TRƯỜNG ĐẠI HỌC ĐỒNG NAI
KHOA SƯ PHẠM TIỂU HỌC - MẦM NON
----------
BÀI KIỂM TRA GIỮA HỌC PHẦN
MÔN PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC
TIẾNG VIỆT
Giảng viên hướng dẫn: Th.S Trần Dương Quốc Hòa
Sinh viên thực hiện: Vũ Thị Vân Nam
Lớp: Đại học Tiểu học A K5
MSSV: 1151070026
Trải qua 4 tuần kiến tập ở trường Tiểu học Phan Chu Trinh, tuy thời gian không
nhiều nhưng em may mắn được tiếp cận thực tế, tham dự những tiết hội giảng của các
giáo viên trong trường cũng như học hỏi được nhiều kinh nghiệm dạy học bổ ích. Đặc
biệt là ở phân môn Tiếng Việt thì em có những thu hoạch cũng như thắc mắc như sau:
Yêu cầu 1: Xem xét – đánh giá việc thực hiện 03 nguyên tắc dạy học Tiếng Việt ơ
trường Tiểu học ( Nguyên tắc phát triển tư duy; nguyên tắc giao tiếp; nguyên tắc chu
ý đến tâm lí và trình đô Tiếng Việt vốn có của HSTH)
1. Tiết dạy mẫu : Tập đọc: Ông Trạng thả diều – lớp 4
-
Ở tiết dạy này đã đáp ứng đủ 3 nguyên tắc dạy học, cụ thể là:
Nguyên tắc phát triển tư duy: mở đầu bài học giáo viên cho học sinh xem hình
và từ đó học sinh vận dụng khả năng tư duy của bản thân và rút ra được chủ đề
tuần là Có chí thì nên và yêu cầu học sinh cho biết câu tục ngữ khẳng định
điều gì? Giáo viên cho học sinh đọc toàn bài và yêu cầu học sinh tự xác định
bố cục của bài. Giáo viên đặt câu hỏi gợi mở để học sinh tự trả lời và tìm ra
được nội dung của từng đoạn. Vào phần tìm hiểu bài, giáo viên đều đưa ra
những câu hỏi để từ đó học sinh rút ra được các ý chính của bài.
Nguyên tắc giao tiếp: giáo viên cho học sinh đọc câu dài, đọc từng đoạn và
sửa lỗi phát âm cho học sinh (đọc cá nhân và nhóm). Nhưng vẫn chưa chú
trọng cho học sinh đọc nhiều lần, đọc cả bài. Giáo viên yêu cầu học sinh thảo
luận và đưa ra ý kiến của bản thân.
Nguyên tăc chú ý đến tâm lí và trình đô Tiếng Việt vốn có của HSTH: phát
huy tính tích cực của học sinh bằng các hoạt động tìm ngữ liệu, tổng hợp và rút
ra nội dung.
-
Tiết dạy tuy đã đáp ứng đủ 3 tiêu chí của một tiết dạy tích cực nhưng chưa ro
ràng:
+ Tiêu chí 1: Tất cả học sinh đều được tham gia: giáo viên thay đổi các phương
pháp như luyện đọc diễn cảm theo nhóm đôi, trả lời câu hỏi trắc nghiệm vào bảng
con.
+ Tiêu chí 2: Học sinh tự sản sinh ra được tri thức: Giáo viên đưa ra câu hỏi gợi
mở từ đó học sinh tìm ra được nội dung và ý nghĩa của đoạn, bài. Nhưng trên thực
tế giáo viên đã cho biết trước các câu trả lời.
+ Tiêu chí 3: Tiết học gây hứng thú cho học sinh: giáo viên cũng chỉ đưa ra các
câu hỏi và học sinh tự tìm câu trả lời. Giáo viên có thay đổi phương pháp học tập
cho học sinh nhưng các hoạt động chưa thực sự thu hút học sinh học tập sôi nổi,
lớp học còn trầm.
2. Chính tả: Đêm trăng trên Hồ Tây. Phân biệt iu/uyu, d/gi/r – lớp 3
- Tiết dạy đáp ứng đủ 3 nguyên tắc dạy hoc, cụ thể là:
+ Nguyên tắc phát triển tư duy: giáo viên đưa ra hình ảnh và đặt các câu hỏi để
học sinh tìm ra được nội dung là hình chụp Hồ Tây vào ban đêm. Khi giáo viên hỏi các
câu hỏi về bài thì học sinh trả lời, nhận xét và sửa đổi theo ý kiến của bản thân.
+ Nguyên tắc giao tiếp: các câu hỏi của giáo viên đưa ra để học sinh tìm hiểu đều
gắn liền với các kĩ năng học sinh đã có và sản sinh lời nói cần rèn luyện ( khi viết một
đoạn văn ta trình bày như thế nào? Tại sao lại phải viết hoa những chữ đó?). Giáo viên
cũng yêu cầu học sinh khác nhận xét và sửa lại nếu bạn trả lời sai.
+ Nguyên tăc chú ý đến tâm lí và trình đô Tiếng Việt vốn có của HSTH : học sinh
tự tìm ra những từ mà mình hay nhầm lẫn và viết vào bảng con, từ đó giáo viên sẽ nắm
được trình độ vốn từ của học sinh và chọn lọc ra những từ khó mà đa số các học sinh
cùng sai rồi hướng dẫn, điều chỉnh cách viết đúng.
- Tiết dạy tuy đã đáp ứng đủ 3 tiêu chí của một tiết dạy tích cực nhưng cũng chưa ro
ràng:
+ Tiêu chí 1: Tất cả học sinh đều được tham gia : mọi học sinh đều tự tìm từ khó
mà bản thân dễ nhầm lẫn, viết vào bảng con, cả lớp luyện đọc các từ khó. Sau khi
viết, học sinh sẽ chấm chéo bài của nhau, tìm ra lỗi sai cho bạn. Ở phần bài tập,
học sinh làm vào vở, giáo viên sẽ quan sát, chấm và nhận xét.
+ Tiêu chí 2: Học sinh tự sản sinh ra được tri thức: giáo viên cũng chỉ đặt ra các
câu hỏi quen thuộc ở một bài chính tả, các câu hỏi nhằm cho học sinh tự sản sinh
ra tri thức còn ít.
+ Tiêu chí 3: Tiết học gây hứng thú cho học sinh: tiết dạy chính tả có phần khô
khan nên giáo viên cũng chỉ đưa ra các câu hỏi quen thuộc và học sinh trả lời.
Nhưng giáo viên cũng đã có phương pháp khác nhau ở các hoạt động. Ở hoạt động
chấm chéo bài của nhau, học sinh rất thích thú vì các em muốn kiểm tra xem bạn
làm đúng hay chưa và so sánh với bài của mình.
Yêu cầu 2: Liệt kê các băn khoăn, thắc mắc của bản thân khi tiếp cận thực tế với
các tiết dạy học Tiếng Việt ơ trường tiểu học. Thử đưa ra lí giải (nếu thấy “lạ”) hoặc
đề xuất các ý tương về giải pháp khắc phục ( nếu thấy bất cập).
Băn khoăn, thắc mắc
Lí giải
1. Các tiết dạy dự Em nghĩ bởi vì giáo viên sợ
giờ hầu như giáo viên
Ý tương về giải pháp khắc phục
Giáo viên không cần chỉ hết các
cháy giáo án khi mà đưa ra câu câu trả lời mà hướng dẫn các em
đều dợt trước cho các hỏi và mất quá nhiều thời gian tìm trước để đỡ mất thời gian
em và chọn những học để học sinh tự tìm câu trả lời
sinh giỏi để gọi trả lời,
và có thể các em sẽ trả lời lung đáp án theo cách của mình, phát
làm bài tập.
tung.
2. Ở tiết tập đọc, khi Làm như vậy sẽ đỡ mất thời
không dự giờ, giáo viên gian hơn, giáo viên cũng tránh
sẽ chú trọng việc đọc
phải xử lí các tình huống sư
của các em hơn, nhưng phạm không cần thiết làm cháy
nếu có dự giờ thì sẽ lướt giáo án.
qua, chỉ gọi các em đọc
giỏi.
3. Dạy
powerpoint,
bằng Nếu giáo viên gạch sẵn trong
đoạn
nhưng vẫn là tự các em đưa ra
văn bài soạn thì đó là áp đặt học
được chiếu lên bảng thì sinh phải sai những lỗi đó,
khi tìm từ khó, giáo viên dùng sợi nam châm thì đa số
đều dùng sợi nam châm học sinh cùng sai nhiều từ nào,
triển tư duy.
để gạch chân. Ban đầu
giáo viên mới gạch từ đó.
em nghĩ tại sao lại không
gạch sẵn trong bài soạn
luôn.
4. Ở phần kiểm tra
Học sinh đều tự làm bài của
bài cũ, có 2 hình thức là mình đồng thời đều sửa chung
cá nhân và tập thể.
một bài cụ thể ở trên bảng, như
vậy giáo viên có thể kiểm tra
được nhiều kiến thức hơn.
Sau đợt kiến tập cũng như hoàn thành môn học thì em đã tích lũy cho bản thân
được thêm nhiều kiến thức hơn. Việc kết hợp giữa học lí thuyết và tiếp cận thực tế giúp
cho em có thể hiểu ro và áp dụng những kiến thức đã học vào giảng dạy chính thức. Thế
nhưng do kinh nghiệm bản thân chưa nhiều nên vẫn còn một vài băn khoăn thắc mắc nhỏ,
mong Thầy góp ý và chỉ dẫn giúp em. Em xin chân thành cảm ơn!