Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (125.88 KB, 5 trang )
Bệnh suy tuyến giáp trạng
Đó là tình trạng thiếu hụt hoóc môn tuyến giáp, không đủ cung cấp cho các
tế bào của cơ thể. Ở những người mắc bệnh này, tuyến giáp có thể phình to (gây
bướu cổ) hoặc không. Suy giáp làm tăng nguy cơ tai biến tim mạch, có thể gây
hôn mê, ngừng thở
Suy giáp có nhiều loại:
1. Suy giáp tiên phát:
- Do căn nguyên miễn dịch (như viêm tuyến giáp Hashimoto).
- Sau phẫu thuật cắt tuyến giáp hoặc điều trị bằng iốt phóng xạ (kể cả
phóng xạ vùng cổ).
- Do dùng thuốc kháng giáp trạng tổng hợp điều trị bệnh basedow,
(neomercazol, thyrozol, novacarb, lithium ).
- Do thiếu hụt iốt nặng.
- Bẩm sinh hoặc mắc phải trong tử cung (suy giáp trẻ mới đẻ).
2. Suy giáp thứ phát: Do suy thùy trước tuyến yên (hiếm gặp).
3. Suy giáp do vùng dưới đồi: Rất hiếm gặp.
4. Suy giáp dưới lâm sàng: Không có biểu hiện. Thể bệnh này khá phổ biến,
chiếm 5-13% dân số.
Ở thể nặng, suy giáp có thể gây hôn mê, nếu không điều trị đúng có thể dẫn
đến tử vong. Tình trạng hôn mê diễn biến từ từ, không có dấu hiệu thần kinh khu
trú.
Một số trường hợp có cơn động kinh kèm theo các triệu chứng: hạ thân
nhiệt nặng (dưới 35 độ C), hạ đường huyết; giảm hô hấp (gây tăng khí CO2 trong
máu), đôi khi có cơn ngừng thở; giảm nhịp tim và huyết áp.
Loại suy giáp dưới lâm sàng làm tăng nguy cơ mắc các bệnh xơ vữa mạch
vành, nhồi máu cơ tim (do tăng cholesterol máu).
Các triệu chứng điển hình của suy giáp: