Tải bản đầy đủ (.pdf) (36 trang)

QUÁ TRÌNH HOÀN CHỈNH ĐƯỜNG LỐI CÁCH MẠNG DÂN TỘC DAN CHỦ NHÂN DÂN TỪ CƯƠNG LĨNH CHÍNH TRỊ đầu TIÊN đến CHÍNH CƯƠNG ĐẢNG LAO ĐỘNG VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (301.05 KB, 36 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC BÁCH KHOA
_____________________

BÁO CÁO BÀI TẬP LỚN
MÔN HỌC: ĐƯỜNG LỐI CÁCH MẠNG ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
CHỦ ĐỀ 3: QUÁ TRÌNH HỒN CHỈNH ĐƯỜNG LỐI CÁCH MẠNG
DÂN TỘC DAN CHỦ NHÂN DÂN TỪ CƯƠNG LĨNH CHÍNH TRỊ ĐẦU
TIÊN ĐẾN CHÍNH CƯƠNG ĐẢNG LAO ĐỘNG VIỆT NAM

GVHD: Đào Thị Bích Hồng
Lớp: A08
Nhóm: 09


Hồ Chí Minh, ngày 05 tháng 4 năm 2021


ĐẠI HỌC QUỐC GIA TP. HCM
TRƯỜNG ĐẠI HỌC BÁCH KHOA

_____________________

BÁO CÁO BÀI TẬP LỚN
MÔN HỌC: ĐƯỜNG LỐI CÁCH MẠNG ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
CHỦ ĐỀ 3: Q TRÌNH HỒN CHỈNH ĐƯỜNG LỐI CÁCH MẠNG
DÂN TỘC DAN CHỦ NHÂN DÂN TỪ CƯƠNG LĨNH CHÍNH TRỊ ĐẦU TIÊN
ĐẾN CHÍNH CƯƠNG ĐẢNG LAO ĐỘNG VIỆT NAM
Danh sách thành viên nhóm 09:

1.


2.
3.
4.
5.
6.

Đồng Văn Nhân
Lê Thị Quỳnh Như
Nguyễn Huỳnh Như
Nguyễn Thị Thảo Nhi
Võ Lê Hiếu Nhi
Võ Thành Phát

Hồ Chí Minh, ngày 05 tháng 4 năm 2021

1813321
1813435
1813437
1813399
1811126
1813498


BÁO CÁO PHÂN CÔNG NHIỆM VỤ VÀ KẾT QUẢ
THỰC HIỆN ĐỀ TÀI CỦA TỪNG THÀNH VIÊN NHÓM 09
STT
1.

Họ và tên
Đồng Văn Nhân


MSSV
1813321

Nhiệm vụ
Thực hiện

Hoàn thành

phần II

tốt (100%)

Thực hiện
2.

Lê Thị Quỳnh Như

Kết quả

Chữ ký

Hoàn thành

1813435 phần mở

tốt (100%)

đầu
Chỉnh sửa

văn bản,
3.

Nguyễn Huỳnh Như

Hoàn thành

1813437 thực hiện

tốt (100%)

kết luận
4.

Nguyễn Thị Thảo Nhi

1813399

5.

Võ Lê Hiếu Nhi

1811126

6.

Võ Thành Phát

1813498


Thực hiện

Hoàn thành

phần I

tốt (100%)

Thực hiện

Hoàn thành

phần III

tốt (100%)

Thực hiện

Hồn thành

phần III

tốt (100%)

NHĨM TRƯỞNG
(ghi rõ họ tên, ký tên)

3



MỤC LỤC
Trang

PHẦN MỞ ĐẦU................................................................................................................ 6
PHẦN NỘI DUNG............................................................................................................ 8
CHƯƠNG 1. BỐI CẢNH LỊCH SỬ VIỆT NAM DƯỚI CHÍNH SÁCH THỐNG
TRỊ VÀ KHAI THÁC THUỘC ĐỊA CỦA THỰC DÂN PHÁP VÀ CƯƠNG LĨNH
CHÍNH TRỊ ĐẦU TIÊN CỦA ĐẢNG
1.1. Bối cảnh lịch sử
1.1.1. Bối cảnh VN dưới chính sách thống trị khai thác thuộc địa của Pháp
1.1.2. Sự phân hóa giai cấp và mâu thuẫn xã hội diễn ra ngày càng gay gắt
1.1.3. Kết luận
1.2. Cương lĩnh chính trị đầu tiên..............................................................................9
1.2.1. Nội dung cơ bản......................................................................................10
1.2.2. Nêu và phân tích
1.3. Tiểu kết...............................................................................................................12
CHƯƠNG 2. BỐI CẢNH LỊCH SỬ VÀ CHỦ TRƯƠNG CỦA ĐẢNG TỪ 10/1930 –
5/1941.............................................................................................................................. 15
2.1. Luận cương chính trị
2.1.1. Bối cảnh ra đời Luận cương chính trị
2.1.2. Nội dung của Luận cương chính trị.........................................................16
2.2. Sự hồn chỉnh đường lối cách mạng giải phóng dân tộc từ 1939 đến 1945.....18
2.2.1. Bối cảnh thế giới và Việt Nam
2.2.2. Nội dung chuyển hướng chỉ đạo chiến lược và hồn chỉnh đường lối cách
mạng giải phóng dân tộc...................................................................................18
CHƯƠNG 3........ CHÍNH CƯƠNG ĐẢNG LAO ĐỘNG VN VÀ SỰ HOÀN CHỈNH
ĐƯỜNG LỐI CÁCH MẠNG DÂN TỘC DÂN CHỦ NHÂN DÂN............................23
4



3.1. Bối cảnh lịch sử và nội dung Chính cương Đảng Lao động Việt Nam
3.1.1. Bối cảnh lịch sử
3.1.2. Nội dung Chính cương Đảng Lao động Việt Nam..................................24
3.2. Sự bổ sung, phát triển các mặt qua các thời kỳ qua Chính cương Đảng Lao
động Việt Nam, Cương lĩnh chính trị và Luận cương chính trị........................................27
3.2.1. Nội dung bổ sung và hoàn chỉnh
3.2.2. Tiểu kết...................................................................................................30
3.3. Giá trị thực tiễn
3.3.1. Đối với thực tiễn trong cuộc kháng chiến chống Pháp
3.3.2. Đối với sự phát triển của toàn bộ cách mạng Việt Nam..........................32
KẾT LUẬN...................................................................................................................... 33
TÀI LIỆU THAM KHẢO................................................................................................35

5


PHẦN MỞ ĐẦU
Năm 1930, Đảng cộng sản Việt Nam ra đời đã đánh dấu bước ngoặt to lớn của cách
mạng Việt Nam. Từ đó cho đến nay, dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân ta đã giành
được những thắng lợi vĩ đại. Cách mạng tháng 8-1945 thành công khai sinh ra nước Việt
Nam dân chủ cộng hoà, thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ cứu nước
đem lại độc lập tự do và thống nhất đất nước, đưa nước ta bước vào sự nghiệp đổi mới và
từng bước quá độ lên Chủ nghĩa Xã hội. Với những thắng lợi giành được trong thế kỷ
XX, nước ta từ một nước thuộc địa nửa phong kiến đã trở thành một quốc gia độc lập, tự
do, phát triển theo con đường xã hội chủ nghĩa có quan hệ rộng rãi, có vị thế ngày càng
quan trọng trong khu vực và trên thế giới. Nhân dân ta từ thân phận nô lệ đã trở thành
người làm chủ đất nước, làm chủ xã hội. Đất nước ta từ một nền kinh tế nghèo nàn, lạc
hậu bước vào thời kỳ đổi mới công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Đường lối cách mạng của Đảng cộng sản Việt Nam là một tài sản vô giá. Đó chính
là kim chỉ nam cho mọi hành động, là nguồn sức mạnh to lớn để nhân dân ta giành lại

độc lập cho đất nước. Sự lãnh đạo của Đảng chính là nhân tố quyết định mọi thắng lợi
của cách mạng Việt Nam. Trên cơ sở chủ trương của Đảng trong những năm 1930 đến
1951, Đảng đã từng bước khắc phục hạn chế, từng bước hoàn thiện đường lối cách mạng
để đi đến giải phóng dân tộc, đó là một chặng đường dài có biết bao nhiêu biến cố, sự
kiện phức tạp của tình hình trong nước và quốc tế, đất nước phải đương đầu với đủ loại
kẻ thù với bao khó khăn thử thách. Nhưng dưới sự lãnh đạo của Đảng, đứng đầu là Chủ
tịch Hồ Chí Minh vĩ đại, con thuyền cách mạng Việt Nam vẫn cập bến vinh quang. Thực
tế lịch sử đã chứng minh hùng hồn một điều khơng thể phủ nhận, đó là sự lãnh đạo của
Đảng - nhân tố quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam.
Thành quả của đổi mới, từng bước đi lên mang tầm vóc và ý nghĩa cách mạng, là
q trình cải biến sâu sắc, tồn diện và triệt để, “đánh dấu sự trưởng thành về mọi mặt
của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta”1, tạo nên “những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch

1

Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng,
Hà Nội, 2016, tr. 16

6


sử trên con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa”2, “tạo
tiền đề quan trọng để nước ta tiếp tục đổi mới và phát triển trong những năm tới”3, là
điều kiện quan trọng để chúng ta giữ vững độc lập, tự do, bảo vệ chủ quyền lãnh thổ, bảo
vệ lợi ích quốc gia, khẳng định vị thế Việt Nam trên trường quốc tế, là cơ sở quan trọng
để nhân dân ta tiến lên trên con đường xã hội chủ nghĩa.
Bài tiểu luận dưới đây sẽ giải quyết được ba nhiệm vụ chính sau đây:
(1) Làm rõ được đặc điểm kinh tế, xã hội Việt Nam dưới chính sách thống trị, khai thác
thuộc địa của thực dân Pháp và nội dung Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng.
(2) Phân tích được nội dung của Luận cương chính trị với những ưu điểm và hạn chế và

quá trình khắc phục hạn chế về đường lối cách mạng giải phóng dân tộc của Đảng.
(3) Làm rõ nội dung của Chính cương Đảng Lao động Việt Nam và sự hoàn chỉnh đường
lối cách mạng Dân tộc dân chủ nhân dân của Đảng.

2

TS. Đinh Thế Huynh, 30 năm đổi mới và phát triển ở Việt Nam, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2015, tr.
332, 333
3
Đảng Cộng sản Việt Nam, Ban Chấp hành Trung ương, Ban chỉ đạo tổng kết, Báo cáo một số vấn đề lý luận
- thực tiễn qua 30 năm đổi mới (1986 - 2016), Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2015, tr. 190

7


PHẦN NỘI DUNG
Chương 1.

Bối cảnh lịch sử Việt Nam dưới chính sách thống trị và khai thác thuộc
địa của thực dân Pháp và Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng

1.1 Bối cảnh lịch sử
1.1.1

Bối cảnh Việt Nam dưới chính sách thống trị khai thác thuộc địa của

Pháp
Dưới tác động của hai cuộc khai thác thuộc địa (1897-1914 và 1919-1929), xã hội
Việt Nam đã có những biến chuyển hết sức căn bản. Đầu thế kỉ XX, các trào lưu tư tưởng
cách mạng dân chủ tư sản ở phương Tây, sau đó là tư tưởng cách mạng vơ sản từ nước

Nga Xô Viết đã được truyền bá rộng rãi vào Việt Nam.
Đó chính là những tiền đề quan trọng nhất cho bước phát triển nhảy vọt về chất của
phong trào yêu nước Việt Nam đầu thế kỷ XX. Nhân dân Nam Định đã hăng hái hịa
mình vào phong trào đấu tranh sôi nổi của các giai tầng xã hội trong nước, tiêu biểu là
các phong trào:
-

Phong trào Đông du và Đông Kinh nghĩa thục.

-

Phong trào tẩy chay tư bản nước ngoài.

-

Phong trào đòi tự do dân chủ những năm 1925-1926.
Phong trào dân tộc dân chủ ở Việt Nam phát triển mạnh mẽ địi hỏi phải có sự lãnh

đạo của một đảng cộng sản thống nhất. Sự tồn tại và hoạt động riêng rẽ của ba tổ chức
cộng sản làm cho lực lượng và sức mạnh của phong trào cách mạng bị phân tán. Điều đó
khơng phù hợp với lợi ích của cách mạng và nguyên tắc tổ chức của đảng cộng sản. Ngày
27/10/1929, Quốc tế Cộng sản gửi những người cộng sản ở Đông Dương tài liệu Về việc
thành lập một đảng cộng sản ở Đông Dương, chỉ rõ: “Việc thiếu một Đảng Cộng sản duy
nhất trong lúc phong trào quần chúng công nhân và nông dân ngày càng phát triển, đã
trở thành một điều nguy hiểm vô cùng cho tương lai trước mắt của cuộc cách mạng ở
Đông Dương”. Quốc tế Cộng sản nhấn mạnh: “Nhiệm vụ quan trọng nhất và cấp bách
nhất của tất cả những người cộng sản Đơng Dương là thành lập một đảng cách mạng có
tính chất giai cấp của giai cấp vô sản, nghĩa là một Đảng Cộng sản có tính chất quần
8



chúng ở Đơng Dương. Đảng đó phải chỉ có một và là tổ chức cộng sản duy nhất ở Đông
Dương”.
1.1.2

Sự phân hóa giai cấp và mâu thuẫn xã hội tại Việt Nam diễn ra ngày

càng gay gắt
Phần lớn giai cấp địa chủ cấu kết với thực dân Pháp ra sức bóc lột nơng dân, một
bộ phận địa chủ có lịng yêu nước, đã tham gia đấu tranh chống Pháp dưới các hình thức
và mức độ khác nhau. Các giai cấp, tầng lớp khác trong xã hội Việt Nam đều mang thân
phận người dân mất nước và đều bị thực dân áp bức, bóc lột, chèn ép nên đều căm phẫn
thực dân Pháp. Do đó, mâu thuẫn cơ bản trong xã hội Việt Nam lúc này, không chỉ là
mâu thuẫn giữa nhân dân, chủ yếu là nông dân với giai cấp địa chủ và phong kiến, mà đã
nảy sinh mâu thuẫn ngày càng gay gắt giữa toàn thể nhân dân Việt Nam với thực dân
Pháp xâm lược.
1.1.3

Kết luận:

Các cuộc khởi nghĩa và phong trào đấu tranh của quần chúng chống thực dân Pháp
xâm lược diễn ra mạnh mẽ nhưng đều bị thất bại, xã hội Việt Nam rơi vào khủng hoảng
về đường lối cách mạng.
Trước sự xâm lược của thực dân Pháp, các cuộc khởi nghĩa và các phong trào đấu
tranh của nhân dân ta diễn ra liên tục và mạnh mẽ. Tuy nhiên do thiếu đường lối đúng
đắn, thiếu tổ chức và lực lượng cần thiết nên các phong trào đó đã lần lượt thất bại.
Phong trào yêu nước theo ý thức hệ phong kiến như phong trào Cần Vương đã chấm dứt
với sự thất bại của cuộc khởi nghĩa Hương Khê do Phan Đình Phùng lãnh đạo (1896),
phong trào nơng dân n Thế của Hồng Hoa Thám kéo dài 30 năm cũng không giành
được thắng lợi. Phong trào yêu nước theo khuynh hướng dân chủ tư sản do các cụ Phan

Bội Châu, Phan Chu Trinh, Lương Văn Can lãnh đạo cũng rơi vào bế tắc. Cuộc khởi
nghĩa Yên Bái do Nguyễn Thái Học lãnh đạo cũng bị thất bại,… Cách mạng Việt Nam
chìm trong cuộc khủng hoảng sâu sắc về đường lối cứu nước.
1.2 Cương lĩnh chính trị đầu tiên
Cuối năm 1929, Nguyễn Ái Quốc ở Xiêm (Thái Lan) đang tìm đường về nước thì
nghe tin Hội Việt Nam cách mạng Thanh niên phân liệt, những người Cộng sản chia
9


thành nhiều phái, Người lập tức trở lại Hương Cảng (Trung Quốc). Với tư cách là phái
viên của Quốc tế Cộng sản, có đầy đủ quyền quyết định mọi vấn đề liên quan đến phong
trào cách mạng ở Đông Dương, Người chủ động triệu tập đại biểu của hai nhóm (Đơng
Dương và An Nam) và chủ trì Hội nghị hợp nhất đảng tại Cửu Long (Hương Cảng, Trung
Quốc). Hội nghị bắt đầu họp từ ngày 06/01/1930. Sau nhiều ngày thảo luận, đến ngày
03/02/1930, Hội nghị đi tới nhất trí tán thành việc hợp nhất hai tổ chức Đông Dương
Cộng sản Đảng và An Nam Cộng sản Đảng thành một đảng duy nhất, lấy tên là Đảng
Cộng sản Việt Nam; thông qua Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Chương trình
tóm tắt và Điều lệ vắn tắt của Đảng. Các văn kiện này hợp thành Cương lĩnh chính trị đầu
tiên của Đảng.
Nội dung cơ bản trong Cương lĩnh đã xác định rõ về đường lối, nhiệm vụ, lực
lượng và mối quan hệ của cách mạng Việt Nam trong bối cảnh sau khi thành lập Đảng.
Cụ thể, về đường lối chiến lược là làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng
để đi tới xã hội cộng sản. Cương lĩnh xác định ba nhiệm vụ trước mắt của cách mạng
Việt Nam, bao gồm cả hai nội dung dân tộc và dân chủ, chống đế quốc và chống phong
kiến, song nổi lên hàng đầu là nhiệm vụ chống đế quốc, giành độc lập dân tộc.
Cụ thể như sau:
- Về chính trị, đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến làm cho nước
Việt Nam được hoàn toàn độc lập, dựng ra Chính phủ cơng-nơng-binh và tổ chức qn
đội cơng nơng.
- Về kinh tế, tịch thu tồn bộ sản nghiệp lớn của bọn đế quốc giao cho Chính phủ

mới; tịch thu ruộng đất của bọn đế quốc làm của công và chia cho dân cày nghèo, mở
mang công nghiệp và nông nghiệp, miễn thuế cho dân cày nghèo, thi hành luật ngày làm
tám giờ.
- Về văn hóa, dân chính được tự do tổ chức, nam nữ bình quyền, phổ thơng giáo dục
theo hướng cơng nơng hóa.
1.2.1

Nội dung cơ bản:

Cương lĩnh xác định đường lối chiến lược cách mạng Đảng là tiến hành cuộc tư sản
dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản.
10


Nhiệm vụ của cách mạng là đánh đổ đế quốc Pháp, bọn phong kiến và tư sản phản
cách mạng làm cho nước Việt Nam được độc lập tự do, lập chính phủ cơng, nơng binh, tổ
chức qn đội cơng nơng, tịch thu ruộng đất của đế quốc và bọn phản động cách mạng
chia cho dân cày nghèo, tiến hành cách mạng ruộng đất.
Lực lượng cách mạng là công nông tiểu tư sản, trí thức. Cịn phú nơng, trung tiểu
địa chủ và tư bản thì lợi dụng hoặc trung lập, đồng thời phải liên lạc với các dân tộc bị áp
bức và vơ sản hố thế giới.
Đảng Cộng sản Việt Nam, đội tiên phong của giai cấp vô sản sẽ giữ vai trị lãnh
đạo cách mạng. Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng cộng sản Việt Nam do Nguyễn
Ái Quốc soạn thảo tuy còn vắn tắt song đây là một cương lĩnh giải phóng dân tộc sáng
tạo, sớm kết hợp đúng đắn về vấn đề dân tộc và giai cấp. Độc lập và tự do là tư tưởng cốt
lõi của cương lĩnh này.
1.2.2

Nêu và phân tích:


Cương lĩnh vạch rõ cách mạng Việt Nam phải trải qua hai giai đoạn: cách mạng tư
sản dân quyền và cách mạng xã hội chủ nghĩa. Hai giai đoạn này nối tiếp nhau. Như vậy,
ngay từ đầu Đảng ta đã thấu suốt con đường phát triển của cách mạng nước ta là kết hợp
và giương cao hai ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Cương lĩnh đề ra nhiệm vụ cách mạng tư sản dân quyền ở nước ta là đánh đổ đế
quốc, phong kiến và tư sản phản cách mạng… Đó là nội động báo trùm cả nhiệm vụ dân
tộc và dân chủ, nhưng nổi bật nhất là nội động dân tộc. Đặt nhiệm vụ dân tộc lên trên
nhiệm vụ dân chủ là đúng đắn và phù hợp với hoàn cảnh của nước ta: một nước thuộc địa
nửa phong kiến.
Cương lĩnh xác định rõ lực lượng nòng cốt của cách mạng nước ta là công – nông,
đồng thời thấy được các giai cấp và tầng lớp khác cũng là lực lượng cách mạng cần phải
liên minh hoặc lôi kéo hay trung lập. Cương lĩnh khẳng định sự lãnh đạo của Đảng là
nhân tố quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Điều này hoàn toàn phù hợp
với cách mạng nước ta, vì phải có chính đảng của giai cấp vô sản với đường lối cách
mạng đúng đắn mới lãnh đạo nhân dân ta đấu tranh giành thắng lợi.

11


Cương lĩnh xác định: cách mạng Việt Nam là một bộ phận của cách mạng thế giới.
Điều này vừa phù hợp với xu thế phát triển của thời đại, vừa phù hợp với thực tiễn của
cách mạng nước ta.
Cương lĩnh xác định lực lượng cách mạng là tập hợp đại bộ phận giai cấp công
nhân, nông dân và phải dựa vào người dân cày nghèo; lãnh đạo nông dân làm cách mạng
ruộng đất; lơi kéo tiểu tư sản, trí thức, trung nông… đi vào phe vô sản giai cấp, đối với
phú nông, trung tiểu địa chủ và tư bản Việt Nam mà chưa rõ mặt phản cách mạng thì phải
lợi dụng, ít nhất cũng làm cho họ đứng trung lập, bộ phận nào đã ra mặt phản cách mạng
thì phải đánh đổ. Giai cấp lãnh đạo cách mạng là giai cấp công nhân, thông qua Đảng
Cộng sản. Đảng là đội tiên phong của giai cấp vô sản, phải thu phục cho được đại bộ
phận của giai cấp mình, phải làm cho giai cấp mình lãnh đạo được dân chúng. Về mối

quan hệ quốc tế, Luận cương xác định cách mạng Việt Nam là một bộ phận của cách
mạng thế giới, phải liên kết với những dân tộc bị áp bức và quần chúng vô sản trên thế
giới, nhất là với quần chúng vô sản Pháp.
1.3 Tiểu kết
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời với Cương lĩnh đầu tiên của Đảng đã mở ra thời kì
mới cho cách mạng Việt Nam đánh dấu bước chuyển mình trong tư duy nhận thức của
những người lãnh đạo. Cương lĩnh đầu tiên của Đảng đã xác định được những nội dung
cơ bản nhất của con đường cách mạng Việt Nam.Cương lĩnh ra đời đã đáp ứng được
những nhu cầu bức thiết của lịch sử và trở thành ngọn cờ tập hợp, thống nhất các tổ chức
cộng sản, các lực lượng cách mạng và toàn thể dân tộc trong sự nghiệp đấu tranh vì độc
lập dân tộc, điều quan trọng nhất là nó phù hợp với tình hình hồn cảnh của đất nước ta
trong thời kỳ đó. Cách mạng Việt Nam từ đây có đường lối cách mạng đúng đắn và tổ
chức cách mạng tiên phong lãnh đạo, chấm dứt sự khủng hoảng và bế tắc về con đường
cứu nước. Từ cuối thế kỷ XIX đến những thập niên đầu thế kỷ XX, nhân dân ta liên tiếp
nổi dậy chống chủ nghĩa thực dân. Tiếp nối các phong trào Văn Thân và Cần Vương,
phong trào yêu nước ba mươi năm đầu thế kỷ XX diễn ra vô cùng anh dũng, từ khởi
nghĩa Yên Thế và các phong trào Đông Du, Đông Kinh Nghĩa Thục, Duy Tân đến khởi
nghĩa n Bái… nhưng khơng thành cơng vì thiếu một đường lối đúng. Năm 1930, kế
12


thừa “Hội Việt Nam cách mạng thanh niên” và các tổ chức cộng sản tiền thân, Đảng cộng
sản Việt Nam ra đời, đánh dấu bước ngoặt của cách mạng Việt Nam.
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa Mác-Lênin
với phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam. Điều đó nói lên quy luật ra
đời của Đảng và cũng chứng tỏ giai cấp công nhân mà đội tiên phong là Đảng Cộng sản
Việt Nam đã trưởng thành và có đủ những yếu tố cơ bản nhất để khẳng định sự đảm
nhiệm vai trò lãnh đạo đối với cách mạng Việt Nam. Cương lĩnh chính trị đầu tiên của
Đảng đánh dấu bước phát triển về chất của cách mạng Việt Nam. Đảng Cộng sản Việt
Nam thành lập khẳng định dứt khoát con đường đi lên của dân tộc Việt Nam từ 1930 là

con đường cách mạng vơ sản. Đó là sự lựa chọn của chính nhân dân Việt Nam, chính lịch
sử dân tộc Việt Nam trong quá trình tìm con đường giải phóng dân tộc. Sự ra đời của
Đảng đã tạo những tiền đề và điều kiện để đưa cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này
đến thắng lợi khác trên con đường giải phóng dân tộc, thống nhất Tổ quốc và xây dựng
đất nước.
Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng là một cương lĩnh đúng đắn và sáng tạo
theo con đường cách mạng Hồ Chí Minh, phù hợp với xu thế phát triển của thời đại mới,
đáp ứng yêu cầu khách quan của lịch sử, nhuần nhuyễn quan điểm giai cấp và thấm
nhuần tinh thần dân tộc. Tiến hành cách mạng tư sản dân quyền và cách mạng ruộng đất
để giành chính quyền về tay nhân dân đi tới xã hội cộng sản, độc lập dân tộc gắn liền với
chủ nghĩa xã hội là tư tưởng cốt lõi của Cương lĩnh này.
Tuy rằng, nội dung Cương lĩnh vẫn cịn một vài vấn đề về sau khơng hồn tồn phù
hợp với thực tế Việt Nam hoặc có một số từ ngữ có thể dẫn tới sự giải thích khác nhau,
song với sự bổ sung của Luận cương Chính trị được thông qua tại Hội nghị lần thứ nhất
Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Cương lĩnh chính trị của Đảng đã được hồn thiện
hơn. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Trong bản Cương lĩnh cách mạng tư sản dân
quyền năm 1930, Đảng đã nêu rõ nhiệm vụ chống đế quốc và chống phong kiến, thực
hiện dân tộc độc lập, người cày có ruộng. Cương lĩnh ấy rất phù hợp với nguyện vọng
thiết tha của đại đa số nhân dân ta là nơng dân. Vì vậy, Đảng đã đồn kết được những
lực lượng cách mạng to lớn xung quanh giai cấp mình, cịn các đảng phái của các giai
13


cấp khác thì hoặc bị phá sản hoặc bị cơ lập. Do đó, quyền lãnh đạo của Đảng ta - Đảng
của giai cấp công nhân không ngừng củng cố và tăng cường”.4

4

Đảng cộng sản Việt Nam – Những chặng đường lịch sử (1930-2012)


14


Chương 2.

Bối cảnh lịch sử và chủ trương của Đảng từ 10/1930 đến 5/1941.

2.1 Luận cương chính trị
2.1.1

Bối cảnh ra đời Luận cương chính trị.

Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng do Nguyễn Ái Quốc soạn thảo và được Hội
nghị thành lập Đảng thông qua đã xác định phương hướng chiến lược của cách mạng Việt
Nam là “làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng
sản”. Đó là một quá trình phát triển lâu dài, phải trải qua những giai đoạn chiến lược khác
nhau, mà trước tiên là giành độc lập dân tộc. Nhiệm vụ chống đế quốc và tay sai được
nhấn mạnh trên cả hai phương diện chính trị và kinh tế. Về chính trị, đánh đổ đế quốc chủ
nghĩa Pháp và bọn phong kiến, làm cho nước Nam được hồn tồn độc lập, dựng ra
Chính phủ cơng nơng binh và tổ chức ra quân đội công nông. Về kinh tế, tịch thu hết các
sản nghiệp lớn (như công nghiệp, vận tải, ngân hàng, v.v.) của tư bản đế quốc chủ nghĩa
Pháp để giao cho Chính phủ cơng nơng binh quản lý, tịch thu hết ruộng đất của bọn đế
quốc chủ nghĩa làm của công và chia cho dân cày nghèo... Trong khi chủ trương tịch thu
ruộng đất đang nằm trong tay kẻ thù dân tộc, Đảng đặt vấn đề “chuẩn bị cách mạng thổ
địa và lật đổ bọn địa chủ phong kiến”5. Với chiến lược đấu tranh dân tộc, Cương lĩnh
chính trị đầu tiên của Đảng đã đáp ứng đúng yêu cầu khách quan của lịch sử, phù hợp với
nguyện vọng độc lập tự do của quần chúng nhân dân, làm cho Đảng nắm quyền lãnh đạo
duy nhất đối với cách mạng Việt Nam và phát động được một phong trào cách mạng rộng
lớn ngay từ đầu năm 1930. Tuy nhiên, những quan điểm đúng đắn của Cương lĩnh lại
chưa được Quốc tế Cộng sản công nhận. Tháng 4/1930 sau thời gian học tập ở Liên Xô,

Trần Phú được Quốc tế Cộng sản cử về nước khi phong trào cách mạng Việt Nam đang
lên đỉnh cao, cách mạng diễn ra sôi nổi trên khắp cả nước dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Khi về nước, nhận thấy Đảng ra đời vẫn cịn non trẻ, song, tình hình chiến sự trong nước
và quốc tế mỗi ngày một sôi sục, sau một quá trình làm việc miệt mài, nghiêm túc làm
việc, đồng chí Trần Phú viết ra Dự thảo Luận cương chính trị của Đảng. Tháng 10/1930,
Luận cương chính trị của Đảng Cộng sản Đông Dương được thay thế cho Cương lĩnh
chính trị đầu tiên của Đảng Cộng sản Việt Nam.
5

Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, t. 2, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998, tr. 6.

15


2.1.2

Nội dung của Luận cương chính trị.

Luận cương chính trị nhấn mạnh mâu thuẫn giai cấp ngày càng diễn ra gay gắt ở
Việt Nam, Lào và Cao Miên là "một bên thì thợ thuyền, dân cày và các phần tử lao khổ,
một bên thì địa chủ, phong kiến, tư bản và đế quốc chủ nghĩa". Luận cương xác định tính
chất của cách mạng Đông Dương lúc đầu là một cuộc “cách mạng tư sản dân quyền”.
Đó là “thời kỳ dự bị để làm xã hội cách mạng”. Sau khi cách mạng tư sản dân quyền
thắng lợi sẽ tiếp tục “phát triển, bỏ qua thời kỳ tư bổn mà tranh đấu thẳng lên con đường
xã hội chủ nghĩa”6. Luận cương cho rằng nhiệm vụ cốt yếu của cách mạng tư sản dân
quyền là phải “tranh đấu để đánh đổ các di tích phong kiến, đánh đổ các cách bóc lột
theo lối tiền tư bổn và để thực hành thổ địa cách mạng cho triệt để” và i. Hai nhiệm vụ
đó phải được đặt ngang hàng nhau và tiến hành đồng thời với nhau “có đánh đổ đế quốc
chủ nghĩa mới phá được cái giai cấp địa chủ và làm cách mạng thổ địa được thắng lợi,
mà có phá tan chế độ phong kiến thì mới đánh đổ được đế quốc chủ nghĩa”. Luận cương

khẳng định “Vấn đề thổ địa là cái cốt của cách mạng tư sản dân quyền”, là cơ sở để
Đảng giành quyền lãnh đạo dân cày. Luận cương quá nhấn mạnh cách mạng ruộng đất và
đấu tranh giai cấp. Đó là điều khơng phù hợp với thực tế của xã hội thuộc địa.
Đối với lực lượng cách mạng, Luận cương chính trị tháng 10/1930 cho rằng giai
cấp cơng nhân và giai cấp nông dân, những giai cấp vô sản là giai cấp lãnh đạo của cách
mạng. Trong đó, dân cày chiếm lực lượng đông đảo nhất và họ chính là động lực chính
của cách mạng. Những thành phần như tư sản thì theo phe đế quốc chống lại cách mạng,
cịn giai cấp tiểu tư sản thì do dự, chưa có thái độ kiên quyết đấu tranh. Việc chỉ ra các
lực lượng cách mạng và những đặc điểm của họ là để biết cách sàng lọc lại lực lượng
cách mạng cũng như tìm ra hướng vận động đấu tranh phù hợp với từng đối tượng. Với
tình hình hiện tại cũng như lực lượng cách mạng có ở thời điểm lúc bấy giờ, phương
pháp cách mạng phù hợp và hiệu quả nhất là con đường đấu tranh võ trang bạo động.
Mục tiêu của Đảng là đánh đổ đế quốc và phong kiến, giành chính quyền về tay giai cấp
vơ sản.

6

Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, t. 2, sđd, tr. 93-94.

16


Luận cương chính trị tháng 10/1930 làm sâu sắc nhiều vấn đề thuộc về chiến lược
của cách mạng Việt Nam mà Cương lĩnh 2/1930 đã nêu ra từ trước. Đây cũng là tiền đề,
là bước đệm để Đảng có cái nhìn sáng suốt hơn trong giai đoạn đấu tranh giành độc lập
tự do cho dân tộc. Bên cạnh đó Luận cương chính trị cũng có những điểm khác so với
Cương lĩnh chính trị và đây chính là nhược điểm của văn kiện này. Thứ nhất, Do ảnh
hưởng bởi quan niệm sai lầm của Quốc Tế Cộng sản về các quốc gia thuộc địa phương
Đông, dẫn đến sai lầm trong việc xác định mâu thuẫn cơ bản lúc bấy giờ là mâu thuẫn
giai cấp, giữa người giàu và người nghèo, điều này chưa thực sự là đúng đắn, bởi vì mâu

thuẫn diễn ra ở Đông Dương thực chất là giữa Việt Nam và Đế quốc Pháp chứ không
phải giữa người giàu và người nghèo, mâu thuẫn giữa nhân dân và địa chủ cũng khơng
gay gắt vì họ có chung kẻ thù là Pháp, mâu thuẫn giữa công nhân và tư sản không gay
gắt, Tư sản Việt Nam không cùng phe với Đế quốc (chỉ 1 bộ phận chứ không phải tất cả),
quan trọng là địa chủ phong kiến lẫn tư bản (giai cấp tư sản Việt Nam) đều mâu thuẫn với
đế quốc, dẫn đến Luận cương coi trọng vấn đề chống phong kiến hơn là đấu tranh cho
giai cấp và đánh đổ quân xâm lược, quan điểm này không phù hợp với cách mạng Việt
Nam, ở Việt Nam không nhất thiết phải thổ địa cách mạng. Thứ hai, Luận cương chính
trị tháng 10/1930 lại quá nhấn mạnh mặt tiêu cực của các tầng lớp trên: tư sản thương
mại “đứng về một phe với đế quốc chủ nghĩa và địa chủ mà chống cách mạng”, tư sản
công nghiệp “chỉ đứng về mặt quốc gia cải lương” và sẽ “theo phe đế quốc chủ nghĩa”,
trong giai cấp tiểu tư sản, thì bộ phận làm thủ cơng nghiệp “có ác cảm” với cách mạng,
tiểu thương “khơng tán thành cách mạng”, tiểu tư sản trí thức có “xu hướng quốc gia chủ
nghĩa”, “đại biểu quyền lợi cho tất cả giai cấp tư bổn bổn xứ”7. Từ đó, quan điểm luận
cương chỉ thấy được vai trị động lực cách mạng của công nhân và nông dân, mà khơng
đánh giá đúng mức vai trị cách mạng của giai cấp tiểu tư sản, khả năng chống đế quốc
của tư sản dân tộc, khả năng phân hố và lơi kéo một bộ phận địa chủ vừa và nhỏ đi theo
cách mạng. Thứ ba, luận cương cũng không đề ra được mối liên minh các dân tộc và giai
cấp rộng rãi trong cuộc đấu tranh dân tộc và bọn tay sai. Chính vì vậy mà vẫn chưa tranh
thủ được sự ủng hộ của liên minh quốc tế. Thứ tư, trong vấn đề giải quyết dân tộc, phạm
7

Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, t. 2, sđd, tr. 95-96.

17


vi giải quyết được đề ra là trên tồn Đơng Dương, không thể thực hiện được quyền tự
quyết dân tộc.
Từ những hạn chế trên, có thể thấy được nguyên nhân dẫn đến hạn chế của Luận

cương một phần là do ảnh hưởng tư tưởng tả khuynh của Quốc tế Cộng sản, đồng thời,
người lãnh đạo chưa nắm được thực tiễn đất nước, không xác định được mâu thuẫn nào là
mâu thuẫn chủ yếu dẫn tới không xác định được tầng lớp trung gian cũng là đối tượng
của cách mạng, bỏ qua một lực lượng quan trọng của giai cấp đấu tranh.
2.2 Sự hồn chỉnh đường lối cách mạng giải phóng dân tộc từ giai đoạn 1939 1945
2.2.1

Bối cảnh thế giới và Việt Nam

Tháng 9/1939, cuộc Chiến tranh thế giới thứ II bùng nổ. Đế quốc Pháp lao vào
vịng chiến. Chính phủ Pháp đã thi hành biện pháp đàn áp lực lượng dân chủ ở trong
nước và phong trào cách mạng thuộc địa. Mặt trận nhân dân Pháp tan vỡ. Đảng Cộng sản
Pháp bị đặt ra ngồi vịng pháp luật, điều này ảnh hưởng rất nhiều đến Đảng Cộng sản
Đông Dương. Đảng Cộng sản Đông Dương cũng bị Pháp đặt ra ngồi vịng pháp luật.
Ngày 28/9/1939, Tồn quyền Đơng Dương ra nghị định cấm tuyên truyền cộng sản, cấm
lưu hành, tàng trữ tài liệu cộng sản, giải tán các hội hữu ái, nghiệp đoàn và tịch thu tài sản
của các tổ chức đó, đóng cửa các tờ báo và nhà xuất bản, cấm hội họp và tụ tập đông
người. Trong giai đoạn này, Pháp phát xít hóa bộ máy thống trị, thẳng tay đàn áp phong
trào cách mạng của nhân dân, tập trung lực lượng đánh vào Đảng Cộng sản Đông Dương.
Một số quyền tự do dân chủ đã giành được trong thời kỳ 1936-1939 bị thủ tiêu. Chúng
ban bố lệnh tổng động viên, thực hiện chính sách “Kinh tế chỉ huy” nhằm tăng cường vơ
vét sức người, sức của để phục vụ chiến tranh của đế quốc. Hơn bảy vạn thanh niên bị bắt
sang Pháp làm bia đỡ đạn.
2.2.2

Nội dung chuyển hướng chỉ đạo chiến lược và hoàn chỉnh đường lối

cách mạng giải phóng dân tộc
Đứng trước tình hình mới, Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Đông
Dương họp Hội nghị lần thứ sáu (8/11/1939) tại Bà Điểm (Hóc Mơn – Gia Định) do

Tổng Bí thư Nguyễn Văn Cừ chủ trì.
18


Trước tình hình mới Đảng cũng đã có những chuyển hướng trong đường lối. Về
nhiệm vụ chiến lược, cơ bản là khơng có gì thay đổi so với Luận cương chính trị
(10/1930). Cách mạng tư sản dân quyền mang tính chất thổ địa, phản đế, sau khi cách
mạng tư sản dân quyền thắng lợp sẽ tiếp tục phát triển, bỏ qua thời kỳ tư bản mà tranh
đấu thẳng lên con đường xã hội chủ nghĩa. Về nhiệm vụ cụ thể, dựa vào tình hình với sự
vơ vét, áp bức ngày càng nặng nề của Thực dân Pháp, đã khiến cho Đảng phải tạm gác lại
vấn đề thổ địa để tập trung chống đế quốc, đưa giải phóng dân tộc lên hàng đầu. Điều này
là hoàn toàn phù hợp với đặc điểm của Việt Nam. Sự chuyển hướng này là hoàn toàn
đúng đắn, đã khắc phục được nhược điểm của Luận cương chính trị (10/1930). Khơng
cịn giải quyết song song 2 vấn đề thổ địa và dân tộc, mà chỉ tập trung giải quyết vấn đề
dân tộc trước. Về lực lượng cách mạng, vì mục tiêu hiện tại của Đảng đưa nhiệm vụ giải
phóng dân tộc lên hàng đầu nên tất cả giai cấp trên tồn Đơng Dương đều tham gia để
giải phóng cho Đơng Dương. Với sự thay đổi này Đảng đã khắc phục hạn chế của Luận
cương chính trị (10/1930) thay vì lực lượng chính là nơng dân, cơng nhân thì bây giờ lực
lượng là tồn thể các giai cấp có mâu thuẫn với Pháp, bị Pháp áp bức bóc lột đều là lực
lượng chính của Đảng. Về phạm vi cách mạng, lập ra chính phủ liên bang Cộng hịa Dân
chủ Đơng Dương, đây là một thay đổi tích cực vì mơ hình cộng hịa dân chủ là mơ hình
giúp tập hợp đơng đảo lực lượng hơn, tuy nhiên với phạm vi là tồn Đơng Dương, đây là
phạm vi q lớn, cịn hạn chế giống như Luận cương chính trị (10/1930), quá phụ thuộc
vào Đông Dương chưa đưa ra được vấn đề tự quyết của dân tộc.
Về tổng quan Nghị quyết hội nghị Ban chấp hành Trung ương (11/1939) đã khắc
phục được 2/3 hạn chế so với Luận cương chính trị (10/1930). Nhiệm vụ trước mắt
khơng cịn giải quyết song song 2 vấn đề thổ địa và dân tộc, mà chỉ tập trung giải quyết
vấn đề dân tộc trước. Lực lượng cách mạng đã tập hợp đông đảo với mọi tầng lớp tham
gia. Tuy nhiên vẫn còn một hạn chế chưa khắc phục được là phạm vi cách mạng, với
phạm vi tồn Đơng Dương là q sức, Đảng vẫn chưa đưa ra được vấn đề tự quyết cho

dân tộc.
Tháng 6/1940, Đức tấn cơng Pháp, chính phủ Pháp đầu hàng Đức và lợi dụng lúc
Pháp thua Đức, phát xít Nhật đã nắm lấy cơ hội và tấn công, muốn thâu tóm thuộc địa
19


của Pháp tại Đông Dương. Trong bối cảnh chiến tranh thế giới, thực dân Pháp đã ra sức
bóc lột nhân dân ta, phát xít hố bộ máy thống trị, thẳng tay đàn áp các phong trào cách
mạng của nhân dân. Ngày 22/9/1940, phát xít Nhật tiến vào Lạng Sơn và đổ bộ Hải
Phòng, khiến Pháp phải ký hiệp định đầu hàng Nhật vào ngày 23/9/1940. Nhân dân ta
phải chịu cảnh 1 cổ hai trịng áp bức bóc lột của Pháp - Nhật, mâu thuẫn giữa dân tộc ta
với đế quốc phát xít Pháp - Nhật càng gay gắt hơn bao giờ hết.
Trong bối cảnh đất nước bị vắt kiệt, nhân dân bị bóc lột, Hồ Chí Minh đã triệu tập
và chủ trì Hội nghị Ban chấp hành Trung Ương lần thứ 8 vào giữa tháng 5/1941, được tổ
chức tại rừng Khuổi Nậm, thuộc Pác Bó (Hà Quảng, Cao Bằng), bàn luận và phân tích về
nguồn gốc, đặc điểm, tính chất và sự ảnh hưởng của chiến tranh thế giới thứ hai đến đất
nước Việt Nam, từ đó đưa ra những nhận định và ra quyết định có ảnh hưởng to lớn đến
tương lai dân tộc lúc bấy giờ.
Trong cuộc hội nghị đã chỉ rõ mâu thuẫn chủ yếu phải được giải quyết cấp bách lúc
bấy giờ là mâu thuẫn giữa dân tộc Việt Nam với bọn đế quốc phát xít Pháp - Nhật. Hội
nghị vẫn tán thành các nghị quyết của các Hội nghị thứ sáu, bảy về các chiến lược và
nhấn mạnh tầm quan trọng của vấn đề dân tộc, nhấn mạnh Đảng của giai cấp công nhân.
Với sự thống trị áp bức ngày càng nặng nề thì tất cả các giai cấp (thợ thuyền, dân
cày, địa chủ, tư sản) đều cảm thấy bị vắt kiệt sức, không thể chịu nổi. Vận mệnh dân tộc
nguy vong không lúc nào bằng, hội nghị đưa ra nhiệm vụ khơng cịn lúc này khơng cịn
phải giải quyết 2 vấn đề phản đế và điền địa, chỉ giải quyết một vấn đề duy nhất là giải
phóng dân tộc, nếu muốn giải phóng dân tộc mà đặt ra thêm nhiệm vụ thứ 2 giải quyết
vấn đề thổ địa sẽ ảnh hưởng đến nhiệm vụ thứ nhất. Lúc này cuộc cách mạng Đông
Dương hiện tại khơng cịn là cuộc cách mạng tư sản dân quyền nữa mà là cuộc cách
mạng tập trung vào giải phóng dân tộc.

Hội nghị tuyên bố “Trong lúc này quyền lợi của bộ phận, giai cấp, phải đặt dưới
sự sinh tử, tồn vong của quốc gia, của dân tộc. Trong lúc này, nếu không giải quyết được
vấn đề dân tộc giải phóng, khơng địi được độc lập, tự do cho tồn thể dân tộc thì chẳng
những tồn thể quốc gia dân tộc còn chịu mãi kiếp trâu ngựa, mà quyền lợi của bộ phận,

20


giai cấp đến vạn năm cũng khơng địi lại được”8. Từ đấy nhấn mạnh quan điểm và nhiệm
vụ cấp bách lúc bấy giờ là tập hợp lực lượng toàn quốc gia dân tộc, giành lại chính quyền
từ bọn đế quốc, giải phóng đất nước, gác lại khẩu hiệu “Đánh đổ địa chủ, chia ruộng cho
dân cày” thay vào đó là khẩu hiệu “Tịch thu ruộng đất của bọn đế quốc và Việt gian
chia cho dân cày nghèo, chia lại ruộng công, giảm tô, giảm tức”.
Điều này tiếp tục khẳng định nhiệm vụ giải phóng dân tộc là quan trọng nhất giống
Nghị quyết hội nghị Ban chấp hành Trung ương (11/1939), khắc phục hồn tồn hạn chế
của Luận cương chính trị (10/1930), khẳng định sự đúng đắn của Cương lĩnh chính trị
đầu tiên.
Hội nghị có nêu muốn tập hợp lực lượng tồn dân thì phải giương cao ngọn cờ dân
tộc, phải đoàn kết hết sức rộng rãi. Vẫn khẳng định lực lượng tham gia cách mạng giải
phóng dân tộc là tập chung toàn bộ lực lượng cách mạng trên toàn cõi Đông Dương,
không phân biệt thợ thuyền, dân cày, phú nông địa chủ, tư sản bản xứ, những ai có lịng
u nước thì đều thống nhất trong cùng mặt trận, đem toàn bộ sức lực chống đế quốc
giành độc lập cho dân tộc. Hạn chế này trong Luận cương chính trị (10/1930) đã được
khắc phục từ Nghị quyết hội nghị Ban chấp hành Trung ương (11/1939).
Nhằm thức tỉnh tinh thần dân tộc, truyền thống của nhân dân. Đảng chủ trương
thành lập ở mỗi nước một mặt trận riêng vì Việt, Lào, Campuchia mỗi nước có một đặc
điểm, nịi giống khác nhau, phong tục tập quán khác nhau. Khẳng định vấn đề dân tộc
quốc gia nào quốc gia nấy tự làm đó là sự nghiệp của chính quốc gia đó. Vì vậy mỗi quốc
gia một mặt trận riêng, giải quyết vấn đề dân tộc là của từng nước ở Đông Dương: Ở Việt
Nam có Việt Nam độc lập đồng minh (Mặt trận Việt Minh) nhằm huy động toàn bộ lực

lượng yêu nước của Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng Sản chống đế quốc, tại
Lào có Ai lao độc lập đồng minh, Campuchia có Cao miên độc lập đồng minh. Lúc này
phạm vi giải quyết vấn đề dân tộc không tiến hành trên tồn Đơng Dương nữa mà là mỗi
quốc gia tự giải quyết vấn đề dân tộc, đây cũng chính là hạn chế cuối cùng cần được khắc
phục mà Nghị quyết hội nghị Ban chấp hành Trung ương (11/1939) chưa làm được, và
đó cũng chính là hạn chế của Luận cương chính trị (10/1939).
8

Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, t. 7, sđd, tr. 113.

21


Qua Nghị quyết hội nghị Ban chấp hành Trung ương (11/1939), Đàng đã có sự
chuyển hướng trong đường lối và đã khắc phục được 2 nội dung còn hạn chế trong Luận
cương chính trị (10/1939) và nhiệm vụ giải phóng dân tộc phải được đưa lên hàng đầu,
khơng cịn là cuộc cách mạng tư sản dân quyền. Lực lượng cách mạng lúc này là tồn bộ
các giai cấp, khơng cịn tập trung vào nông dân, công dân như trước nữa. Tuy nhiên vẫn
còn hạn chế khi phạm vi cách mạng tồn bộ Đơng Dương là q rộng, nhưng hạn chế
cuối cùng này cũng đã được khắc phục hoàn toàn qua Hội nghị 8 (5/1941), lúc này Đảng
đã đề cao vấn đề tự quyết dân tộc, mỗi quốc gia trong Đông Dương đều có một mặt trận
riêng để giải phóng chính quốc gia của họ. Tất cả những hạn chế đã được khắc phục qua
thực tiễn và điều này khẳng định tính đúng đắn của Cương lĩnh chính trị đầu tiên.

22


Chương 3.

Chính cương Đảng Lao động VN và sự hồn chỉnh đường lối cách

mạng Dân tộc Dân chủ nhân dân

3.1 Bối cảnh lịch sử và nội dung Chính cương Đảng Lao động Việt Nam
3.1.1

Bối cảnh lịch sử:

a. Tình hình thế giới:

Sau chiến tranh thế giới thứ hai, chế độ phát xít sụp đổ, cuộc tổng khủng hoảng của
chủ nghĩa tư bản thêm trầm trọng, Liên Xô ngày càng cường thịnh, phong trào dân chủ
lên cao. Thế giới chia làm hai phe: phe dân chủ chống đế quốc do Liên Xô lãnh đạo, phe
đế quốc phản dân chủ do Mỹ cầm đầu. Phe dân chủ ngày một mạnh, phe đế quốc ngày
một suy. Cán cân lực lượng giữa hai phe đã nghiêng hẳn về phe dân chủ. Muốn thoát
khỏi nạn khủng hoảng, đế quốc Mỹ và các đế quốc khác đang ra sức chuẩn bị chiến tranh
thế giới thứ ba và mở rộng các cuộc chiến tranh xâm lược. Trước tình thế khó khăn của
thực dân Pháp, đế quốc Mỹ đã can thiệp trực tiếp vào cuộc chiến tranh ở Đông Dương.
Trong chiến tranh và sau chiến tranh thế giới thứ hai, nhờ chủ nghĩa xã hội thắng
chủ nghĩa phát xít, cách mạng dân chủ nhân dân lan rộng và đã thành công ở nhiều nước.
Chế độ dân chủ nhân dân thành lập và tách những nước đó ra khỏi hệ thống đế quốc chủ
nghĩa. Con đường chung lúc bấy giờ cho các nước tiên tiến cũng như các nước nửa thuộc
địa và thuộc địa là cách mạng dân chủ nhân dân. Một đặc điểm của thế giới sau chiến
tranh thế giới thứ hai là phong trào giải phóng thuộc địa và nửa thuộc địa vô cùng sôi nổi.
Các bọn đế quốc dùng thủ đoạn để giả thừa nhận độc lập, mua chuộc tư sản và địa chủ
bản quốc, duy trì quyền thống trị ở các thuộc địa. Nhưng các dân tộc thuộc địa và nửa
thuộc địa đã nhận thức rõ được con đường đi cho mình, đó là đồn kết dân tộc, liên lạc
mật thiết với nhân dân thế giới, đấu tranh võ trang lâu dài dưới sự lãnh đạo của giai cấp
cơng nhân.
Nước Cộng hịa nhân dân Trung Hoa ra đời. Hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa
phát triển.

b. Tình hình trong nước:

Từ hồi thuộc Pháp, căn bản Việt Nam là một xã hội phong kiến phụ thuộc phần
nhiều vào nền kinh tế nông nghiệp. Từ khi bị đế quốc Pháp thâu tóm, Việt Nam biến
23


thành một thị trường độc chiếm, một nguồn cung cấp nguyên liệu và là căn cứ đóng quân
của thực dân Pháp trên nền kinh tế tự cấp, tự túc. Sau chiến tranh thứ nhất, do chính sách
đặc biệt khai thác thuộc địa của đế quốc Pháp, nhờ vào các công nghệ kỹ thuật mà giai
cấp cơng nhân thành hình và phát triển. Song, chính sách thuộc địa của đế quốc Pháp ở
Việt Nam kìm hãm sức phát triển của lực lượng sản xuất. Trong chiến tranh thế giới thứ
hai, Phát xít Nhật xâm chiếm Việt Nam.
3.1.2

Nội dung Chính cương Đảng Lao động Việt Nam

Đảng lao động ở đây ý nghĩa là nhằm hồn thành sự nghiệp giải phóng dân tộc, xóa
bỏ di tích phong kiến và nửa phong kiến, phát triển chế độ dân chủ nhân dân, làm cho
nước Việt Nam độc lập và thống nhất, tự do, dân chủ tự do và tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Yêu cầu nhiệm vụ mới của Đảng lúc bấy giờ phải công khai ra mặt tổ chức và dẫn dắt
hoạt động cách mạng. Khơng cịn là lúc hoạt động nửa cơng khai, giờ cách mạng đã có
những thành cơng nhất định, cần phải công khai ra mặt để vận động, truyền bá tư tưởng
một cách hiệu quả cũng như trong công tác ngoại giao cần phải có đại diện một cách
đường đường chính chính để dần dần xây dựng các mối quan hệ ngày càng tốt đẹp. Để
đáp ứng yêu cầu đó, tháng 2/1951 Đảng Cộng sản Đông Dương đã họp Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ II tại Tuyên Quang. Đại hội ra Nghị quyết chia tách Đảng Cộng sản
Đông Dương thành ba đảng cách mạng để lãnh đạo cuộc kháng chiến. Ở Việt Nam Đảng
lấy tên là Đảng Lao động Việt Nam.
Thơng qua văn kiện “Chính cương Đảng Lao động Việt Nam”, trong đó khẳng định

nội dung quan trọng “Cách mạng Việt Nam hiện nay là một cuộc cách mạng dân tộc dân
chủ nhân dân”. Báo cáo Bàn về cách mạng Việt Nam do đồng chí Trường Chinh trình
bày (12-02) phân tích một các hệ thống và sâu sắc toàn bộ đường lối cách mạng dân tộc
dân chủ nhân dân tiến dần lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, về các chính sách của Đảng
và về Đảng Lao động Việt Nam.
Báo cáo nêu rõ xã hội Việt Nam chứa chất nhiều mâu thuẫn, trong đó có hai mâu
thuẫn cơ bản. Đó là mâu thuẫn giữa tồn thể dân tộc Việt Nam với đế quốc và tay sai,
mâu thuẫn giữa nhân dân, chủ yếu là nông dân với giai cấp địa chủ phong kiến. Mâu
thuẫn chính là mâu thuẫn giữa nhân dân Việt Nam chủ nghĩa đế quốc xâm lược, cụ thể
24


×