Tiết 45-46
HẠNH PHÚC CỦA MỘT TANG GIA
(trích Số đỏ)
- Vũ Trọng Phụng -
I. Tiểu dẫn
1. TÁC GIẢ
- Vũ Trọng Phụng ( 1912 – 1939)
- Quê: làng Hảo (Bần Yên Nhân), huyện Mĩ
Hào, tỉnh Hưng Yên.
- Là nhà văn hiện thực xuất sắc trước cách
mạng tháng Tám.
- Ông nổi tiếng về tiểu thuyết. Truyện ngắn và
đặc biệt thành cơng ở thể phóng sự.
- Để lại nhiều kiệt tác như: Số đỏ; giông tố; Vỡ
đê; Cơm thầy cơm cơ,…
Ơng vua phóng sự Bắc Kì
2. Tiểu thuyết Số đỏ
Số đỏ là một tiểu thuyết văn học của nhà văn Vũ Trọng
Phụng, đăng ở Hà Nội báo từ số 40 ngày 7 tháng 10 1936 và
được in thành sách lần đầu vào năm 1938. Nhiều nhân vật và
câu nói trong tác phẩm đã đi vào cuộc sống đời thường và
tác phẩm đã được dựng thành kịch, phim. Nhân vật chính
của Số đỏ là Xuân - biệt danh là Xuân Tóc đỏ, từ chỗ là một
kẻ bị coi là hạ lưu, bỗng nhảy lên tầng lớp danh giá của xã
hội nhờ trào lưu Âu hóa của giới tiểu tư sản Hà Nội khi đó.
Tác phẩm Số đỏ, cũng như các tác phẩm khác của Vũ Trọng
Phụng đã từng bị cấm lưu hành tại Việt Nam Dân chủ Cộng
hòa trước năm 1975 cũng như tại Việt Nam thống nhất cho
đến năm 1986.
XN TĨC ĐỎ
(nhân vật chính)
Mồ cơi
Giáo sư quần vợt
Nhà cải cách xã hội
Vơ học
Anh hùng cứu quốc
Phó Đoan
Tinh qi
Sống bằng nhiều
nghề
Gia đình Văn
Minh
Cố Hồng
Cố Tổ
Đốc tờ Xuân
Cố vấn báo Gõ mõ
Thi sĩ
Sinh viên
trường thuốc
3. Đoạn trích
- Thuộc chương 15 của tiểu
Số đỏ.
- thuyết
Ý nghĩa
nhan đề: Hạnh phúc của một tang
gia
Lạ, giật gân, gây sự chú ý.
Chứa đựng mâu thuẫn trào phúng hàm chứa tiếng
cười chua chát, kích thích trí tị mị của người đọc:
- Nhà có tang mà lại vui vẻ, sung sướng, hạnh phúc
→ Hạnh phúc của một gia đình vô phúc, niềm vui
của lũ con cháu đại bất hiếu.
- Phản ánh một sự thật mỉa mai, hài hước và tàn
nhẫn: Con cháu của đại gia đình này thật sung
sướng khi cụ cố tổ chết
→ Tình huống trào phúng chủ yếu của toàn bộ
“ Hạnh phúc của một tang gia”
Niềm vui sướng
khi đạt ước nguyện
(sự sống sinh sơi,
viên mãn, trịn đầy)
><
Là nỗi đau, buồn khi
nhà có người mất
(sinh li, tử biệt, mất mát
khơng thể bù đắp)
Song hành, gắn kết
Mang tính chất mâu thuẫn – trào phúng hé mở tấn bi hài kịch:
đám tang của người chết trở thành ngày hội của người sống.
4. Bố cục: 3 phần
Phần 1: Từ đầu đến…..đã gây ra cho Tuyết vậy: Niềm vui và hạnh
phúc của các thành viên trong và ngồi gia đình khi cụ cố Tổ qua đời
Phần 2: Tiếp theo đến đám cứ đi: Cảnh đám ma gương
mẫu
Phần 3: Còn lại: Cảnh hạ huyệt
5. Tóm tắt văn bản
Hạnh phúc của một tang gia xoay quanh câu chuyện của
một người chết là cụ Cố Hồng, từ khi cụ ngấp ngoái chết
đến khi chết thật. Chuyện nhặng xị bắt đầu cũng xảy ra từ
khi ông cụ mất và câu chuyện cũng chỉ có ý nghĩa từ giây
phút này. Cụ chết để lại cho con cháu cơ hội để khoe mẽ với
thiên hạ những nghịch lý của “thế hệ con cháu” hiếu thảo
bằng những bộ trang phục âu hóa nửa tây nửa ta lẫn những
trị “Mèo mả gà đồng” của dâu con lẫn người xung quanh.
Cái đám ma to tát cụ cố Hồng là một cuộc diễu hành của
buổi lễ hội di động bằng mọi trò hề của tầng lớp trung
thượng lưu. Qua đoạn trích, tác giả đã phơi bày những trò
nhố nhăng, phi đạo đức lẫn truyền thống của những kẻ
sống núp dưới gót giầy thực dân xâm lược, là bức tranh
toàn cảnh của xã hội đương thời đầy thối nát lúc ấy.
II. Tìm hiểu văn bản
1. Niềm vui và hạnh phúc của các thành viên trong và ngồi gia đình khi
cụ cố Tổ qua đời
* Niềm vui chung cho cả gia đình: “cụ cố tổ chết cái chúc thư kia sẽ đi vào thời kì thực hành
chứ khơng cịn lí thuyết viễn vơng nữa
=> Một gia đình đại bất hiếu.
- Cảnh chạy chữa bi hài:
+ Mời đủ lang băm
+ Tôn Xuân tóc đỏ thành đốc tờ Xuân
+ Nghĩ đến những thứ thuốc rởm công hiệu
B ngồi: nhiệt tình nhưng thực chất mong
muốn cụ chết nhanh chóng bất hiếu
- Kết quả: cơ cố Tổ ®· phải chết một cách bình tĩnh.
Thảo luận nhóm
Tìm các chi tiết miêu tả về các thành viên trong gia đình
cụ cố Hồng, nhận xét vẻ bề ngoài với những tấm trạng và
hành động như thế nào? Thực chất tâm trạng bên trong là
gì? Bộc lộ bản chất của hạng người như thế nào?
- Tổ 1: Tìm hiểu về cố Hồng (con trai cả) và ơng Văn Minh
- Tổ 2: Tìm hiểu về bà Văn Minh và cơ Tuyết
- Tổ 3: Tìm hiểu về cậu Tú Tân, Xn Tóc đỏ và ơng Phán
Niềm vui riêng của
những thành viên
trong gia đình
Cố Hồng (con trai cả): sướng điên lên vì lần đầu tiên được diễn trò già yếu trước
mọi người cụ mơ màng nghĩ mình được mặc áo xơ gai, lụ khụ ho khạc mếu máo “úi
kìa con giai nhớn đã già thế kia kìa”
→ điển hình cho loại người háo danh.
Ơng Văn Minh (cháu nội ): thích thú vì cái chúc thư kia đã đi vào thời kì thực
hành chứ khơng cịn trên lý thuyết viễn vông nữa
→ Bất hiếu, đầy dã tâm.
Bà Văn Minh (cháu dâu): mừng rỡ vì được lăng xê những mốt y phục táo
tạo nhất.
→ Thực dụng, thiếu tình người.
Ơng Phán
Sung sướng vì khơng
ngờ rằng cái sừng trên
đầu mình lại có giá trị.
→ Là người khơng có
nhân cách, vơ liêm sĩ.
Cô Tuyết: Được dịp mặc y phục ngây thơ để chứng tỏ mình hãy cịn trinh
tiết nhưng đau khổ như kim châm vào lịng “ khơng thấy bạn giai đâu cả”
→ Hư hỏng, lẳng lơ.
Cậu Tú Tân: sướng điên người lên vì được dịp sử dụng cái máy ảnh đã lâu
khơng có dịp dùng đến
→ Niềm vui của con trẻ kém hiểu biết.
Xuân tóc đỏ: Hạnh phúc đặc biệt vì nhờ hắn mà cụ Tổ chết, danh
giá uy tín lại càng to hơn.
* Niềm vui của những người ngồi gia đình:
Hai vị cảnh sát Min Đơ và Min Toa “sung sướng cực điểm” vì đang thất
nghiệp được thuê dẹp trật tự cho đám đơng.
Bạn bè cụ cố Hồng: Có dịp phơ trương đủ thứ huân, huy chương, các kiểu
quần áo, đầu tóc, râu ria...
Đám phụ nữ quý phái, đám trai thanh gái lịch: Có dịp tụ tập để khoe khoang,
hẹ hị nhau, chim chuột nhau, bình phẩm nhau, chê bai nhau...
→ Mọi người dù chủ hay khách đều vui vẻ, hạnh phúc trước cái chết của cụ cố Tổ.
Đó chính là sự suy đồi về đạo lý, sự tha hoá về nhân cách con người.
=> Tác giả khai thác những yếu tố mâu thuẫn để gây cười, cái cười phê phán đây
mỉa mai châm biếm về một xã hội thực dân thu nhỏ với tất cả sự đồi bại, xuống dốc
của đạo lý và nhân cách con người, đó là lời tố cáo của tác giả đối với xã hội âu
hoá rởm.
2. Cảnh đám ma gương mẫu
Bề ngoài thật long trọng, “gương
mẫu” nhưng thực chất chẳng khác gi
đám rước nhố nhăng: đám ma to tát, đi
đến đâu làm huyên náo đến đấy. Có sự
phối hợp cả Ta -Tàu -Tây, mọi người thi
nhau chụp ảnh như hội chợ, tràn ngập
vòng hoa, câu đối, đầy đủ các loại mốt
quần áo, râu ria...
Mọi người khơng ai đi đưa tang mà
đang mải trị chuyện về nhà cửa, vợ
chồng, con cái, tất cả đang mải bình
phẩm, chê bai lẫn nhau, tình tự, chim
chuột, hẹn hị nhau bằng cái vẻ mặt buồn
buồn lãng mạn rất đúng mốt.
=> Sự giả tạo, đóng kịch của giới tri
3. Cảnh hạ huyệt:
Cậu Tú Tân yêu cầu mọi người tạo dáng để
chụp ảnh, con cháu tự nguyện trở thành những
diễn viên đại tài: Cụ Cố Hồng ho khạc, mếu
máo và ngất đi.
Đặc biệt là “màn kịch siêu hạng” của ông Phán
mọc sừng cứ oặt người đi khóc to bằng những
âm thanh lạ: Hứt!...Hứt!...Hứt!...
=> Đám tang diễn ra như một tấn đại hài
kịch. Nó nói lên tất cả sự lố lăng vô đạo đức
của cái xã hội thượng lưu ngày trước. Cái
xã hội mà tác giả gọi là Chó đểu, khốn nạn.
2. Đặc sắc nghệ thuật
- Nghệ thuật tạo tình huống cơ bản rồi mở ra những tình huống
khác.
- Phát hiện những chi tiết đối lập gay gắt cùng tồn tại trong một
con người, sự vật, sự việc.
- Thủ pháp cường điệu, nói ngược, nói mỉa,… được sử dụng
một cách linh hoạt.
- Miêu tả biến hóa, linh hoạt và sắc sảo đến từng chi tiết, nói
trúng nét riêng của từng nhân vật.
3. Ý nghĩa văn bản
Đoạn trích “ Hạnh phúc của một tang gia” là một bi hài kịch, phơi
bày bản chất nhố nhăng, đồi bại của một gia đình đồng thời phản
ánh bộ mặt thật của xã hội thượng lưu thành thị trước Cách
mạng tháng Tám.