Câu hỏi tiểu luận: “Trình bày tư duy của Đảng về kinh tế thị trường
trong thời kỳ đổi mới. Liên hệ thực tiễn sự phát triển của thành
phần kinh tế tư nhân ở nước ta hiện nay?”
MỞ ĐẦU
Đất nước ta sau 35 năm đổi mới (1986-2021) đã có những bước phát
triển rực rỡ. Nền kinh tế chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập
trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa đã đạt được những thành tựu cụ thể. Tốc độ phát triển bình
quân hiện nay đạt 7%. Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu 6 tháng đầu năm
nay đạt 316 tỉ USD, tăng 32,2% so với cùng kì năm trước. Các thành
phần kinh tế phát triển nhanh chóng, đa dạng. Đời sống của nhân dân
được cải thiện rõ rệt về nhiều mặt: kinh tế, y tế, văn hoá, xã hội... Việt
Nam đang dần khẳng định vai trị của mình trên trường quốc tế. Tuy
nhiên nước ta vẫn còn là một nước đang phát triển, kinh tế nông nghiệp
vẫn chiếm tỷ trọng khá lớn trong nền kinh tế quốc dân. Thu nhập bình
qn đầu người cịn thấp, tệ nạn xã hội, tham ơ, tham nhũng vẫn cịn tồn
tại. Đảng và Nhà nước đã khẳng định quyết tâm đẩy mạnh CNH-HĐH
đất nước, phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, định hướng XHCN,
sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng nghèo nàn, lạc hậu, kém phát triển.
Thực tế 35 năm đổi mới đã khẳng định việc xây dựng và phát triển kinh
tế thị trường định hướng XHCN đáp ứng được với yêu cầu thực tiễn và
thực hiện cam kết hội nhập quốc tế. Hiệu quả và sức cạnh tranh của nền
kinh tế được nâng lên. Việc đổi mới, sắp xếp, cơ cấu lại, nâng cao hiệu
quả doanh nghiệp nhà nước được đẩy mạnh, kinh tế tập thể được quan
tâm đổi mới, kinh tế tư nhân ngày càng được coi trọng, đội ngũ doanh
nhân không ngừng lớn mạnh và thu hút vốn đầu tư nước ngoài đạt được
kết quả tích cực. Để phát triển kinh tế thì ngồi việc chúng ta cần phải
phát huy và tận dụng rất nhiều nguồn lực như: nguồn lực tự nhiên,
nguồn nhân lực, vốn đầu tư, khoa học thì Đảng cần có một đường lối tư
duy đúng đắn để phát triển nền kinh tế thị trường. Sau khi được tìm hiểu
mơn học Đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam, em đã
3
phần nào hiểu được về tầm quan trọng của những chính sách, đường lối
đúng đắn của Đảng trong cơng cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, và đặc
biệt là “Tư duy của Đảng về kinh tế thị trường trong thời kỳ đổi mới”
mà em đã chọn làm đề tài lần này. Đề tài tiểu luận này sẽ đi sâu vào
phân tích các giai đoạn phát triển tư duy của Đảng, khẳng định tính đúng
đắn và cần thiết của nền kinh tế thị trường định hướng phát triển xã hội
chủ nghĩa. Trên cơ sở đó đưa ra những liên hệ thực tiễn cụ thể về sự phát
triển của thành phần kinh tế tư nhân ở nước ta hiện nay.
NỘI DUNG
1. Tư duy của Đảng về kinh tế thị trường trong thời kỳ đổi mới
1.1 Tư duy của Đảng về kinh tế thị trường từ Đại hội VI đến Đại hội
VIII
Tư duy của Đảng về kinh tế thị trường từ Đại hội VI đến Đại hội VIII so
với thời kỳ trước đổi mới, nhận thức về kinh tế thị trường trong giai
đoạn này có sự thay đổi căn bản và sâu sắc.
Một là, kinh tế thị trường không phải là cái riêng có của chủ nghĩa tư
bản mà là thành tựu phát triển chung của nhân loại.
Lịch sử phát triển nền sản xuất xã hội cho thấy, sản xuất và trao đổi hàng
hóa là tiền đề quan trọng cho sự ra đời và phát triển của kinh tế thị
trường. Trong quá trình sản xuất và trao đổi, các yếu tố thị trường như
cung, cầu, giá cả có tác động điều tiết q trình sản xuất hàng hóa, phân
bổ các nguồn lực kinh tế và tài nguyên thiên nhiên như vốn, tư liệu sản
xuất, sức lao động... phục vụ cho sản xuất và lưu thơng. Thị trường giữ
vai trị là một cơng cụ phân bổ các nguồn lực kinh tế. Trong một nền
4
kinh tế, khi các nguồn lực kinh tế, được phân bổ bằng ngun tắc thị
trường thì người ta gọi đó là kinh tế thị trường.
Kinh tế thị trường có lịch sử phát triển lâu dài, nhưng cho đến nay nó
mới biểu hiện rõ rệt nhất trong chủ nghĩa tư bản. Nếu trước chủ nghĩa tư
bản, kinh tế thị trường còn ở thời kỳ manh nha, trình độ thấp thì trong
chủ nghĩa tư bản nó đạt đến trình độ cao đến mức chi phối toàn bộ cuộc
sống của con người trong xã hội đó. Điều đó khiến cho khơng ít người
nghĩ rằng, kinh tế thị trường là sản phẩm riêng của chủ nghĩa tư bản.
Chủ nghĩa tư bản không sản sinh ra kinh tế hàng hóa, do đó, kinh tế thị
trường với tư cách là kinh tế hàng hóa ở trình độ cao không phải là sản
phẩm riêng của chủ nghĩa tư bản mà là thành tựu phát triển chung của
nhân loại. Chỉ có thể chế kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa hay cách
thức sử dụng kinh tế thị trường theo lợi nhuận tối đa của chủ nghĩa tư
bản mới là sản phẩm của chủ nghĩa tư bản.
Hai là, kinh tế thị trường còn tồn tại khách quan trong thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội.
Kinh tế thị trường xét dưới góc độ "một kiểu tổ chức kinh tế" là phương
thức tổ chức, vận hành nền kinh tế, là phương tiện điều tiết kinh tế lấy
cơ chế thị trường làm cơ sở để phân bổ các nguồn lực kinh tế và điều tiết
tốt mối quan hệ giữa người với người. Kinh tế thị trường chỉ đối lập với
kinh tế tự nhiên, tự cấp, tự túc, chứ không đối lập với các chế độ xã hội.
Bản thân kinh tế thị trường không phải là đặc trưng bản chất cho chế độ
kinh tế cơ bản của xã hội. Là thành tựu chung của văn minh nhân loại,
kinh tế thị trường tồn tại và phát triển ở nhiều phương thức sản xuất
khác nhau. Kinh tế thị trường vừa có thể liên hệ với chế độ tư hữu, vừa
có thể liên hệ với chế độ công hữu và phục vụ cho chúng. Vì vậy, kinh tế
thị trường tồn tại khách quan trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Xây dựng và phát triển kinh tế thị trường không phải là phát triển tư bản
5
chủ nghĩa hoặc đi theo con đường tư bản chủ nghĩa và tất nhiên, xây
dựng kinh tế xã hội chủ nghĩa cũng không dẫn đến phủ định kinh tế thị
trường.
Đại hội VII của Đảng (tháng 6-1991) trong khi khẳng định chủ trương
tiếp tục xây dựng nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, phát huy thế
mạnh của các thành phần kinh tế vừa cạnh tranh vừa hợp tác, bổ sung
cho nhau trong nền kinh tế quốc dân thống nhất, đã đưa ra kết luận quan
trọng rằng sản xuất hàng hóa khơng đối lập với chủ nghĩa xã hội, nó tồn
tại khách quan và cần thiết cho xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đại hội cũng
xác định cơ chế vận hành của nước ta là "cơ chế thị trường có sự quản lý
của Nhà nước" bằng pháp luật, kế hoạch, chính sách và các công cụ
khác. Trong cơ chế kinh tế đó, các đơn vị kinh tế có quyền tự chủ sản
xuất, kinh doanh, quan hệ bình đẳng, cạnh tranh hợp pháp, hợp tác và
liên doanh tự nguyện; thị trường có vai trò trực tiếp hướng dẫn các đơn
vị kinh tế lựa chọn lĩnh vực hoạt động và phương án tổ chức sản xuất,
kinh doanh có hiệu quả; Nhà nước quàn lý nền kinh tế đế định hướng,
dẫn dắt các thành phần kinh tế, tạo điều kiện và môi trường thuận lợi
cho sản xuất, kinh doanh theo cơ chế thị trường, kiểm soát và xử lý các
vi phạm trong hoạt động kinh tế, bảo đảm hài hòa giữa phát triển kinh tế
với phát triển xã hội.
Tiếp tục đường lối trên, Đại hội VIII của Đảng (tháng 6-1996) đề ra
nhiệm vụ đẩy mạnh cơng cuộc đổi mói tồn diện và đồng bộ, tiếp tục
phát triển nền kinh tế nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường
có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Ba là, có thể và cần thiết sử dụng kinh tế thị trường để xây dựng chủ
nghĩa xã hội ở nước ta.
6
Kinh tế thị trường tồn tại khách quan trong thời kỳ q độ lên chủ nghĩa
xã hội. Vì vậy, có thể cần thiết sử dụng kinh tế thị trường để xây dựng
chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Ở bất kỳ xã hội nào, khi lấy thị trường làm phương tiện có tính cơ sở để
phân bổ các nguồn lực kinh tế, thì kinh tế thị trường cũng có những đặc
điểm chủ yếu sau1:
- Các chủ thể kinh tế có tính độc lập, nghĩa là có quyền tự chủ trong sản
xuất, kinh doanh - lỗ, lãi tự chịu.
- Giá cả cơ bản do cung cầu điều tiết, hệ thống thị trường phát triển đồng
bộ và hồn hảo.
- Nền kinh tế có tính mở cao và vận hành theo quy luật vốn có của kinh
tế thị trường như quy luật giá trị, quy luật cung cầu, quy luật cạnh tranh.
- Có hệ thống pháp quy kiện toàn và sự quản lý vĩ mô của Nhà nước.
Với những đặc điểm trên, kinh tế thị trường có vai trị rất lớn đối với sự
phát triển kinh tế - xã hội.
Trước đổi mới, do chưa thừa nhận trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội cịn tồn tại sản xuất hàng hóa và cơ chế trị trường nên chúng ta đã
xem kế hoạch đặc trưng quan trọng nhất của kinh tế xã hội chủ nghĩa, đã
thực hiện phân bổ mọi nguồn lực theo kế hoạch là chủ yếu. Còn thị
trường chỉ được coi là một công cụ thứ yếu bổ sung cho kế hoạch, đo đó
khơng cần thiết sử dụng kinh tế thị trường để xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Vào thời kỳ đổi mới, chúng ta ngày càng nhận rõ có thể dùng cơ chế thị
trường làm cơ sở phân bổ các nguồn lực kinh tế, dùng tín hiệu giá cả để
điều tiết chủng loại và số lượng hàng hóa, điều hịa quan hệ cung cầu,
1 Theo 1.
7
điều tiết tỷ lệ sản xuất thông qua cơ chế cạnh tranh, thúc đẩy cái tiến bộ,
đào thải cái lạc hậu, yếu kém.
Thực tế cho thấy, chủ nghĩa tư bản không sinh ra kinh tế thị trường
nhưng đã biết thừa kế và khai thác có hiệu quả các lợi thế của kinh tế thị
trường để phát triển. Thực tiễn đổi mới ở nước ta cũng đã chứng minh
sự cần thiết và hiệu quả của việc sử dụng kinh tế thị trường làm phương
tiện xây dựng chủ nghĩa xã hội.
1.2 Tư duy của Đảng về kinh tế thị trường từ Đại hội IX đến Đại hội
XIII.
Đại hội IX của Đảng (tháng 4-2001) xác định nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa là mơ hình kinh tế tổng qt của nước ta trong
thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội. Đó là nền kinh tế hàng hóa nhiều
thành phần vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước
theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đây là bước chuyển quan trọng từ
nhận thức kinh tế thị trường chỉ như một công cụ, một cơ chế quản lý,
đến nhận thức coi kinh tế thị trường như một chính thể, là cơ sở kinh tế
của sự phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Vậy thế nào là kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa? Đại hội
IX xác định, kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là "một kiểu
tổ chức kinh tế vừa tuân theo quy luật của kinh tế thị trường vừa dựa
trên cơ sở và chịu sự dẫn dắt chi phối bởi các nguyên tắc và bản chất của
chủ nghĩa xã hội". Trong nền kinh tế đó, các thế mạnh của thị trường
được sử dụng để "phát triển lực lượng sản xuất, phát triển kinh tế để xây
dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, nâng cao đời sống
nhân dân", cịn tính "định hướng xã hội chủ nghĩa" được thể hiện trên cả
ba mặt của quan hệ sản xuất: sở hữu, tổ chức quản lý và phân phối,
nhằm mục đích cuối cùng là "dân giàu, nước mạnh, tiến lên hiện đại
8
trong một xã hội do nhân dân làm chủ, nhân ái, có văn hóa, có kỷ cương,
xóa bỏ áp bức và bất cơng, tạo điều kiện cho mọi người có cuộc sống ấm
no, tự do, hạnh phúc".
Nói kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thì trước hết, đó
khơng phải là kinh tế kế hoạch hóa tập trung, cũng không phải là kinh tế
thị trường tư bản chủ nghĩa và cũng chưa hoàn toàn là kinh tế thị trường
xã hội chủ nghĩa, vì chưa có đầy đủ các yếu tố xã hội chủ nghĩa. Tính
"định hướng xã hội chủ nghĩa" làm cho mơ hình kinh tế thị trường ở
nước ta khác với kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa.
Mơ hình kinh tế tổng qt trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội ở
Việt Nam từng bước được bổ sung, phát triển qua các kỳ Đại hội X, XI,
XII của Đảng trên cơ sở nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn phát triển
kinh tế thị trường ở nước ta, vận dụng sáng tạo những quan điểm của
chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, tiếp thu có chọn lọc
những kinh nghiệm từ thực tiễn phát triển kinh tế thị trường hiện đại của
các nước trên thế giới.
Văn kiện Đại hội XIII của Đảng2 đã bổ sung, phát triển một số quan
điểm mới về nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam:
Một là, kế thừa những nội dung về phát triển kinh tế thị trường định
hướng XHCN trong Văn kiện Đại hội XII, Báo cáo chính trị Đại hội
XIII nhấn mạnh cần phải tiếp tục thống nhất và nâng cao nhận thức về
kinh tế thị trường định hướng XHCN. Điểm mới của Văn kiện Đại hội
XIII ở nội dung này là ngay từ đầu Văn kiện đã nêu rõ nội hàm của kinh
tế thị trường định hướng XHCN của nước ta và trên cơ sở đó nhấn mạnh
những nội dung quan trọng của nội hàm này, để từ đó thống nhất nhận
thức và thực hiện.
2 Theo Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Tập 1, Nxb. CTQG ST, HN. 2021 tr.
128-129
9
Hai là, nêu rõ mối quan hệ chặt chẽ giữa Nhà nước, thị trường và xã hội.
Điểm mới nổi bật chính là trong mối quan hệ này bổ sung thêm nhân tố
xã hội. Trong đó cũng nêu rõ vai trị của Nhà nước, thị trường và xã hội
trong mối quan hệ chung. Nhà nước thực hiện chức năng xây dựng và
quản lý thực hiện chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, cơ chế, chính sách,
phân bổ nguồn lực phát triển theo cơ chế thị trường. Đổi mới mạnh mẽ
phương thức quản lý nhà nước về kinh tế theo hướng chuyển giao những
công việc Nhà nước không nhất thiết phải làm cho các tổ chức xã hội.
Thị trường đóng vai trị quyết định trong xác định giá cả hàng hóa, dịch
vụ; tạo động lực huy động, phân bổ hiệu quả các nguồn lực; điều tiết sản
xuất và lưu thông; điều tiết hoạt động của doanh nghiệp, thanh lọc
những những doanh nghiệp yếu kém. Các tổ chức xã hội có vai trị tạo
sự liên kết, phối hợp hoạt động, giải quyết những vấn đề phát sinh giữa
các thành viên; đại diện và bảo vệ lợi ích của các thành viên trong quan
hệ với các chủ thể, đối tác; cung cấp dịch vụ hỗ trợ cho các thành viên;
phản ánh nguyện vọng, lợi ích của các tầng lớp nhân dân với Nhà nước
và tham gia phản biện luật pháp, cơ chế, chính sách của Nhà nước, giám
sát các cơ quan và đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước trong việc thực
thi pháp luật, cơng vụ.
Ba là, xác định hồn thiện đồng bộ thể chế kinh tế thị trường nói chung,
nhưng tập trung vào tháo gỡ những điểm nghẽn đang cản trở sự phát
triển kinh tế thị trường của nước ta và nâng cao chất lượng thể chế. Cụ
thể là hoàn thiện, nâng cao chất lượng thể chế kinh tế thị trường định
hướng XHCN, giải quyết tốt hơn mối quan hệ giữa Nhà nước, thị trường
và xã hội; nâng cao chất lượng, hiệu quả quản trị quốc gia, xây dựng và
thực thi pháp luật, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch. Thực tiễn phát triển
kinh tế thị trường ở nước ta đã xác định một trong những cản trở chính
là hệ thống pháp luật cịn chưa hồn thiện, chồng chéo, ảnh hưởng đến
phát triển nói chung. Đồng thời, trước yêu cầu phát triển mới, đặc biệt
tác động của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư, nhiều ngành nghề
10
mới ra đời cần phải có mơi trường pháp lý bảo đảm cho sự phát triển.
Mặt khác, tiếp tục đẩy mạnh cải cách hành chính một cách quyết liệt,
đồng bộ, hiệu quả, cải thiện, nâng cao chất lượng môi trường kinh
doanh, bảo đảm cạnh tranh lành mạnh, bình đẳng, minh bạch. Phấn đấu
đến năm 2030 môi trường kinh doanh của Việt Nam được xếp trong
nhóm 30 quốc gia hàng đầu. Văn kiện Đại hội XIII đề cập nội dung hoàn
thiện thể chế để tháo gỡ các điểm nghẽn, các rào cản của kinh tế thị
trường như thể chế xây dựng và hồn thiện pháp luật, thể chế hình thành
thị trường các yếu tố thị trường, các loại thị trường, thể chế thúc đẩy
phát triển doanh nghiệp… Mục tiêu quan trọng là nâng cao chất lượng
thể chế.
Bốn là, xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ; nâng cao hiệu quả hội nhập
kinh tế quốc tế. Điểm mới nổi bật ở nội dung này là xác định rõ mối
quan hệ biện chứng giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế. Thực tiễn
35 năm đổi mới đã khẳng định mở cửa, hội nhập quốc tế, trong đó, hội
nhập kinh tế quốc tế đã góp phần quan trọng vào những thành tựu to lớn
mà đất nước đã đạt được. Đồng thời, chính mở cửa, hội nhập quốc tế sâu
rộng đã tạo ra áp lực để Việt Nam cải cách, đổi mới thành cơng. Tuy
nhiên, q trình đổi mới, hội nhập quốc tế cũng cho thấy cần giải quyết
tốt mối quan hệ giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế. Đặc biệt, qua
các cuộc khủng hoảng, hoặc những biến động của thế giới cho thấy, để
hội nhập thành công phải có nội lực mạnh, đồng thời phải đa phương
hóa, đa dạng hóa các đối tác, các thị trường để tránh những rủi ro và lệ
thuộc. Vì vậy, phải nâng cao năng lực nội tại nền kinh tế quốc dân mới
có thể hội nhập thành công, tránh lệ thuộc vào một đối tác, một thị
trường.
2. Liên hệ thực tiễn sự phát triển của thành phần kinh tế tư nhân ở
nước ta hiện nay
11
Nhìn lại chặng đường hơn 35 năm đổi mới, từ tâm lý thụ động, ỷ lại vào
Nhà nước và tập thể, tất cả các tầng lớp nhân dân đã chuyển sang ý thức
chủ động và tích cực trong phát triển kinh tế - xã hội.
Những thay đổi về tư duy và nhận thức quan trọng đó đã tạo điều kiện
giúp khu vực kinh tế tư nhân ở nước ta từng bước phát triển cả về lượng
và chất. Từ chỗ chủ yếu chỉ có các hộ kinh doanh cá thể, nước ta đã có
những tập đồn kinh tế lớn. Từ chỗ chủ yếu hoạt động trong khu vực phi
chính thức, kinh tế tư nhân đã chuyển đổi mạnh mẽ sang hoạt động trong
khu vực chính thức của nền kinh tế, phạm vi kinh doanh đã rộng khắp ở
những ngành mà pháp luật không cấm. Đặc biệt, trong những năm qua
một làn sóng khởi nghiệp đã và đang diễn ra, đem lại một sức sống mới
cho nền kinh tế. Có thể thấy, khu vực kinh tế tư nhân đang đóng vai trị
ngày càng quan trọng hơn trong nền kinh tế thị trường định hướng
XHCN, góp phần giải quyết các vấn đề kinh tế - xã hội của đất nước3.
Năng lực công nghiệp của khu vực kinh tế tư nhân trên thực tế là rất nhỏ
và yếu, mới chỉ đang ở giai đoạn đầu của thời kỳ phát triển. Phần lớn sản
xuất công nghiệp của các doanh nghiệp tư nhân là gia công lắp ráp, chủ
yếu sử dụng máy móc, thiết bị và nguyên liệu nhập khẩu. Các công đoạn
sản xuất đưa lại giá trị gia tăng cao, như thiết kế, tạo kiểu dáng,... đều
được thực hiện bởi đối tác nước ngoài. Sự phân tầng trình độ cơng nghệ
đang diễn ra trong từng ngành và trong nhiều doanh nghiệp; công nghệ
lạc hậu, trung bình và tiên tiến cùng đan xen tồn tại; cơng nghệ tiên tiến,
hiện đại chỉ tập trung vào một số ít doanh nghiệp tư nhân, ở một số ít
lĩnh vực4. Chênh lệch về trình độ cơng nghệ bộc lộ rõ: các doanh nghiệp
tư nhân thấp hơn khu vực doanh nghiệp nhà nước và thua xa doanh
nghiệp nước ngồi. Do trình độ cơng nghệ thấp, các doanh nghiệp khơng
có khả năng kết nối cũng như tham gia ngành công nghiệp hỗ trợ cho
3 Theo tạp chí “Xây dựng Đảng”
4 Theo tạp chí Tài chính
12
các doanh nghiệp lớn, nhất là không thể tận dụng được hiệu ứng lan tỏa
từ các doanh nghiệp nước ngoài đang tăng trưởng nhanh.
Các doanh nghiệp tư nhân phần lớn vẫn hoạt động ở thị trường trong
nước5, chỉ rất ít doanh nghiệp lớn vươn được ra thị trường nước ngoài ở
một mức độ khiêm tốn. Ngay cả ở thị trường trong nước, dưới sức ép
cạnh tranh gay gắt các doanh nghiệp lớn cũng bắt đầu có xu hướng rút
khỏi các ngành sản xuất công nghiệp, nhường lại sân chơi cho các doanh
nghiệp nước ngoài. Sự rút lui này cũng diễn ra trong một số lĩnh vực
dịch vụ như phân phối và bán lẻ được ưu tiên và có nhiều tiềm năng của
nền kinh tế.
Số lượng doanh nghiệp tư nhân hoạt động trong lĩnh vực nơng nghiệp
cịn rất ít. Trong khi đó, nhiều chính sách “cởi trói” giúp nơng nghiệp,
nơng thơn phát triển trong thời kỳ sau đổi mới đã tới giới hạn. Mơ hình
kinh tế hộ truyền thống tồn tại lâu nay ở nơng thơn khơng cịn phù hợp
với điều kiện mới; yêu cầu tích tụ, tập trung ruộng đất đang được đặt ra
cho việc triển khai những mơ hình hiện đại như kinh tế trang trại quy mô
lớn. Việc giải quyết lao động trong ngành nông nghiệp chưa đạt hiệu quả
mong muốn có nguyên nhân chủ yếu là sự phát triển của lực lượng
doanh nghiệp ở nông thôn không đủ mạnh nên chưa thúc đẩy chuyển
dịch nhanh lao động nông nghiệp sang lao động phi nông nghiệp.
Trong những năm qua, môi trường kinh doanh ở nước ta đã được cải
thiện nhiều, song vẫn chưa thực sự tạo điều kiện thuận lợi cho khu vực
kinh tế tư nhân phát triển mạnh.
Một số quan điểm và kiến nghị chính sách 5 được đưa ra đối với kinh tế
tư nhân như: củng cố nền tảng và hoàn thiện thể chế kinh tế tư nhân định
hướng XHCN; xây dựng và thực hiện chính sách công nghiệp quốc gia
đặt trọng tâm vào phát triển kinh tế tư nhân; phát triển mạnh lực lượng
5 Theo báo điện tử “Đảng Cộng sản Việt Nam”
13
doanh nghiệp trong nông nghiệp và ở nông thôn; phát triển nguồn nhân
lực cho đổi mới sáng tạo và khởi nghiệp... cũng đã và đang giúp kinh tế
tư nhân vượt qua những khó khăn thử thách và có động lực để dần phát
triển vững mạnh hơn.
Bên cạnh đó, sinh viên với vai trò là những người thanh niên, là lớp
người “xung phong trong công cuộc phát triển kinh tế và văn hóa, trong
sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội” cũng phải có trách nhiệm tham
gia vào cơng cuộc đẩy mạnh cơng nghiệp hóa - hiện đại hóa, tạo điều
kiện và môi trường cho khu vực kinh tế tư nhân phát triển. Sự chuyển
dịch về cơ cấu kinh tế ngày càng gia tăng, quá trình phát triển kinh tế thị
trường sẽ tạo ra những thách thức đối với sinh viên về trình độ học vấn,
chun mơn, nghiệp vụ lẫn tay nghề, bản lĩnh và tác động sâu sắc đến tư
tưởng, tình cảm và lối sống của sinh viên. Mặt khác, sự chuyển dịch cơ
cấu kinh tế kéo theo sự chuyển dịch lao động trẻ, cơ cấu xã hội, nghề
nghiệp của giới trẻ hiện nay. Mỗi sinh viên cần nhận thức rõ vai trị và
trách nhiệm để khơng ngừng học tập, tu dưỡng, rèn luyện, phấn đấu để
trở thành lực lượng xung kích thực hiện các nhiệm vụ phát triển kinh tế,
xã hội, xây dựng vững chắc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
KẾT LUẬN
Thực tiễn qua 35 năm đổi mới đã khẳng định đất nước ta đạt được
những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử trong phát triển kinh tế - xã
hội, đã chứng minh và khẳng định sự đúng đắn, khoa học, hiệu quả của
việc sử dụng kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa làm
“phương tiện” và “mục đích” để xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
trên cả phương diện lý luận và thực tiễn. Những thành tựu này tạo tiền
đề, điều kiện, nền tảng quan trọng để nước ta tiếp tục công cuộc đổi mới
và phát triển trong thời gian tới; càng khẳng định chủ trương, quan điểm,
14
nhận thức về phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam, đặc biệt là những điểm mới trong Văn kiện Đại hội
XIII, thể hiện nhất quán, sáng tạo ba nguyên tắc cơ bản trong xây dựng
các văn kiện của Đảng là: kế thừa và phát triển, kiên định và đổi mới,
kết hợp nhuần nhuyễn thực tiễn và lý luận phù hợp với thực tiễn Việt
Nam và xu thế phát triển của thời đại mới.
Sau khi kết thúc tiểu luận, em đã tiếp thu được những kiến thức nhất
định về tư duy của Đảng về kinh tế trong thời kì đổi mới cũng như rút ra
được bài học và kinh nghiệm cho bản thân. Em xin chân thành cảm ơn
cô giáo bộ môn đã giúp em hồn thành mơn học và bài tiểu luận này.
Cảm ơn thầy, cô đã quan tâm và đọc bài của em.
15
1.
2.
3.
4.
5.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ XIII, Tập 1, Nxb. CTQG ST, HN. 2021 tr. 128-129
Tạp chí “Xây dựng Đảng”
Tạp chí Tài chính
Báo điện tử “Đảng Cộng sản Việt Nam”