BÀI 18
ĐẢNG LÃNH ĐẠO NHÂN DÂN CẢ NƯỚC QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ
HỘI VÀ BẢO VỆ TỔ QUỐC
(1975-2011)
Số tiết lên lớp : 10 ( mỗi tiết 45 phút)
A.Mục đích yêu cầu:
-Mục đích : Nắm được đường lối lãnh đạo của Đảng xây dựng XHCN và bảo vệ tổ
quốc giai đoạn (1975-2011)
-Yêu cầu : Nhận thức được sự cần thiết vai trị lãnh đạo của Đảng trong q trình
xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc hiện nay.
B. Kết cấu nội dung ,phân chia thời gian, trọng tâm của bài.
I.ĐẢNG LÃNH ĐẠO NHÂN DÂN KHẮC PHỤC HẬU QUẢ CỦA CHIẾN
TRANH, HOÀNG THÀNH THỐNG NHẤT ĐÁT NƯỚC,ĐƯA CẢ NƯỚC
PHÁT TRIỂN THEO CON ĐƯỜNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA.( 2 tiết)
1. Khắc phục hậu quả chiến tranh , hoàn thành thống nhất đất nước (1975-1976)
2. Bước đầu xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc( 1976-1985)
II. ĐẢNG KHỞI XƯỚNG VÀ LÃNH ĐẠO CÔNG CUỘC ĐỔI MỚI ;ĐẤT
NƯỚC RA KHỎI TÌNH TRẠNG KHỦNG HOẢNG KINH TẾ -XÃ HỘI.( 3
tiết)*
1.Việt Nam bắt đầu thực hiện đổi mới ( 1986-1990)
2. Tiếp tục đổi mới đưa đất nước ra khỏi tình trạng khủng hoảng kinh tế -xã hội
( 1991-1995)
III. ĐẢNG LÃNH ĐẠO THỰC HIỆN ĐẨY MẠNH CƠNG NGHIỆP HĨA ,
HIỆN ĐẠI HĨA, ĐỔI MỚI TỒN DIỆN ĐẤT NƯỚC TRONG THẾ KỶ
XXI.( 4 tiết )
1. Đất nước chuyển sang thời kỳ CNH,HĐH vì dân giàu , nước mạnh, xã hội cơng
bằng, văn minh
2. Đẩy mạnh tồn diện cơng cuộc đổi mới trong thế kỷ XXI.
IV.NHỮNG BÀI HỌC KINH NGHIỆM LỚN CỦA ĐẢNG TRONG QUÁ
TRÌNH LÃNH ĐẠO CÁCH MẠNG VIỆT NAM .( 1 tiết )
C. Phương pháp : Thuyết trình , nêu vấn đề
D.Tài liệu soạn giảng :
-Giáo trình học tập Chương trình Sơ cấp lý luận chính trị - do Ban Tuyên giáo
Trung ương biên soạn- nhà xuất bản chính trị quốc gia-sư thật năm 2013.
1
D. Nội dung các bước lên lớp và phân chia thời gian
Bước 1: Ổn định lớp: ( 3 phút)
Bước 2: Kiểm tra bài cũ: Vì sao Đảng ta phải tiến hành dồng thời song song hai
nhiệm vụ chiến lược cách mạng trong giai đoạn 1954-1975?
Bước 3: Giảng bài mới :
I/ĐẢNG LÃNH ĐẠO NHÂN DÂN KHẮC PHỤC HẬU QUẢ CỦA CHIẾN
TRANH, HOÀNG THÀNH THỐNG NHẤT ĐẤT NƯỚC,ĐƯA CẢ NƯỚC
PHÁT TRIỂN THEO CON ĐƯỜNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA.
1. Khắc phục hậu quả chiến tranh , hoàn thành thống nhất đất nước (19751976)
Sau khi đất nước được giải phóng, tình hình hai miền Nam - Bắc Việt Nam có
nhiều đặc điểm thuận lợi và khó khăn khác biệt trên tất cả các mặt: chính trị, kinh
tế, văn hóa, xã hội.
- Thuận lợi:
+ Cơng cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc (1954 – 1975) đã đạt những
thành tựu to lớn và toàn diện, xây dựng được những cơ sở vật chất – kĩ thuật ban
đầu của chủ nghĩa xã hội.
+ Miền Nam được hồn tồn giải phóng, đất nước thống nhất.
- Khó khăn:
+ Miền Bắc: hai cuộc chiến tranh phá hoại của Mĩ đã tàn phá nặng nề, sản xuất nhỏ
còn phổ biến, nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu.
+ Miền Nam: hậu của 30 năm chiến tranh (1945 – 1975) hết sức nặng nề; những
tàn dư của chế độ thực dân mới còn rất lớn; sản xuất nhỏ là phổ biến.
- Nhiệm vụ đặt ra: Hoàn thành thống nhất đất nước về mặt nhà nước, khắc phục
hậu quả của chiến tranh, khôi phục và phát triển kinh tế – xã hội ở hai miền Nam,
Bắc.
- Sau đại thắng mùa Xuân năm 1975, Tổ quốc Việt Nam được thống nhất về mặt
lãnh thổ. Nguyện vọng của nhân dân cả nước là sớm có một nhà nước chung, một
cơ quan quyền lực chung.
- Hội nghị lần thứ 24 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (9/1975) đề ra nhiệm vụ
hoàn thành thống nhất đất nước về mặt nhà nước.
- Từ ngày 15 đến ngày 21/11/1975, Hội nghị hiệp thương chính trị giữa hai đồn
đại biểu hai miền Nam, Bắc họp tài Sài Gịn, nhất trí về chủ trương, biện pháp
thống nhất đất nước về mặt nhà nước.
2
- Ngày 25/4/1976, cuộc Tổng tuyển cử bầu Quốc hội chung (Quốc hội Khoá VI)
được tiến hành trong cả nước với hơn 23 triệu cử tri đi bỏ phiếu, bầu ra 492 đại
biểu.
- Từ ngày 24/6 đến ngày 3/7/1976, Quốc hội Khố VI, Kì họp thứ nhất đã:
+ Thơng qua chính sách đối nội và đối ngoại của nhà nước Việt Nam thống nhất.
+ Đặt tên nước là Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Quốc huy mang dòng chữ
Cộng hồ xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Quốc kì là cờ đỏ sao vàng năm cánh, Quốc
ca là bài Tiến quân ca; Thủ đô Hà Nội. Thành phố Sài Gòn – Gia Định được đổi tên
là Thành phố Hồ Chí Minh.
+ Bầu các cơ quan, chức vụ lãnh đạo cao nhất của đất nước, bầu Ban dự thảo Hiến
pháp.
- Ngày 31/7/1977, Đại hội đại biểu Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Mặt trận dân tộc
giải phóng miền Nam Việt Nam và Liên minh các lực lượng dân tộc, dân chủ và
hồ bình Việt Nam đã thống nhất thành Mặt trận tổ quốc Việt Nam.
- Ngày 18/12/1980, Hiến pháp mới đã được Quốc hội Khố VI thơng qua. Đây là
bản hiến pháp thứ ba của nước Việt Nam mới, bản hiến pháp đầu tiên của thời kì cả
nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
*Ý nghĩa:
+ Thể hiện ý chí, nguyện vọng của cả dân tộc Việt Nam là xây dựng một nước Việt
Nam thống nhất, độc lập và xã hội chủ nghĩa.
+ Tạo cơ sở để hoàn thành thống nhất đất nước trên các lĩnh vực chính trị, tư tưởng,
kinh tế, văn hoá, xã hội.
+ Tạo điều kiện phát huy sức mạnh toàn diện của đất nước để xây dựng kinh tế,
phát triển văn hoá, tăng cường khả năng quốc phòng – an ninh và mở rộng quan hệ
với các nước trên thế giới.
2. Bước đầu xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc( 1976-1985)
a. Tập trung sức mạnh của cả nước, thực hiện kế hoạch 5 năm 1976 1980
Trên cơ sở xác định đường lối chung, đường lối xây dựng kinh tế, Đại hội
đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng đã quyết định phương hướng trong giai
đoạn tiếp theo là vừa khắc phục hậu quả nặng nề của chiến tranh vừa phải tổ
chức lại nền kinh tế, xây dựng một bước nền sản xuất lớn XHCN, đặt nền móng
cho sự nghiệp cơng nghiệp hóa nước nhà. Kế hoạch 5 năm đầu tiên sau khi đất
nước thống nhất nhằm hai mục tiêu cơ bản và cấp bách : xây dựng một bước cơ
sở vật chất kỹ thuật của CNXH, hình thành bước đầu cơ cấu kinh tế mới trong
cả nước và cải thiện một bước đời sống của nhân dân lao động.
3
Nhằm thực hiện nhiệm vụ và mục tiêu nêu trên, trong kế hoạch 5 năm 1976 –
1980, chúng ta đã tiến hành củng cố quan hệ sản xuất XHCN ở miền Bắc, cải tạo
XHCN ở miền Nam, thống nhất nền kinh tế theo mơ hình chung trên phạm vi cả
nước.
Ở miền Bắc, nhiều cơ sở kinh tế quốc doanh được khôi phục, mở rộng. Một số
cơ sở được xây dựng thêm. Phong trào hợp tác hóa (HTH) nơng nghiệp càng trở
nên sơi động. Mơ hình HTH - tập thể hóa được đẩy tới mức cao nhất.
Ở miền Nam, do chính sách thực dân mới của Mỹ, nền kinh tế ở các vùng tạm
chiếm bước đầu phát triển theo hướng TBCN. Vì vậy, sau năm 1975, chúng ta phải
tiến hành cải tạo XHCN nhằm thống nhất nền kinh tế theo mô hình chung trong cả
nước. Đối tượng của cơng cuộc cải tạo XHCN vẫn nhằm vào kinh tế tư nhân và
kinh tế cá thể.
Trong công nghiệp, Nhà nước đã quốc hữu hóa và chuyển thành quốc doanh
tất cả các xí nghiệp cơng quản, các xí nghiệp của tư sản mại bản và tư sản bỏ chạy
ra nước ngoài. Năm 1976, tư sản mại bản và tư sản lớn đã bị xóa bỏ. Đối với tư sản
loại vừa và loại nhỏ, Đảng và Nhà nước chủ trương cải tạo bằng con đường thành
lập các xí nghiệp cơng tư hợp doanh. Tiểu chủ được đưa vào các HTX tiểu thủ công
nghiệp.
Trong thương nghiệp, Đảng và Nhà nước chủ trương phải xóa bỏ ngay thương
nghiệp tư bản tư doanh, chuyển đại bộ phận tiểu thương sang sản xuất. Đồng thời
với quá trình cải tạo XHCN đối với thương nghiệp, hệ thống mậu dịch quốc doanh
và HTX mua bán được hình thành và dần dần chiếm lĩnh thị trường.
Đến giữa năm 1979, chúng ta đã căn bản hoàn thành việc chuyển các cơ sở tư
bản tư doanh trong các ngành công nghiệp, thương nghiệp, vận tải, xây dựng và
dịch vụ quan trọng thành các xí nghiệp quốc doanh, công tư hợp doanh.
Trong nông nghiệp, từ cuối năm 1978 đến cuối năm 1980, phong trào hợp tác
hóa nơng nghiệp được đẩy mạnh ở các tỉnh phía nam Tính đến tháng 7 – 1980, tồn
miền đã xây dựng được 1.518 HTX, 9.350 tập đoàn sản xuất, thu hút 35,6 % tổng
số hộ nông dân vào con đường làm ăn tập thể (4).
Qua cải tạo, thành phần kinh tế tư nhân, kinh tế cá thể đang phát triển
trong thể chế kinh tế cũ bị hạn chế, thủ tiêu. Kinh tế quốc doanh, kinh tế tập thể
ngày càng được mở rộng trở thành hai thành phần kinh tế chủ yếu. Nền kinh tế
miền Nam bước đầu phát triển theo mơ hình kinh tế của miền Bắc cũng như của
cả phe XHCN nói chung.
4
* Đồng thời với nhiệm vụ cũng cố quan hệ sản xuất ở miền Bắc, cải tạo XHCN
ở miền Nam, nhà nước đã tăng cường đầu tư và tích cực phát triển lực lượng sản
xuất.
Trong kế hoạch 5 năm 1976-7980, Nhà nước đã dùng 1/3 ngân sách để đầu tư
xây dựng cơ bản (theo giá so sánh năm 1982), xấp xỉ tổng 1 mức đầu tư xây dựng
cơ bản của miền Bắc 21 năm trước đây. Do đó, cơ sở vật chất kỹ thuật của nền
kình tế quốc dân tăng lên đáng kể. Riêng ngành cơng nghiệp đã có thêm 714 xí
nghiệp quốc doanh, trong đó 415 xí nghiệp thuộc các ngành công nghiệp nặng. Nhờ
vậy, công suất của nhiều ngành công nghiệp tăng lên rõ rệt.
Ngành nông nghiệp đã phục hố ;Ngành giao thơng vận tải đã khơi phục
* Trong kế hoạch 5 năm (1976 - 1980), văn hoá, giáo dục, y tế có những thành tựu
rất quan trọng, đặc biệt là các tỉnh miền Nam.
Tháng 1-1979, Bộ Chính trị đã ra Nghị quyết 14 về cải cách giáo dục nhằm
xây dựng và phát triển hệ thống giáo dục quốc dân thống nhất trong cả nước. Nội
dung cải cách giáo dục được thực hiện chủ yếu trong các kế hoạch sau.
Năm học 1979 - 1980, năm cuối cùng của kế hoạch 5 năm, cả nước có gần 1,5
triệu học sinh mẫu giáo, 11,7 triệu học sinh phổ thông các cấp, trên 13 vạn học sinh
trung học chuyên nghiệp, 15 vạn sinh viên đại học. Như vậy, số người đi học trong
cả nước vào năm học 1979 - 1980 xấp xỉ bằng 1/3 số dân, tăng hơn năm học 1976 1977 là 2 triệu người(6). Phong trào bình dân học vụ tiếp tục phát triển ở những
vùng mới giải phóng của miền Nam, thu hút được nhiều người tham gia. Tỷ lệ
người mù chữ giảm dần.
Mạng lưới các bệnh viện, phòng khám bệnh, trạm y tế, nhà hộ sinh, cơ sở điều
dưỡng được mở rộng. Tình hình y tế được cải thiện rõ rệt ở những vùng mới giải
phóng. Các hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể dục thể thao có nhiều tiến bộ, trở
thành phong trào quần chúng trong các địa phương, xí nghiệp, trường học.
Kết thúc kế hoạch 5 năm 1976 - 1980, chúng ta đã đạt được một số thành tựu
quan trọng như thống nhất đất nước về mặt nhà nước, thiết lập hệ thống chính trị
mới trong cả nước. Trên cơ sở đó, chúng ta đã thực hiện một loạt các chính sách
khác nhằm tiến tới thống nhất nước nhà về mọi mặt. Nhân dân ta đã anh dũng
chiến đấu chống lại hai cuộc chiến tranh quy mơ lớn Ở biên giới phía tây nam và
phía bắc, bảo vệ vững chắc Tổ quốc và làm tròn nghĩa vụ quốc tế với nhân dân
Campuchia và nhân dân Lào. Trên mặt trận kinh tế, nhân dân ta đã nỗ lực hàn gắn
vết thương chiến tranh, khôi phục kinh tế, ổn định sản xuất và đời sống. Chúng ta
đã đạt được những thành tựu rất quan trọng về phát triển sự nghiệp giáo dục trong
cả nước.
5
Tuy nhiên, những thành tựu về kinh tế còn thấp so với yêu cầu đề ra trong kế
hoạch, thậm chí có những điểm khơng phù hợp, cản trở sự phát triển của lực lượng
sản xuất.
Kế hoạch 5 năm 1976 - 1980, chúng ta đã nỗ lực tiến hành cải tạo quan hệ
sản xuất. Kết thúc kế hoạch, quan hệ sản xuất XHCN với chế độ công hữu về
tư liệu sản xuất và hai thành phần kinh tế chủ yếu là quốc doanh và tập thể đã
được đẩy tới mức cao nhất ở các tỉnh phía Bắc, đồng thời được xác lập ở các tỉnh
phía Nam. Về hình thức, cơng cuộc cải tạo quan hệ sản xuất đã thành công.
Tuy nhiên, nếu xét dưới góc độ quan hệ sản xuất có phù hợp với tính chất và trình
độ phát triển của lực lượng sản xuất hay khơng, có đem lại hiệu quả kinh tế
hay khơng, thì vấn đề lại hồn tồn khác. Khu vực kinh tế quốc doanh, mặc dù
được đầu tư nhiều nhưng làm ăn kém hiệu quả. Khu vực kinh tế tập thể cũng ở
trong tình trạng như vậy. Ở miền Bắc, quy mô của các HTX nông nghiệp càng lớn
thì hiệu quả càng thấp. Ở miền Nam, các HTX, tập đoàn sản xuất được thành
lập một cách ồ ạt nhưng cũng vì khơng có hiệu quả nên nơng dân không hưởng
ứng. Cuối năm 1980, ngay sau khi được đánh giá là đã hồn thành hợp tác hóa
nơng nghiệp thì hàng loạt HTX và tập đồn sản xuất tan rã, tồn miền chỉ cịn lại
3.732 tập đồn sản xuất và 173 HTX quy mô vừa.
Với kế hoạch 1976 - 1980, cơ sở vật chất kỹ thuật của nền kinh tế quốc
dân được tăng cường so với trước, nhưng tốc độ tăng không tương xứng với mức
đầu tư xây dựng cơ bản. Trong 5 năm 1976 - 1980, giá trị tài sản cố định tăng
chỉ bằng 46,8 % tổng mức đầu tư xây dựng cơ bản. Mặt khác, hiệu quả kinh tế
của hệ thống cơ sở vật chất lại thấp. Nhiều cơng trình đã xây dựng xong nhưng
chỉ huy động được trên dưới 50 % công suất. Giá trị tài sản cố định tăng, trang bị
tài sản cho một lao động tăng nhưng năng suất lao động xã hội tính bằng thu
nhập quốc dân theo giá so sánh lại giảm.
Vì vậy trong những năm đầu, nền kinh tế còn đạt được tốc độ tăng
trưởng, nhưng từ năm 1979, tổng sản phẩm xã hội, thu nhập quốc dân đều giảm.
Tính chung lại, trong kế hoạch 1976 - 1980, bình quân một năm tổng sản phẩm
xã hội chỉ tăng 1,4 %, thu nhập quốc dân tăng 0,4 %. Trong khi đó dân số tăng
với tốc độ bình quân 2,24 %. Năm 1980, kết thúc kế hoạch 5 năm nhưng tất cả
15 chỉ tiêu chủ yếu đều khơng đạt kế hoạch, thậm chí một số sản phẩm công
nghiệp và nông nghiệp quan trọng bình qn đầu người khơng giữ được mức
của năm 1976.
Tình hình sản xuất như vậy cộng với những sai lầm trong lưu thơng phân phối,
thị trường tài chính, tiền tệ không ổn định nên lạm phát diễn ra nghiêm trọng. Đời
6
sống của nhân dân gặp rất nhiều khó khăn. Đất nước rơi vào tình trạng khủng
hoảng kinh tế - xã hội.
Nguyên nhân của tình trạng trên bao gồm cả những yếu tố khách quan và chủ
quan.
Về khách quan : Chúng ta tiến lên CNXH từ một nền kinh tế sản xuất nhỏ là
chủ yếu, lại bị 30 năm chiến tranh tàn phá và chịu nhiều hậu quả của chủ nghĩa
thực dân cũ và mới. Năm 1979, chiến tranh Ở biên giới phía tây nam và phía bắc
làm cho bức tranh kinh tế càng xấu hơn. Thiên tai vào những năm 1977, 1978
cũng góp phần làm cho sản xuất nơng nghiệp giảm sút .v.v...
Về chủ quan: Chúng ta đã phạm sai lầm trong việc đánh giá tình hình, xác
định mục tiêu và bước đi về xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật, cải tạo XHCN. Do
chủ quan nóng vội mà chúng ta đã đề ra những mục tiêu quá lớn và bỏ qua những
bước đi cần thiết.
b. Thực hiện kế hoạch 5 năm 1981 - 1985. Một vài đổi mới cục bộ.
Kế hoạch 5 năm 1976 - 1980 thực hiện không mấy thành công đã làm cho
Đảng Cộng sản Việt Nam nhận thấy phải có sự điều chỉnh nhất định trong đường
lối chính sách kinh tế của mình. Nghị quyết Hội nghị Ban chấp hành Trung ương
lần thứ 6 (khóa IV), tháng 8-1979 chính là sự khởi đầu của quá trình điều chỉnh, đặt
cơ sở cho quá trình đổi mới căn bản sau này. Hội nghị chủ trương phải sửa chữa các
khuyết điểm trong quản lý kinh tế, quản lý xã hội, nhất là phải đổi mới công tác kế
hoạch hóa và cải tiến một cách cơ bản chính sách kinh tế làm cho sản xuất “bung
ra” theo phương hướng kế hoạch của Nhà nước. Từ đó dẫn đến những đổi mới cục
bộ trong kế hoạch 5 năm 1981-1985.
Tháng 3-1982, Đảng cộng sản Việt Nam họp Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ V. Trong khi khẳng định Việt Nam tiếp tục thực hiện đường lối chung và xác
định từng chặng đường đi cho cách mạng Việt Nam. Trong đó, chặng
đường trước mắt bao gồm những năm của thập miên 80 với nhau mục tiêu kinh
tế - xã hội tổng quát.
1. Đáp ứng những nhu cầu cấp bách và thiết yếu nhất, dần dần ổn định, tiến lên
cải thiện một bước đời sống vật chất và văn hóa của nhân dân.
2. Tiếp tục xây dựng cơ sở vật chất – kỹ thuật của CNXH, chủ yếu nhằm thúc
đẩy sản xuất nông nghiệp, hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu, đồng thời tăng
thêm trang bị kỹ thuật cho các ngành kinh tế khác và chuẩn bị cho sự phát triển
mạnh mẽ hơn nữa của công nghiệp nặng trong chặng đường tiếp theo.
3. Hồn thành cơng cuộc cải tạo XHCN ở miền Nam, tiếp tục hoàn thiện quan
hệ sản xuất XHCN ở miển Bắc, củng cố quan hệ sản xuất XHCN trong cả nước.
7
4. Đáp ứng các nhu cầu của cơng cuộc phịng thủ đất nước, củng cố quốc phòng
và giữ vững an ninh trật tự.
* Kế hoạch 5 năm 1981-1985 đã tiến hành một số đổi mới cục bộ trong quản lý
ở một vài ngành kinh tế
Trong nông nghiệp, để khắc phục tình trạng khủng hoảng về mơ hình mơ hình
tổ chức sản xuất, ngày 13-1-1981, Ban Bí thư Trung ương đã ban hành chỉ thị 100
CT/CP, chính thức quyết định chủ trương thực hiện chế độ khoán sản phẫm cuối
cùng đến nhóm và người lao động (thường gọi là khốn 100). Chỉ thị Ban Bí thư
đáp ứng nguyện vọng của nơng dân nên nông dân các nơi nhiệt liệt hưởng ứng. Tư
tưởng chỉ đạo của Đảng nhanh chóng đi vào thực tiễn.
Trong cơng nghiệp, ngày 21 - 1 - 1981, Chính phủ đã ban hành Nghị
định 25- CP Về một số chủ trương và biện pháp nhằm tiếp tục phát huy quyền
chủ động sản xuất kinh doanh và quyền tự chủ tài chính của các xí nghiệp
quốc doanh.
Về chính sách giá cả tiền lương: Trong thời gian 1981 - 1982, Nhà nước tiến
hành điều chỉnh giá. Đây là cuộc cải cách giá tương đối lớn đầu tiên Ở Việt Nam
nhằm đưa hệ thống giá cũ, quá thấp, nặng tính bao cấp, tồn tại suốt mấy chục năm,
tiếp cận với giá thị trường cùng thời điểm. Tháng 10-1985, Nhà nước lại tiến hành
đợt tổng điều chỉnh giá đi đôi với xây dựng hệ thống lương theo giá mới, đồng thời
tiến hành đổi tiền. Tuy nhiên, cải cách giá trong kế hoạch này khơng thành cơng vì
nó vẫn nằm trong khn khổ Nhà nước quy định giá. Sau một thời gian điều chỉnh,
giá thị trường tự do lại tăng vọt, chênh lệch giữa hai loại giá vẫn ngày càng lớn.
Ngân sách bội chi ngày càng tăng, mức độ lạm phát ngày càng cao.Tình hình đó đã
làm trầm trọng thêm tình trạng mất ổn định về kinh tế - xã hội, gây hỗn loạn trên
thị trường và gây khó khăn lớn cho đời sống của nhân dân.
Đối với những mục tiêu về xã hội, mặc dù kinh tế cịn rất khó khăn
nhưng Đảng và Nhà nước vẫn chủ trương thực hiện mục tiêu chăm lo đến đời sống
của nhân dân về cả vật chất lẫn tinh thần. Kế hoạch 5 năm 1981 - 1985, Đảng
và Nhà nước đã cố gắng tìm tịi một hướng đi mới để phát triển kinh tế, nhằm
đáp ứng những nhu cầu thiết yếu nhất, tiến tới cải thiện đời sống của nhân dân.
Kết quả đổi mới bước đầu trong nơng nghiệp đã góp phần giải quyết nhu cầu
về lương thực trong nước và cải thiện một bước đời sống của nông dân thành
phần dân cư chiếm số đông trong xã hội. Sự nghiệp văn hóa, giáo dục, y tế tiếp
tục phát triển và có những đóng góp nhất định vào việc xây dựng nền văn hóa
mới, con người mới. Một số nội dung của cải cách giáo dục đã được thực hiện.
Nhiều loại hình trường lớp được mở ra. Hệ thống dạy nghề chính quy đã được
8
hình thành. Nội dung giảng dạy, học tập có một số điểm sửa đổi. Các trường đều
đẩy mạnh lao động sản xuất, gắn nhiệm vụ giáo dục với các chương trình kinh tế
- xã hội của cả nước và của từng địa phương.
Sau chiến thắng biên giới phía tây nam và phía bắc, Đảng và Nhà nước
tiếp tục chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ củng cố quốc phòng và an ninh, thi hành
chính sách hậu phương quân đội. Sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc, an ninh chính trị
giành thêm những thắng lợi mới. Chúng ta đã tiêu diệt và làm tan rã đại bộ phận
lực lượng phản động Fulro ở vùng Tây Nguyên, bắt gọn nhiều nhóm phản
động, gián điệp, thám báo và làm phá sản âm mưu phá hoại của chúng.
Như vậy, so với kế hoạch 5 năm trước thì kế hoạch 5 năm 1981- 1985 có một
số điểm mới đáng ghi nhận. Chúng ta đã tiến hành một bước điều chỉnh cơ cấu đầu
tư và nhịp độ phát triển đi đôi với một số thay đổi cục bộ trong cơ chế quản lý kinh
tế. Nền kinh tế có bước tăng trưởng khá hơn. Tổng sản phẩm xã hội bình quân tăng
7,3%/năm, thu nhập quốc dân tăng 6,4%. Mặc dù vậy, nền kinh tế trong những
năm 1981-1985 về cơ bản vẫn vận hành theo cơ chế quản lý cũ. Đổi mới cục bộ đã
làm bộc lộ rõ hơn những yếu kém của cơ chế tập trung quan liêu bao cấp nhưng
chưa đủ sức phá vỡ cơ chế đó, càng không đủ khả năng tạo ra một cơ chế mới. Do
đó, chưa tạo ra động lực thúc. đẩy sản xuất kinh doanh phát triển. Kết thúc kế
hoạch, nhiều chỉ tiêu cũng không đạt được mức đề ra ban đầu.
Sau hai kế hoạch 5 năm xây dựng và phát triển kinh tế theo mơ hình cũ,
nền kinh tế Việt Nam rơi vào tình trạng khủng hoảng:
+ Quan hệ sản xuất chưa phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của
lực lượng sản xuất.
+ Kinh tế tăng trưởng thấp, nếu tính chung từ năm 1976 đến năm 1985, tổng sản
phẩm xã hội tăng 50,5%, bình quân mỗi năm tăng 4,6 %. Thu nhập quốc dân tăng
38,8 %, bình quân tăng 3,7%/năm.
+ Sản xuất trong nước không đáp ứng đủ nhu cầu tiêu dùng của nhân dân. Tồn bộ
quỹ tích lũy ( tuy rất nhỏ bé) và một phần tiêu dùng phải dựa vào nguồn nước
ngồi.
Hàng năm, Nhà nước khơng những phải nhập các mặt hàng quan trọng cho sản
xuất mà còn phải nhập hàng tiêu dùng, kể cả những loại hàng hóa lẽ ra sản xuất
trong nước có thể đáp ứng được như gạo và vải mặc. Từ 1976 đến 1985 Nhà nước
đã nhập 60 triệu mét vải các loại và gần 1,5 triệu tấn lương thực quy gạo.
+ Lạm phát diễn ra ở mức trầm trọng. Trong kế hoạch 1976 - 1980, lạm phát đã
gây tác động xấu đến đời sống kinh tế- xã hội. Chính phủ đã có nhiều biện pháp
9
kiềm chế tốc độ lạm phát nhưng khơng có hiệu quả. Năm 1985, cải cách giá, lương
tiền không thành công đã làm cho tốc độ lạm phát tăng vọt.
II. ĐẢNG KHỞI XƯỚNG VÀ LÃNH ĐẠO CÔNG CUỘC ĐỔI MỚI ;ĐẤT
NƯỚC RA KHỎI TÌNH TRẠNG KHỦNG HOẢNG KINH TẾ -XÃ HỘI.
1.Việt Nam bắt đầu thực hiện đổi mới ( 1986-1990)
* . Đại hội lần thứ VI - Đại hội mở đầu cơng cuộc đổi mới
Đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ VI của Đảng Cộng sản Việt Nam (họp từ
15 đến 18-12-1986) đã đánh giá tình hình đất nước, kiểm điểm sự lãnh đạo của
Đảng, vai trò quản lý của Nhà nước trong thập niên đầu cả nước đi lên chủ nghĩa xã
hội, từ đó xác định nhiệm vụ, mục tiêu của cách mạng trong thời kì đổi mới xây
dựng đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Đại hội đề ra nhiệm vụ chung cho cả chặng đường đầu của thời kì quá độ
lên chủ nghĩa xã hội là "Toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta đoàn kết một
lòng, quyết tâm đem hết tinh thần và lực lượng tiếp tục thực hiện thắng lợi hai
nhiệm vụ chiến lược xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc
Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa" và "Trong khi không ngừng chăm lo
nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, Đảng và nhân dân ta tiếp tục đặt lên hàng đầu nhiệm
vụ xây dựng chủ nghĩa xã hội, xây dựng chế độ làm chủ tập thể, nền kinh tế
mới, nền văn hóa mới và con người mới xã hội chủ nghĩa".
Những mục tiêu cụ thể là:
- Bảo đảm nhu cầu lương thực của xã hội và có dự trữ; đáp ứng một cách
ổn định nhu cầu thiết yếu về thực phẩm. Mức tiêu dùng lương thực, thực phẩm
đủ tái sản xuất sức lao động.
- Đáp ứng nhu cầu của nhân dân về những mặt hàng tiêu dùng thiết yếu.
- Tạo được một số mặt hàng xuất khẩu chủ lực; tăng nhanh kim ngạch
xuất khẩu để đáp ứng được phần lớn nhu cầu nhập khẩu vật tư, máy móc, phụ
tùng và những hàng hóa cần thiết.
Muốn thực hiện những mục tiêu của Ba chương trình kinh tế, thì nơng
nghiệp, kể cả lâm nghiệp, ngư nghiệp phải được đặt đúng vị trí là mặt trận hàng đầu
và được ưu tiên đáp ứng nhu cẩu về vốn đấu tư, về năng lực, vật tư, lao động, kĩ
thuật v.v.. .
Nội dung Ba chương trình kinh tế là sự cụ thể hóa nội dung chính của cơng
nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa trong chặng đường đầu tiên.
*. Kết quả bước đầu.
Đường lối đổi mới đất nước, đi lên chủ nghĩa xã hội do Đại hội toàn quốc
lần thứ VI của Đảng đế ra đã thật sự đi vào cuộc sống và đạt được những thành
10
tựu bước đầu rất quan trọng, trước tiên là trong lĩnh vực kinh tế - xã hội, trong
việc thực hiện những mục tiêu của Ba chương trình kinh tế.
Về lương thực, thực phẩm, từ chỗ thiếu ăn triền miên (năm 1988, năm ta
phải nhập hơn 45 vạn tấn gạo), đến năm 1990, chúng ta đã vươn lên đáp ứng nhu
cầu trong nước, có dự trữ và xuất khẩu, góp phần quan trọng ổn định đời sống
nhân dân và thay đổi cán cân xuất - nhập khẩu. Đó là kết quả tổng hợp của việc
phát triển sản xuất, thực hiện chính sách khốn trong nơng nghiệp, xóa bỏ chế độ
bao cấp, tự do lưu thơng và điều hịa cung cầu lương thực thực phẩm trên phạm vi
cả nước. Sản lượng lương thực năm 1988 đạt 19,50 triệu tấn (vượt năm 1987 hơn
2 triệu tấn) và năm 1989 đạt 21,40 triệu tấn.
Hàng hóa trên thị trường, nhất là hàng tiêu dùng, dồi dào, đa dạng và lưu
thông tương đối thuận lợi, trong đó nguồn hàng sản xuất trong nước tuy chưa đạt
kế hoạch vẫn tăng hơn trước và có tiến bộ về mẫu mã. Các cơ sở sản xuất gắn chặt
với nhu cầu thị trường, phần bao cấp của Nhà nước về vốn, giá vật tư, tiền lương...
giảm đáng kể. Đó là kết quả của chủ trương phát triển kinh tế hàng hóa nhiều
thành phần và đối mới nhiều chính sách về sản xuất và lưu thơng hàng hóa.
Kinh tế đối ngoại phát triển mạnh, mở rộng hơn trước về quy mô, hình thức
và góp phần quan trọng vào việc thực hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội. Từ năm
1986 đến năm 1990, hàng xuất khẩu tăng gấp 3 lẩn (từ 439 triệu rúp và 884 triệu
đô la, lên 1019 triệu rúp và 1170 triệu đô la). Từ năm 1989, sản xuất của ta tăng
thêm các mặt hàng có giá trị xuất khẩu lớn như gạo, dầu thô và một số mặt hàng
mới khác. Năm 1989, Việt Nam xuất 1,5 triệu tấn gạo; nhập khẩu giảm đáng kể,
tiến gần đến mức cân bằng giữa xuất và nhập.
Những kết quả của việc thực hiện các mục tiêu của Ba chương trình kinh tế
gắn liền với những chuyển biến tích cực trong việc điều chỉnh cơ cấu đầu tư và bố
trí lại cơ cấu kinh tế. Nhà nước cho đình và hỗn nhiều cơng trình đã kí với nước
ngồi và của một số ngành, địa phương để tập trung vốn cho các cơng trình trọng
điểm trực tiếp phục vụ Ba chương trình kinh tế hoặc có ý nghĩa trọng yếu. Trong 5
năm 1986-1990, ta đã dành cho Ba chương trình kinh tế hơn 60% vốn đầu tư của
ngân sách trung ương, 75%-80% vốn đầu tư của địa phương. Ngoài ra, phần đầu
tư của nhân dân cũng rất lớn, đồng thời đã thu hút được một số vốn đầu tư của
nước ngoài. Nhiều cơng trình cơng nghiệp nặng quan trọng được khởi cơng từ
những năm trước, nay được đưa vào sử dụng. Một số ngành sản xuất mới, có triển
vọng tốt như dầu khí được hình thành... Một số loại hình kinh tế dịch vụ mới ra đời
và phát triển nhanh, góp phần thúc đẩy kinh tế hàng hóa và phục vụ đời sống nhân
dân.
11
Một thành tựu quan trọng nữa là đã bước đầu kiềm chế được đà lạm phát.
Nếu chỉ số tăng giá bình quân hàng tháng trên thị trường năm 1986 là 20%, năm
1987 là 10%, năm 1988 là 14%, thì năm 1989 là 2,5% và năm 1990 là 4,4%. Đây
là kết quả tổng hợp của việc thực hiện Ba chương trình kinh tế và đổi mới cơ chế
quản lí, đổi mới chính sách giá và lãi suất, mở rộng thơng thương và điều hịa
cung cầu hàng hóa.
Điều có ý nghĩa là chúng ta đạt được kết quả này trong hoàn cảnh nguồn
trợ giúp bên ngoài giảm so với trước, vừa chống lạm phát và thực hiện chuyển từ
giá bao cấp sang giá kinh doanh. Nhờ kiếm chế được lạm phát, các cơ sở kinh tế
có điều kiện thuận lợi để hạch tốn kinh doanh, đời sống nhân dân giảm bớt khó
khăn.
Một thành tựu quan trọng khác về đối mới kinh tế là bước đầu hình thành
nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường có sự
quản lí của Nhà nước.
Phát triển quan điểm kinh tế của Đại hội VI, Hội nghị lần thứ 6 (tháng 8 1989) của Ban chấp hành Trung ương đã khẳng định việc phát triển kinh tế hàng
hóa nhiều thành phần là một chủ trương chiến lược lâu dài trong thời kì q độ lên
chủ nghĩa xã hội. Chính sách này được nhân dân hưởng ứng rộng rãi và đã đi
nhanh vào cuộc sống, góp phần phát huy quyền làm chủ của nhân dân về kinh tế;
khơi dậy được nhiều tiềm năng và sức sáng tạo của nhân dân để phát triển sản
xuất, dịch vụ, tạo thêm việc làm cho người lao động và tăng sản phẩm cho xã hội,
tạo ra sự cạnh tranh sống động trên thị trường.
Ngoài những thành tựu về kinh tế, chúng ta còn đạt được nhiều thành tích và
tiến bộ bước đầu trên các lĩnh vực khác.
Bộ máy và đội ngũ cán bộ lãnh đạo ở các cơ quan Trung ương và địa phương
được sắp xếp lại. Ngày 19-4-1987, cuộc bầu cử Quốc hội khóa VIII đã diễn ra dân
chủ hơn so với các kì bầu cử trước. Nhân dân đã lựa chọn bầu được 496 đại biểu.
Ngày 17 đến 22-6-1987, Quốc hội khóa VIII họp kì thứ nhất đã bầu Võ Chí Cơng
làm Chủ tịch Hội đồng Nhà nước; Lê Quang Đạo Chủ tịch Quốc hội; Phạm Hùng Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng; bầu Chánh án Tòa án nhân dân tối cao và
Viện truởng Viện Kiểm sát nhân dân tối cao.
Sinh hoạt dân chủ trong xã hội ngày càng được phát huy. Nội dung và
phương thức hoạt động của các tổ chức trong hệ thống chính trị có một số đổi mới
theo hướng phát huy dân chủ nội bộ và quyền làm chủ của nhân dân, tăng cường
quyền lực của các cơ quan dân cử; hiệu lực quản lí của chính quyền các cấp được
12
nâng cao; bước đầu chỉnh đốn Đảng đi đôi với đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối
với Nhà nước và xã hội.
Quốc phòng được giữ vững, an ninh quốc gia được bảo đảm. Từng bước phá
thế bao vây về kinh tế và chính trị, mở rộng quan hệ quốc tế, tạo ra môi trường
thuận lợi hơn cho công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước.
Những thành tựu, ưu điểm và tiến bộ nói trên chứng tỏ đường lối đổi mới của
Đảng là đúng, bước đi của công cuộc đổi mới về cơ bản là phù hợp.
Hạn chế:
Công cuộc đổi mới về thực chất là một cuộc cách mạng, có thành tựu, ưu
điểm, tiến bộ, nhưng đồng thời cũng có nhiều khó khăn, hạn chế, yếu kém. Những
ưu điểm thành tựu đạt được bước đầu thực hiện đường lối đổi mới là rất quan
trọng, song khó khăn, yếu kém cũng rất lớn, đó là: đất nước ta vẫn chưa ra khỏi
khủng hoảng kinh tế - xã hội, công cuộc đổi mới còn nhiều hạn chế, nhiều vấn đề
kinh tế - xã hội nóng bỏng vẫn chưa được giải quyết:
- Nền kinh tế còn mất cân đối lớn, lạm phát ở mức cao, lao động còn thiếu
việc làm, hiệu quả kinh tế thấp, nhiều cơ sở sản xuất bị đình đốn kéo dài, chưa có
tích lũy từ nội bộ nến kinh tế.
- Chế độ tiền lương bất hợp lí, đời sống của những người sống chủ yếu bằng
tiền lương (hoặc trợ cấp xã hội) và của một bộ phận nông dân bị giảm sút. Tốc độ
tăng dân số còn cao.
- Sự nghiệp văn hóa cịn những mặt tiếp tục xuống thấp. Tình trạng tham
nhũng, ăn hối lộ, mất dân chủ, bất công xã hội, vi phạm pháp luật, kỉ luật, kỉ cương
và nhiều hiện tượng tiêu cực khác còn nặng nề và phổ biến.
2. Tiếp tục đổi mới đưa đất nước ra khỏi tình trạng khủng hoảng kinh tế -xã
hội ( 1991-1995)
* . Đại hội lấn thứ VII - Đại hội tiếp tục cơng cuộc đổi mới
Trong q trình thực hiện Nghị quyết Đại hội VI, những diễn biến quốc tế
phức tạp đã tác động xấu đến tình hình chính trị, kinh tế và xã hội nước ta. Nhưng
Đảng, Nhà nước và nhân dân ta đã nỗ lực khắc phục khó khăn, kiên trì tìm tịi, khai
phá con đường đổi mới tuy chưa có một khn mẫu cho trước, từng bước đưa
đường lối của Đại hội VI đi vào cuộc sống. Tuy tình hình cách mạng cịn nhiều khó
khăn, song với kết quả đạt được trong bước đầu đổi mới đã có thể xác nhận khả
năng tự đổi mới của nhân dân ta là hiện thực.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng (họp từ ngày 24 đến 27-61991) đã tổng kết, đánh giá việc thực hiện đường lối đổi mới của Đại hội VI, đề ra
chủ trương, nhiệm vụ nhằm kế thừa, phát huy những thành tựu ưu điểm đã đạt
13
được; khắc phục những khó khăn hạn chế mắc phải trong bước đầu đổi mới ngăn
ngừa những lệch lạc phát sinh trong q trình đó, điều chỉnh, bổ sung, phát triển
đường lối đối mới (được đề ra từ Đại hội VI) để tiếp tục đưa sự nghiệp đổi mới của
đất nước tiến lên.
Ngồi việc quyết định những cơng việc cách mạng trong nhiệm kì, Đại hội
VII của Đảng cịn quyết định một số vấn đề về chiến lược lâu dài. Đó là việc thơng
qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội và
"Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2000". Đại hội đã bầu
Ban chấp hành Trung ương Đảng (khóa VII) gồm 146 ủy viên, Bộ Chính trị
BCHTƯ gồm 13 ủy viên. Đỗ Mười được bầu làm Tổng bí thư của Đảng.
Bước vào nhiệm ki Đại hội VII của Đảng, vào thập niên cuối cùng của thế kỉ
XX đã có nhiều biến động to lớn, tác động sâu sắc đến tiến trình lịch sử lồi người.
Bối cảnh quốc tế và nước ta có những thay đổi lớn, tác động đến quá trình đổi mới
của ta, bắt đầu từ Đại hội VI và tiếp tục sau Đại hội VII của Đảng.
Tình hình quốc tế. Về chính trị, Về kinh tế….
Xuất phát từ đặc điểm tình hình quốc tế và trong nước nói trên, căn
cứ vào mục tiêu của chặng đường đầu thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội (đề ra
từ Đại hội VI), Đại hội VII của Đảng đã đề ra mục tiêu tổng quát của kế hoạch 5
.năm (1991-1995) là vượt qua khó khăn thử thách, ổn định và phát triển kinh tế
- xã hội, tăng cường ổn định chính trị, đẩy lùi tiêu cực và bất công xã hội, đưa
nước ta cơ bản ra khỏi tình trạng khủng hoảng hiện nay.
Các mục tiêu cụ thể là:
Tiếp tục kiềm chế và đẩy lùi lạm phát, giữ vững và phát triển sản xuất, bắt
đầu tích lũy từ nội bộ nền kinh tế.
- Tạo thêm nhiều việc làm cho người lao động, giảm mạnh nhịp độ
tăng dân số. Ổn định và từng bước cải thiện đời sống vật chất và tinh thần
của nhân dân. Bảo đảm để tiền lương tối thiểu đáp ứng được nhu cấu thiết
yếu của người lao động, ngăn chặn thu nhập phi pháp và bất công.
- Tiếp tục phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, đổi mới nội dung và
phương thức hoạt động của Đảng, Nhà nước và các đoàn thể nhân dân, đổi mới
tổ chức và cán bộ.
- Bảo đảm quốc phịng, an ninh, trật tự và an tồn xã hội, bảo vệ
thành quả cách mạng.
*. Tiến bộ và hạn chế, thời cơ và thách thức
14
Thực hiện những nhiệm vụ, mục tiêu của kế hoạch Nhà nước 5 năm (19911995), trên các lĩnh vực của công cuộc đổi mới, nhân dân ta đã đạt được những
thành tựu và tiến bộ to lớn:
+ Nhịp độ phát triển kinh tế được đẩy mạnh, nhiều mục tiêu chủ yếu của
kế hoạch đã hoàn thành vượt mức.
+ Kinh tế đối ngoại phát triển, thị trường xuất, nhập khẩu mở
rộng, nguồn vốn đầu tư của nước ngoài tăng nhanh.
+ Khoa học và cơng nghệ có bước phát triển mới, văn hóa và xã hội
có những chuyển biến tích cực
+ Ổn định tình hình chính trị - xã hội được giữ vững, quốc phòng và an
ninh được củng cố
+ Thực hiện có kết quả một số đổi mới quan trọng về hệ thống chính trị
+ Mở rộng quan hệ đối ngoại, phá thế bao vây, tham gia tích cực vào các
hoạt động của cộng đồng quốc tế
Hạn chế:
Nhưng do vẫn còn những hạn chế và yếu kém chưa được khắc phục nên khi
bước vào thời kì phát triển mới, đất nước gặp khơng ít khó khăn và thử thách. Bốn
nguy cơ mà Hội nghị đại biểu tồn quốc giữa nhiệm kì khóa VII (l-1994) và Đại
hội đại biểu tồn quốc lần thứ VIII (6-1996) của Đảng nêu lên là những thách thức
lớn đối với nhân dân ta trong những thời kì tiếp sau của cơng cuộc đổi mới. Bốn
nguy cơ đó là :
+ Sự tụt hậu xa hơn về kinh tế so với nhiều nước trong khu vực và
trên thế giới do điểm xuất phát của ta quá thấp, nhịp độ tăng trưởng của ta
chưa cao và chưa vững chắc, lại phải đi lên trong môi trường cạnh tranh gay
gắt.
+ Âm mưu diễn biến hịa bình, dùng chiêu bài "dân chủ', "nhân
quyền' của các thế lực thù địch trước việc sụp đổ của chế độ xã hội chủ nghĩa
ở một số nước do khuyết tật của mơ hình cũ, hịng can thiệp vào công việc nội bộ
nước ta.
+ Chệch hướng xã hội chủ nghĩa trong thời kì đất nước đổi mới, thực hiện
chủ trương phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận hành theo cơ
chế thị trường.
+ Tệ quan liêu, tham nhũng và suy thoái về phẩm chất, đạo đức của một
bộ phận cán bộ, đảng viên làm cho bộ máy Đảng và Nhà nước suy yếu, lòng tin
của nhân dân đối với đảng, đối với chế độ bị xói mịn; các chủ trương, chính
15
sách của Đảng và Nhà nước bị thi hành sai lệch, dẫn tới chệch hướng xã hội
chủ nghĩa là mảnh đất thuận lợi cho "diễn biến hịa bình".
* Bài học kinh nghiệm(10 năm đổi mới)
Những thách thức đó, nhân dân ta đã từng trải qua và còn phải trải qua. Từ
thực tế phong phú của 10 năm đổi mới, với những thành tựu đã đạt được cũng như
những yếu kém, khuyết điểm đã phạm phải, đem lại cho Đảng và nhân dân ta
những bài học kinh nghiệm sau:
+ Trong quá trình đổi mới, phải giữ vững mục tiêu độc lập dân tộc và chủ
nghĩa xã hội, nắm vững hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, kiên
trì chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh.
+ Kết hợp chặt chẽ ngay từ đầu chủ trương đổi mới kinh tế với đổi mới chính
trị, lấy đổi mới kinh tế làm trọng tâm, đồng thời từng bước đổi mới chính trị.
+ Xây dựng nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận hành theo cơ chế
thị trường, đi đơi với tăng cường vai trị quản lí của Nhà nước theo định hướng xã
hội chủ nghĩa.
+ Cách mạng là sự nghiệp của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân.
+ Mở rộng hợp tác quốc tế, tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ và giúp đỡ của nhân
dân thế giới, kết hợp sức mạnh của dân tộc với sức mạnh của thời đại.
+ Tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng, coi việc xây dựng Đảng là nhiệm
vụ then chốt. Đảng ta phải luôn tự đổi mới và chỉnh đốn.
III. ĐẢNG LÃNH ĐẠO THỰC HIỆN ĐẨY MẠNH CƠNG NGHIỆP HĨA ,
HIỆN ĐẠI HĨA, ĐỔI MỚI TỒN DIỆN ĐẤT NƯỚC TRONG THẾ KỶ
XXI.
1. Đất nước chuyển sang thời kỳ CNH,HĐH vì dân giàu , nước mạnh, xã hội
cơng bằng, văn minh
Từ cuối năm 1986 đến giữa năm 1996, đất nước Việt Nam đã trải qua 10
năm thực hiện đường lối đổi mới của Đảng với hai kế hoạch kinh tế xã hội 5 năm.
Trong 10 năm đó, dưới sự lãnh đạo của Đảng nhân dân Việt Nam đã phát huy cao
độ nội lực của dân tộc, kiên trì mục tiêu cách mạng xã hội chủ nghĩa vì độc lập dân
tộc, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh đã giành được
những thành tựu to lớn. Tuy còn một số mặt yếu kém, chưa vững chắc song nước ta
đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội. Đất nước đã có điều kiện để chuyển sang
thời kì đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Trong bối cảnh đó, Đại hội lần thứ VIII của Đảng Cộng sản Việt Nam đã đợc
triệu tập ở Hà Nội từ 22-6 đến 1-7-1996 (kể cả họp nội bộ và họp công khai). Đại
hội đã thảo luận và thông qua các văn kiện quan trọng : Báo cáo chính trị, phương
16
hướng nhiệm vụ, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 1996 - 2000, Điều lệ
Đảng (bổ sung và sửa đổi) và Nghị quyết của Đại hội. Đại hội đã bầu Ban chấp
hành Trung ương Đảng do Đỗ Mười làm Tổng Bí thư.
Đến tháng 12-1997, tại Hội nghị lần thứ tư, Ban chấp hành Trung ương đã
chấp nhận đề nghị của đồng chí Đỗ Mười chuyển giao chức vụ Tổng Bí thư và bầu
đồng chí Lê Khả Phiêu giữ chức vụ Tổng Bí thư Ban chấp hành Trung ương Đảng.
Kiểm điểm, đánh giá kết quả của 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội VII và
tổng kết 10 năm đối mới, Đại hội đã kết luận : "Sau 10 năm thực hiện đường lối đổi
mới toàn diện và 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội VII đất nước đã vượt qua một
giai đoạn thử thách gay go. Trong những hồn cảnh hết sức phức tạp, khó khăn,
nhân dân ta khơng những đã đứng vững mà cịn vươn lên đạt những thắng lợi nổi
bật trên nhiều mặt.
Căn cứ vào nhận định trên và cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kì
quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Đại hội khẳng định cẩn tiếp tục nắm vững hai
nhiệm vụ chiến lược : xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc, đẩy mạnh
cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa.
“Mục tiêu của cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa là xây dựng đất nước
ta thành một nước cơng nghiệp có cơ sớ vật chất kĩ thuật hiện đại, cơ cấu kinh
tế hợp lí, quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp với trình độ phát triển lực lượng sản
xuất, đời sống vật chất và tinh thần cao, quốc phòng, an ninh vững chắc, dân
giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh”.
Đại hội cũng đã nêu lên các định hướng phát triển, các lĩnh vực chủ yếu
trong thời kì đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
*Nội dung cơ bản của cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa trong những năm cịn lại
của thập niên 90 là :
“Đặc biệt coi trọng cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa nơng nghiệp và
nơng thơn ; phát triển tồn diện nơng thôn, lâm, ngư nghiệp gắn với công
nghiệp chế biến nông, lâm, thủy sản ; phát triển công nghiệp sản xuất hàng
tiêu dùng và hàng xuất khẩu.
Nâng cấp, cải tạo, mở rộng và xây dựng mới có trọng điểm kết cấu hạ tầng kinh tế,
trước hết ở những khâu ách tắc và yếu kém nhất đang cản trở sự phát triển.
Xây dựng có chọn lọc một số cơ sở cơng nghiệp nặng trọng yếu và hết sức
cấp thiết, có điều kiện về vốn, công nghệ, thị trường, phát huy tác dụng nhanh và có
hiệu quả cao.
Mở rộng thương nghiệp, du lịch, dịch vụ.
Đẩy mạnh các hoạt động kinh tế đối ngoại.
17
Hình thành dần một số ngành mũi nhọn như: chế biến nông, lâm, thủy sản,
khai thác và chế biến dầu khí, một số ngành cơ khí chế tạo, cơng nghiệp điện tử và
công nghệ thông tin, du lịch.
Phát triển mạnh sự nghiệp giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ”.
Đại hội đã vạch ra phương hướng, nhiệm vụ, mục tiêu chủ yếu của kế hoạch
phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 1996 - 2000, nêu nhiệm vụ tống quát, những tư
tưởng chỉ đạo, các chương trình và lĩnh vực phát triển.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng đánh dấu bước ngoặt lãnh
đạo chuyển đất nước ta sang thời kì mới - thời kì đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện
đại hóa, xây dựng nước Việt Nam độc lập, dân chủ, giàu mạnh, xã hội công bằng,
văn minh theo định hướng xã hội chủ nghĩa, vì hạnh phúc của nhân dân, vì tình hữu
nghị và sự hợp tác với nhân dân các nước trên thế giới. Đại hội có ý nghĩa quyết
định đối với vận mệnh dân tộc và tương lai của đất nước vào lúc chúng ta sắp bước
vào thế kỉ XXI.
2. Đẩy mạnh tồn diện cơng cuộc đổi mới trong thế kỷ XXI.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân Việt Nam đã vượt qua nhiều khó khăn,
thách thức, những yếu kém vốn có của nền kinh tế, những đợt thiên tại lớn hên tiếp
xảy ra, cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ ở khu vực châu Á, tình hình thế giới và
khu vực diễn biến phức tạp, ra sức thực hiện kế hoạch kinh tế xã hội 1996-2000,
đã đạt được những thành tựu quan trọng :
+ Nhịp độ kinh tế tăng trưởng khá. Hằng năm, tổng sàn phẩm trong nước
(GDP) tăng bình qn 6~9,4%. Cơng nghiệp giữ nhịp độ tăng, giá trị sản xuất bình
quân hằng năm 13,5% ; kết cấu hạ tầng : bưu chính viễn thơng, đường sá, cầu cống,
sân bay, điện... được tăng cường. Xuất và nhập khẩu tiếp tục phát triển. Năm
2000 đã chặn được đà giảm sút mức tăng trưởng kinh tế ; các chi tiêu chủ đã đạt
hoặc vượt kế hoạch đề ra. :
+ Văn hóa, xã hội có những tiến bộ, đời sống của nhân dân tiếp tục được cải
thiện. Mức tiêu dùng bình quân đấu người tăng gấp đôi. Mỗi năm đã giải quyết việc
làm cho hơn một triệu lao động. Công tác xóa đói giảm nghèo trên phạm vi cả
nước, nhất là ở các vùng trọng điểm, đạt kết quả lớn.
+ Tình hình chính trị - xã hội cơ bản ổn định, quốc phịng an ninh được tăng
cường.
+ Hệ thống chính trị được tiếp tục củng cố. Cuộc bầu cử Quốc hội khóa X
được tiến hành dân chủ và sơi nổi trong tồn quốc. Nền hành chính quốc gia được
tiến hành cải cách một bước, nhà nước pháp quyền được tiếp tục xây dựng và hoàn
thiện. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đồn thể chính trị - xã hội đã có nhiều cố
18
gắng đổi mới nội dung và phương thức hoạt động, vai trò của Mặt trận ngày
càng được phát huy mạnh mẽ. Quyền làm chủ của nhân dân được tôn trọng và
được phát huy trên các lĩnh vực ; bước đầu thực hiện một số chính sách và quy
chế đảm bảo quyền dân chủ của nhân dân, trước hết ở cơ sở
+ Quan hệ đối ngoại và việc chủ động hội nhập kinh tế quốc tế được mở rộng
và đạt được nhiều kết quả. Quan hệ hữu nghị, hợp tác với các nước xã hội chủ
nghĩa, các nước láng giềng, các bạn bè truyền thống được tăng cường trên nhiều
mặt, quan hệ với các nước phát triển và nhiều nước khác cùng nhiều tố chức quốc
tế và khu vực được tăng cường. Hoạt động đối ngoại nhân dân đã được mở rộng về
cả phương thức, quy mơ và địa bàn, góp phấn tích cực vào thắng lợi ngoại giao của
nước ta.
Những thắng lợi trong những năm 1996-2000 đã tăng cường sức mạnh, làm
đổi thay bộ mặt của đất nước và cuộc sống của nhân dân, củng cố vững chắc nền
độc lập dân tộc và chế độ xã hội chủ nghĩa, nâng cao vị thế và uy tín quốc tế của
Việt Nam .
Những thành tựu to lớn đó được bắt nguồn từ những nguyên nhân sau :
+ Đảng Cộng sản Việt Nam có bản lĩnh chính trị vững vàng và có đường lối
phương thức lãnh đạo, tổ chức đúng đắn ;
+ Nhà nước ta có cố gắng lớn trong việc điều hành quản lí đất nước ;
+ Tồn dân và tồn qn ta đã phát huy lòng yêu nước nồng nàn, phát huy
nội lực dân tộc, đồn kết nhất trí, năng động sáng tạo, tiếp tục thực hiện công cuộc
đổi mới, ra sức xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Tuy nhiên, chúng ta cũng cịn những yếu kém, khuyết điểm. Đó là :
+ Nền kinh tế phát triển chưa vững chắc, chưa hiệu quả và sức cạnh tranh
thấp
+ Một số vấn đề văn hóa - xã hội bức xúc và gay gắt chậm được giải quyết,
như : tỉ lệ thất nghiệp và thiếu việc làm ở mức cao, chất lượng giáo dục - đào tạo
thấp ; mê tín, hủ tục tăng ; các tệ nạn ma túy, mại dâm chưa bị đẩy lùi, sự phân hóa
giàu nghèo ngày càng tăng, tình trạng khiếu kiện của nhân dân chưa được giải
quyết kịp thời...
+ Tình trạng tham nhũng, lãng phí, quan liêu kéo dài, một số cán bộ, đảng
viên sa đọa, biến chất, thoái hóa về tư tưởng, đạo đức, lối sống.
Tuy cịn một số mặt yếu kém và khuyết điểm, một số chỉ tiêu của kế hoạch 5
năm (1996-2000) không đạt, song qua 10 năm thực hiện chiến lược ổn định và phát
triển kinh tế - xã hội (1991-2000), nhân dân Việt Nam đã giành được những thành
19
tựu to lớn và rất quan trọng. Đất nước đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội. Sức
mạnh về mọi mặt của nước ta đã lớn hơn nhiều so với mười năm truớc.
Đẩy mạnh tồn diện cơng cuộc đổi mới trong trong thế kỷ XXI.
*Đại hội IX diễn ra từ ngày19-22/4/2001 tại Hà Nội. Dự ĐH có 1.168 đại
biểu thay mặt cho 2.479.719 đảng viên trong cả nước.
Chủ đề của ĐH là “Phát huy sức mạnh toàn dân tộc, tiếp tục đổi mới,
đẩy mạnh CNH-HĐH, xây dựng, bảo vệ Tổ quốc VN XHCN”.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng Cộng sản Việt Nam đã kiểm
điểm 5 năm thực hiện NQ đại hội VIII, 10 năm thực hiện Chiến lược ổn định và
phát triển kinh tế -xã hội đến năm 2000 do ĐH VII đề ra và tổng kết 15 năm đổi
mới kể từ ĐH VI (1986)
ĐH thơng qua Báo cáo chính trị, chiến lược phát triển kinh tế XH 2001-2010,
Phương hướng, nhiệm vụ, kế hoạch phát triển KTXH 2001-2005, Báo cáo về bổ
sung, sửa đổi Điều lệ Đảng; báo cáo kiểm điểm của BCH TƯ khóa VIII, Báo cáo
tình hình Nghị quyết TƯ 6 (lần 2).
ĐH rút ra 4 bài học kinh nghiệm từ ĐH VI-VIII:
+Một là, trong quá trình đổi mới phải kiên trì mục tiêu độc lập dân tộc và
CNXH trên nền tảng Chủ nghĩa Mác – Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh;
+ Hai là, đổi mới phải dựa vào nhân dân, vì lợi ích của nhân dân, phù hợp với
thực tiễn và luôn sáng tạo;
+Ba là đổi mới phải kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại.
+Bốn là, đường lối đổi mới của Đảng là nhân tố quyết đinh thành công của sự
nghiệpđổimới.
ĐH đưa ra định nghĩa về tư tưởng Hồ Chí Minh
ĐH xác định mục tiêu chung của CMVN là độc lập dân tộc gắn liền với
CNXH, dân giàu, nước mạnh, XH công bằng, dân chủ, văn minh.
ĐH xác định nội dung chủ yếu của đấu tranh giai cấp trong bối cảnh mới hiện
nay là thực hiện thắng lợi sự nghiệp CNH-HĐH theo định hướng XHCN, khắc
phục tình trạng nghèo, kém phát triển, thực hiện cơng bằng XH, chống áp bức, bất
công; đấu tranh ngăn chặn và khắc phục những tư tưởng và hành động tiêu cực, sai
trái; đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu và hành động chống phá của các thế lực
thù địch, thực hiện thắng lợi sự nghiệp xâ dựng, bảo vệ Tổ quốc.
ĐH xác định động lực chủ yếu để phát triển đất nước là đại đoàn kết toàn dân
trên cở sở liên minh giữ cơng nhân với nơng dân và trí thức do Đảng lãnh đạo, kết
hợp hài hòa các lợi ích cá nhân, tập thể và xã hội, phát huy mọi tiềm năng và nguồn
lực của các thành phần kinh tế của toàn xã hội.
20
ĐH xác định đường lối kinh tế là đưa nước ta trở thành nước cơng nghiệp,
đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa; ưu tiên phát triển lực lượng sản xuất đồng
thời xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp theo định hướng XHCN.
ĐH xác định kinh tế nhiều thành phần ở nước ta gồm (6 thành phần): kinh tế
NN, kinh tế tập thể, kinh tế cá thể-tiểu chủ, kinh tế Tư bản tư nhân, kinh tế Tư bản
Nhà nước và kinh tế có vốn đầu tư nước ngồi (mới bổ sung tại ĐH này).
=> ĐH IX là ĐH của trí tuệ, dân chủ, đồn kết, đổi mới, thể hiện ý chí kiên
cường và niềm hy vọng lớn lao của cả dân tộc trong thời điểm lịch sử trọng đại
bước vào thế kỷ mới và thiên niên kỷ mới.
* Đại hội X diễn ra từ ngày 18-25/4/2006 tại Hà Nội. Dự ĐH có 1176 đại biểu
thay mặt cho 3.1 triệu đảng viên trong cả nước.
Chủ đề của ĐH: “Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của
Đảng, phát huy sức mạnh toàn dân tộc, đẩy mạnh toàn diện cơng cuộc đổi
mới, sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển”.
ĐH tổng kết 20 năm đổi mới đất nước dưới sự lãng đạo của Đảng ,Thông qua
báo cáo chính trị, Báo cáo về phương hướng, nhiệm vụ phát triển kinh tế -xã hội 5
năm (2006-2010) và báo cáo về công tác xây dựng Đảng .
ĐH xác định: “XH XHCN mà Đảng và nhân dân ta xây dựng là một xã hội
dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh; do nhân dân lao động làm
chủ; có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ
sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất; có nền văn hóa tiên
tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người được giải phóng khỏi áp bức, bất cơng, có
cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, phát triển tồn diện; các dân tộc trong cộng
đồng VN bình đẳng, đoàn kết tương trợ, giúp đỡ nhau cùng tiến bộ; có Nhà nước
pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân dưới sự lãnh đạo của
Đảng Cộng sản; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới”.
ĐH xác định mục tiêu: đến năm 2010 GDP tăng gấp 2.1 lần so với năm 2000;
trong 5 năm 2006-2010: mức tăng trưởng GDP bình quân đạt 7.5-8%/năm, phấn
đấu đạt trên 8%/năm. Cơ cấu ngành trong GDP: nông nghiệp: 15-16%, công nghiệp
và xây dựng: 43-44%, dịch vụ: 40-41%; tạo việc làm cho trên 8 triệu lao động, tỉ lệ
thất nghiệp ở thành thị dưới 5% vào 2010 và tỷ lệ hộ nghèo giảm 10-11% năm
2010.
ĐH xác định nhiệm vụ và giải pháp thực hiện để đạt được mục tiêu trên: Tiếp
tục hoàn thiện kinh tế thị trường định hướng XHCN, đẩy mạnh CNH-HĐH gắn với
nền kinh tế tri thức; giải quyết các vấn đề XH, văn hóa, giáo dục, khoa học cơng
nghệ; tăng cường quốc phòng an ninh, mở rộng quan hệ đối ngoại, chủ động, tích
21
cực hội nhập kinh tế quốc tế; phát huy dân chủ với sức mạnh đại đoàn kết dân tộc,
hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN; đổi mới, chỉnh đốn Đảng, nâng cao năng
lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, bổ sung, sửa đổi Điều lệ Đảng.
* Đại hội XI diễn ra từ 12- 19/01/2011.ĐH đánh giá 5 năm thực hiện NQ
ĐH X, tổng kết 20 năm thực hiện chiến lược phát triển kinh tế-xã hội( 2001-2010),
20 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên
CNXH( Cương lĩnh 1991) và 25 năm đổi mới.
ĐH XI đề ra phương hướng nhiệm vụ 5 năm năm 2011-2015; bổ sung và
phát triển Cương lĩnh năm 1991; Kiểm điểm sự lãnh đạo của BCH Trung ương
Đảng khóa X, bổ sung và sưa đổi Điều lệ Đảng và Bầu BCH TW Đảng khóa XI
nhiệm kỳ 2011-2015.
ĐH XI Khẳng định tiếp tục đẩy mạnh tồn diện cơng cuộc đổi mới theo con
đường XHCN và đề ra phương hướng nhiệm vụ phát triển đát nước 5 năm 20112015.
NQ Đại hội XI : đã thông qua: Cương lĩnh xây dựng đát nước trong thời kỳ
quá độ lên CNXH ( Bổ sung , phát triển năm 2011).
Thông qua Chiến lược phát triển kinh tế -xã hội 2011-2020 , trong đó đề ra
mục tiêu tổng quát : “Phấn đấu đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công
nghiệp theo hướng hiện đại; chính trị -xã hội ổn đinh, dân chủ, kỷ cương, đồng
thuận; đời sống vật chất và tinh thần nhân dân được nâng lên rõ rệt; độc lập, chủ
quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ được giữ vững; vị thế của Việt Nam trên
trường quốc tế tiếp tục được nâng lên; tạo tiền đề vững chắc để phát triển cao hơn
trong giai đoạn sau.
IV.NHỮNG BÀI HỌC KINH NGHIỆM LỚN CỦA ĐẢNG TRONG QUÁ
TRÌNH LÃNH ĐẠO CÁCH MẠNG VIỆT NAM .
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng Cộng sản Việt Nam ( tháng 12011) trên cơ sở tổng kết thực tiễn hơn 80 năm cách mạng nước ta đã nêu ra năm
bài học kinh nghiệm lớn của cách mạng Việt Nam:
- Một là ,nắm vững ngon cơ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội .
-Hai là , sự nghiệp cách mạng là của nhân dân , do nhân dân và vì nhân dân.
-Ba là, khơng ngừng củng cố, tăng cường đồn kết : đồn kết toàn Đảng, đoàn kết
toàn dân, đoàn kết dân tộc, đoàn kết quốc tế .
-Bốn là, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, sức mạnh trong nước với
sức mạnh quốc tế.
-Năm là, sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định thắng lợi
cách mạng Việt Nam.
22
Bước 4: Củng cố bài ; Giảng viên hệ thống những nội dung cơ bản và nội dung
trọng tâm bài.
Bước 5 : Câu hỏi ơn tập : Vì sao Đảng khởi xướng và lãnh đạo công cuộc đổi mới
đất nước. Những bài học kinh nghiệm trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt
Nam?
Bước 6 : Rút kinh nghiệm bổ sung :
-------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------Phú Thiện , ngày 9 tháng 10 năm 2014
NGƯỜI SOẠN BÀI
KÝ DUYỆT GIÁO ÁN
Huỳnh Văn Chánh
23