Tải bản đầy đủ (.doc) (130 trang)

Tài liệu Trịnh gia chính phả pptx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (628.68 KB, 130 trang )

1
TRỊNH GIA CHÍNH PHẢ
Tác giả : Trịnh Như Tấu - xuất bản năm 1933
Minh Khang Đại Vương Trịnh Kiểm
Là quyển gia phả của chúa Trịnh, chép hết công việc của 12 đời chúa, từ
lúc thịnh đến lúc suy, gồm đủ mọi việc chính trị, văn chương, ngoại giao, nội
chiến, quốc thể, nhân tài,vv. Về đời vua Lê, chúa Trịnh: tóm lại là hết thảy
những điều quan hệ đến lịch sửnước Nam trong klhoảng 249 năm từ thế kỷ
thứ XIV đến thế kỷ thứ XVIII (1539 – 1787) đều có quyển sách này.
2
TỰA
Họ có Gia phả cũng như nước có lịch sử, để kỷ niệm công đức của tổ tôn đời
trước và tổ bảo nguồn gốc cho con cháu đời sau.
Nhà Trịnh là một nhà to họ, dài giống, trong nước Việt Nam. Xem chữ có
câu rằng: “ Trịnh tồn, Lê tại”, thì biết Lê nhờ có Trịnh, mấy gây dựng được cơ
nghiệp trung hưng. Xem lại có câu: “Vua Lê chúa Trịnh”, thế là Trịnh nhờ Lê
mới dựng lên cơ nghiệp, trải thờ mười bốn đời vua, tính có hai trăm bốn mươi
năm lẻ. Văn trịnh, võ công đã rõ rệt trong lịch sử triều Lê, mà thế thứ trước sau
đều ghi chép trong gia phả họ Trịnh. Duy từ lúc vua Lê thất thế, họ Trịnh bá
thiên, con cháu xa đời, gia phả rách nát. Như thế mà muốn khảo cứu, soạn
thành một bộ Gia phả hoàn toàn không phải việc dễ. Và nay đương lúc hán tự
hậu tàn, Quốc ngữ đương thịnh, làm sách quốc ngữ cốt lấy chơi nhẽ giản dị,
từng thứ phân minh như vờn nước trong, vẽ người đẹp, quý vẻ tự nhiên, không
cần phấn sức. Nếu nói văn hoa quá sợ mất sự thực của tiền nhân, mà vắn tắt
quá sao đủ làm gương cho hậu thế? Vậy thời phải học hành rộng, kiến thức cao
mới có thể làm được.
Ông Trịnh Như Tấu, dòng dõi nhà Tông, tính lại ham học, mới đỗ Tham
tá, chuyên học sử khoa. Trong hạn Thượng du, được ngày công hạ, tự xem Gia
phả, dịch ra Quốc văn, thấy chỗ nào khiếm khuyết, lấy “Khâm địch Việt sử”
thêm vào cho đủ, thấy chỗ nào sai nhầm trích “Việt Nam sử được” chua vào
cho tường. Tóm tắt cả thẩy mười hai đời, chia ra làm năm giai đoạn. Nói có


chứng cứ, như dao chém đá, như đinh đóng cây. Văn không cầu kỳ, trẻ con dễ
3
xem, đàn bà dễ hiểu. Lại kê cửu niên hiệu nhà Lê sóng mấy dương lịch, làm
thành một quyển có linh trăm tờ, nhan đề: “Trịnh Gia Chính Phả”. Làm xong
đưa tôi xem: tôi đọc từ đầu đến cuối, hết lòng kính phục, nên cầm bút làm tựa
này
Lão Nhai, ngày 15 tháng 3 năm Nhân Thân
Niên hiệu Bảo Đại thứ bảy (21 mars 1932)
Tú tài Hàn lâm viện kiểm thảo
Đầu hoa Trần kinh nam
4
TỰA
Chúng ta khi còn nhỏ, thường nghe nói: “Vua Lê Chúa Trịnh”, vẫn
tưởng là câu ngạn ngữ thường của thôn quê ta. Lúc đã đi học lại thường
ngâm câu: “Trịnh tồn Lê tại, Trịnh bại Lê vong”, cũng không hiểu ý nghĩa
câu ấy thế nào? Sau học đến sử Nam, mới biết câu ngạn ngữ kia phát hiện
ra từ đời hậu Lê, mà có quan hệ với quốc dân lắm, và sự giải quyết hai câu
nọ là tình hình liên lạc của hai nhà, cũng ví như ngũ quan đối với dây thần
kinh vậy.
Lê nhờ có Trịnh mới khôi phục được cơ đồ, dẹp yên được loạn giặc, tuyệt
diệt được Ngụy Mạc, thu phục được Nam Triều: tìm tòi giống cũ, thay đổi
chính mới, đều là nhờ tay chúa Trịnh cả.
Trịnh nhờ có Lê mới được vinh tổ diệu tông, phong thê ấm tử: sắclệnh ra
Bắc, Bắc phải tuân; vinh quyền sang Nam, Nam phải phục; thu phục được
nhân tài, hiệu lệnh được thiên hạ, đều nhờ có vua Lê cả. Nên ông Trạng
Trình có bảo nhà chúa rằng: “ muốn ăn lúa phải tìm thóc giống cũ” lại dẫn
ra chùa mà chỉ bảo nhà sư: “nên thành kính phụng Phật thì được thụ lộc”.
Thế nên Trịnh dẫu quyền khuynh thiên hạ mà vẫn phải giữ đạo tử thần,
không dám bắt trước như Vương Mãng nhà Hán, Lộc Sơn nhà Đường vậy.
Vua Lê mấy phen toan mưu trừ chúa Trịnh mà cũng không xong, là bởi

tại thiên số. Đến sau Nguyễn Hữu Chỉnh dẫn Tây Sơn vào, mượn tiếng “phù
Lê diệt Trịnh”, té ra Trịnh mất thì Lê cũng không còn: thế là kết cục của hai
nhà.
5
Lại xét đến sự tình liên lạc của Nguyễn với Trịnh: đức Thế Tổ Trịnh
Kiểm nhờ đức Chiêu Huân Nguyễn Kim mới gây lên cơ đồ Vương nghiệp
Đức Đoan Quốc Nguyễn Hoàng lại nhờ có Đức Thành Tổ Trịnh Tùng mới
mở mang được Nam Triều. Ấy là đoạn thứ nhất, đoạn giữa thì tuy rằng
Nguyễn với Trịnh tranh hành nhau mà vẫn duy trì nhau: Nguyễn vì e có
Trịnh mà hết sức mở đất cõi để giúp vua Lê ở ngoài, Trịnh e có Nguyễn mà
hết sức giữ đạo thần tử để giúp vua Lê ở trong.
Sau cùng thì Trịnh thất thế mà Nguyến lại lên ngôi, nhớ đến tình xưa
nghĩa cũ, sắc cho con cháu nhà Trịnh được coi giữ việc tế tự Tiên Vương.
Nhà Trịnh có Bản Triều mà được hưởng hương hỏa trăm năm, không đến
nỗi luân duyệt như họ Hồ, họ Mạc. Thế là nhờ có trung huân của Liệt
Vương để lại cho đó.
Nay nhân ông Trịnh Như Tấu đưa tôi xem bộ “ Trịnh Gia Chính Phả”,
vậy xin cẩn thuật để làm tựa.
Giang Nam, Ngọc Hồ cư sĩ
Phạm Ngọc Đan
Cẩn tự
6
BÀI TỔNG LUẬN
Nhà Trịnh, từ đức Thái vương Trịnh Kiểm theo đức Triệu Tổ Nguyễn
Kim giúp vua Lê trung hưng dẹp yên được Châu Hoan, Châu Ái, lấy lại
được Trấn Hưng, Trấn Tuyên, trải thờ vua Trang Tôn, vua Trung Tôn, vua
Anh Tôn nhà Lê tặng tước Minh Khang Đại Vương.
Đức Trịnh Tùng phong tước Bình An Vương, bắt giết được Mạc Mậu
Hợp, lấy lại được thành Thăng Long, nối dõi trí cha, giúp lên nghiệp đế, trải
thờ bốn triều, dựng thành Vương phủ, anh hùng tiếng lừng Trung Quốc.

Đức Trịnh Tráng phong tước Thanh Vương, giúp quân cứu nhà Minh, sai
tướng trừ Ngụy Mạc, tôn phù vua Thần Tông, vua Chân Tôn; vua nhà Minh
tặng phong “An Nam Phó Quốc Vương”.
Đức Trịnh Tạc phong tước Tây Vương, trải thờ vua Thần Tôn, vua Chân
Tôn; vua nhà Minh tặng phong “An Nam Phó Quốc Vương”.
Đức Trịnh Tạc phong tước Tây vương, trải thờ vua Thần Tôn, Huyền
Tôn, Gia Tôn, bốn triều, đánh bắt được giặc Mạc Kinh Vũ, lấy lại được trấn
Cao Bằng.
7
Đức Trịnh căn phương tước Định vương, khi tuổi trẻ giúp ông và cha, lấy
lại được nhiều cảnh thổ, thờ vua Lê Hi Tôn, Lê Dụ Tôn.
Đức Trịnh Cương phong tước An vương, sửa đổi nhiều việc trong nước.
Đức Trịnh Giang phong tước Uy vương, dựng vua Thuần Tôn, vua Ý
Tôn, săn sóc việc chính trị, khuyến khích bọn nho thần.
Đức Trịnh Doanh phong tước Minh vương, tôn phủ vua Lê Hiển Tôn,
chọn dùng kẻ hiền tài, dẹp yên được loạn giặc,lưu tâm về việc chính trị, trăm
họ an vui.
Đức Trịnh Sâm phong tước Tĩnh vương, dẹp yên giặc Trấn Ninh, bình
được trấn Thuận Hóa, sửa đổi việc chính trị.
Đức Trịnh Cán phong tước Diện đô vương, phải quân tam phú bách bỏ.
Đức Trịnh Khải phong tước Đoan nam vương, phải tên Nguyễn Trang
bắt nộp Tây Sơn, không chịu khuất, bèn tự tận.
Đức Trịnh Bồng phong tước Ấn độ vương, trí toan khôi phục, lại bị
Nguyễn Hữu Chỉnh đánh thua, chán nản sự đời, xuất gia đầu Phật.
Họ Trịnh nhà ta, từ Đức Thái vương Trịnh Kiểm tổng chính đến đức Ấn
độ vương Trịnh Bồng xuất gia truyền ngôi chúa, mười hai đời chẵn, cộng hai
trăm bốn mươi chín năm, thực là một nhà không phải là Đé, cũng không
phải là Bá, quyền khinh thiên hạ mà vẫn giữa đạo tử thần. Không những các
vua đời nhà Lê tấn phong vương tước mà dẫn đến vua đời nhà Nguyễn còn
truy niệm ân tình. Nên có sắc dụ cho tổ tôn họ Trịnh đã trở về trước được

8
biệt cấp tự đièn mà nòi giống họ Trịnh ta về sau này đòi được miễn trừ sưu
dịch.
Thế mấy biết: Nước có thay đổi, nhà có thịnh suy nhưng bao giờ đối với
nước cũng phải lấy Trung làm đầu, đối với nhà phải lấy Hiếu làm trọng, nên
tường thuật hành trạng của tổ tôn đời trước, soạn thành bộ Gia phả này,
mong con cháu đời sau trông đó làm gương, sao giữ được:
“ Con nhà tông, chẳng giống lông cũng giống cánh”
Nay tổng luận
Lão Nhai, ngày 15 tháng giêng năm Nhân Thân
Niên hiệu Bảo Đại thứ bảy (20 fevrier 1932)
Nhật nham Trịnh Như Tấu
9
LỊCH SỬ VƯƠNG NGHIỆP NHÀ TRỊNH
ĐOẠN THỨ NHẤT
CÔNG ĐỨC LIỆT TỔ
Cụ Hưng tổ Phúc ấm vương Trịnh Liễu, người làng Sáo Sơn, huyện Vĩnh
Phúc, phủ Thiệu Hóa, trấn Thanh Hóa, lúc bé cha mẹ mất sớm, lấy nghề cày
cấy chăn nươi để sinh nhai, lại vốn có lòng nhân từ hiền hậu. Một hôm, trời
gần tối, chợt gặp ông già bảy mươi tuổi trên bờ sông, xin ngủ trọ một dêm.
Cụ chào mời vui vẻ, cùng đi về nhà, tiếp đài rất hậu. Đêm khuya, ông già
bảo cụ rằng: “Tôi xem ông có lòng thành thực tiếo đẫi tôi. Bên nam núi
Hùng Lĩnh có một ngôi đất, để mả ở đấy, bốn đời sau, có thể làm lên Vương
nghiệp. Tôi muốn lấy chỗ đất đấy trả ơn ông, ông nghí sao?- Cụ thưa rằng: “
Tôi dám mong đâu thế!”- ông già lại bảo rằng: “Trời cho người cho, không
phải tìm cũng được”.Cụ theo nhời ông cùng đi lấy hài cốt thiên nhân về
chôn chỗ đó, song cùng đi đến bên Đông núi Lệ Sơn, xứ Ngõ Thắng, xã
Biện Thượng. Ông già chỉ bảo cụ rằng: “Chỗ này có thể lập ngôi dương cư
được”. Lại đi đến Mả Thắm, ông già nói rằng: “Chỗ này quý địa, trăm năm
sau có thể làm âm phần tiếp phúc được”, rồi hai người cùng trở lại Sáo Sơn.

Đương lúc chè chén vui vẻ, ông già đủng đỉnh ra ngoài, rồi không biết đi đâu
mất, tìm không thấy mới biết là Thần trên trời giáng xuống (sau phong là
Tống Thiền Thần Vương).
Cụ lấy con gái họ Hoàng làng Biện Thượng rồi rời sang ở đấy.
Cụ sinh ra đức Diễn Khánh vương Trịnh Lan.
Trịnh Lan sinh ra đức vương Trịnh Lâu.
10
Trịnh Lâu lấy con gái họ Hoàng thôn Hồ, làng Vệ Quốc (huyện Yên
Định), sinh ra đức Thế Tổ Minh Khang Đại Vương Trịnh Kiểm.
Trịnh Kiểm gây lên Vương nghiệp truyền mười hai đời, cộng hai trăm
bốn mươi chín năm.
11
ĐOẠN THỨ HAI
HÀNH TRẠNG CỦA LIỆT TỔ
1. ĐỜI THẾ TỔ MINH KHANG ĐẠI VƯƠNG (1539 – 1569)
Trịnh Kiểm mặt vuông, tai to, mồ côi cha từ năm lên sáu. Mẹ con nghèo
đói, ai cũng khinh để. Trịnh Kiểm phân tri, bỏ Biện Thượng lại về Sáo Sơn,
thường nhật vẫn chăn trâu thuê trong núi Lệ Sơn, tụ tập trẻ mục đồng, lấy gà
vịt làm lương thực, lấy trâu bò giả làm voi ngựa, bẻ bông lau giả làm cờ xí,
bầy cơ ngũ, tập trận mạc. Người làng khó chịu, toan mưu hại Trịnh Kiểm
mới chạy về với bầy tôi nhà Mạc là tước Ninh Bang Hầu người làng Biện
Thượng, chăn ngựa cho tước hầu ở Thạch Thành (xách Thọ Liêu), rồi lấy
một con ngựa giỏi chạy sang Mường Sùng (Cổ Lũng Ai lao), còn bà mẹ phải
trốn về quê mình là làng Vệ Quốc. Trịnh Kiểm nghe tin về thăm mẹ. Có
người tố giác với tước Hầu, tước Hầu sang Sáo Sơn vây bắt, nhưng không
bắt được Trịnh Kiểm, bèn trói bà mẹ đem dìm xuống sông làng Biện
Thượng. Xác bà trôi dạt vào bờ sông, gặp người họ Mai làng Đông Biện vớt
đem lên bờ, đương tìm ván cuốc toan chôn, ra đến nơi mối đã đùn lên thành
mộ. Người ta ai cũng cho là thiên táng. Chỗ mộ ấy đến nay xa bồi ra đến
giữa sông, có nhiều cây cổ thụ. Trịnh Kiểm được tin mẹ bị nạn, khóc lóc vật

vã, nói không ra lời làm lễ tế mộ, rồi xa lũ Vũ Thời Tung Định đi táng về xứ
Đông Lãng, thôn Sáo Sơn.
Lúc bấy giờ đức Hưng quốc công Nguyễn Kim tôn phủ nhà Lê đóng đồn
ở đất Mường Sùng sứ Ai Lao đang toan trính khôi phục cơ đồ nhà Lê, thấy
12
Trịnh Kiểm có dũng lược. Nguyễn Kim mới tâu cho làm chức Tri mã cơ Dục
nghĩa hầu ông lại gả con gái là Ngọc Bảo cho để cùng gia sức phù Lê.
Vua tôi nhà Lê nương náu ở Cẩm Châu để chiêu tập binh mã. Mãi đến
năm Canh Tý (1540), mới đem quân về đánh Nghệ An và Thanh Hóa, thu
phục đất Tây Đô (1543). Bấy giờ quan tổng trấn nhà Mạc là Dương Chấp
Nhất ra hàng Trịnh, uy tiếng ngày một lừng lẫy.
Năm Ất Tỵ (1545) Vua Lê tiến binh ra đánh trấn Sơn Nam, Nguyễn Kim
là Đô tướng Thái Tể Tiết chế thủy bộ mọi dinh, đánh đâu được đấy. Không
ngờ Mạc Phúc Hải ủy cho Dương Chấp Nhất là hoạn quan giả cách hàng vua
Lê để thám thính tình thế. Vua Lê tính thực, cho binh theo đánh Mạc. Một
hôm đi đến huyện Yên Mô, vua Lê mời Nguyễn Kim đến bàn tâm sự, gặp
trời nắng bức, đem dưa mời Nguyễn Kim ăn giải khát. Nguyễn Kim ngộ phải
thuốc độc chết. Chấp Nhất trốn về với Mạc. Trước khi chết, Nguyễn Kim
giao cả binh quyền cho con rể là Trịnh Kiểm.
Trịnh Kiểm được ra phong làm Đô úy tướng Tiết chế thủy bộ mọi dinh
gồm tổng chức Ngoại binh Chương quân Quốc trọng sự hàm Thái sư, tước
Lượng quốc công.
Năm Bính Ngọ (1546), Trịnh Kiểm rút quân về Thanh Hóa lập hành điện
ở đồn Vạn Lại thuộc huyện Thụy Nguyên (Thanh Hóa) để cho vua ở, dựng
hành dinh ở xã Biện Thượng rồi chiêu mộ những kẻ hào kiệt, luyện tập quân
sĩ, tích trữ lương thảo để lo việc nước. Anh hùng hào kiệt ở Châu Hoan,
Châu Diễn (Nghệ An) đều vui lòng theo dung nên cảnh thổ Châu Ái ( Thanh
Hóa) cũng dần dần bình trị cả.
Năm Mậu Thân (1548) , vua Trang Tôn mất, Trịnh Kiểm lập Thái tử là
Duy Hiên lên làm vua: tức là Trung Tôn, được 8 năm rồi băng hà.

13
Trong mấy năm đời vua Trung Tôn, Trịnh Kiểm giữ thế thủ ở đất Thanh
Hóa để sửa sang việc binh lương, đợi ngày tiến đánh họ Mạc.
Vua Trung Tôn mất không có con mà lúc bấy giờ dòng dõi họ Lê cũng
không có ai; việc binh quyền vẫn ở trong tay Trịnh Kiểm cả.
Trịnh Kiểm thân đi tìm con cháu nhà Lê, đến làng Bố Vệ ( huyện Đông
Sơn) gặp được cháu huyền tôn ông Lam Quốc công Lê Trừ ( anh vua Thái
Tổ) tên là Duy Bang (tục gọi là Chúa Chổm) rước về dựng lên làm vua, tức
là vua Lê Anh Tôn.
Năm Mậu Ngọ niên hiệu Chính Trị thứ nhất (1558), trời mưa to luôn,
trong nước mất mùa, dân tình đói kém, Trịnh Kiểm sắp sửa tiến binh phải
hoãn đến năm sau, cho qua nạn đói. Bấy giờ đất Thuận Hóa mới bình định,
nhà Lê đặt chức Tam ty và phân ra các phủ, huyện để cai trị nhưng nhân tâm
vẫn chưa yên, vả đấy lại là nơi xa hiểm nên Trịnh Kiểm ngày đêm rất lo về
mặt Nam. Nguyễn Hoàng nhờ chị là công chúa Ngọc Bảo xin Trịnh Kiểm
cho vào trấn đất Thuận Hóa. Tháng mười năm ấy (1558), Trịnh Kiểm dâng
biểu tấu vua Anh Tôn: “đất Thuận Hóa là nơi hình thắng xưa nhà nước nhờ
binh tài ở đấy mà thành lên đaị nghiệp. Nay nhân tâm chưa yên, nhiều
người trốn ra theo Mạc, sợ sau này có kẻ đem giặc vào cướp phá chăng?
Nếu không được một người tướng giỏi chấn thủ, không sao yên được. Đoạn
quân công Nguyễn Hoàng vốn dòng thế tướng, gồm đủ dũng lược, có thể
cho vào trấn thủ Thuận Hóa để cùng với các thủ tướng ở miền Quảng nam
làm thế ỷ dốc. Như vậy nhà vua mấy khỏi cái lo về phía Nam”. Vua Lê Anh
Tôn nghe nhời Trịnh Kiểm tâu, chuẩn cho Nguyễn Hoàng vào trấn thủ
Thuận Hóa, sắc cho mọi việc được chuyên trách, chỉ hàng năm phải cống
thuế.
14
Trịnh Kiểm không phải lo đến mặt Nam nữa, năm sau (1559), khởi binh
đánh Mạc.
Mạc Kinh Điển đem binh vào đánh Thanh Hóa cả thảy kể hơn mười trận,

trận nào cũng đại bại phải rút quân về, Trịnh Kiểm tiến binh đánh Sơn Nam
kể vừa sáu lần, mà không lần nào được toàn thắng. Chỉ có năm Kỷ Mùi
(1559), Trịnh Kiểm tự lĩnh sáu vạn quân tiến lên mặt Bắc, chiếm được tỉnh
Sơn Tây, Hưng Hóa, Thái Nguyên, Kinh Bắc, Lạng Sơn và các huyện thuộc
Hải Dương, nhưng lại bị Mạc Kinh Điển đo đường bộ vào đánh úp Thanh
Hóa, tình thế rất nguy cấp. Trịnh Kiểm phải bỏ xứ Bắc về giữ Tây Đô.
Thành ra hai bên cứ giữ nhau mãi, không bên nào được hẳn mà cũng không
bên nào thua hẳn.
Trịnh Kiểm tuy chưa lấy lại được đất Bắc Kỳ nhưng đã dẹp yên được
Châu Hoan, Châu Ái, lấy lại được trấn Hưng, trấn Tuyên, lại vốn có dũng
lược hơn người, biết xếp đặt các kế hoạch để chống giữ, biết trù tính việc lâu
dài, khiến cho thế lực nhà Lê mỗi ngày một thêm mạnh. Nhà Lê nhờ Trịnh
Kiểm mới trung hưng được, mà họ Trịnh lập lên nghiệp Chúa cũng là khởi
đầu tự Trịnh Kiểm vậy.
Năm Kỷ Tỵ thứ 12 (1569), Trịnh Kiểm được gia phong làm quan thượng
tướng chức Thượng phu Thái quốc công. Năm Canh Ngọ niên hiệu chính trị
thứ 13 (1570) tháng hai ngày 18, Trịnh Kiểm mất thọ 68 tuổi truy tôn Minh
Khang Đại Vương, miếu hiệu là Thế Tổ. Chiếu cho con trưởng là Trịnh Cối
tước Đại quốc công thay quyền cha lo việc đánh dẹp. Nhưng Trịnh Cối
không biết thương quân sĩ, nên tướng tá không ai quy phục đều bỏ theo cả về
với em là Trịnh Tùng, Trịnh Tùng nhân đấy được nối nghiệp Vương.
15
2. ĐỜI THÀNH TỔ TRIẾT VƯƠNG TRỊNH TÙNG (1570 - 1623)
Trịnh Tùng con thứ hai của Trịnh Kiểm, thấy tướng tá không quy phục
anh là Trịnh Cối mà theo cả mình, bèn cùng với Lê Cập Đệ và Trịnh Bách
rước vua về đồn Vạn Lại (Thanh Hóa). Trịnh Cối được tin đem quân đuổi
theo nhưng không đuổi kịp, lại gặp Mạc Kinh Điển đốc mười vạn quân sang
đánh cửa bể Linh Trường, Hội Trào, Chi Long; quân đóng ở phủ Hà Trung,
khói lửa liền liền hơn mười dặm ta. Trịnh Cối tự lượng thế không chống lại
được, bèn đem quân về hàng họ Mạc, Mạc lại cho giữ quan tước như cũ.

Mạc thừa thế kéo binh lên Sông Mã, từ Cửa ứng trở xuống sông Lương Từ
Bổng lật trở về, khói lửa rực trời, tinh kỳ rợp đất. Bên tả ngạn sông Mã:
Châu Ra, Châu Tầm; ở hữu ngạn sông Mã: huyện Lôi Dương, huyện Nông
Cống đều biến thành nơi chiến trường. Quân Mạc tiến đến vây hành điện chỗ
vua Lê đóng. Trấn Thanh Hóa lại sắp về nhà Mạc.
Bấy giờ vua Anh Tôn rời về Đông Sơn phong cho Trịnh Tùng làm Tả
Thừa tướng Tiết chế mọi dinh tướng sĩ, để chống với quân Mạc, Trịnh Tùng
sai các tướng giữ các nơi hiểm yếu, rất là chắc chắn. Mạc Kinh Điển đánh
mãi không được, lâu ngày hết cả lương thực. Trịnh Tùng thừa thế rước xa
giá đem quân đánh lấy lại được huyện Thụy Nguyên, huyện Yên Định, thắng
cho đến huyện Đông Sơn, trọ dinh ở đấy rồi sai ông Hoàng Đình Ái đánh lấy
huyện Lôi Dương, huyện Nông Cống và địa phận Quảng Xương nữa, và sai
ông Lại Thế Khánh đánh lấy huyện Tống Sơn, huyện Nga Sơn. Quân Mạc
thua chạy, Kinh điển phải nhổ trại rút quân về Bắc.
Năm Tân Mùi niên hiệu chính trị thứ 14 (1571), vua Lê Anh Tôn bàn đến
chiến công, gia phong cho Trịnh Tùng làm quan Thái úy tước Trưởng quốc
công và thăng trưởng cho các tướng sĩ. Quan thái phó là Lê Cập Đệ sinh
16
lòng ghen ghét, mưu với vua toan hại Trịnh Tùng. Trịnh Tùng giả làm người
thường lấy vàng ngọc tặng cho Lê Cập Đệ. Ngày 21 tháng 11 năm ấy, Lê
Cập Đệ thân lại tạ, Trịnh Tùng phục binh giết ngay. Vua Anh Tôn lo sợ lắm,
cùng bốn hoàng tử đưa ra tuần ở ngoài, chạy vào Nghệ An lánh ở huyện Lôi
Dương, rồi mất ngày 22 tháng giêng năm Quý Dậu niên hiệu Hồng Phúc thứ
hai (1573).
Trịnh Tùng thấy vua xuất ngoại rồi bèn rước hoàng tử thứ năm là Lê Duy
Đàm ở làng Quảng Thị (huyện Thụy Nguyên) về dựng lên làm vua, đổi niên
hiệu là Gia Thái, ấy là vua Lê Thế Tôn.
Thời bấy giờ quân Mạc đang tung hoành, Trịnh Tùng một mặt chia quân
phòng giữ các nơi hiểm yếu, một mặt tiến đại binh đánh nhau với Mạc ở
thành Khoái Châu. Tướng nhà Mạc là Lê Thế Viêm, Mạc Kinh Điển yếu thế

phải cùng nhau rút quân về Kinh Đô.
Rồi trong 10 năm từ Quý Dậu (1573) đến Quý Mùi (1583), Trịnh Tùng
cứ giữ vững đất Thanh Hóa, Nghệ An khiến cho Mạc đánh vào phải hao
binh tổn tướng. Tướng nhà Mạc là Mạc Kinh Điển, Nguyễn Quyện và Mạc
Ngọc Liễn khi thì vào đánh Thanh Hóa, khi thì đánh cả Thanh Hóa và Nghệ
An nhưng không bao giờ thành công lại phải rút quân về.
Năm Mậu Dần (1578), đổi niêm hiệu là Quang Hưng.
Đến năm Quý Mùi (1583), Trịnh Tùng xem thế mình đã mạnh, mới cử
binh mã ra đánh Sơn Nam (Nam Định) lấy được rất nhiều lương thực. Về
sau năm nào cũng ra đánh khiến cho quân nhà Mạc sức một ngày một suy.
Nhà Mạc thấy thế nhà Lê một ngày một mạnh, bèn bắt quân dân đắp ba từng
lũy, đào ba lần hào ở ngoại thành Đại La để phòng giữ lũy.
17
Lũy ấy bắt đầu từ làng Nhật Chiêu (nay là Nhật Tân về phía Tây Bắc Hà
Nội, quanh Tây Hồ, qua xã Yên Thái (làng Bưởi làm giấy ta) theo đông ngạn
sông Tô Lịch đến Gia Kiều (nay là Thịnh Quang) suốt sang đông cho đến bờ
đê sông Nhị Hà gần xã Vĩnh Tuy (thuộc huyện Thanh Trì).
Thế là Thăng Long, phía đông sông Nhị Hà về phía tây, nam, bắc có lũy
bao bọc rất là kiên cố.
Trịnh Tùng bèn nhất quyết cử đại binh ra đánh Thăng Long.
Năm Tân Mão (1591), Trịnh Tùng sai Diễn quận công Trịnh Văn Hải,
thái quận công Nguyễn Tất Lý đem binh trấn thủ các cửa bể và các nơi hiểm
yếu; sai Thọ quận công Lê Hòa ở lại giữ ngự dinh và trông nom cả địa hạt
Thanh Hóa. Phòng bị đâu đấy rồi, Trịnh Tùng bèn chia năm vạn (50.000)
quân ra làm năm đạo, giao cho Thái phó Nguyễn Hữu Liên, Thái úy Hoàng
Đình Ái, Lân quận công Hà Thế Lộc, Thế quận công Ngô Cảnh Hựu mỗi
người lĩnh một đạo; còn mình tự thân chính làm tướng đem hai vạn quân
thẳng cửa Thiên Quan (Ninh Bình) tiến đánh nhà Mạc.
Vua nhà Mạc là Mạc Hậu Hợp được tin Trịnh Tùng đem quân ra Bắc,
bèn hợp tất cả quân bốn vệ và quân năm phủ được hơn mười vạn, chia làm

ba đạo, sai Mạc Ngọc Liễn và Nguyễn Quyện lĩnh hai đạo đi làm tả hữu
dực;còn mình tự dẫn trung quân đến đóng đối trận với quân Trịnh Tùng.
Trịnh Tùng thấy quân Mạc đã đến bèn tự mình dốc tướng sĩ, thề đánh cho
được giặc để yên trong nước. Hai bên đánh nhau ở bên sông Hát Gian. Quân
họ Trịnh đánh rất hăng. Quân nhà Mạc chống không nổi, thua chạy qua
sông, đảng lốt tranh thuyền, lăn xuống sông chết quá nửa. Mạc Hậu Hợp bỏ
chạy. Quân họ Trịnh thừa thế đuổi tràn gần đến thành Thăng Long, đóng
quân trên sông Nhuệ (Ninh Giang). Vừa gặp tết Nguyên Đán nên Trịnh
18
Tùng định chiến cho quân sĩ nghỉ ngơi ăn tết. Qua sang tháng giêng năm
Nhâm Thìn thứ 15 (1592), Trịnh Tùng lập đàn tế trời đất và các Tiên đế nhà
Lê rồi đặt ba điều để nghiêm cấm quân sĩ:
Điều thứ nhất: không được vào nhà dân lấy lương thực và củi đuốc.
Điều thứ hai: không được cướp của cải và chặt cây cối.
Điều thứ ba: không được dâm hiếp đàn bà con gái, không được vị tư thù
mà giết người.
Ai phạm ba điều ấy sẽ lấy quân pháp nghiêm trị.
Đoạn rồi, Trịnh Tung tiến quân đánh Thăng Long thành. Quân sang sông
Nhuệ, đóng ở chùa Thiên Xuân thuộc xã Thanh Xuân cách tỉnh lỵ Hà Đông
gần hai cây số rồi đến cầu Nhân Mục nghỉ chân.
Bấy giờ Mạc Hậu Hợp tuy thua quân cậy có tràng giang để thủ hiểm,
thấy quân nhà Trịnh tiến lên bèn sai lũ Mạc Ngọc Liễn, Bùi Văn Khuê,
Nguyễn Quyện và Trần Bách Niên ở lại cố giữ thành Thăng Long, rồi đem
quân qua sông Nhị Hà sang đóng ở lang Thổ Khối (huyện Gia Lâm), dùng
một trăm chiếc chiến thuyền chống giữ mặt đông thành Thăng Long. Mạc
Ngọc Liễn thống lĩnh đại quân giữ mặt Bắc, tây - bắc và tây thành Thăng
Long, từ sông Nhị Hà (xã Nhật Chiêu) đến cửa Bảo Khánh. Bùi Văn Khuê
và Trần Bách Niên cầm bốn đạo quân giữ mặt Tây Nam: cửa Gia Kiều,
Mộng Kiều và Triền Kiều (từ Tiên lãng đến Bạch Mai). Còn Nguyễn Quyện
thì dốc quân chống giữ mặt Nam và Đông Nam từ Bạch Mai đến sông Nhị

Hà.
Mồng 5 tháng giêng năm ấy (1592), Trịnh Tùng kéo quân qua cầu Nhân
Mục sang sông Tô Lịch, đóng ở Sạ Đôi, để bày trận thế rồi truyền cho các
19
tướng sĩ nội nhật phải lấy được thành Thăng Long và tướng nào vào được
trong thành trước sẽ được trọng thưởng.
Nguyễn Hữu Liêu và Trịnh Ninh làm tả dực cầm một vạn quân và voi
đánh lấy cầu Gia Kiều (nay là Thịnh Quang) cùng Bùi Văn Khuê và Trần
Bách Niên đại chiến ở cửu tây.
Hoàng Đình Ái và Trịnh Đồng làm hữu dực có 10.550 quân và voi, đánh
nhau với Nguyễn Quyện mặt Nam thành Thăng Long: cửu Triền Kiều (Bạch
Mai) và cửa Nam Giao.
Tiền quân và trung quân có Trịnh Đỗ đốc xuất.
Trịnh Tùng làm hậu tập có 25.000 quân.
Thuỵ Trang Hầu cầm 1.200 quân nghe hiệu lệnh phải đánh tiên phong,
lấy cầu Mộng Kiều và cửa Mộng Kiều ở mặt Nam thành Thăng Long.
Xếp đặt đâu đấy, các đạo quân đều kéo về xã Hông Mai (nay là Bạch Mai
phường) để chờ hiệu.
Đến giờ Tị thì nổi hiệu bằng ba tiếng súng, tiếmg cồng và tù và. Thế là
gần 9 giờ sáng mới bắt đầu khởi chiến: mãi đến 3 giờ chiều mà bất phân thắng
phụ. Trịnh Tùng đốc bản quân cố sức xông vào mới phá được luỹ. Quân Trịnh
kéo vào trong thành, Bùi Văn Khuê, Mạc Ngọc Liễn và Trần Bách Niên bỏ
thành chạy thoát.
Quân Nguyễn Hữu Liên lấy được cửa tây, xông vào trong thành, đốt phá
lâu đài, dinh thự, rồi kéo thẳng đến bến sông Nhị Hà.
20
Hoàng Đình Ái chiếm được cửa Triền Kiều (Bạch Mai), phá cầu Triền
Kiều, khiến cho quân Nguyễn Quyện không lối tháo than, chết hại rất nhiều,
Nguyễn Quyện bị bắt còn hai con tử trận.
Trịnh Tùng thắng trận rồi, kéo toàn lục quân kỵ binh và voi vào thành

Thăng Long. Quân Mạc bị chết hoặc bị bắt rất nhiều; phần thì chạy về phía
đông, bơi qua sông Nhị Hà để trốn, bị chết đuối rất nhiều. Mạc hậu Hợp chống
giữ hai bên bờ sông Nhị Hà cứu được nhiều đảng lốt trốn qua sông.
Khi bắt được Nguyễn Quyện rồi, Trịnh Tùng đối đãi rất ân cần, hỏi
Nguyễn Quyện những kế hoạch để diệt Mạc. Nguyễn Quyện khuyên nên phá
luỹ Đại La san phẳng ra làm bình địa, rồi tiếp chiến luôn.
Tuy phá mất nhiều thì giờ và tốn công phu mấy xong nhưng Trịnh Tùng
cũng nghe theo Nguyễn Quyện bắt quân lấp vào, phá luỹ.
Thế là cuối năm Nhâm Thìn (1592), Trịnh Tùng thu phục được thành
Thăng Long và cả xứ Bắc Kỳ (phía nam tỉnh Hưng Yên và Thái Bình không
kể).
Công việc xong rồi, Trịnh Tùng thân về Thanh Hoá đem tin thắng trận
cho Vua biết.
Trịnh Tùng đã bỏ Thăng Long về Thanh Hoá, Mạc Hậu Hợp không biết
nhân cơ hội ấy chỉnh đốn quân bị, sửa đổi chỉnh thể, lại cứ say đắm trong vòng
tửu sắc, bạc đãi các tướng sĩ, đến nỗi các công việc hư hỏng, thân mình bị hại.
Tướng nhà Mạc là Bùi Văn Khuê có người vợ tên là Nguyễn Thị, nhan
sắc hơn người. Mạc hậu Hợp toan giết Văn Khuê để lấy Nguyễn Thị làm vợ.
Văn Khuê biết ý, đem vợ vào huyện Gia Viễn (Ninh Bình). Mậu Hợp cho quân
theo bắt, Văn Khuê phải xin về hàng Trịnh Tùng.
21
Trịnh Tùng mừng lắm, sai Hoàng Đình Ái ra đón Văn Khuê cho Văn
Khuê làm tiền khu, tự mình lại đem đại binh trở ra Tràng An, gặp quan nhà
Mạc ở sông Thiên Phái (huyện Ý Yên và Phong Doanh thuộc tỉnh Nam Định),
đánh nhau một trận kịch liệt, lấy được 70 chiếc thuyền chiến. Tướng nhà Mạc là
Trần Bách Niên hàng Trịnh Tùng.
Quân Trịnh Tùng kéo ra Bình Lục (Hà Nam) rồi sang huyện Thanh Oai
(Hà Đông) đóng ở bãi Tinh Thần (xã Thanh Thần bây giờ), sau tiến lên đến
sông Hát Giang (cửa sông Đáy ra sông Hồng Hà), gặp tướng nhà Mạc là Mạc
Ngọc Liễn đánh cho một trận điên bái, lấy được kể hàng nghìn chiếc thuyền

chiến. Quân Mạc bị tan vỡ.
Mạc Hậu Hợp được tin quân mình thua to, bỏ thành Thăng Long đem
binh chạy về đóng ở Kim Thành thuộc tỉnh Hải Dương.
Trịnh Tùng ra tới Thăng Long sai Nguyễn Thất Lý, Bùi Văn Khuê và
Trần Bách Niên đem quân tiến đánh Kim Thành, đánh Mạc Hậu Hợp lấy được
rất nhiều của cải vàng bạc và bắt được mẹ Mạc Hậu Hợp cùng quân nhu chiến
mã đem về.
Mạc Hậu Hợp thấy nhiều phen quân mình bất lợi bèn cử con là Mạc Toàn
giám quốc, rồi tự mình thân chinh đem quân đi đánh. Nhân sai người đến hỏi
Trạng Trình quốc công mưu kế nên làm thế nào? Trạng Trình bảo: “Một mai
nước có biến cố, đất Cao Bằng tuy nhỏ nhưng cũng khá di duyên được vài đời”.
Bấy giờ quan nhà Mạc là bọn Đỗ Uông, Ngô Tạo cả thảy 17 người, về
hàng nhà Lê.
Trịnh Tùng sang đón ở huyện Vĩnh Lại, rồi sai Phạm Văn Khoái đem
quân đuổi đánh Mậu Hợp ở huyện Yên Dũng (Bắc Giang) và huyện Vũ Ninh
22
(nay là huyện Vũ Giang thuộc tỉnh Bắc Ninh), Mạc Hậu Hợp cùng thế phải bỏ
thuyền chạy lên bộ, vào ẩn trong chùa ở huyện Phượng Nhưỡng (Bắc Giang),
Văn Khoái đuổi đến đấy, có người chỉ dẫn bắt được Mậu Hợp đem về Thăng
Long, làm tội sống 3 ngày rồi đem chém ở bên sông Bồ Đề, đầu Mậu Hợp đem
vào bêu ở trong Thanh Hoá.
Nhà Mạc làm Vua kể từ Đặng Dung đến Mậu Hợp gồm 5 đời cộng được
65 năm (1527 - 1692).
Bấy giờ Mạc Kính Chỉ (con Mạc Kinh Điển và chắt Mạc Đặng Dung) ở
Đông Triều biết tin Mạc Hậu Hợp đã chết, bèn tự tôn làm vua, đóng ở huyện
Thanh Lâm, họp tộc đảng hơn trăm người và các quan văn võ rồi treo bảng
chiêu mộ quân sĩ. Chẳng bao lâu được sáu, bảy vạn người. Mạc Toàn là con
Mạc Mậu Hợp cũng theo về với Mạc Kính Chỉ.
Trịnh Tùng thấy Mạc Kính Chỉ lại nổi lên, thanh thế lừng lẫy bèn đem
quân sang đánh ở huyện Cẩm Giàng và huyện Thanh Lâm. Ngày 14 tháng

giêng năm Quý Tị niên hiệu Quang Hưng thứ 7 (1593), Trịnh Tùng bắt được
Kính Chỉ và họ hàng nhà Mạc cùng các quan văn võ cả thảy 60 người. Trong số
đó có hai quận công Khang Hựu và Hùng Lễ. Ngày 27 tháng ấy, Mạc Kinh Chỉ
bị xử giảo.
Trịnh Tùng đánh được trận ấy, trở về Thăng Long. Tháng 3 năm Quý Tị
(1593), rước xa giá vua Thế Tôn từ xách Vạn Lại đến Thanh Oai trú chân.
Tháng tư rước về kinh ngự chính điện mở triều và thăng thưởng cho các tướng
sĩ. Vua Thế Tôn chịu bốn phương chầu mừng và đại xá cho thiên hạ.
Năm sau, tướng nhà Mạc là Mạc Ngọc Liễn tìm được một người con Mạc
Kinh Điển là Mạc Kính Cung lập lên làm vua, chiếm giữ châu Yên Bác ở đất
Lạng Sơn để làm căn bản. Nhưng chẳng bao lâu Trịnh Tùng sai quan Thái úy là
23
Hoàng Đình Ái đem binh lên đánh, Mạc Kim Cung và Mạc Ngọc Liễn chống
không nổi phải bỏ chạy sang Long Châu.
Đến đây nhà Mạc tan hết mà nhà Lê trung hưng mới thực nhất thống được
Nam - Bắc.
Trịnh Tùng tuy đã dứt được nhà Mạc, thu phục được đất Đông Đô nhưng
nhà Minh nhận của đút của nhà Mạc vẫn cố ý bênh nhà Mạc không chịu nhận
nhà Lê. Vả con cháu nhà Mạc và đảng nhà Mạc còn nhiều: nay xưng vương chỗ
này, mai nổi loạn nơi khác, cho nên Trịnh Tùng phải dùng đến cả trí lực: dùng
trí để giữ cho nhà Minh khỏi quấy nhiễu; dùng lực để đánh dẹp dư đảng họ
Mạc.
Khi Trịnh Tùng lấy lại được thành Thăng Long rồi, nhà Mạc sang kêu với
Minh Đế rằng không phải con cháu nhà Lê, chính họ Trịnh nổi lên tranh ngôi.
Vua nhà Minh sai sứ đến Nam Quan khám xét về việc ấy.
Tháng 3 năm Bính Thân (1596), vua Thế Tôn sai quan Hộ bộ thượng thư
Đỗ Uông và quan Đô ngự sử Nguyễn Văn Giai lên Nam Quan tiếp xứ Tầu. Sau
lại sai hai ông Hoàng thân Lê Cảnh và Lê Lựu cùng với quan Công bộ Tả thị
lang Phùng Khắc Khoan đem 10 người kỳ mục, 100 cân vàng, 1.000 cân bạc,
ấn An nam Đô thống sứ của nhà Mạc và ấn An nam Quốc Vương của vua Lê

ngày trước, sang cho sứ nhà Minh khám. Nhưng sứ nhà Minh bắt vua Thế Tôn
phải thân hành sang hội ở Nam Quan.
Trịnh Tùng sai Hoàng Đình Ái đem một vạn quân đi hộ giá, đưa Vua sang
hội ở cửa Nam Quan. Sang đến nơi xứ nhà Minh đòi phải nộp người vàng và ấn
vàng như trước, mà không chịu đến hội. Vua chờ lâu không xong việc phải bỏ
về.
24
Đến tháng tư năm sau, sứ nhà Minh lại sang mời vua Thế Tôn lên ngôi ở
Nam Quan, Trịnh Tùng sai quan Thái úy Hoàng Đình Ái đem năm vạn quân
đi hộ giá đưa vua sang phó hội.
Khi xa giá về, Trịnh Tùng đi các quan đi đón mừng sau sai quan Công bộ
Tả thị lang Phùng Khắc Khoan làm Chánh sứ, Quan thái thượng tự khanh
Nguyễn Nhân Thiềm làm Phó sứ, đem đồ lễ sang Yên Kinh cống nhà Minh.
Từ đó nhà Lê lại cống hiến nhà Minh như trước.
Năm Đinh Dậu niên hiệu Phúc Đức thứ hai Đại Đức thứ ba (1597), có hai
người tên là Nguyễn Đường Minh quán huyện Yên Phong và Nguyễn Minh
Trí quán xã Ngải Kiều (huyện TừLiêm) toan mưu thoán vi nhưng việc lộ ra
đều bị Trịnh Tùng bắt giết ngay.
Từ khi Mạc Hậu Hợp và Mạc Kinh Chỉ phải bắt rồi, tộc đảng họ Mạc
nương náu ở các nơi, toan đường khôi phục:
1. Mạc Kinh Chương xưng làm Tráng Vương chiếm giữ từ đất Đông
Triều cho đến đất Yên Quảng. Mùng một tháng giêng năm Bính Thân
(1596), Mạc Kinh Chương dời đóng đồn tại Yên Quảng lấy đất Vạn
Ninh và đất Hương Lan làm căn bản. Trịnh Tùng sai quan chấn thủ
Hải Dương là Phan Ngạn đem quân vây đánh trấn Kinh Chương bị
bắt.
2. Mạc Kinh Dụng (con Mạc Kinh Chỉ) chiếm giữ đất Yên Bác (Lạng
Sơn) xưng là Uy vương chẳng bao lâu cũng bị quân nhà Trịnh bắt
được.
3. Mạc Kinh Cung trước chạy sang Châu Long sau lại trở về họp du

đảng, đánh phá ở đất Cao Bằng và Lạng Sơn, Trịnh Tùng cho quân
đuổi đánh, Kinh Cung chạy thoát, sang kêu với nhà Minh. Bấy giờ thổ
25

×