Tải bản đầy đủ (.docx) (18 trang)

TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠI ĐOÀN KẾT DÂN TỘC. LIÊN HỆ TẠI CƠ QUAN ĐƠN VỊ, NƠI CÔNG TÁC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (95.89 KB, 18 trang )

MỤC LỤC
PHẦN I. MỞ ĐẦU...........................................................................2
PHẦN II. NỘI DUNG........................................................................3
I. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠI ĐỒN KẾT DÂN TỘC..............3
1. Cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc
.......................................................................................................3
2. Những quan điểm cơ bản của Hồ Chí Minh về đại đồn kết dân
tộc..................................................................................................5
II. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠI ĐỒN KẾT THỂ HIỆN TẠI CƠ
QUAN ĐƠN VỊ NƠI CÔNG TÁC.
.......................................................................................................
13
PHẦN III. KẾT BÀI
.......................................................................................................
16

1


BÀI THU HOẠCH
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠI ĐỒN KẾT DÂN TỘC.
LIÊN HỆ TẠI CƠ QUAN ĐƠN VỊ, NƠI CƠNG TÁC
PHẦN I. MỞ ĐẦU
Đại đồn kết tồn dân tộc là truyền thống quý báu của dân
tộc ta, được hun đúc qua hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước.
Chủ tịch Hồ Chí Minh, đã để lại cho chúng ta một di sản tinh thần
vô giá, một hệ thống tư tưởng về nhiều mặt. Trong đó tư tưởng về
đại đồn kết là tư tưởng nổi bật, có giá trị trường tồn đối với quá
trình phát triển của dân tộc ta và của toàn nhân loại. Từ khi ra
đời, Ðảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh ln ln coi trọng việc xây
dựng, củng cố và mở rộng khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Dưới sự


lãnh đạo của Ðảng, các tầng lớp nhân dân không phân biệt thành
phần, giai cấp, dân tộc, tơn giáo, tập hợp đồn kết trong Mặt trận
Dân tộc thống nhất Việt Nam, tạo nên sức mạnh đại đoàn kết toàn
dân tộc giành thắng lợi lịch sử trong Cách mạng Tháng Tám năm
1945 và các cuộc kháng chiến cứu nước, xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc.
Đó là tư tưởng xuyên suốt và nhất quán trong tư duy lý luận
và trong hoạt động thực tiễn của Hồ Chí Minh và đã trở thành
chiến lược cách mạng của Đảng, gắn liền với những thắng lợi vẻ
vang của dân tộc. Từ khi ra đời, Đảng luôn luôn coi trọng việc xây
dựng, củng cố và mở rộng khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Dưới sự
lãnh đạo của Đảng, các tầng lớp nhân dân không phân biệt thành
phần, giai cấp, dân tộc, tơn giáo, tập hợp đồn kết trong Mặt trận
Dân tộc thống nhất Việt Nam, tạo nên sức mạnh đại đoàn kết toàn
dân tộc giành thắng lợi lịch sử trong Cách mạng Tháng Tám năm
1945 và các cuộc kháng chiến cứu nước, xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc. Ngày nay, sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc
đang tiếp tục phát huy cao độ, trở thành động lực của cơng cuộc
đổi mới cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Đại đoàn kết
2


toàn dân tộc là đường lối chiến lược, là bài học lớn của cách mạng
nước ta. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói “ Đồn kết, đồn kết đại
đồn kết, thành cơng thành cơng đại thành cơng” một câu nói
thật giản dị nhưng lại là phương châm và quan niệm, khẩu hiệu
hành động của Đảng ta.
Đoàn kết tạo nên sức mạnh cho mọi thắng lợi của cách
mạng, đất nước hoàn tồn thống nhất , nhân dân có cuộc sống
ấm no , hạnh phúc. Và để hiểu rõ hơn Tư tưởng Hồ Chí Minh về

đại đồn kết dân tộc tơi chọn chủ đề này cho bài thu hoạch của
mình kết thúc học phần I.2 trong chương trình học lớp trung cấp
LLCT-HC K83-KTT.
PHẦN II. NỘI DUNG
I. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠI ĐỒN KẾT DÂN TỘC
1. Cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đồn
kết dân tộc
1.1. Cơ sở lý luận
Nền tảng văn hóa truyền thống Việt Nam và tinh hoa vănhóa
nhân loại. Qua chiều dài lịch sử, nền văn minh lúa nước Việt Nam
trở thành cốt lõi tạo ra sự gắn kết cộng đồng bởi dân ta phải
thường xuyên và liên tục chống chọi thiên tai, trị thủy sông lớn,
xây dựng và cải tạo đồng ruộng, trồng lúa nước... Mặt khác, dân
ta phải xiết chặt muôn người như một để chiến thắng các thế lực
ngoại bang hung bạo. Nhờ đó, chống ngoại xâm trở nên truyền
thống đồn kết quý báu của dân tộc. Yêu nước, trọng nhân nghĩa,
đề cao trách nhiệm cá nhân với xã hội, coi trọng lịng khoan dung
độ lượng, hịa hiếu, khơng gây thù oán,... đã trở thành tình cảm tự
nhiên của mỗi con người Việt Nam.
Cơ sở lý luận chủ yếu quyết định hình thành tư tưởng của Hồ
Chí Minh là những quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin về
vai trò của quần chúng nhân dân trong lịch sử, về lực lượng nền
tảng và giai cấp lãnh đạo sự nghiệp cách mạng của nhân dân, về
đồn kết giai cấp vơ sản thế giới và đoàn kết các dân tộc bị áp
3


bức. Chủ nghĩa Mác - Lênin qua việc khám phá sản xuất vật chất
là quy luật xã hội, đã phát hiện ra vai trò quyết định sự phát triển
xã hội của quần chúng nhân dân. Sự vận động xã hội luôn gắn với

một giai cấp nhất định đứng ở trung tâm của một thời đại. Thời
đại ngày nay, công nhân là giai cấp đứng ở trung tâm thời đại
mới, có lợi ích phù hợp với lợi ích của nơng dân và các giai tầng
lao động khác, vì thế họ là giai cấp lãnh đạo cách mạng, tổ chức
đoàn kết mọi giai tầng xã hội, đoàn kết của dân tộc, quốc tế, các
dân tộc bị áp bức để kết thúc chủ nghĩa tư bản, xây dựng chủ
nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản. Hồ Chí Minh viết: “Lênin là hiện
thân của tình anh em bốn bể, là tấm gương sáng ngời về tinh thần
đoàn kết, tập hợp các lực lượng cách mạng trên thế giới vào cuộc
đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc”.
1.2. Cơ sở thực tiễn
Hồ Chí Minh đã nghiên cứu tổng kết và rút kinh nghiệm từ những
thành công và
thất bại của các phong trào yêu nước, phong trào cách mạng Việt
Nam và thế giới, trong đó có kinh nghiệm về thực hiện đoàn kết
lực lượng cách mạng. Người thấy được những hạn chế trong việc
tập hợp lực lượng của các nhà yêu nước tiền bối như. Phan Bội
Châu, Phan Châu Trinh, Nguyễn Thái Học... đều yêu nước thương
dân, nhưng về tập hợp lực lượng thì các bậc tiền bối này đều cịn
hạn chế, cho nên tập hợp khơng được rộng rãi, không đầy đủ, cho
nên không thể chiến thắng kẻ thù.. Hồ Chí Minh rút ra rằng đã
làm cách mạng, dù là cách mạng tư sản hay vô sản, thì cách
mạng phải có tổ chức , phải có sự đồn kết thống nhất thì mới
thành cơng, vững bền.
1.3. Yếu tố chủ quan của Hồ Chí Minh
Sinh ra và lớn lên trong một gia đình Nho học yêu nước, ngay từ
thuở thiếu thời,

4



Người đã tiếp thu được những tinh hoa của vùng đất Nghệ Tĩnh
giàu lòng yêu nước và truyền thống đấu tranh bất khuất, kiên
cường. Những ảnh hưởng đó đã đi cùng Người trong suốt cuộc đời
hoạt động cách mạng, trở thành nguồn lực ni dưỡng trí tuệ, tâm
hồn và bản lĩnh phi thường của vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc. Mẫu
mực về đạo đức cách mạng tác phong bình dị, chân tình, Người đã
cảm hóa, cuốn hút, tập hợp và lơi cuốn nhân dân bằng cả tấm
lịng tận trung với nước, tận hiếu với dân. Chính vì vậy, tư tưởng
Hồ Chí Minh về đại đồn kết dân tộc thể hiện niềm tin mãnh liệt
vào con người, vào nhân dân mang tính vị tha và lịng bác ái. Nhờ
đó, Người đã khơi dậy được trong nhân dân ý thức dân tộc, tinh
thần yêu nước và biến chúng thành sức mạnh đoàn kết toàn dân
đánh giặc, toàn dân xây dựng đất nước. Khơng chỉ là tấm gương
đồn kết, kêu gọi và vận động mọi người đồn kết. Hồ Chí Minh
cịn luôn gần gũi và quan tâm đến đời sống của nhân dân. Sự
thống nhất hài hòa giữa tư tưởng, hành động và đạo đức của Hồ
Chí Minh đã làm cho đoàn kết trở thành sức mạnh quy tụ toàn dân
tộc dưới ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
2. Những quan điểm cơ bản của Hồ Chí Minh về đại
đoàn kết dân tộc.
2.1 Khái niệm tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đồn kết.
Đại đồn kết xuất phát từ nhu cầu khách quan của sự
nghiệp cách mạng do quần chúng nhân dân tiến hành và vì lợi ích
của quần chúng. Đại đồn kết là vấn đề có ý nghĩa sống còn, là
sợi chỉ đỏ xuyên suốt trong toản bộ đường lối chiến lược của cách
mạng.
Tư tưởng đại đồn kết Hồ Chí Minh là một hệ thống các luận
điểm về vị trí, vai trị, nội dung, ngun tắc, phương pháp tập
hợp, tổ chức lực lượng cách mạng, nhằm phát huy đến mức cao

nhất sức mạnh của dân tộc, của quốc tế trong sự nghiệp đấu
tranh cho độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội.
5


1.2. Quan niệm của Hồ Chí Minh về vị trí, vai trị của
đại đồn kết trong cách mạng Việt Nam
1.2.1. Đại đồn kết là vấn đề có ý nghĩa chiến lược, là
nhân tố cơ bản quyết định thắng lợi của cách mạng Việt
Nam.
Tư tưởng đại đồn kết của Hồ Chí Minh là một tư tưởng cơ
bản, nhất quản, xuyên suốt tiến trình của cách mạng Việt Nam.
Đó là chiến lược tập hợp mọi lực lượng có thể tập hợp được,nhằm
hình thành sức mạnh to lớn của toàn dân tộc trong cuộc đấu tranh
với kẻ thù của dân tộc, của giai cấp
Trong từng thời kỳ, từng giai đoạn của cách mạng, trước
những yêu cầu và nhiệm vụ khác nhau, có thể và cần thiết có sự
điều chỉnh chính sách và phương pháp tập hợp lực lượng cho phù
hợp với những đối tượng khác nhau, nhưng đại đồn kết phải ln
ln được nhận thức là vấn đề sống còn của cách mạng, là một
chiến lược bất di bất dịch.
Thực tiễn cách mạng Việt Nam cho thấy, từ khi Đảng Cộng
sản ra đời đến nay, Hồ Chí Minh và Đảng ln thi hành đường lối
đại đồn kết nhất qn, đúng đắn, có hình thức tổ chức phù hợp
nên đã phát huy được truyền thống yêu nước, đoàn kết của dân
tộc, tạo thành sức mạnh vơ địch cho cách mạng. Hồ Chí Minh
khẳng định: “Đoàn kết là lực lượng mạnh nhất”, “Đoàn kết là sức
mạnh vơ địch”, “Đồn kết là then chốt của thành cơng”. Đồn kết
cảng rộng rãi, chặt chẽ thì thắng lợi càng lớn. “Nhờ đại đoàn kết
mà nhân dân Việt Nam đã đánh thắng chủ nghĩa thực dân, làm

Cách mạng Tháng Tám thành công và đã đưa kháng chiến đến
thắng lợi.
1.2.2. Đại đồn kết là mục đích, nhiệm vụ hàng đầu
của Đảng cách mạng
phương pháp tập hợp, tổ chức lực lượng u nước, cách mạng, mà
cao hơn đó là mục đích, nhiệm vụ hàng đầu của Đảng cách mạng.
6


Trong Báo cáo chính trị trình bày tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ II của Đảng (11-2-1951), Hồ Chí Minh nêu rõ: “Về mục đích
trước mắt, Đảng Lao động Việt Nam đoàn kết và lãnh đạo toàn
dân kháng chiến cho đến thắng lợi hoàn toàn, tranh lại thống nhất
và độc lập hoàn toàn; lãnh đạo toàn dân thực hiện dân chủ mới,
xây dựng điều kiện để tiến đến chủ nghĩa xã hội”. Phát biểu tại
buổi lễ ra mắt của Đảng (3-3-1951), Hồ Chí Minh tun bố trước
tồn dân tộc: Mục đích của Đảng Lao động Việt Nam đại thể gồm
trong 8 chữ là: “ĐOÀN KẾT TOÀN DÂN, PHỤNG SỰ TỎ QUỐC”.
Để đạt được mục đích đó, nhiệm vụ đầu tiên của Đảng cách
mạng là tập hợp, đoàn kết rộng rãi các tầng lớp nhân dân, hình
thành nên khối đại đoàn kết dân tộc to lớn, mạnh mẽ. Đoàn kết,
theo Hồ Chí Minh là điểm mẹ. “Điểm này mà thực hiện tốt thì đẻ
ra con cháu đều tốt”. Do vậy, đại đoàn kết phải là điểm xuất phát,
là sợi chỉ đỏ xuyên suốt toàn bộ đường lối, chủ trương của Đảng.
1.3. Nội dung và hình thức đại đồn kết trong tư
tưởng Hồ Chí Minh
1.3.1. Đại đồn kết dân tộc
- Lực lượng đại đoàn kết dân tộc
Lực lượng đại đoàn kết dân tộc, theo Hồ Chí Minh bao gồm
các giai cấp, các tầng lớp trong xã hội, các ngành, các giới, các

lửa tuổi, các dân tộc sống trên lãnh thổ Việt Nam, đồng bào các
tôn giáo, các đảng phái, v.v.. hợp thành khối đại đoàn kết rộng rãi
toàn dân tộc trong khối đại đồn kết rộng lớn, đơng đảo và đà
dạng đó, liên minh cơng - nơng - trí thức là nền tảng. Hồ Chí Minh
nêu rõ: “Đại đồn kết tức là trước hết phải đoàn kết đại đa số
nhân dân, mà đại đa số nhân dân ta là công nhân, nông dân và
các tầng lớp nhân dân lao động khác. Đó là nền gốc của đại đồn
kết. Nó cũng như cái nền của nhà, gốc của cây. Nhưng đã có nền
vững, gốc tốt, cịn phải đồn kết các tầng lớp nhân dân khác Bất

7


kỳ ai mà thật thà tán thành hịa bình, độc lập, dân chủ thì chúng
ta đều thật thà đồn kết với họ.
- Hình thức tổ chức đại đồn kết dân tộc
Hình thức tổ chức đại đồn kết tồn dân tộc theo Hồ Chí
Minh là đồn kết trong Mặt trận dân tộc thống nhất. Mặt trận là
một liên minh chính trị nhằm đoàn kết rộng rãi các tổ chức yêu
nước vào một khối thống nhất, đấu tranh vì độc lập dân tộc, dân
chủ và tiến bộ xã hội.
Về xây dựng Mặt trận dân tộc thống nhất, Hồ Chí Minh yêu
cầu:
Một là, Mặt trận phải lấy liên minh công - nông - trí thức làm
nền tảng. Liên minh cơng - nơng - trí thức có vững, Mặt trận mới
bền vững, lâu dài được. Đây là yếu tố cần. Còn yếu tố đủ là Mặt
trận phải đoàn kết với các tầng lớp yêu nước khác để mở rộng tổ
chức, mở rộng khối đại đoàn kết.
Hai là, Mặt trận do Đảng của giai cấp công nhân lãnh đạo.
Đảng lãnh đạo Mặt trận bằng việc để ra chính sách Mặt trận đúng

đắn, phù hợp với từng thời kỳ, từng giai đoạn của cuộc cách
mạng; bằng phương pháp tuyên truyền, vận động, giáo dục,
thuyết phục; thông qua tổ chức cơ sở đảng và đội ngũ đảng viên.
Đảng phải thể hiện sự lãnh đạo đó theo nguyên tắc hiệp thương
dân chủ. Đảng tổ chức và xây dựng Mặt trận phù hợp với từng
thời kỳ.
Về vai trò của Mặt trận, Hồ Chí Minh nhận định: Trong cách
mạng dân tộc dân chủ nhân dân cũng như trong cách mạng xã
hội chủ nghĩa, Mặt trận dân tộc thống nhất vẫn là một trong
những lực lượng to lớn của cách mạng Việt Nam. Người nêu rõ:
“Đoàn kết trong Mặt trận Việt Minh, nhân dân ta đã làm Cách
mạng Tháng Tám thành cơng, lập nên nước Việt Nam Dân chủ
Cộng hịa. Đồn kết trong Mặt trận Liên - Việt, nhân dân ta đã
kháng chiến thắng lợi, lập lại hịa bình ở Đơng Dương, hoàn toàn
8


giải phóng miền Bắc. Đồn kết trong Mặt trận Tổ quốc Việt Nam,
nhân dân ta đã giành được thắng lợi trong công cuộc khôi phục
kinh tế, cải tạo xã hội chủ nghĩa và trong sự nghiệp xây dựng chủ
nghĩa xã hội ở miền Bắc.
- Nguyên tắc đại đoàn kết dân tộc
Thứ nhất, đại đoàn kết phải được xây dựng trên cơ sở thống
nhất giữa lợi ích của quốc gia dân tộc với quyền lợi cơ bản của các
giai tầng trong xã hội.Hồ Chí Minh đã tìm ra mẫu số chung cho
đồn kết dân tộc, đó là độc lập, tự do. Người khẳng định: Tất cả
các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng
có quyền sống, quyền tự do. Dân tộc Việt Nam có quyền được
hưởng tự do, độc lập. Người cho rằng, nước được độc lập mà dân
khơng có tự do, hạnh phúc, thì độc lập cũng khơng có nghĩa gì.

Chân lý “Khơng có gì q hơn độc lập, tự do” là chìa khóa vạn
năng điểm hội tụ thắng lợi của chiến lược đại đồn kết Hồ Chí
Minh.
Thứ hai, tin vào dân, dựa vào dân, phấn đấu vì quyền lợi của
nhân dân.
Nguyên tắc này vừa là sự kế thừa tư duy chính trị truyền thống
của dân tộc “dân là gốc của nước”, vừa là sự quán triệt quan điểm
của chủ nghĩa Mác-Lênin “cách mạng là sự nghiệp của quần
chúng”. Hồ Chí Minh cho rằng: Dân là gốc rễ, là nền tăng của đại
đoàn kết. Dân là chủ thể của đại đoàn kết. Dân là nguồn sức
mạnh vơ tận, vơ địch của khối đại đồn kết. Dân là chỗ dựa vững
chắc của Đảng Cộng sản và hệ thống chính trị.
Thứ ba, đại đồn kết một cách tự giác, có tổ chức, có lãnh
đạo; đồn kết lâu dài, chặt chẽ. Đại đoàn kết, theo tư tưởng Hồ
Chí Minh, là đồn kết trên lập trường vơ sản, theo ngọn cờ chủ
nghĩa Mác-Lênin, đó là một tập hợp có tổ chức, dưới sự lãnh đạo
của Đảng Cộng sản, nền tảng là khối liên minh công - nông - trí
thức. Hồ Chí Minh nêu rõ: “Đồn kết của ta không những rộng rãi
9


mà cịn đồn kết lâu dài. Đồn kết là một chính sách dân tộc,
khơng phải là một thủ đoạn chính trị. Ta đoàn kết để đấu tranh
cho thống nhất và độc lập của Tổ quốc; ta cịn phải đồn kết để
xây dựng nước nhà” Đoàn kết rộng rãi, chặt chẽ, đồng thời phải
củng cố. Nền có vững, nhà mới chắc chắn, gốc có tốt thì cây mới
tốt tươi.
Thứ tư, đại đoàn kết phải chân thành, thẳng thắn, thân ái
đoàn kết phải gắn với tự phê bình và phê bình. Xuất phát từ tinh
thần u nước, lịng tự tơn dân tộc của con người Việt Nam, Hồ

Chí Minh chủ trương tập hợp mọi lực lượng dẫn tộc trong khối đại
đoàn kết. Đồng thời, Người cho rằng, trong đồn kết có đấu tranh,
đấu tranh để củng cố đoàn kết, “Đoàn kết thật sự nghĩa là vừa
đoàn kết, vừa đấu tranh, học những cái tốt của nhau, phê bình
những cái sai của nhau và phê bình trên lập trường thân ái, vì
nước, vì dân”?. Do đó, trong đồn kết phải thực hiện tự phê bình
và phê bình, để khắc phục, sửa chữa khuyết điểm, phát huy
những ưu điểm, củng cố nội bộ, cùng cổ tổ chức, tăng cường đồn
kết. Tự phê bình và phê bình phải chân thành, thẳng thắn, thân
ái, phải có lý, có tình, phê bình việc chứ khơng phê bình người.
- Phương pháp đại đoàn kết dân tộc
+ Phương pháp tuyên truyền, vận động, giáo dục, thuyết phục.
Tuyên truyền, vận động, giáo dục thuyết phục nhằm thức tỉnh mọi
người, để họ tự nguyện, tự giác tham gia vào một tổ chức đồn
thể trong Mặt trận
Theo Hồ Chí Minh, nội dung tuyên truyền phải vừa đáp ứng
những nguyện vọng, quyền lợi cơ bản của mỗi dân tộc, mỗi giai
cấp, vừa đáp ứng yêu cầu của thực tiễn cách mạng. Tùy theo hoàn
cảnh và yêu cầu cụ thể của từng giai đoạn cách mạng, Đảng để ra
những mục tiêu chiến lược phản ánh đúng những đòi hỏi cấp bách
của lịch sử, những khát vọng cháy bỏng của nhân dân Đồng thời,

10


Đảng còn phải đề ra nội dung tuyên truyền, vận động sát hợp với
từng đối tượng, từng cộng đồng xã hội.
Hồ Chí Minh cho rằng, hiệu quả của phương pháp tun
truyền cịn tùy thuộc vào việc sử dụng các hình thức tuyên
truyền, vận động phù hợp. Người yêu cầu: Viết phải ngắn gọn, dễ

hiểu, vừa trí thức, vừa bình dân, vừa sâu sắc, vừa giản dị; phải
bằng ngôn ngữ thông thường gần gũi với mọi người dân Việt Nam.
Nói để ai cũng hiểu được, hiểu được thì nhớ được, nhớ được thì
làm được. Muốn quần chúng tin theo, người cán bộ tuyên truyền
phải nắm vững chủ trương, đường lối của Đảng, phải đi sâu, đi sát
đồng bào, hiểu được hoàn cảnh và nguyện vọng của đồng bào;
phải là một tấm gương, một mẫu mực từ lời nói đến việc làm, có
sức lơi cuốn, thu phục quần chúng.
+ Phương pháp tổ chức.
Muốn xây dựng, củng cố đại đoàn kết, theo Hồ Chí Minh cần
phải có phương pháp tổ chức khoa học. Đó là phương pháp xây
dựng, củng cố, phát triển hệ thống chính trị, bao gồm: Đảng, Nhà
nước, Mặt trận và các đoàn thể nhân dân.
Là hạt nhân lãnh đạo khối đại đồn kết, Hồ Chí Minh u cầu
Đảng phải đề ra được đường lối đại đoàn kết đúng đắn; Đảng phải
đoàn kết, thống nhất cả trong tư tưởng lẫn hành động, từ trên
xuống dưới, Đảng phải là một tổ chức chặt chẽ, có kỷ luật, tự giác,
đảng viên là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân, phải giữ
gìn sự đồn kết nhất trí của Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt
mình.
Để Nhà nước để ra chính sách thực hiện đại đoàn kết đáp
ứng nguyện vọng của nhân dân và phù hợp với thực tiễn, Hồ Chí
Minh yêu cầu: Phải xây dựng Nhà nước thật sự là của dân, do dân,
vì dân phải khơng ngừng cải cách bộ máy hành chính và hồn
thiện hệ thống pháp luật. Cán bộ công chức nhà nước phải tận
tụy, trung thành phục vụ nhân dân, phải là “công bộc của dân”.
11


Là cái vỏ vật chất của khối đại đoàn kết, là sợi dây gắn kết

Đảng với dân, Hồ Chí Minh yêu cầu Mặt trận và các đoàn thể nhân
dân: Cương lĩnh để ra phải thiết thực, ngắn gọn, rõ ràng; hình thức
tổ chức phải phong phú, đa dạng, phù hợp với trình độ nhận thức
của quần chúng; cán bộ phải óc nghĩ, chân đi, mắt thấy, tai nghe,
miệng nói, tay làm, phải làm tốt công tác dân vận.
+ Phương pháp xử lý và giải quyết các mối quan hệ.
Phương pháp đại đồn kết Hồ Chí Minh chính là phương pháp
xử lý khoa học mối tương quan ba chiều giữa: cách mạng - trung
gian - phản cách mạng, nhằm mở rộng đến mức cao nhất trận
tuyến cách mạng và thu hẹp đến mức thấp nhất trận tuyến thủ
địch.
Đối với lực lượng cách mạng: Khai thác, phát huy những
điểm thống nhất, tương đồng; hạn chế, khắc phục tiến tới xóa bỏ
dẫn những khác biệt về mục tiêu, lợi ích. Sự đồn kết, thống nhất
của lực lượng cách mạng là điều kiện tiên quyết giúp cho cách
mạng thành công.
Đối với lực lượng trung gian. Xóa bỏ mọi thành kiến, mặc
cảm, khơi gợi, cổ vũ ý thức dân tộc, tinh thần yêu nước, chân
thành hợp tác, trọng dụng những người có tài, có đức ra giúp dân
giúp nước.
Đối với lực lượng phản cách mạng: Chủ động, kiên quyết tiêu
diệt trên cơ sở phân hóa cô lập chúng cao độ; chú ý khai thác
mâu thuẫn trong nội bộ kẻ thủ, lơi kéo những người có thể tranh
thủ được; tạm hịa hỗn có ngun tắc với những lực lượng, bộ
phận có thể hịa hỗn được.
1.3.2. Đại đồn kết quốc tế
Hồ Chí Minh là người Việt Nam đầu tiên đã gắn cách mạng
Việt Nam với cách mạng thế giới, coi cách mạng Việt Nam là một
bộ phận của cách mạng thế giới. Người nhận định: Cách mạng
Việt Nam chỉ có thể thắng lợi khi có sự ủng hộ, đoàn kết chặt chẽ

giữa lực lượng ở trong nước với lực lượng hịa bình độc lập dân chủ
12


trên thế giới. Mặt khác, mỗi thắng lợi của cách mạng Việt Nam là
một đóng góp quan trọng vào thắng lợi chung của cách mạng thế
giới. Đoàn kết dân tộc là cơ sở để thực hiện đoàn kết quốc tế.
- Lực lượng và hình thức đại đồn kết quốc tế
Căn cứ vào tình hình thế giới lúc bấy giờ, với việc hình thành
và phát triển ba dịng thác cách mạng của thời đại, Hồ Chí Minh
xác định lực lượng đồn kết quốc tế bao gồm: Phong trào cộng
sản và công nhân quốc tế; Phong trào giải phóng dân tộc: Phong
trào hịa bình, dân chủ và tiến bộ trên thế giới.
Để tranh thủ sự ủng hộ, giúp đỡ của quốc tế, Hồ Chí Minh đã
xây dựng các hình thức Mặt trận đoàn kết quốc tế phù hợp và đạt
hiệu quả cao.
Đối với các nước láng giềng, có cùng chung kẻ thù, chung
nguyện vọng là độc lập, tự do cho mỗi dân tộc, Hồ Chí Minh xây
dụng Liên minh chiến đấu ba nước Đông Dương (Việt Nam - Lào Campuchia), lập Mặt trận Thống nhất các dân tộc Việt - Miên - Lào
trong kháng chiến chống thực dân Pháp và chống để quốc Mỹ
xâm lược.
Đối với các nước xã hội chủ nghĩa anh em, để tranh thủ sự
ủng hộ, giúp đỡ đối với cuộc chiến đấu bảo vệ độc lập dân tộc, vì
hịa bình, chính nghĩa của nhân dân Việt Nam, trên tinh thần “bốn
phương vô sản đều là anh em”, Hồ Chí Minh xây dựng Liên minh
hữu nghị hợp tác và tương trợ với các nước.
Đối với nhân dân yêu chuộng hịa bình, cơng lý trên thế giới,
Hồ Chí Minh xây dựng Mặt trận đồn kết với phong trào hịa binh,
dân chủ và tiến bộ trên thế giới (như Mặt trận đoàn kết giữa nhân
dân Việt Nam với nhân dân Á - Phi, Mỹ - Latinh, Mặt trận thống

nhất phản đế giữa nhân dân Việt - Mỹ, vv..).
- Nguyên tắc và phương pháp đại đoàn kết quốc tế
Thực hiện đại đoàn kết quốc tế, theo Hồ Chí Minh, phải trên
nguyên tắc tơn trọng độc lập, chủ quyền và tồn vẹn lãnh thổ của

13


nhau, phấn đấu vì hịa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ
xã hội.
Phương pháp đại đoàn kết là xây dựng tình đồn kết hữu
nghị hợp tác, cùng phát triển với các dân tộc và giai cấp vô sản
các nước trên nền tảng chủ nghĩa Mác-Lênin và chủ nghĩa quốc tế
vơ sản. Hồ Chí Minh đặc biệt coi trọng và xây dựng tình đồn kết
hữu nghị với các nước láng giềng anh em trên tinh thần giúp bạn
tức là tự giúp mình”, “vừa là đồng chí vừa là anh em".
Đề cao độc lập tự chủ, tự lực tự cường, đồng thời tranh thủ
đến mức cao nhất sự đồng tình và ủng hộ của nhân dân thế giới.
Muốn độc lập tự chủ, phải xây dựng thực lực mạnh về mọi mặt
(quân sự, kinh tế, văn hóa, v.v.) trước tiên là xây dựng khối đại
đoàn kết dân tộc vững chắc, mạnh mẽ.
Thực tiễn cách mạng Việt Nam hơn 86 năm qua đã chúng
minh hùng hồn sức sống kỳ diệu và sức mạnh vĩ đại của tư tưởng
đại đoàn kết Hồ Chí Minh. Đại đồn kết đã trở thành sợi chỉ đó
xuyên suốt đường lối chiến lược của Đảng trong cách mạng tộc
dân chủ nhân dân cũng như trong cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Đại đoàn kết đã thấm sâu vào tư tưởng, tình cảm của dân mọi
người Việt Nam yêu nước, biến thành hành động cách mạng thành
sức mạnh vô địch trong sự nghiệp giải phóng dân tộc, xây cá
dựng chủ nghĩa xã hội, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội

chủ nghĩa.
II. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠI ĐOÀN KẾT THỂ
HIỆN TẠI CƠ QUAN ĐƠN VỊ NƠI CÔNG TÁC .
Trong nhũng năm gần đây Việt Nam chịu nhiều ảnh hưởng
bởi sự biến động phức tạp của tình hình thế giới và khu vực.
Chúng ta đang đứng trước nhiều cơ hội lớn và những thách thức
đan xen. Sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước với mục tiêu
“ dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng , dân chủ , văn minh”
14


đang địi hỏi tồn Đảng, tồn dân và tồn qn thực hiện chiến
lược đại đoàn kết toàn dân tộc ở chiều sâu. Đặc biệt khối đại đoàn
kết toàn dân tộc trên nền tảng liên minh giai cấp công nhân, nông
dân và đội ngũ trí thức được mở rộng hơn là nhân tố thúc đẩy sự
phát triển kinh tế xã hội của đất nước.
Hiện nay dịch bệnh Covid- 19 đang là thảm họa của tồn thế
giới nói chung và của Việt Nam nói riêng .Đây thực sự là một cuộc
chiến khơng có tiếng súng làm cho tình hình kinh tế, xã hội bị suy
thoái nghiêm trọng. Với tinh thần chống dịch như chống giặc và
một trong những giải pháp đã mang lại hiệu quả cao là huy động
sự tham gia của đơng đảo nhân dân, phát huy sức mạnh tồn dân
tộc ,nhân dân cả nước đồn kết một lịng, thống nhất ý chí và
hành động để tham gia chống dịch với quyết tâm cao, nỗ lựclớn.
trong cơng tác phịng, chống Covid-19.
Kế thừa truyền thống đại đoàn kết của dân tộc và hưởng ứng
lời kêu gọi của Đảng, Chính phủ, nhân dân Phường 2 nói riêng và
thành phố Bảo Lộc nói chung cùng chung tay, đồng lòng chống
dịch. Lực lượng cán bộ các cấp, các ngành tại địa phương đã đồng
sức, đồng lòng ngày đêm rà quét, khoanh vùng dập dịch tại các

khu dân cư. Tồn phường , đã có nhiều Tổ Covid cộng đồng với sự
tham gia của nhiều cán bộ cơ sở như cơng an, dân phịng, mặt
trận, phụ nữ, thanh niên... Nhiều trường học được trưng dụng làm
cơ sở cách ly cho nhân dân. Nhiều cán bộ, chiến sĩ , nhân viên,
tình nguyện viên sẵn sàng vào khu cách li tham gia phục vụ người
dân như những người thân trong gia đình, ln sẵn sàng giúp đỡ
những người cách ly mỗi khi họ cần.
Để phát huy tinh thần đoàn kết, tương thân tương ái trong bối
cảnh hiện nay mỗi cán bộ, đảng viên nói chung và nhân dân
Phường 2, thành phố Bảo Lộc nói riêng cần phải nêu cao ý thức,
trách nhiệm của bản thân trong phòng chống dịch như: thực hiện
15


tốt thông điệp 5K của Bộ y tế khuyến cáo (Khẩu trang, Khử khuẩn,
Khoảng cách, Không tụ tập đông người, Khai báo y tế đầy đủ). Và
tích cực đóng góp, ủng hộ bằng tấm lịng của mình để cuộc chiến
chống dịch – covid 19 giành thắng lợi. Trong thời gian qua, nhân
dân Phường 2 cũng đã có những đóng góp thiết thực vào cơng tác
phịng, chống dịch.
Ngay khi vừa thành lập, Quỹ Vaccine đã nhanh chóng nhận
được sự đồng tình, ủng hộ của đông đảo nhân dân, các cơ quan,
đơn vị, doanh nghiệp. Chỉ trong một thời gian ngắn, phường đã
nhận được sự ủng hộ nhiệt tình, to lớn ,cho đến nay đã tiếp nhận
được hơn 500 triệu đồng gửi lên cấp trên ủng hộ. Số tiền mà các
tổ chức, cá nhân đóng góp khơng chỉ có giá trị vật chất mà cịn
thể hiện tinh thần đồn kết, sẻ chia, cộng đồng trách nhiệm của
nhân dân với Đảng và Chính

. Bên cạnh đó nhân dân ủng hộ


nhiều hiện vật như: gạo , mì tơm, dầu ăn, nước mắm, khẩu trang
y tế ….. Đặc Biệt thực hiện lời kêu gọi của Thành ủy, Mặt Trận Tổ
Quốc và các đoàn thể Thành Phố Bảo Lộc , nhân dân phường 2
cịn đóng góp rất nhiều rau củ, quả , nhu yếu phẩm hỗ trợ nhiều
chuyến xe yêu thương gửi tới người dân nơi các vùng tâm dịch.
Có thể thấy rằng tinh thần đồn kết của nhân dân khơng phải
ngẫu nhiên mà có được. Tinh thần ấy được hun đúc và rèn luyện
trong suốt lịch sử đấu tranh giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo
vệ đất nước của nhân dân ta. .Để có được sự đồn kết trong nhân
dân địi hỏi người lãnh đạo phải giải quyết hài hồ quan hệ lợi
ích giữa các thành viên trong xã hội . Các cấp uỷ đảng và chính
quyền phải thường xuyên đối thoại, lắng nghe, học hỏi, tiếp thu ý
kiến, giải quyết các khó khăn, vướng mắc của nhân dân; tin dân,
tôn trọng những người có ý kiến khác; làm tốt cơng tác dân vận,
có cơ chế, pháp luật để nhân dân bày tỏ chính kiến, nguyện vọng
và thực hiện quyền làm chủ của mình. Trong nhiều năm qua với
16


đội ngũ cán bộ có trình độ ,có năng lực , có tâm huyết đã cùng
nhân dân trong phường

xây dựng

phường 2 trở thành một

phường trung tâm phát triển toàn diện, đời sống của nhân dân
ngày càng được ấm no, hạnh phúc.
Bên cạnh đó việc xây dựng khối đại đồn kết tồn dân cũng

gặp khơng ít khó khăn. Một số bộ phận nhân dân khơng có lịng
tin vào Đảng, , Nhà Nước phần vì cuộc sống cịn nhiều khó khăn,
phần vì xã hội cịn nhiều bất cơng khiến nhân dân bất bình. Việc
tập hợp nhân dân tham gia vào Mặt trận tổ quốc, các đồn thể
các tổ chức xã hội cịn nhiều hạn chế. Nội bộ một số nơi cịn mất
đồn kết, đảng viên còn thiếu gương mẫu, biến chất , suy thoái về
lối sống đạo đức, ý thức chấp hành pháp luật của một bộ phận
nhân dân cịn kém….Vì vậy xây dựng khối đại đồn kết tồn dân
gặp nhiều khó khăn.
Bản thân tôi là một Đảng viên, là một cán bộ đang công tác
Hội liên hiệp phụ nữ Phường 2 , tôi gương mẫu chấp hành mọi quy
định của địa phương, của cơ quan, tích cực cùng với Hội cấp trên
xây dựng các phong trào , thành lập tổ phụ nữ sẵn sàng tham gia
phịng chống dịch , tình nguyện tham gia phục vụ trong khu cách
ly…… Để huy động được sức mạnh đồn kết của tồn thể hội viên
nói riêng và nhân dân tại địa phương nói chung bản thân phải đối
xử với mọi người bằng tình yêu thương chân thành, lắng nghe tâm
tư tình cảm, xóa bỏ ngững mặc cảm , thành kiến , gác lại lợi ích
của bản thân vì sự đồn kết của tập thể góp phần nhỏ vào công
cuộc xây dựng ,bảo vệ tổ quốc.
PHẦN III. KẾT BÀI
Sức sống bất diệt của tư tưởng đại đồn kết của Hồ Chí Minh
khơng chỉ là lời giải đáp đúng đắn cho những bài toán của cách
mạng mà trong suốt chiều dài lịch sử nó vẫn giữ nguyên giá trị. Tư
tưởng đó đã thấm sâu vào tư tưởng, tình cảm của tất cả những
17


người Việt Nam yêu nước. Qua những phân tích trên ta có thể
thấy, tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đồn kết có một vai trị cực kỳ

quan trọng. Nó không chỉ là lời giải đáp đúng đắn cho những bài
tốn của cách mạng vào thời điểm đó mà trong suốt chiều dài lịch
sử nó vẫn giữ nguyên giá trị. Thực tiễn cách mạng Việt Nam trên
86 năm qua đã chứng minh hùng hồn sức sống kỳ diệu và sức
mạnh vĩ đại của tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc. Đại
đoàn kết dân tộc, từ chỗ là tư tưởng của lãnh tụ đã trở thành sợi
chỉ đỏ xuyên suốt đường lối chiến lược của Đảng cộng sản Việt
Nam trong cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân cũng như trong
cách mạng xã hội chủ nghĩa. Tư tưởng đó đã thấm sâu vào tư
tưởng, tình cảm của tất cả những người Việt Nam yêu nước và
biến nó thành hành động cách mạng của hàng triệu, hàng triệu
con người . Phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc đã trở
thành một trong những bài học kinh nghiệm quý báu trong công
cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay, bài học kinh nghiệm
này vẫn còn nguyên giá trị và cần tiếp tục phát huy mạnh mẽ để
khơi dậy sức mạnh to lớn của toàn dân tộc, thực hiện thắng lợi
cơng cuộc đổi mới, vì mục tiêu: Dân giàu, nước mạnh, dân chủ,
công bằng, văn minh; xây dựng đất nước hùng cường và giàu
mạnh.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1- Giáo trình trung cấp lý luận chính trị- hành chính, NXB học

viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh
2- Hồ Chí Minh tồn tập , NXB chính trị quốc gia

18




×