Tải bản đầy đủ (.pdf) (12 trang)

TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC VẤN ĐỀ KẾT HỢP BIỆN CHỨNG CÁC MẶT ĐỐI LẬP VÀ SỰ VẬN DỤNG NÓ VÀO HOẠT ĐỘNG CHUYÊN MÔN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (264.03 KB, 12 trang )

lOMoARcPSD|11029029

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HCM

---------------------------

TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC
ĐỀ TÀI:
VẤN ĐỀ KẾT HỢP BIỆN CHỨNG CÁC MẶT ĐỐI LẬP VÀ SỰ
VẬN DỤNG NÓ VÀO HOẠT ĐỘNG CHUYÊN MÔN

Giảng viên hướng dẫn: TS. TRẦN NGUYÊN KÝ
Học viên: THÁI THỊ LÝ LÀNH
MSSV: 202111058
Lớp: CH30.2_FN2 TỐI T7
Khóa học: TÀI CHÍNH KHĨA 30.2

Tp. Hồ Chí Minh, 21 tháng 06 năm 2021.


lOMoARcPSD|11029029

MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU..................................................................................................................... 1
PHẦN NỘI DUNG................................................................................................................. 3
CHƯƠNG 1. LÝ THUYẾT KẾT HỢP BIỆN CHỨNG GIỮA CÁC MẶT ĐỐI LẬP .... 3
1.1 Một số khái niệm ........................................................................................................... 3
1.1.1 Mâu thuẫn là gì? ................................................................................................ 3
1.1.2 Mặt đối lập là gì? ............................................................................................... 3
1.2 Sự đấu tranh và thống nhất giữa các mặt đối lập .......................................................... 4


1.2.1 Sự đấu tranh các mặt đối lập ............................................................................. 4
1.2.2 Sự thống nhất các mặt đối lập ........................................................................... 4
1.2.3 Sự chuyển hóa các mặt đối lập .......................................................................... 5
1.2.4 Sự kết hợp các mặt đối lập ................................................................................ 5
1.3 Ý nghĩa phương pháp luận rút ra từ quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối
lập ............................................................................................................................................. 8
CHƯƠNG 2. VẬN DỤNG LÝ THUYẾT KẾT HỢP BIỆN CHỨNG GIỮA CÁC MẶT
ĐỐI LẬP VÀO CÔNG VIỆC CHUYÊN MÔN ................................................................. 9
PHẦN KẾT LUẬN .............................................................................................................. 10
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 11


lOMoARcPSD|11029029

PHẦN MỞ ĐẦU
Có bao nhiêu "quan hệ mâu thuẫn " xung quanh cuộc sống của chúng ta? Thực, hư;
thuận, nghịch; đại, tiểu; cương, nhu; viễn, cận; tiến, thoái...đơn giản nhất và thơng dụng nhất
trong đời sống hàng ngày đó chính là hai từ "có" và "khơng". Thật vậy, mâu thuẫn tồn tại
trong tất cả các sự vật, hiện tượng cũng như mọi lĩnh vực của đời sống. Từ tự nhiên, xã hội
cho đến tư duy của con người… tất cả những lĩnh vực đó nếu thiếu đi mâu thuẫn thì bản thân
sự vật, hiện tượng khơng cịn khả năng tồn tại. Và trong mỗi một sự vật, khơng phải hình
thành chỉ là một mà là nhiều mâu thuẫn. Mâu thuẫn có từ khi sự vật, hiện tượng xuất hiện và
chính nó là động lực cho sự phát triển, là nguồn gốc của sự vận động bên trong sự vật, hiện
tượng.
Trong xã hội vẫn cịn tồn tại quan niệm khơng đúng về mâu thuẫn trong xã hội, về các
mặt đối lập, coi đây là những hiện tượng bất thường cần phải loại trừ. Các quan điểm phiến
diện này làm cản trở q trình giải quyết mâu thuẫn. Nó mang lại nhiều khó khăn cho việc
kết hợp đúng đắn các mặt đối lập nhằm đem lại những lợi ích thiết thực cho cơng cuộc xây
dựng đất nước. Do đó,việc kết hợp các mặt đối lập một cách biện chứng, có nguyên tắc theo
tinh thần của V.I.Lênin là một đòi hỏi cấp thiết.

Quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập hay còn gọi là quy luật mâu thuẫn
là một trong ba quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật và là quy luật quan trọng nhất
của phép biện chứng duy vật trong triết học Mác – Lênin, là hạt nhân của phép biện chứng.
Quy luật này vạch ra nguồn gốc, động lực của sự vận động, phát triển, theo đó nguồn gốc
của sự phát triển chính là mâu thuẫn và việc giải quyết mâu thuẫn nội tại trong bản thân mỗi
sự vật, hiện tượng.
Vì vậy đề tài “Vấn đề kết hợp biện chứng các mặt đối lập và sự vận dụng của nó vào
cơng tác chun mơn” là đề tài vơ cùng hữu ích để học viên có thể nắm vững quy luật này từ
đó hình thành phương pháp, hình thành tư duy khoa học, biết khám phá bản chất của các sự
vật và giải quyết các mâu thuẫn nảy sinh. Vận dụng và liên hệ đến cơng tác chun mơn của
học viên từ đó có những hành xử đúng đắn cho cá nhân, hoàn thiện kỹ năng, trong môi
trường làm việc cũng như các mối quan hệ xã hội.

1


lOMoARcPSD|11029029

Qua đây học viên xin chân thành cảm ơn thầy TS Trần Nguyên Ký vì sự giảng dạy
nhiệt huyết của thầy và cuốn sách “ SỰ KẾT HỢP CÁC MẶT ĐỐI LẬP TRONG THỜI KÌ
QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY” do thầy làm tác giả đã
giúp ích em rất nhiều trong q trình làm tiểu luận.
Em xin chân thành cảm ơn Thầy!

2


lOMoARcPSD|11029029

CHƯƠNG 1. LÝ THUYẾT KẾT HỢP BIỆN CHỨNG GIỮA CÁC MẶT ĐỐI LẬP

1.1 Một số khái niệm
1.1.1 Mâu thuẫn là gì?
Mâu thuẫn: là hiện tượng khách quan và phổ biến, chỉ mối liên hệ tác động qua lại giữa
các mặt đối lập trong cùng một sự vật. Như vậy, mâu thuẫn là cái vốn có ở mọi sự vật hiện
tượng. Khi sự vật hay hiện tượng được hình thành và phát triển sẽ xuất hiện mâu thuẫn, là do
cấu trúc tự nhiên của sự vật quy định, không phụ thuộc vào bất kỳ một lực lượng siêu nhiên
nào, không phụ thuộc vào ý chí chủ quan của con người. Mâu thuẫn tồn tại từ khi sự vật xuất
hiện cho đến khi kết thúc, ở mọi không gian, thời gian, mọi giai đoạn phát triển. Mâu thuẫn
này mất đi thì mâu thuẫn khác được hình thành.
Trong những điều kiện cụ thể khác nhau, mâu thuẫn thể hiện ra dưới nhiều hình thức đa
dạng và phong phú khác nhau:


Mâu thuẫn bên trong và mâu thuẫn bên ngồi



Mâu thuẫn cơ bản và mâu thuẫn khơng cơ bản



Mâu thuẫn chủ yếu và mâu thuẫn thứ yếu



Mâu thuẫn đối kháng và khơng đối kháng
1.1.2 Các mặt đối lập là gì?

Trong phép biện chứng duy vật, khái niệm mặt đối lập là sự khái quát những thuộc tính,
những khuynh hướng ngược chiều nhau tồn tại trong cùng một sự vật hiện tượng, tạo nên sự

vật hiện tượng đó. Khơng phải bất kì hai mặt đối lập nào cũng hình thành nên mâu thuẫn.
Bởi chính bên trong sự vật đã có rất nhiều mặt đối lập, chỉ có những mặt đối lập nào thống
nhất với nhau như một chỉnh thể mới tạo thành mâu thuẫn. Ví dụ như: Trong sinh vật, hai
mặt đối lập là đồng hóa và dị hóa thống nhất với nhau, nếu chỉ là một quá trình thì sinh vật
sẽ chết. Hay như giai cấp công nhân và giai cấp tư sản cùng tồn tại trong một hình thái kinh
tế xã hội tư bản chủ nghĩa mặc dù đối lập nhau về mặt lợi ích nhưng vẫn tồn tại với nhau
trong cùng một chỉnh thể. Những mặt trái ngược nhau đó trong phép biện chứng duy vật gọi
là mặt đối lập.

3


lOMoARcPSD|11029029

Trong tư duy thơng thường, khi nói đến hai mặt đối lập là nói đến mâu thuẫn. Cịn
trong tư duy biện chứng, không phải là hai mặt đối lập nào cũng tạo nên mâu thuẫn mà chỉ
những mặt đối lập tác động biện chứng với nhau tạo nên sự vật hiện tượng và tạo nên sự
phát triển mới được gọi là mâu thuẫn – mâu thuẫn biện chứng.
1.2 Sự đấu tranh và thống nhất giữa các mặt đối lập
1.2.1 Sự đấu tranh các mặt đối lập
Sự đấu tranh của các mặt đối lập là sự tác động qua lại theo khuynh hướng bài trừ, phủ
định nhau của các mặt đối lập. Theo chủ nghĩa Mac-lênin, vai trò của sự đấu tranh giữa các
mặt đối lập trong mâu thuẫn đối với sự phát triển sự vật được đánh giá rất cao. Chính cuộc
đấu tranh giữa các mặt đối lập đã dẫn tới việc giải quyết mâu thuẫn và qua đó làm cho sự vật
phát triển. Chính vì thế về mặt phương pháp luận, cần phải nhận thức được rằng, trong quá
trình giải quyết mâu thuẫn xã hội cụ thể nào đó, địi hỏi chủ thể hoạt động phải có thái độ
tơn trọng cuộc đấu tranh giữa các mặt đối lập trong mâu thuẫn, tạo điều kiện cho sự đấu
tranh giữa các mặt đối lập nhằm thúc đẩy sự phát triển của sự vật hiện tượng. Hơn nữa, hai
mặt đối lập thường là một mặt đại diện cho cái tiến bộ, tích cực còn mặt đại diện cho cái lạc
hậu tiêu cực. Vì vậy, phải làm sao cho mặt đối lập đại diện cho cái tiến bộ, tích cực chiến

thắng mặt đối lập đại diện cho cái lạc hậu, tiêu cực. Sự đấu tranh của các mặt đối lập là một
quá trình phức tạp diễn ra từ thấp đến cao, gồm nhiều giai đoạn, mỗi giai đoạn lại có những
đặc điểm riêng. Chính Lênin khẳng định rằng “ Sự phát triển là một cuộc đấu tranh giữa các
mặt đối lập”.
1.2.2 Sự thống nhất các mặt đối lập
Thống nhất của hai mặt đối lập được hiểu không phải chúng đứng cạnh nhau mà nương
tựa vào nhau, tạo ra sự phù hợp cân bằng, quy định lẫn nhau và gắn kết với nhau. Hai mặt
đối lập là tiền đề tồn tại cho nhau nếu thiếu một trong hai sẽ khơng cịn tồn tại được. Vì thế
cho nên sự thống nhất là điều kiện tất yếu cho sự tồn tại của mọi sự vật. Theo Lênin thì sự
thống nhất của các mặt đối lập, đó là sự thừa nhận những khuynh hướng mâu thuẫn, bài trừ
lẫn nhau, đối lập trong tất cả các hiện tượng và quá trình của giới tự nhiên. Mỗi khi đề cập
đến phép biện chứng duy vật, đến vấn đề mâu thuẫn biện chứng với mối quan hệ của các
mặt đối lập trong mâu thuẫn, V.I.Lênin ln nhắc tới khía cạnh thống nhất trong mối quan
4


lOMoARcPSD|11029029

hệ đó. Theo V.I.Lênin, phép biện chứng chẳng qua là: Học thuyết vạch ra rằng những mặt
đối lập làm thế nào mà có thể và thường là (trở thành) đồng nhất, bằng cách “chuyển hố lẫn
nhau” và “tại sao lí trí con người lại khơng nên xem những mặt đối lập ấy là chết, cứng dở,
mà là sinh động, có điều kiện, năng động, chuyển hoá lẫn nhau”.
1.2.3 Sự chuyển hóa các mặt đối lập
Chuyển hóa các mặt đối lập (giải quyết mâu thuẫn biện chứng): Sự thống nhất của các
mặt đối lập mang tính tương đối gắn liền với sự ổn định của sự vật. Sự đấu tranh của các mặt
đối lập mang tính tuyệt đối gắn liền với sự vận động, thay đổi của bản thân sự vật. Mâu
thuẫn biện chứng phát triển tương ứng với quá trình thống nhất các mặt đối lập chuyển từ
mức độ trừu tượng sang mức độ cụ thể, còn sự đấu tranh các mặt đối lập chuyển từ mức bình
lặng sang quyết liệt. Điều này làm xuất hiện các khả năng chuyển hóa của các mặt đối lập.
Khi điều kiện khách quan hội đủ, một trong các khả năng đó sẽ biến thành hiện thực, các

mặt đối lập tự thực hiện quá trình chuyển hóa. Mâu thuẫn biện chứng được giải quyết khi
các mặt đối lập tự phủ định chính mình để biến thành cái khác. Có hai phương thức chuyển
hóa: một là, mặt đối lập này chuyển hóa thành mặt đối lập kia ở một trình độ mới; hai là, cả
hai mặt đối lập cùng chuyển hóa thành những cái thứ ba nào đó mà quy luật khách quan và
điều kiện, tình hình cho phép.
1.2.4 Sự kết hợp các mặt đối lập
Trong lý luận biện chứng Mácxít, vấn đề kết hợp các mặt đối lập được đặt ra và giải
quyết. Đây là biểu hiện hoạt động tích cực, chủ động của chủ thể trên cơ sở nhận thức mâu
thuẫn khách quan. Chính xuất phát từ việc nhận thức sự thống nhất khách quan, từ những
điểm chung vốn có của các mặt đối lập, từ những nhu cầu thực tiễn, con người có thể tiến
hành kết hợp các yếu tố, hơn nữa là cả các măt đối lập nhằm giải quyết nhưng mâu thuẫn xã
hội… Có 3 góc độ tiếp cận:
Thứ nhất: xem xét sự thống nhất giữa các mặt đối lập từ góc độ bản thể luận, tức sự
thống nhất khách quan vốn có của chúng. Ở đây, khơng phải là sự thống nhất tuyệt đối , mà
là sự thống nhất tương đối, thống nhất trong sự khác biệt, kể cả sự đối lập.

5


lOMoARcPSD|11029029

Thứ hai: xem xét sự thống nhất giữa các mặt đối lập từ góc độ nhận thức luận. Điều này
rõ ràng là một công việc không đơn giản, không chỉ tùy thuộc vào nhân tố chủ quan, vào chủ
thể mà cịn phụ thuộc vào chính bản thân của mâu thuẫn. Bởi vì mâu thuẫn khơng tự bộc lộ
ra mà nói tồn tại bên trong cái “ vỏ bọc” thống nhất với những hình thức cụ thể của nó. Để
nhận thức nó, cần phải tiến hành thao tác như Lênin đã chỉ dẫn: “ phân đôi cái thống nhất”.
Phải phân đôi được cái thống nhất thì mới có thể phát hiện và nắm bắt được các mặt đối lập
tạo thành mâu thuẫn. Cố nhiên sự phân đôi ở đây không phải là hoạt động chủ quan, tùy tiện
mà phải dựa trên cơ sở tơn trọng tính khách quan của mâu thuẫn biện chứng.
Thứ ba: xem xét sự thống nhất giữa các mặt đối lập từ góc độ thực tiễn.Trên cơ sở nhận

thức sự thống nhất (bao hàm cả sự đấu tranh) giữa các mặt đối lập của một mâu thuẫn nhất
định, chủ thể có thể thực hiện việc kết hợp các mặt đối lập để từ đó tạo điền kiện giải quyết
tốt các mâu thuẫn. Việc kết hợp các mặt đối lập cũng xuất phát từ nhu cầu, lợi ích của chủ
thể. Một mặt, con người với tư cách chủ thể tiến hành hoạt động kết hợp các mặt đối lập
nhằm giải quyết một mâu thuẫn xã hội cụ thể theo hướng có lợi cho bản thân, đáp ứng được
nhu cầu, lợi ích của bản thân; song mặt khác, đó lại không phải là hoạt động chủ quan tùy
tiện, mà phải trên cơ sở nhận thức đúng và tuân theo những yêu cầu khách quan, cũng như
những điều kiện khách quan của việc giải quyết mâu thuẫn đó.
Việc kết hợp các mặt đối lập trong kinh tế xã hội không phải là hành động được tiến
hành với bất cứ yếu tố, mặt đối lập nào, trong bất kỳ điều kiện nào. Càng khơng nên hiểu
đây là việc làm mang tính chủ quan thuần túy, tùy tiện, vô nguyên tắc của chủ thể hành động.
Việc kết hợp các mặt đối lập ở đây phải dựa trên cơ sở khách quan cụ thể, đó là những địi
hỏi tất yếu của việc kết hợp và cả ở những điều kiện khách quan cho phép để tiến hành việc
kết hợp này. Đồng thời, việc kết hợp các mặt đối lập trong đời sống xã hội cũng phải thể
hiện được tính định hướng rõ ràng.
Theo tinh thần của lý luận biện chứng mác xít, khi đề cập đến việc giải quyết mâu
thuẫn biện chứng mácxit nói chung, đương nhiên phải nhận thức được rằng đó là quy trình
tự giải quyết. Tuy nhiên với loại hình mâu thuẫn biện chứng xã hội lại có những đăc thù của
việc giải quyết mâu thuẫn đó. Ở đây thuật ngữ tự giải quyết có nghĩa là q trình giải quyết
một mâu thuẫn xã hội cụ thể nào đó đã diễn ra một cách khách quan đối với con người, đối

6


lOMoARcPSD|11029029

với một lực lượng xã hội nhất định. Phương pháp giải quyết mâu thuẫn xã hội mà chủ thể
tiến hành cũng phải phù hợp bản chất khách quan của mâu thuẫn đó. Tuy nhiên việc giải
quyết mâu thuẫn xã hội, thực chất lại là biểu hiện hoạt động của chủ thể con người. Do đó
q trình giải quyết mâu thuẫn cũng in dấu ấn của chủ thể. Chính trong quá trình hoạt động

như vậy, trong điều kiện cho phép, chủ thể có thể sử dụng phương pháp kết hợp các mặt đối
lập, coi đó như hình thức cụ thể để các mặt đối lập thực hiện sự đấu tranh của chúng dẫn tới
việc giải quyết mâu thuẫn cụ thể.
Cũng chính vì thế, việc tiến hành kết hợp các mặt đối lập để giải quyết mâu thuẫn xã
hội, rõ ràng không thể là một giải pháp duy nhất và cũng không là giải pháp có thể áp dụng
với mọi trường hợp. Trong đời sống xã hội, mâu thuẫn xã hội với tính cách là mâu thuẫn
giữa người với người về mặt lợi ích, là cội nguồn cho sự phát triển xã hội, được thể hiện ra
rất nhiều hình thức, nhiều loại cụ thể. Chẳng hạn, đối với loại mâu thuẫn đối kháng, phương
pháp giải quyết nhìn chung là sử dụng bạo lực, thực hiện loại trừ một mặt đối lập nào đó.Tuy
vậy, trong điều kiện cụ thể, khi giữa hai lực lượng xã hội cụ thể tồn tại với tư cách là hai mặt
đối lập nhau,mặc dù về bản chất vẫn có sự đối kháng về lợi ích, song lại có một số điểm
chung về lợi ích; thì khi đó có thể thực hiện hình thức “kết hợp các mặt đối lập”. Điều đó
cho phép việc giải quyết mâu thuẫn giữa chúng được thực hiện tốt hơn, đem lại lợi ích cho
chủ thể nhiều hơn. Dĩ nhiên, cần phải có khả năng cần thiết ( trí tuệ và bản lĩnh chính trị) thì
chủ thể mới có thể thực hiện việc kết hợp này. Ở đây về cơ bản mâu thuẫn vẫn là mâu thuẫn
đối kháng; nhưng ở khía cạnh nào đó, vẫn có thể cho phép kết hợp các mặt đối lập.
Cịn đối với loại mâu thuẫn xã hội khơng đối kháng, các mặt đối lập có lợi ích cơ bản
nhất trí với nhau, chủ thể hoạt động hồn tồn có thể tiến hành kết hợp các mặt đối lập. Tuy
nhiên trong trường hợp này, nếu chủ thể mắc sai lầm nghiêm trọng và kéo dài, hay khi chủ
thể khơng cịn đủ năng lực trí tuệ và bản lĩnh chính trị cần thiết thì khi đó xuất hiện u cầu
khách quan phải giải quyết mâu thuẫn bằng phương pháp loại trừ các mặt đối lập.
Tóm lại, việc kết hợp các mặt đối lập trong quá trình giải quyết một mâu thuẫn xã hội
cụ thể chỉ có thể tiến hành được khi có đầy đủ những điều kiện khách quan và chủ quan cho
phép. Tuyệt đối đây không phải là giải pháp có tính phổ biến, có thể thực hiện trong mọi
trường hợp với mọi điều kiện.

7


lOMoARcPSD|11029029


1.3 Ý nghĩa phương pháp luận rút ra từ quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các
mặt đối lập
Quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập làm sáng tỏ nguồn gốc của sự vận
động, phát triển của các sự vật và có ý nghĩa phương pháp luận trong nhận thức và hoạt động
thực tiễn.
Để nhận thức đúng bản chất của sự vật và tìm ra phương hướng, giải pháp đúng cho
hoạt động thực tiễn, ta phải đi sâu nghiên cứu phát hiện ra mâu thuẫn của sự vật. Muốn
phát hiện ra mâu thuẫn phải tìm ra trong thể thống nhất những mặt, những khuynh hướng
trái ngược nhau, tức là tìm ra những mặt đối lập và tìm ra những mối liên hệ, tác động qua
lại lẫn nhau giữa những mặt đối lập đó.
Phải xem xét quá trình phát sinh, phát triển của từng mâu thuẫn. Khi phân tích mâu
thuẫn, ta phải xem xét q trình phát sinh, phát triển của từng mâu thuẫn. Ta phải xem xét
vai trị, vị trí và mối quan hệ lẫn nhau của các mâu thuẫn. Phải xem xét quá trình phát sinh,
phát triển và vị trí của từng mặt đối lập, mối quan hệ tác động qua lại giữa chúng. Chỉ có
như vậy ta mới có thể hiểu đúng mâu thuẫn của sự vật, hiểu đúng xu hướng vận động, phát
triển và điều kiện để giải quyết mâu thuẫn.
Để thúc đẩy sự vật phát triển, ta phải tìm mọi cách để giải quyết mâu thuẫn, khơng
được điều hịa mâu thuẫn. Việc đấu tranh giải quyết mâu thuẫn phải phù hợp với trình độ
phát triển của mâu thuẫn. Phải tìm ra phương thức, phương tiện và lực lượng giải quyết mâu
thuẫn. Mâu thuẫn chỉ được giải quyết khi điều kiện đã chín muồi. Một mặt, ta phải chống
thái độ chủ quan, nóng vội (căn bệnh tả khuynh trong giải quyết mâu thuẫn). Mặt khác, ta
cũng không được rơi vào bảo thủ, trì trệ khi giải quyết mâu thuẫn (hữu khuynh trong giải
quyết mâu thuẫn), ta phải cực kỳ thúc đẩy các điều kiện khách quan để làm cho các điều
kiện giải quyết mâu thuẫn đi đến chín muồi.
Mâu thuẫn khác nhau phải có phương pháp giải quyết khác nhau. Do đó, ta phải tìm ra
các hình thức giải quyết mâu thuẫn một cách linh hoạt, vừa phù hợp với từng loại mâu thuẫn,
vừa phù hợp với điều kiện cụ thể.

8



lOMoARcPSD|11029029

CHƯƠNG 2. VẬN DỤNG LÝ THUYẾT KẾT HỢP BIỆN CHỨNG GIỮA CÁC MẶT
ĐỐI LẬP VÀO CÔNG VIỆC CHUYÊN MÔN
Mâu thuẫn tồn tại ở tất cả mọi sự vật, hiện tượng của thế giới khách quan. Bản thân tôi
hiện đang làm việc về tổ chức hành chính nhân sự cho Cơng ty TNHH TM XD Diệu Long.
Trong quá trình thực hiện cơng tác chun mơn của mình, tơi đã gặp rất nhiều những mâu
thuẫn, nắm được lý thuyết về việc kết hợp biện chứng các mặt đối lập và cách thức để vận
dụng lý thuyết vào thực tiễn công việc, tôi xin phân tích một mâu thuẫn nổi lên có liên quan
đến cơng việc của mình.
Trong q trình cơng ty có hai xu hướng là “phát triển” và “trì trệ”. Đây chính là hai
mặt đối lập của q trình phát triển. Hai mặt đối lập này là tổng hòa các mặt đối lập khác
như: muốn phát triển thì cần đào tạo, tuyển dụng nhiều nhân sự có trình độ cao, mà lao động
nhiều và trình độ cao thì lương, thưởng phải trả cho người lao động cũng cao. Như vậy, sẽ
ảnh hưởng đến quỹ lương và ngân sách của Công ty nhưng nếu khơng đào tạo, khơng tuyển
dụng thì khơng có nhân lực giỏi, cơng việc sẽ trì trệ và làm cho doanh thu, lợi nhuận của
Công ty ngày càng đi xuống. Do vậy không phải để tiết kiệm ngân sách thì Cơng ty khơng
tuyển dụng, khơng đào tạo mà thay vào đó tổ chức hành chính Cơng ty phải tự đổi mới và
hồn thiện cơng tác đào tạo cán bộ nhân viên, đào tạo ra đội ngũ cán bộ có trình độ chun
mơn cao, có tinh thần trách nhiệm và năng động để làm việc hiệu quả từ đó sẽ tăng nguồn
thu cho Công ty.
Làm tốt các công việc trên, cũng có nghĩa là giải quyết tốt được mâu thuẫn giữa sự phát
triển và trì trệ, (mặt đối lập này chuyển hoá thành mặt đối lập kia nhưng ở mức phát triển
hơn) đó là làm cho Cơng ty ngày một phát triển, điều này phù hợp với quy luật khách quan
(mâu thuẫn là nguồn gốc động lực của sự phát triển). Tuy nhiên như chúng ta đã nghiên cứu,
khi giải quyết được mâu thuẫn rồi khơng có nghĩa là khơng còn tồn tại mâu thuẫn, mà ngược
lại, mâu thuẫn này mất đi, mâu thuẫn khác lại xuất hiện. Khi chúng ta đã có một đội ngũ cán
bộ nhân viên với trình độ cao, nhưng khơng đảm bảo rằng nhân viên sẽ cống hiến hết mình

cho cơng việc, hoặc họ có thể chuyển sang Công ty đối thủ để làm việc khi đó cũng sẽ gây
thiệt hại cho Cơng ty. Do vậy nó lại tiếp tục là động lực để cho bộ phận tổ chức hành chính
nhân sự phát triển. Như thế mới là phù hợp với quy luật khách quan.

9


lOMoARcPSD|11029029

KẾT LUẬN
Tóm lại, trong q trình làm việc, khơng nhiều thì ít, sẽ có những lúc nảy sinh những
mâu thuẫn. Việc nắm vững lý thuyết kết hợp biện chứng các mặt đối lập giúp tôi biết được
cách thức để giải quyết những mâu thuẫn này một cách hợp lý nhất. Tơi sẽ phải nhìn thấy
được có những mặt đối lập nào hiện đang tồn tại trong sự việc, có sự mâu thuẫn nào và tìm
cách kết hợp các mặt đối lập lại với nhau để có thể giải quyết được những mâu thuẫn, giúp
bản thân nói riêng và mơi trường xung quanh ngày càng phát triển hơn.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. TS. Trần Nguyên Ký (tái bản lần 8), Sự kết hợp các mặt đối lập trong thời kỳ quá độ lên
CNXH ở Việt Nam hiện nay, NXB Kinh Tế TP.HCM
2. TS. Bùi Văn Mưa, TS. Trần Nguyên Ký và các cộng sự (2014), Triết học.
3. Viện hàn lâm khoa học xã hội Việt Nam, Một số vấn đề về quy luật thống nhất và đấu
tranh của các mặt đối lập
4. Phan Thanh Hảo (2009), Lý luận kết hợp các mặt đối lập và sự vận dụng của nó trong
cuộc xây dựng đất nước ngày nay.

10




×