu và danh mục tài liệu tham khảo, kết cấu tiểu luận gồm 3
chương và 9 tiết.

CHƯƠNG 1: QUAN NIỆM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC – LÊNIN VỀ LIÊN
MINH CỦA GCCN TRONG CÁCH MẠNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
1.1. Một số khái niệm cơ bản
1.1.1. Khái niệm “liên minh giai cấp”, “liên minh của GCCN trong CMXHCN”
Trong mỗi thời đại CMXH đều xuất hiện những hình thức liên minh giữa giai cấp
tiên phong, có sứ mệnh thủ tiêu chế độ xã hội cũ, xây dựng chế độ xã hội mới. Tính quy
luật này xuất phát từ bản chất SMLS của giai cấp tiên phong của mỗi cuộc CMXH, đồng
thời còn do yêu cầu cơ bản của mọi cuộc cách mạng là đấu tranh giành chính quyền, cần
thiết phải tập hợp lực lượng. Liên minh giai cấp là quy luật phổ biến của các cuộc cách
mạng xã hội. Liên minh giai cấp là một hình thức liên kết các giai cấp tầng lớp trong xã
hội, giữa một bên là giai cấp cách mạng, có SMLS với một bên các giai tầng, tầng lớp bị
áp bức, bị thống trị trong xã hội nhằm mục tiêu chung là đấu tranh, thủ tiêu bộ máy của
giai cấp thống trị, thiết lập quyền thống trị của chế độ xã hội mới phù hợp với lợi ích
của giai cấp trung tâm hạt nhân của khới liên minh đó.

Liên minh giai cấp được thiết lập trên cơ sở các giai cấp có chung mục tiêu đấu
tranh xóa bỏ chế độ xã hội cũ, xác lập một chế độ xã hội mới phù hợp với các quy luật
phát triển của lịch sử. Các giai cấp có SMLS trong mỗi cuộc CMXH đều có nhu cầu và


lợi ích liên kết với các giai cấp, tầng lớp bị thống trị khác, hợp thành động lực xã hội căn
bản của cách mạng
Liên minh của GCCN trong CMXHCN là một hình thức liên kết, hợp tác giữa
GCCN với các giai cấp và tầng lớp nhân dân lao động khác trong cơ cấu xã hội – giai
cấp của một quốc gia dân tộc cụ thể, trong những giai đoạn cụ thể của tiến trình cách
mạng XHCN và xây dựng CNXH.
Do địa vị kinh tế - xã hội và địa vị chính trị - xã hội của mình, GCCN là giai cấp
có SMLS đi tiên phong trong cuộc đấu tranh thủ tiêu CNTB, xây dựng CNCS. Nhưng để
thực hiện thắng lợi SMLS ấy, GCCN cần phải và có thể thực hiện liên minh với các giai
cấp và tầng lớp nhân dân trong xã hội…Liên minh của GCCN trong CMXHCN với các
giai cấp, tầng lớp nhân dân…là một quy luật chính trị - xã hội của CMXHCN.
1.1.2. Khái niệm liên minh công nông tri thức trong CMXHCN
Liên minh của GCCN với GCND và tầng lớp trí trong CMXHCN là một hình thức
liên kết hợp tác giải GCCN với GCND và tầng lấp trí thức trên tất cả các lĩnh vực kinh
tế, chính trị, văn hóa...nhằm thực hiện mục tiêu chung, mục tiêu cuối cùng của các giai
cấp tầng lớp lao động là xây dựng CNXH, CNCS, giải phóng hồn tồn con người.
1.2. Quan niệm chủ nghĩa Mác – Lênin về liên minh của GCCN trong
CMXHCN
1.2.1. Quan điển của Các Mác và Ăngghen.
Khi xây dựng lí luận về khối liên minh chiến lược của GCCN, Mác và Ăngghen
rất quan tâm tới liên minh cơng nơng vì họ đều là những người lao động có chung số
phận bị GCTS bóc lột. Mác và Ăngghen coi liên minh công nông là một trong những
vấn đề chiến lược của cách mạng vơ sản có vai trị quyết định đến sự thành bại trong sự
nghiệp đấu tranh của GCCN chống lại GCTS xây dựng CNXH.
Nếu như trong “Tuyên ngôn của Đảng cộng sản”, C.Mác và Ph.Ăng ghen mới đưa

ra nguyên tắc về sự liên minh giữa GCCN với các giai cấp lao động khác trong CNTB
thì trong “Đấu tranh giai cấp ở Pháp”, C.Mác đã đi sâu phân tích những vấn đề cụ thể
của q trình liên minh giữa giai cấp công nhân với các tầng lớp, giai cấp tiểu tư sản


nhất là với GCND. Để phát huy được sức mạnh của liên minh giữa GCVS với nông dân
và các tầng lớp tiểu tư sản khác, C.Mác chỉ ra, trong khối liên minh ấy, GCCN phải là
giai cấp lãnh đạo, là giai cấp trung tâm của các lực lượng cách mạng. Người viết: “Cũng
như hồi đầu tháng Hai, đây là khối liên minh chung chống lại GCTS và chính phủ. Khi
phân tích cơ sở kinh tế - xã hội của sự liên minh giữa công nhân và nông dân, C.Mác đã
chỉ rõ sự bóc lột của GCTS đối với họ. Ơng viết: “Rõ ràng là việc bóc lột nơng dân chỉ
khác việc bóc lột GCVS cơng nghiệp về hình thức mà thơi. Kẻ bóc lột đó vẫn là một: đó
là tư bản” [18, tr.118]. Đồng thời ơng cũng phân tích tầm quan trọng của nơng dân trong
q trình liên minh, ủng hộ cuộc đấu tranh của GCVS ông viết: “Công nhân Pháp không
thể tiến lên được một bước nào”…khi đông đảo nhân dân tức là nông dân và giai cấp
tiểu tư sản…”chưa bị tiến trình của cách mạng buộc phải đi theo những người vô sản,
coi là đội tiên phong của mình” [18, tr.30].
Trong tác phẩm “ Ngày 18 tháng sương mù” Mác đã viết: “Cách mạng vô sản phải
là một bài đồng ca – giữa giai cấp vô sản và giai cấp nông dân nếu không bài đơn ca
cách mạng của giai cấp vô sản sẽ trở thành bài ai điếu”. Đó cũng chính là bài học mà
Mác rút ra được từ cuộc cách mạng công xã Paris 1871. Ở thời điểm này Các Mác và
Ăngghen còn chưa đề cập trực tiếp đến việc liên minh với tầng lớp trí thức vì trong các
xã hội đối kháng ở châu Âu lúc bấy giờ tầng lớp trí thức thường gắn liền với giai cấp
thống trị. Khi CNTB được xác lập thì tầng lớp tri thức đương thời là tầng lớp gắn liền
với giai cấp tư sản.
Nhưng khơng vì thế mà Các Mác và Ăngghen tuyệt đối hóa liên minh giai cấp
cơng nông mà không đề cập tới liên minh công nông với các tầng lớp lao động khác
trong đó dĩ nhiên có cả các tầng lớp tiểu tư sản và trí thức.
Tổng kết cuộc cách mạng Pháp (1848-1849) Mác cho rằng: “GCCN Pháp không
thể thực hiện được một bước nào và cũng khơng thể động đến một sợi tóc của GCTS,

trước khi đông đảo nhân dân đứng giữa GCVS và GCTS – tức là GCCN và tầng lớp tiểu
tư sản chống lại sự thống trị của tư sản chưa bị tiến trình cách mạng buộc phải đi theo
những người vơ sản và coi đó là đội tiên phong của mình”. Mác và Ăngghen cũng chỉ ra


GCCN muốn tự giải phóng mình thì đồng thời phải giải phóng các giai cấp lao động
khác, đồng thời các giai cấp khác muốn giải phóng mình thì phải liên minh và đặt dưới
sự lãnh đạo của GCCN.
Năm 1891, trong tác phẩm “Vấn đề nông dân ở Đức” Ăngghen lại đặt vấn đề
“GCCN phải liên minh công nông và đưa nông dân đi lên CNXH”. Mặt khác Ăngghen
cũng chỉ rõ cho giai cấp nông dân thấy rằng: “GCND sẽ không được giải phóng nếu như
họ khơng đi với GCCN và chịu sự lãnh đạo của GCCN”.
1.2.2. Quan niệm của Lênin.
Kế thừa một cách sáng tạo và phát triển học thuyết của Mác – Ăngghen trong thời
đại mới – đế quốc chủ nghĩa. Đặc biệt là việc rút ra được những kinh nghiệm thực tiễn
trong quá trình xây dựng CNXH hiện thực ở nước Nga-Xơ Viết, Lênin đã có bước phát
triển mới quan điểm của Mác-Ănghen về liên minh công nông tri thức trong thời kì quá
độ lên CNXH.
Trong tác phẩm “Hai sách lược của đảng dân chủ - xã hội trong cách mạng dân
chủ”, Lênin đã đưa ra quan điểm về liên minh của GCVS với quần chúng lao động phi
vô sản trong cách mạng dân chủ tư sản. Liên minh của GGCN với quần chúng lao động
phi vô sản, trước hết, chủ yếu là với nông dân là cần thiết và chủ yếu. Liên minh ấy là tất
yếu bởi sự phù hợp căn bản, lâu dài về lợi ích của các giai cấp lao động phi vô sản với
GCVS trong cách mạng và trong những cải cách dân chủ. Chỉ có GCVS mới giúp đỡ
nơng dân trong vấn đề cải thiện triệt để tình cảnh của mình, chỉ có GCVS mới triệt để
ủng hộ nông dân giành ruộng đất. [16, xem tr.70, 92, 162]. Chỉ có đi với GCVS, người
nơng dân mới được giác ngộ, mới nâng trình độ người dân lên ngang trình độ cách mạng
, lên ngang trình độ cách mạng dân chủ triệt để của GCVS [16, xem tr.42, 58, 142]. Đối
với GCVS, chỉ có liên minh với GCND mới làm cho quy mô cách mạng thật sự bắt đầu
phát triển, thật sự to lớn nhất, mới xác lập vai trò lãnh đạo cách mạng của mình, mới làm

cho GCVS có thể chiến thắng trong cuộc đấu tranh cho chế độ dân chủ.
Vận dụng lí luận cách mạng không ngừng trong cuộc cách mạng dân chủ tư sản
kiểu mới, Lênin đã chỉ ra GCCN không chỉ tham gia mà còn phải trở thành lực lượng


lãnh đạo cách mạng trong đó liên minh với giai cấp nông dân, tiểu tư sản và cả giai cấp
tư sản. Từ sự nhận thức được quy luật không đều của chủ nghĩa đế quốc, Lênin đã đánh
giá cao các phong trào cách mạng ở thuộc địa và nửa thuộc đĩa mà thành phần dân cư
đông đảo là nông dân, từ đó Lênin coi nơng dân là một bộ phận của cách mạng XNCH
trên tồn thế giới. Khi nói về cách mạng ở các nước thuộc đĩa, Lênin đã từng nói: “vấn
đề giải phóng dân tộc thực chất là vấn đề nơng dân”.
Lênin đã nhìn thấy nơng dân có xu hướng và khả năng cùng GCCN đi vào con
đường cách mạng XHCN từ đó đã xây dựng được một con đường cách mạng XHCN
mới đó là bỏ qua giai đoạn phát triển của CNTB tiến thẳng lên CNXH ở các nước kinh
tế chậm phát triển. Đến Lênin người đã khẳng định công nông phải liên minh với tất cả
các tầng lớp mở rộng gồm cả tri thức, tiểu tư sản, tiểu chủ.
Khi bàn về cách mạng tháng Mười Nga, Lênin cho rằng: “GCCN giành thắng lợi
không phải ở số đông mà chính là đữa lơi kéo được giai cấp nơng dân và các tầng lớp
lao động khác đi theo”. Đặc biệt khi quan niệm về chun chính vơ sản, Lênin đã viết:
“chun chính vơ sản là một hình thức đặc biệt của liên minh giữa giai cấp vô sản với
đông đảo các tầng lớp lao động không phải vô sản (tiểu tư sản, tiểu chủ, nơng dân, trí
thức…)”.


CHƯƠNG 2: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ LIÊN MINH CƠNG NƠNG
TRÍ THỨC
2.1. Tính tất yếu của liên minh cơng nơng trí thức
Trên cơ sở kế thừa tư tưởng C.Mác, Ph.Ăngghen và Lênin về tính tất yếu của việc
GCCN phải tiến hành liên minh với GCCN và các tầng lớp nhân dân lao động khác
trong xã hội, Hồ Chí Minh dựa vào thực tiễn cách mạng của đất nước đã bổ sung và làm

phong phú thêm nội dung lý luận chủ nghĩa Mác – Lênin về tính tất yếu của liên minh
GCCN trong CMXHCN. Sự phát triển, bổ sung của Người được thể hiện rõ qua các tác
phẩm mà Người đã dành nhiều tâm huyết để gửi gắm những tư tưởng, quan điểm.
Trong tác phẩm “Phát biểu tại phiên họp thứ bảy hội nghị lần thứ nhất Quốc tế
nông dân” được viết vào năm 1923, Hồ Chí Minh trình bày tư tưởng về liên minh cơng
nơng. Theo đó, liên minh công nông là liên minh tất yếu của “hai bạn đồng minh tự
nhiên” vì nơng dân bị GCTS bóc lột khơng ít hơn cơng nhân. Trong điều kiện đó, sự liên
minh giữa nông dân với công nhân là nhằm mục đích tự giải phóng khỏi sự thống trị của
chủ nghĩa thực dân. Như vậy, liên minh giữa công nhân với nơng dân là do tính tất yếu
về chính trị - xã hội, xuất phát từ sự thống nhất giữa mục tiêu, lý tưởng của GCCN với
nhu cầu giải phóng của người nông dân. Như vậy, liên minh giữa công nhân với nông
dân xuất phát từ yêu cầu củng cố và tăng cường vai trị lãnh đạo của giai cấp cơng nhân.
Trong tác phẩm “Đường cách mệnh” (1927), Hồ Chí Minh đã đặt vấn đề: “Ai là
những người cách mệnh?” và theo Người: “Công nông là người chủ cách mệnh”. Lý giải
về vấn đề này, Người đã đưa ra ba lý do căn bản:
1) Là vì cơng nơng bị áp ức nặng hơn.
2) Là vì cơng nơng là đơng nhất cho nên sức mạnh hơn hết.
3) Là vì cơng nơng là tay khơng chân rỗi, nếu thua thì chỉ mất một cái kiếp khổ,
nếu được thì được cả thế giới, cho nên họ gan góc. Vì những cớ ấy, nên cơng nông là
gốc cách mệnh”. Ba lý do căn bản này cũng làm nên tính tất yếu cho sự liên minh của
GCCN với các tầng lớp nhân dân lao động trong xã hội.


2.2. Nguyên tắc tiến hành liên minh
Liên minh của GCCN với các giai cấp và tầng lớp khác chỉ được tiến hành dưới
sự lãnh đạo của Đảng cộng sản – đội tiên phong của GCCN. Theo Người, liên minh
càng bền chặt hơn, trở thành sức mạnh khơng gì có thể ngăn cản được khi có sự lãnh đạo
của một chính Đảng cách mạng được trang bị chủ nghĩa Mác - Lênin. Người chỉ rõ:
“Chủ nghĩa Mác – Lênin đã giúp Đảng ta thấy rõ rằng trong điều kiện một nước nơng
nghiệp lạc hậu như nước ta thì vấn đề dân tộc thực chất là vấn đề nông dân, cách mạng

dân tộc thực chất là cách mạng của nông dân do giai cấp cơng nhân lãnh đạo, và chính
quyền nhân dân thực chất là chính quyền của cơng nơng”. Đây là cách nhìn nhận hồn
tồn mới so với các nhà u nước Việt Nam đương thời về vai trò của giai cấp công
nhân và nông dân, trở thành cơ sở cho việc xây dựng một khối liên minh vững chắc và
xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
Trong tác phẩm “Phát biểu tại phiên họp thứ bảy hội nghị lần thứ nhất Quốc tế
nơng dân”, khi phân tích vai trị của nông dân, của công nhân trong cuộc đấu tranh giải
phóng, Người đi đến kết luận rằng, giai cấp duy nhất đã đấu tranh thẳng tay chống chế
độ hiện nay là GCCN; nông dân và công nhân là hai bạn đồng minh tự nhiên.
Trong tác phẩm “Đường cách mệnh”, thông qua việc đánh giá cao sức mạnh của
truyền thống yêu nước, và việc phát huy sức mạnh của khối đại đồn kết tồn dân,
“Đường cách mệnh” đã chỉ ra: “Cơng nơng là người chủ cách mệnh”, cịn học trị, nhà
bn nhỏ “chỉ là bầu bạn cách mệnh của công nông thôi” [12, tr.288]
Năm 1952, “Báo cáo tại Hội nghị lần thứ ba của Ban Chấp hành Trung ương
Đảng” (Khóa II), Hồ Chí Minh đã biểu thị rõ về sức mạnh của sự gắn kết liên minh giai
cấp công nông, Người nói: “Chỉ có giai cấp cơng nhân lãnh đạo, thì nơng dân mới được
giải phóng. Cũng chỉ có thắt chặt liên minh với nơng dân thì giai cấp cơng nhân mới
lãnh đạo cách mạng đến thắng lợi”. Luận điểm của người thể hiện rõ vai trò lãnh đạo của
GCCN trong khối liên minh giai cấp.
Một nguyên tắc nữa trong tiến hành liên minh của GCCN với các tầng lớp nhân
dân lao động đó là: liên minh rộng rãi. Trong “Văn kiện thành lập Đảng”, Hồ Chí Minh


thể hiện nhất quán quan điểm, liên minh rộng rãi nhưng khơng có nghĩa là sự thỏa hiệp,
phải ln chú trong lợi ích của cơng nơng. Để có được lực lượng đông đảo, theo Người,
Đảng cần hết sức liên lạc với tiểu tư sản, trí thức, trung nơng…để kéo họ về phía vơ sản
giai cấp.
Tiếp tục tư tưởng về ngun tắc liên minh: liên minh rộng rãi, trong tác phẩm
“Thường thức chính trị”, Người nói rằng, ở nơng thơn, bần cùng là lớp người đông nhất,
và nghèo khổ nhất. Họ là đồng minh chắc chắn nhất của GCCN. Những lớp tiểu tư sản

khác cũng bị đế quốc và phong kiến bóc lột, cịn “Những nhà tư sản dân tộc cũng bị đế
quốc và phong kiến đè nén ngăn trở, không có đường ra, doanh nghiệp của họ rất bếp
bênh và thường dễ phá sản” [11, tr.253], cho nên số đông cũng tham gia và ủng hộ
kháng chiến, ủng hộ cách mạng. Họ cũng là đồng minh quan trọng của GCCN. Người
kêu gọi liên minh rộng rãi: “Vì lẽ đó, muốn giải phóng thì nhân dân, tức là cơng, nơng,
tiểu tư sản và tư sản dân tộc, phải đoàn kết để đánh đổ đế quốc, đánh đổ phong kiến và
tư sản mại bản” [11, tr.253].
2.3. Nội dung của liên minh công nơng trí thức
Hồ Chí Minh chưa đi sâu nhiều vào vấn đề nội dung của liên minh cơng nơng trí
thức nhưng Người cũng đã thể hiện tư tưởng của mình về nội dung của liên minh GCCN
với các giai cấp và tầng lớp khác trong cách mạng dân chủ mới, bao gồm liên minh trong
chính trị, trong quân sự, trong kinh tế và trong tổ chức đời sống xã hội. Theo Người,
trong cách mạng dân chủ mới, với mục đích là “xây dựng một nước Việt Nam độc lập,
thống nhất, tự do giàu mạnh, làm cho nhân dân được hưởng hạnh phúc và xây dựng một
xã hội sung sướng, vẻ vang” [11, tr.265].
Xây dựng quân đội: Một quân đội nhân dân thật mạnh, dưới sự lãnh đạo GGCN
và Đảng. Quân đội ta phải được trang bị đầy đủ, phải học tập đầy đủ để tiến bộ mãi về
mặt kĩ thuật. Phải tăng cường cơng tác chính trị để đảm bảo là quân đội cách mạng, quân
đội quyết chiến quyết thắng.
Xây dựng chính quyền: Phải cải tiến cơng tác trong các cơ quan chính quyền, tẩy
sạch bênh quan liêu, mệnh lệnh. Phải liên hệ chặt chẽ với nhân dân. Phải giáo dục nhân


dân biết sử dụng quyền lợi của mình và hăng hái làm trịn nghĩa vụ của mình. Phải đàn
áp nghiêm trọng bọn phản động, ngăn ngừa và trừng trị mọi hoạt động phá hoại.
Xây dựng kinh tế: Phát triển nông nghiệp, công nghệ, thủ công nghiệp, thương
nghiệp, giao thông vận tải, để cải tiến kinh tế và tài chính Nhà nước, cải thiện đời sống
của nhân dân.
Xây dựng văn hóa: Phải xây dựng một nền văn hóa khoa học, đại chúng. Phải
nâng cao trình độ văn hóa của nhân dân. Phải đề xướng đạo đức công dân tức là yêu Tổ

quốc, yêu nhân dân, yêu lao động, yêu khoa học, bảo vệ của cơng…Phải chống văn hóa
nơ lệ của đế quốc và phong kiến. Phải tăng cường công việc vệ sinh, phát triển báo
chí…” [11, tr.265-266].
2.4. Vai trị của khối liên minh đối với sự nghiệp cách mạng của dân tộc
Vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, Hồ Chí Minh đã thực hiện triệt để liên
minh giai cấp công nông trong sự nghiệp cách mạng Việt Nam. Trong cách mạng giải
phóng dân tộc, Hồ Chí Minh đã chỉ rõ nông dân là “quân chủ lực của cách mạng, là bạn
đồng minh chủ yếu và tin cậy nhất của giai cấp công nhân”.
Trong “Lời kêu gọi” tại Hội Nghị thành lập Đảng, Hồ Chí Minh đã kêu gọi giai
cấp cơng nhân, nơng dân, bính lính, thanh niên, học sinh cần phải gia nhập Đảng, ủng hộ
Đảng và đi theo Đảng để:
1 - Đánh đổ đế quốc Pháp, phong kiến Việt Nam và giai cấp tư sản phản cách
mạng.
2 - Làm cho nước Việt Nam được độc lập.
3 - Thành lập Chính phủ cơng nơng binh” [10, tr.22].
Trong “Thường thức chính trị”, Người đưa ra tư tưởng, liên minh cơng nông là
nền tảng rộng rãi và chắc chắn nhất của dân chủ chun chính. Người viết: “Vì sao cần
phải lấy liên minh cơng nơng làm nền tảng? Vì GCCN là đơng nhất…Vì trong cuộc đấu
tranh cách mạng hai giai cấp ấy là kiên quyết nhất. Liên minh của hai giai cấp ấy là rộng
rãi và chắc chắn nhất của dân chủ chuyên chính. Trong cuộc kháng chiến cứu nước, hai


giai cấp ấy cũng đóng góp nhiều nhất, hy sinh to lớn nhất, thành tích lớn nhất. Giai cấp
cơng nhân là lực lượng chủ chốt để giữ gìn Tổ quốc, xây dựng nước nhà…”[11, tr.263].
Theo Hồ Chí Minh, liên minh công nông được thắt chặt không chỉ thực hiện thắng
lợi sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc mà cịn là đường lối xuyên suốt để thực hiện
thắng lợi sự nghiệp cách mạng XHCN. Chính vì thế, trong giai đoạn xây dựng CNXH ở
miền Bắc, Người đã chỉ đạo Ban soạn thảo Hiến pháp năm 1959 phải thể hiện được tinh
thần căn bản nhất của chiến lược này: “Chúng ta đang tiến lên một nền kinh tế xã hội
chủ nghĩa. Đi đôi với những thắng lợi ấy, quan hệ giai cấp trong xã hội miền Bắc đã thay

đổi. Giai cấp địa chủ phong kiến đã bị đánh đổ. Giai cấp công nhân ngày càng lớn mạnh
và tăng cường lãnh đạo đối với Nhà nước. Giai cấp nông dân đang đi vào con đường hợp
tác hóa. Liên minh cơng nơng càng được thắt chặt”. Quan điểm này của Người đã được
thể hiện rõ trong Lời nói đầu của Hiến pháp năm 1959: “Nhà nước của ta là Nhà nước
dân chủ nhân dân dựa trên nền tảng liên minh công nông, do giai cấp công nhân lãnh
đạo”[8, tr.27].
Trong cách mạng XHCN, GCCN và GCND vẫn là lực lượng cơ bản quyết định
thắng lợi. Người nói nơng dân “là lực lượng cơ bản cùng với giai cấp công nhân xây
dựng chủ nghĩa xã hội”. Liên minh công nông phải được thực hiện trong mọi lĩnh vực:
chính trị, kinh tế, quân sự… Muốn xây dựng CNXH thành cơng thì phải thực hiện liên
minh cơng nông vững chắc, phải đẩy mạnh xây dựng nền kinh tế XHCN, làm cho nông
nghiệp thật sự trở thành cơ sở để phát triển công nghiệp, và công nghiệp phát triển để
thúc đẩy sự phát triển của nông nghiệp, phục vụ đắc lực cho nông nghiệp.
CHƯƠNG 3: SỰ VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ LIÊN MINH
CƠNG TRÍ THỨC CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM TRONG CÁCH MẠNG
NƯỚC TA
3.1. Đảng ta thực hiện liên minh cơng, nơng và trí thức trong cách mạng dân
tộc dân chủ nhân dân
3.1.1. Sớm nhận thức vị trí các giai cấp trong liên minh


Thấm nhuần học thuyết Mác - Lênin, những người cộng sản Việt Nam sớm khẳng
định vai trò lịch sử của GCCN trong cách mạng Việt Nam. GCCN Việt Nam ra đời và
trưởng thành trước GCTS Việt Nam và bước lên vũ đài chính trị sau khi Cách mạng
Tháng Mười Nga đã giành được thắng lợi và giai cấp tư sản ở nhiều nước đã vứt bỏ
ngọn cờ dân tộc. Chính bối cảnh chính trị thế giới ấy đã làm cho GCCN Việt Nam có
thêm uy tín chính trị để giương cao ngọn cờ lãnh đạo dân tộc làm cách mạng giải phóng,
giành độc lập, dân chủ theo con đường mới.
Nhưng điều quan trọng hơn là GCCN Việt Nam sớm tiếp thu chủ nghĩa Mác Lênin, có lãnh tụ Hồ Chí Minh và Đảng tiền phong lãnh đạo. Đảng lại có đường lối cách
mạng đúng, đáp ứng yêu cầu đòi hỏi của dân tộc và giai cấp. Sau khi ra đời, Đảng đã lập

ra tổ chức công hội để giáo dục và vận động công nhân; lập ra nông hội, hội vǎn hố cứu
quốc và các đồn thể thanh niên, phụ nữ, v.v., để giáo dục và tổ chức nông dân, trí thức
và các tầng lớp lao động khác. Vì vậy, GCCN khơng những đã đồn kết được giai cấp
mình mà cịn đồn kết được GCND và tranh thủ phần lớn những người yêu nước trong
TLTT, tư sản dân tộc và các nhân sĩ yêu nước ngày càng tham gia đông đảo vào phong
trào giải phóng dân tộc theo đường lối của Đảng.
Đánh giá về GCCN Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói, chỉ có GCCN là
dũng cảm nhất, cách mạng nhất, ln ln gan góc đương đầu với bọn đế quốc thực dân.
Với lý luận cách mạng tiên phong và kinh nghiệm của phong trào vô sản quốc tế, GCCN
ta đã tỏ ra là người lãnh đạo xứng đáng nhất và đáng tin cậy nhất của nhân dân Việt
Nam.
Nơng dân Việt Nam có tinh thần cách mạng, nhưng họ không thể là lực lượng
lãnh đạo cách mạng dân tộc dân chủ vì họ khơng gắn liền với một phương thức sản xuất
mới và khơng có hệ tư tưởng độc lập. Họ cũng khơng có khả nǎng xây dựng một chế độ
xã hội mới.
Chủ tịch Hồ Chí Minh và những người Cộng sản Việt Nam thấu hiểu điều mong
muốn thiết tha nhất của nông dân. Từ khi thành lập, Đảng Cộng sản Việt Nam đã chủ


trương "lãnh đạo dân cày nghèo làm thổ địa cách mạng đánh trúc bọn đại địa chủ và
phong kiến".
Đường lối cách mạng dân tộc dân chủ đúng đắn của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã làm cho phong trào nơng dân từng bước xích lại gần với phong trào cơng nhân.
Trong q trình lãnh đạo cách mạng, Đảng cịn chỉ rõ mục tiêu, nội dung và đối tượng
của liên minh trong từng thời kỳ nhằm từng bước thực hiện mục tiêu chủ yếu trước mắt
là giải phóng dân tộc.
Đảng coi trọng khả nǎng cách mạng của TLTT. Đế quốc Pháp thống trị nước ta
vừa làm phân hoá, mai một TLTT phong kiến, đồng thời tạo ra tTLTT mới - trí thức tư
sản. Nhưng một mặt do chế độ chuyên chế về chính trị, độc quyền về kinh tế, nên tầng
lớp này khơng có cơ sở kinh tế - chính trị để phát triển. Mặt khác, do truyền thống yêu

nước của dân tộc và sự thu hút của phong trào cơng nơng nên phần lớn trí thức Việt Nam
đã tích cực tham gia phong trào giải phóng dân tộc, chống đế quốc và tay sai.
Tuy có tinh thần phản đế, nhưng lúc đầu họ chịu ảnh hưởng của hệ tư tưởng dân
chủ tư sản kiểu cũ nên không thể tự tìm ra con đường cứu nước đúng đắn, khơng thể
đóng vai trò lãnh đạo cách mạng. Sự thất bại của cuộc khởi nghĩa Yên Bái (9-2-1930) do
Việt Nam quốc dân Đảng tổ chức với khẩu hiệu "không thành công cũng thành nhân" đã
thể hiện quan điểm bấp bênh tiểu tư sản và sự bất lực của đảng này.
Từ khi đồng chí Nguyễn Aí Quốc lập ra Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí
hội, tổ chức tiền thân của Đảng, thì những trí thức u nước đã từng bước chịu ảnh
hưởng tư tưởng cứu nước của Người và chuyển dần từ lập trường cách mạng dân tộc dân
chủ kiểu cũ sang lập trường cách mạng dân tộc dân chủ kiểu mới của giai cấp công
nhân. Đảng luôn luôn coi trọng việc giác ngộ, tập hợp những trí thức cách mạng vào
hàng ngũ của mình và các đồn thể cách mạng khác, làm cho họ trở thành một "động
lực" cách mạng quan trọng.
Đảng luôn luôn uốn nắn những quan điểm tư tưởng lệch lạc mang tính chất tiểu tư
sản, biểu hiện ở một số chủ trương như: thanh đảng, thanh hội của xứ uỷ Trung Kỳ (205-1931) hay "trí, phú, địa, hào đào tận gốc, trốc tận rễ", vận dụng rập khuôn kinh nghiệm


cách mạng ruộng đất của Trung Quốc vào điều kiện nước ta..., đồng thời Đảng đấu tranh
chống những xu hướng đánh giá thấp lực lượng nông dân (bạn đồng minh chủ yếu và
đáng tin cậy nhất của giai cấp công nhân). Đảng còn phê phán quan điểm của một số trí
thức trong Đảng dân chủ địi chia quyền lãnh đạo cách mạng và quan điểm tư tưởng sai
trái của nhóm "Nhân vǎn giai phẩm" trong những nǎm 1957-1959, v.v.. Dưới sự lãnh đạo
đúng đắn, sáng tạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, tầng lớp trí thức đã cùng với giai
cấp công nhân, nông dân và cả dân tộc lập nhiều chiến cơng trong sự nghiệp giành và
giữ chính quyền cũng như trong kháng chiến và kiến quốc.
Trong thực tiễn, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta đã sớm đánh giá và phát huy
đúng mức khả nǎng cách mạng của tầng lớp trí thức; đặt vị trí quan trọng của trí thức
trong sự nghiệp cách mạng. Nhưng về mặt lý luận, Đảng ta chưa vượt khỏi khuôn khổ
các vǎn kiện của Quốc tế cộng sản, nhất là Nghị quyết Đại hội VI Quốc tế cộng sản (91928). Đại hội Đảng lần thứ II (2-1951) đã khẳng định trí thức "là một trong những động

lực đáng kể của cách mạng. Họ là bạn đồng minh tin cậy được của giai cấp công nhân".
Trong cương lĩnh của đại hội II của Đảng cũng ghi: “chính quyền dân chủ của nhân dân
dựa vào mặt trận thống nhất lấy liên minh công nhân, nơng dân và lao động trí thức làm
nền tảng do giai cấp công nhân lãnh đạo”.
3.1.2. Giải quyết kịp thời quyền lợi thiết thân của công nhân, nông dân và tầng
lớp trí thức
Cách mạng Tháng Tám thắng lợi, nước Việt Nam dân chủ cộng hồ ra đời. Đó là
nhà nước của nhân dân lao động đầu tiên ở Đông Nam châu Á. Các giai cấp công nhân,
nông dân và trí thức cách mạng trở thành người làm chủ đất nước và tham gia xây dựng
chính quyền. Đảng hết sức quan tâm giải quyết quyền lợi của nông dân và nhân dân lao
động khi có điều kiện.
Sau Cách mạng Tháng Tám, cǎn cứ vào chủ trương của Chính phủ lâm thời, ngày
20-11-1945, ủy ban nhân dân Bắc Bộ đã ra thơng tư giảm tơ 25%. Ngày 14-7-1949,
Chính phủ ra sắc lệnh giảm tô và từng bước thực hiện cải cách ruộng đất, Đảng đã chia


cho nơng dân 177.000 ha ruộng đất, trong đó có 18.400 ha ruộng đất tịch thu của thực
dân Pháp, 39.600 ha ruộng đất của đại địa chủ và 119.000 ha ruộng đất công.
Khi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp bước vào giai đoạn quyết liệt, tháng
10-1953, Đảng phát động phong trào quần chúng địi triệt để giảm tơ và thực hiện cải
cách ruộng đất. Tuy có phạm một số sai lầm, nhưng Đảng đã lãnh đạo nông dân các tỉnh
miền Bắc giành thêm 456.000 ha ruộng đất từ tay địa chủ. Chế độ chiếm hữu ruộng đất
của địa chủ, phong kiến ở các tỉnh miền Bắc bị xoá bỏ. Quyền sở hữu ruộng đất của
nông dân lao động được Nhà nước thừa nhận.
Thành quả về cách mạng ruộng đất có ý nghĩa hết sức to lớn. Nó làm tǎng thêm
nguồn sức mạnh của nhân dân trong quá trình cách mạng. Thành quả ấy chẳng những
động viên cổ vũ gGCNDmà cả GCCN và tTLTT, bởi lẽ gGCCN và phần lớn trí thức đều
xuất thân từGCND và nhân dân lao động, chẳng những họ có kẻ thù chung là đế quốc và
phong kiến đại địa chủ, đại tư sản làm tay sai, mà cịn có quan hệ gia đình, xã hội hết sức
gần gũi với nông dân. Phần đất người nông dân được chia khơng chỉ là lợi ích riêng của

họ mà người cơng nhân, người trí thức ít nhiều đều có lợi ích chung. Vì vậy, vấn đề
ruộng đất của nông dân là một nội dung cơ bản của cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân
ở nước ta.
Ngoài quyền lợi ruộng đất, nhân dân ta nói chung, cơng - nơng và tầng lớp trí thức
nói riêng cịn được hưởng những quyền lợi khác khơng kém phần quan trọng. Đó là
quyền tự do tư tưởng, tự do tín ngưỡng, tự do tổ chức, tự do hội họp, tự do đi lại trong
nước và tự do xuất dương, v.v., đã được Đảng ta cơng bố trong Chương trình của Việt
Minh (25-11-1941) và ngày càng tạo điều kiện để thực hiện những quyền lợi đó.
Đảng chủ trương khuyến khích và giúp đỡ, tạo điều kiện cho trí thức, vǎn nghệ sĩ
phát triển tài nǎng bằng việc lập các trường chuyên môn huấn luyện, đào tạo nhân tài
của đất nước ngày càng đông đảo. Những kết quả về cách mạng ruộng đất và việc thực
hiện quyền tự do, dân chủ cũng như về cách mạng vǎn hoá, khoa học, kỹ thuật trong
mấy chục nǎm qua đã làm tǎng sự gắn bó giữa cơng nhân, nơng dân và trí thức đối với
Đảng, với chế độ mới mà nhân dân ta đang xây dựng.


3.1.3. Xác định đúng các mối quan hệ trong quá trình cách mạng
Đảng ta chẳng những vạch ra đường lối chiến lược và sách lược đúng đắn, mà còn
tạo ra những điều kiện thuận lợi để liên kết các lực lượng cách mạng, bảo đảm cho
GCCN giữ vững quyền lãnh đạo và vai trò nòng cốt trong các cuộc đấu tranh.
Với lý luận Mác - Lênin soi đường, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta đã sớm giải
quyết đúng mối quan hệ giữa độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, vạch ra đường lối
cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân tiến lên CNXH.
Trên quan điểm giải phóng dân tộc gắn liền với giải phóng xã hội, Đảng ta giải
quyết hợp lý mối quan hệ giữa nhiệm vụ chống đế quốc với nhiệm vụ chống phong kiến.
Giải quyết đúng đắn hai nhiệm vụ chiến lược ở giai đoạn cách mạng dân tộc dân chủ,
bảo đảm cho Đảng ta vừa củng cố được liên minh công nhân, nông dân và trí thức, vừa
lơi kéo được những người thuộc tầng lớp trên (tư sản dân tộc, địa chủ vừa và nhỏ) có
tinh thần chống đế quốc vào mặt trận dân tộc thống nhất; vừa ngǎn ngừa, sửa chữa kịp
thời những sai lầm tả, hữu khuynh trong việc thực hiện đường lối cách mạng.

Liên minh công nhân, nông dân và trí thức được củng cố, phong trào cách mạng ở
hai địa bàn chiến lược thành phố và nông thôn, gắn bó chặt chẽ với nhau, hỗ trợ và thúc
đẩy lẫn nhau tạo thành sức mạnh tổng hợp của cách mạng. Trong mối quan hệ giữa hai
địa bàn chiến lược này, Đảng coi trọng cả hai địa bàn, nhưng đánh giá thành phố là địa
bàn xung yếu, vì nếu phong trào công nhân và nhân dân lao động (lao động chân tay và
trí óc) ở thành phố yếu thì khởi nghĩa quần chúng không thể trở thành tổng khởi nghĩa
để giành thắng lợi.
Trong khi khẳng định vị trí lãnh đạo của giai cấp công nhân, động lực cách mạng
là các giai cấp cơng nhân, nơng dân và tầng lớp trí thức, Đảng ta hết sức quan tâm xây
dựng Mặt trận dân tộc thống nhất, coi đó là một trong những nguyên nhân thắng lợi của
cách mạng. Đảng ta xác định liên minh cơng, nơng và trí thức là nền tảng của Mặt trận
dân tộc thống nhất. Tổng kết công tác mặt trận, tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II,
Đảng ta chỉ rõ: "Mặt trận dân tộc thống nhất lấy liên minh cơng nơng và lao động trí
thức làm nịng cốt và do giai cấp cơng nhân lãnh đạo". Khối liên minh này được củng cố


vững chắc bao nhiêu thì Mặt trận dân tộc thống nhất càng có điều kiện mở rộng bấy
nhiêu. Có thể nói, khơng củng cố được liên minh cơng, nơng và trí thức thì cũng khơng
thể có Mặt trận dân tộc thống nhất.
3.2. Củng cố và mở rộng liên minh công, nơng và trí thức trong chặng đường
đầu thời kỳ q độ lên chủ nghĩa xã hội
3.2.1. Những bước phát triển mới của liên minh cơng, nơng và trí thức từ khi cả
nước bước vào chặng đường đầu thời kỳ quá độ
Hơn 15 nǎm kể từ ngày hồ bình, thống nhất Tổ quốc, là một thời kỳ sôi động,
phức tạp và đầy khó khǎn, thử thách của q trình phát triển đi lên của cách mạng Việt
Nam. Trong bối cảnh đó, tuy có nhiều sai lầm, khuyết điểm trong nhận thức cũng như
hành động, song xét về cơ bản, Đảng ta đã sửa chữa có kết quả và từng bước giải quyết
đúng vấn đề nơng dân, thực sự góp phần củng cố khối liên minh cơng - nơng và trí thức.
Sau ngày miền Bắc được hồn tồn giải phóng, GCCN làm chủ các cơ sở sản xuất
công nghiệp, giao thông vận tải, ngân hàng ... do giành lại được từ tay thực dân Pháp và

tư sản mại bản mà nhân dân ta xây dựng nên. ở miền Nam, sau khi hoàn thành cải tạo
công thương nghiệp tư bản chủ nghĩa, giai cấp công nhân làm chủ phần tư liệu sản xuất
chủ yếu lấy lại từ tay đế quốc, thực dân và tầng lớp tư sản mại bản .
GCCN cả nước có tổ chức thống nhất là Tổng liên đoàn lao động Việt Nam với
hơn 4 triệu đoàn viên. Lực lượng giai cấp công nhân, chủ thể của liên minh, được tǎng
cường và củng cố thêm một bước.
Tuy vậy, so với yêu cầu của cách mạng trong giai đoạn mới, giai cấp công nhân
chưa đáp ứng đầy đủ. Giai cấp công nhân hiện nay vẫn cịn ít về số lượng và yếu về tay
nghề, trình độ giác ngộ xã hội chủ nghĩa còn bị hạn chế.
TLTT đã trở thành một lực lượng quan trọng trong dân cư nước ta, chiếm một tỷ
lệ khá lớn trong số 4 triệu cán bộ, công nhân, viên chức, làm việc khắp mọi lĩnh vực
thuộc bộ máy lãnh đạo và quản lý của Đảng, Nhà nước các cấp, trong các cơ sở kinh tế
tập thể và ngoài quốc doanh. Bên cạnh những nhà khoa học quản lý và khoa học xã hội,
số đơng những nhà trí thức khoa học cơng nghệ đã có nhiều sáng chế, phát minh được áp


dụng vào sản xuất và đời sống. Việc lai tạo nhiều giống lúa cho nǎng suất cao, lai tạo
đàn gia súc và gia cầm có kết quả, đã làm cho nền nơng nghiệp nước ta có những đóng
góp quan trọng vào chương trình lương thực, thực phẩm thế giới. Trong thực tế, TLTT
đã là lực lượng xung kích, nịng cốt của 40 triệu lao động nước ta, đang khắc phục khó
khǎn để kiến thiết đất nước.
Trong đường lối đổi mới, Đảng ta đã "coi khoa học và công nghệ là một động lực
mạnh mẽ của sự nghiệp đổi mới..., coi người làm công tác khoa học và công nghệ là đội
ngũ cán bộ tin cậy quý báu của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta". Tuy vậy, sự đóng góp
của trí thức chưa làm chuyển biến mạnh mẽ nền kinh tế cũng như các mặt khác của đời
sống xã hội. Sự hạn chế đó của tầng lớp trí thức do nhiều nguyên nhân khách quan và
chủ quan.
Đối với GCND, sau khi miền Nam được giải phóng, Đảng tiếp tục lãnh đạo nơng
dân đấu tranh xố bỏ tàn dư của chế độ thực dân, phong kiến về ruộng đất.Quan hệ sản
xuất thuộc địa, nửa phong kiến ở nơng thơn hồn tồn bị xố bỏ. Người nơng dân đã làm

chủ gia đình, thơn xóm và ruộng đồng.
Trên cơ sở phong trào hợp tác hố nơng nghiệp, Quốc hội khố VII (12-1987) đã
thơng qua Luật đất đai. Theo luật toàn bộ đất đai, rừng, biển Việt Nam đều là tài sản
chung của toàn dân. Mọi người dân đều có quyền được phân phối sử dụng theo khả nǎng
để phát triển sản xuất, đáp ứng yêu cầu của gia đình và xã hội.
Tuy vậy, kết quả của phong trào hợp tác hoá cũng như Đại hội Hội nông dân chưa
thực sự củng cố liên minh. Sai lầm trong vấn đề này là đã đồng nhất cải tạo nơng nghiệp
với hợp tác hố. Do đó, "về nội dung cải tạo, thường nhấn mạnh việc thay đổi quan hệ
sở hữu về tư liệu sản xuất mà không coi trọng giải quyết các vấn đề tổ chức quản lý và
chế độ phân phối". Đời sống nông dân chậm được cải thiện, đại bộ phận dân cư nông
nghiệp chưa thật sự thoát khỏi nghèo nàn, đời sống vật chất, tinh thần cịn nhiều khó
khǎn. Những sai lầm, thiếu sót trong việc giải quyết vấn đề nơng nghiệp đã làm mất đi
động lực phát triển sản xuất, ngǎn cách người nơng dân với đồng ruộng. Điều đó làm


suy giảm sự bền chặt vốn có của liên minh cơng, nơng và trí thức trong những nǎm vừa
qua.
3.2.2. Cơng cuộc đổi mới vì chủ nghĩa xã hội có ý nghĩa củng cớ liên minh cơng,
nơng và trí thức.
Từng bước đổi mới cơ chế quản lý kinh tế. Thực trạng kinh tế - xã hội nước ta
trong những nǎm 1978-1980 là thời kỳ sa sút, khó khǎn chồng chất. Nơng nghiệp, một
nền kinh tế chủ yếu ở nước ta, đã lâm vào tình trạng trì trệ; hiệu quả đầu tư thấp, không
tương xứng với công của bỏ ra. Quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa bị suy yếu. Khối liên
minh cơng nhân, nơng dân và trí thức bị rạn nứt.Tuy nhiên, khốn mới cũng chỉ có tác
dụng nhất định. Từ cuối nǎm 1985 đến nǎm 1986, nông nghiệp lại có chiều hướng giảm
sút.
Để khắc phục tình trạng này, Đại hội Đảng lần thứ VI và sau đó Hội nghị Trung
ương lần thứ hai đã quyết định đổi mới toàn diện và đồng bộ chính sách đối với nơng
nghiệp và nơng dân nhằm giải phóng sức sản xuất ở nơng thôn. Đối với nông dân, Đảng
chủ trương "phải giải quyết tốt quan hệ giữa nghĩa vụ đóng góp cho đất nước và quyền

lợi của nơng dân. Nhà nước phải sốt lại các chính sách quan hệ đến nơng dân, bãi bỏ
những chính sách khơng đúng".
Với chính sách kinh tế nhiều thành phần, các tầng lớp nhân dân đã đầu tư vốn, vật
tư, kỹ thuật để phát triển sản xuất. Qua "khốn hộ" và liên minh kinh tế, người nơng dân
thực sự làm chủ mảnh đất mà Đảng và Nhà nước trao quyền sử dụng cho họ. Dân chủ về
mặt kinh tế bước đầu được bảo đảm. Lịng tin của nơng dân đối với Đảng và Nhà nước
được củng cố thêm một bước.
Điều chỉnh phương hướng và bước đi của công nghiệp hố, tập trung sức phát
triển nơng nghiệp, coi nơng nghiệp thật sự là mặt trận hàng đầu. Xuất phát từ đặc điểm
tình hình nước ta ngay từ những nǎm đầu miền Bắc bước vào TKQĐ lên CNXH, Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: "Nước ta là một nước nông nghiệp... Muốn phát triển công
nghiệp, phát triển kinh tế nói chung, phải lấy phát triển nơng nghiệp làm gốc, làm chính.
Nếu khơng phát triển nơng nghiệp thì khơng có cơ sở để phát triển công nghiệp". Tư


tưởng nói trên của Chủ tịch Hồ Chí Minh là cơ sở cho sự hình thành đường lối cơng
nghiệp hố đất nước của Đảng.
Song do toàn Đảng chưa nhận thức đầy đủ về thời kỳ quá độ, chưa xác định được
những mục tiêu của chặng đường đầu, nên đã đẩy mạnh cơng nghiệp hố trong khi chưa
có đủ những điều kiện, tiền đề cần thiết, dẫn đến kết quả đầu tư nhiều nhưng hiệu quả
kinh tế thấp. Đại hội lần thứ VII của Đảng đã nêu mục tiêu tổng quát 5 nǎm (1991 1995) là "vượt qua khó khǎn thử thách, ổn định và phát triển kinh tế - xã hội, tǎng cường
ổn định chính trị, đẩy lùi tiêu cực và bất công xã hội, đưa nước ta cơ bản ra khỏi tình
trạng khủng hoảng hiện nay".
Trong khi thực hiện mục tiêu cách mạng do Đại hội đề ra, không thể tách rời việc
xây dựng một nền nơng nghiệp tồn diện theo hướng sản xuất hàng hố, khơng thể tách
rời các mục tiêu phát triển kinh tế tương ứng khác và hỗ trợ cho nông nghiệp như công
nghiệp nặng, kết cấu hạ tầng, nhất là giao thông vận tải và các ngành vǎn hoá, xã hội.
Phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, dân chủ hố đời sớng xã hội. Đại hội lần thứ
VI của Đảng vạch rõ, trước mắt tập trung sức giải quyết những vấn đề có thể giải quyết
được phù hợp với từng đối tượng.

Đối với GCCN, Đảng đề ra những biện pháp cụ thể nhằm nâng cao giác ngộ
XHCN và trình độ hiểu biết về mọi mặt để xứng đáng với vị trí giai cấp tiên phong của
cách mạng; đồng thời chǎm lo đời sống vật chất và vǎn hoá, tạo ra những điều kiện cần
thiết để GCCN hồn thành sứ mệnh lịch sử của mình. Đảng quyết định cần "có chế độ
tiền lương và phúc lợi xã hội hợp lý, bảo đảm đời sống vật chất và vǎn hố của cơng
nhân, viên chức và gia đình".
Đối với trí thức, Đại hội lần thứ VI của Đảng chủ trương: "điều quan trọng nhất là
bảo đảm quyền tự do sáng tạo. Đánh giá đúng nǎng lực và tạo điều kiện cho nǎng lực
được sử dụng đúng và phát triển". Cùng với chủ trương đúng đắn nói trên, Đại hội cịn
phê phán những quan điểm hẹp hịi, khơng thấy hết vị trí của trí thức đối với cơng cuộc
xây dựng CNXH.


Đại hội lần thứ VII của Đảng khẳng định: "Thực hiện dân chủ XHCN là thực chất
của việc đổi mới và kiện tồn hệ thống chính trị. Đây vừa là mục tiêu vừa là động lực
của công cuộc đổi mới". Tại đại hội VII của Đảng thông qua cương lĩnh xây dựng đất
nước trong thời kì quá độ lên CNXH một lần nữa lại khẳng định luận điểm: “liên minh
giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức do giai cấp cơng nhân lãnh
đạo”. Và qua đó là nền tảng của việc xây dựng nhà nước của dân, do dân và vì dân.
Đại hội IX của Đảng khẳng định: “động lực chủ yếu để phát triển đất nước là đại
đoàn kết toàn dân trên cơ sở liên minh cơng nhân, nơng dân và trí thức do Đảng lãnh
đạo, kết hợp hài hịa các lợi ích cá nhân, tập thể và xã hội, phát huy mọi tiềm năng và
nguồn lực của các thành phần kinh tế của tồn xã hội.”
Trên tinh thần đó, đại hội X của Đảng ta tiếp tục khẳng định: “đoàn kết toàn dân
tộc trên nền tảng liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nơng dân và đội ngũ trí thức
dưới sự lãnh đạo của Đảng làm đường lối chiến lược của cách mạng Việt Nam, là nguồn
sức mạnh, động lực chủ yếu và là nhân tố có ý nghĩa quyết định đảm bảo thắng lợi bền
vững của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc”.
Đại Hội XI tiếp tục nhấn mạnh: “ đại đoàn kết dân tộc là đường lối chiến lược của
cách mạnh Việt Nam, là sứ mệnh, là động lực chỉ yếu và là nhân tố có ý nghĩa quyết

định đảm bảo thắng lợi của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc”.
3.3. Những kinh nghiệm xây dựng và củng cố liên minh công, nông và trí
thức
3.3.1. Ở mỗi giai đoạn cách mạng, Đảng lãnh đạo phải sớm xác định mục tiêu,
nội dung và đối tượng liên minh của giai cấp công nhân để tǎng cường củng cố liên
minh, tạo điều kiện cho phong trào cách mạng giữ được tính liên tục và thế chủ động
trong quá trình phát triển và thắng lợi.
Vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể nước ta, với chiến
lược cách mạng dân tộc dân chủ tiến lên CNXH, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta đã
chỉ rõ: động lực cách mạng là GCCN, GCND và TLTT. Lực lượng cách mạng gồm các
giai cấp: công nhân, nông dân, tiểu tư sản, tư sản dân tộc và tầng lớp địa chủ vừa và nhỏ.


×