Tải bản đầy đủ (.doc) (124 trang)

ĐÁNH GIÁ VIỆC QUY HOẠCH sử DỤNG đất

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (985.62 KB, 124 trang )

1. MỞ ĐẦU
1.1.

Tính cấp thiết của đề tài
Trong thời gian qua, công tác quy lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất luôn

nhận được sự quan tâm chỉ đạo của Đảng, Chính phủ, được triển khai rộng khắp
trên phạm vi cả nước và đã đạt được một số kết quả nhất định. Quy hoạch, kế hoạch
sử dụng đất là một nội dung quan trọng trong công tác quản lý nhà nước về đất đai.
Quy hoạch sử dụng đất có ý nghĩa đặc biệt quan trọng không chỉ cho trước mắt mà
cả lâu dài, việc thực hiện đúng phương án quy hoạch đóng vai trị quyết định tính
khả thi và hiệu quả của phương án quy hoạch sử dụng đất. Thực hiện quy hoạch, kế
hoạch sử dụng đất đai phải phù hợp với yêu cầu thực tế phát triển kinh tế xã hội của
từng địa phương. Việc sử dụng đất phải triệt để tiết kiệm, tránh lãng phí quỹ đất,
phân bổ hợp lý quỹ đất cho nhu cầu sử dụng khác nhau của nền kinh tế, đặc biệt ưu
tiên đất đai cho nhiệm vụ phát triển nơng nghiệp.
Tuy nhiên, q trình triển khai lập và tổ chức thực hiện quy hoạch, kế
hoạch sử dụng đất còn nhiều hạn chế bất cập. Việc tổ chức thực hiện phương
án quy hoạch sử dụng đất được phê duyệt còn thiếu đồng bộ, thiếu cơ chế
kiểm tra, giám sát dẫn đến tình trạng “quy hoạch treo”. Nhiều phương án quy
hoạch chưa dự báo được hết tốc độ phát triển kinh tế xã hội của địa phương
trong kỳ quy hoạch, việc bố trí quỹ đất cho các thành phần kinh tế không sát
với với nhu cầu thực tế, dẫn đến qúa trình thực hiện phải điều chỉnh bổ sung
nhiều lần; đặc biệt ở những địa phương có điều kiện thuận lợi về giao thơng,
gần các trung tâm kinh tế lớn, tốc độ chuyển dịch cơ cấu kinh tế diễn ra
nhanh. (công nghiệp, dịch vụ phát triển).
Huyện Việt Yên được tỉnh Bắc Giang chọn là địa bàn phát triển các khu
công nghiệp, dịch vụ tập trung của tỉnh, với tính chất như vậy nên cơ cấu đất
đai của huyện trong những năm qua có nhiều biến động. Diện tích đất nơng

1




nghiệp ngày càng bị thu hẹp để nhường đất cho phát triển công nghiệp, dịch
vụ, nhiều hộ nông dân không còn đất để canh tác. Với mục tiêu giúp địa
phương nhìn nhận đánh giá kết quả thực hiện phương án quy hoạch sử dụng
đất giai đoạn 2001- 2010, phân tích, đánh giá những kết quả đã đạt được và
những tồn tại bất cập trong quá trình thực hiện phương án quy hoạch sử dụng
đất đến năm 2007; đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao tính khả thi của
phương án quy hoạch sử dụng đất; khắc phục những nội dung sử dụng đất bất
hợp lý, đề xuất, kiến nghị điều chỉnh những nội dung của phương án quy
hoạch sử dụng đất không theo kịp những biến động trong phát triển kinh tế –
xã hội của địa phương. Tôi chọn đề tài nghiên cứu là: Đánh giá việc thực
hiện quy hoạch sử dụng đất huyện Việt Yên – tỉnh Bắc Giang.
1.2.

Mục tiêu nghiên cứu
- Đánh giá việc thực hiện quy hoạch sử dụng đất của huyện Việt Yên –

tỉnh Bắc Giang giai đoạn 2001 – 2010; tìm ra những yếu tố tích cực, những
hạn chế bất cập trong q trình tổ chức thực hiện phương án quy hoạch.
- Đề xuất các giải pháp nhằm tổ chức thực hiện có hiệu quả phương án
quy hoạch sử dụng đất. Đảm bảo hài hòa giữa các mục tiêu ngắn hạn và dài
hạn, phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế của huyện.

2


2. TỔNG QUAN TÀI LIỆU NGHIÊN CỨU
2.1.


Cơ sở khoa học, lý luận của quy hoạch sử dụng đất

2.1.1. Khái niệm và đặc điểm của quy hoạch sử dụng đất
2.1.1.1. Khái niệm về quy hoạch sử dụng đất
Đất đai là một vùng lãnh thổ nhất định (vùng đất, khoanh đất, vạt đất,
mảnh đất, miếng đất . . .) có vị trí, hình thể, diện tích với những tính chất tự
nhiên hoặc mới tạo thành (đặc tính, thổ nhưỡng, điều kiện địa hình, điạ chất,
thuỷ văn, chế độ nước, nhiệt độ, ánh sáng, thảm thực vật, các tính chất lý hố
tính . . .) tạo ra điều kiện nhất định cho việc sử dụng theo các mục đích khác
nhau. Như vậy, để sử dụng đất cần phải làm quy hoạch – đây là quá trình
nghiên cứu, lao động sáng tạo nhằm phân định ý nghĩa, mục đích của từng
phần lãnh thổ và đề xuất một trật tự sử dụng đất nhất định [11].
Về bản chất: Đất đai là đối tượng của mối quan hệ sản xuất trong lĩnh
vực sử dụng đất (gọi là mối quan hệ đất đai) và tổ chức sử dụng đất như “tư
liệu sản xuất đặc biệt” gắn chặt với phát triển kinh tế - xã hội [16]. Như vậy,
Quy hoạch sử dụng đất sẽ là một hiện tượng kinh tế - xã hội thể hiện đồng
thời ba tính chất: kinh tế, kỹ thuật và pháp chế. Trong đó cần hiểu:
- Tính kinh tế: Thể hiện ở hiệu quả sử dụng đất đai.
- Tính kỹ thuật: Bao gồm các tác nghiệp chuyên môn kỹ thuật như điều tra,
khảo sát, xây dựng bản đồ, khoanh định, xử lý số liệu . . .
- Tính pháp chế: Xác nhận tính pháp lý về mục đích và quyền sử dụng đất
theo quy hoạch nhằm đảm bảo sử dụng đất đai đúng pháp luật.
Từ đó, có thể đưa ra khái niệm: quy hoạch sử dụng đất là hệ thống các
biện pháp của Nhà nước về quản lý và tổ chức sử dụng đất đầy đủ, hợp lý,
hiệu quả, khoa học thông qua việc phân bổ đất đai cho các mục đích sử dụng

3


và định hướng tổ chức sử dụng đất cho các cấp lãnh thổ, các ngành, tổ chức

và người sử dụng đất nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất xã hội, thực hiện
đường lối kinh tế của Nhà nước trên cơ sở dự báo theo quan điểm sinh thái
bền vững [4].
Theo FAO [19]: “Quy hoạch sử dụng đất là quá trình đánh giá tiềm năng
đất và nước một cách có hệ thống phục vụ việc sử dụng đất và kinh tế - xã hội
nhằm lựa chọn ra phương án sử dụng đất tốt nhất. Mục tiêu của quy hoạch sử
dụng đất là lựa chọn và đưa ra phương án đã lựa chọn vào thực tiễn để đáp
ứng nhu cầu của con người một cách tốt nhất nhưng vẫn bảo vệ được nguồn
tài nguyên cho tương lai. Yêu cầu cấp thiết phải làm quy hoạch là do nhu cầu
của con người và điều kiện thực tế sử dụng đất thay đổi nên phải nâng cao kỹ
năng sử dụng đất”.
Phương án quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đai đã được cơ quan Nhà
nước có thẩm quyền quyết định, xét duyệt là căn cứ để bố trí sử dụng đất,
giao đất, cho thuê đất, thu hồi đất, chuyển mục đích sử dụng đất đặc biệt là
chuyển diện tích trồng lúa có hiệu quả cao sang các mục đích phi nơng
nghiệp, ni trồng thuỷ sản hoặc trồng cây lâu năm. Như vậy, mục đích của
quy hoạch sử dụng đất nhằm tạo ra những điều kiện về tổ chức lãnh thổ, thúc
đẩy các đơn vị sản xuất thực hiện đạt và vượt mức kế hoạch Nhà nước giao.
Quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đóng vai trò quan trọng, là cơ sở để Nhà
nước thống nhất quản lý đất đai hợp lý, tiết kiệm và có hiệu quả. Nó được xây
dựng trên định hướng phát triển kinh tế - xã hội, quy hoạch phát triển đô thị,
yêu cầu bảo vệ môi trường, tôn tạo di tích lịch sử văn hố, danh lam thắng
cảnh; Hiện trạng quỹ đất và nhu cầu sử dụng; Định mức sử dụng đất, tiến bộ
khoa học kỹ thuật; Kết quả thực hiện quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất kỳ
trước. Những năm gần đây, quy hoạch đã góp phần khơng nhỏ tạo ra kết quả
đáng khích lệ, giúp khai thác, sử dụng đúng mục đích, tiết kiệm và có hiệu

4



quả, phát huy tiềm năng, nguồn lực về đất, mở rộng diện tích đất canh tác,
nâng cao chất lượng, đảm bảo an toàn lương thực [13].
Như vậy, về thực chất quy hoạch sử dụng đất là quá trình hình thành các
quyết định nhằm tạo điều kiện đưa đất đai vào sử dụng bền vững để mang lại
lợi ích cao nhất, thực hiện đồng thời hai chức năng: Điều chỉnh các mối quan
hệ đất đai và tổ chức sử dụng đất như tư liệu sản xuất đặc biệt với mục đích
nâng cao hiệu quả sản xuất của xã hội, kết hợp với bảo vệ đất và môi trường
[10].
Căn cứ vào đặc điểm, điều kiện tự nhiên, phương hướng, nhiệm vụ và
mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của mỗi vùng lãnh thổ, quy hoạch sử dụng
đất được tiến hành nhằm định hướng cho các cấp, các ngành trên địa bàn lập
quy hoạch và kế hoạch sử dụng đất chi tiết của mình; xác lập sự ổn định về
mặt pháp lý cho công tác quản lý Nhà nước về đất đai; làm cơ sở tiến hành
cấp đất và đầu tư phát triển sản xuất, đảm bảo an ninh lương thực, phục vụ
các nhu cầu dân sinh, văn hoá – xã hội.
Mặt khác, quy hoạch sử dụng đất còn là biện pháp hữu hiệu của Nhà
nước nhằm tổ chức lại việc sử dụng đất theo đúng mục đích, hạn chế sự chồng
chéo gây lãng phí đất đai, tránh tình trạng chuyển mục đích tuỳ tiện, làm giảm
sút nghiêm trọng quỹ đất nơng nghiệp, lâm nghiệp (đặc biệt là diện tích trồng
lúa và đất lâm nghiệp có rừng); Ngăn chặn các hiện tượng tiêu cực, tranh
chấp, lấn chiếm huỷ hoại đất, phá vỡ cân bằng sinh thái, gây ô nhiễm môi
trường dẫn đến những tổn thất hoặc kìm hãm sản xuất, phát triển kinh tế - xã
hội và hậu quả khó lường về tình hình bất ổn chính trị, an ninh quốc phòng ở
từng địa phương, đặc biệt là trong giai đoạn chuyển đổi sang nền kinh tế thị
trường [4].
2.1.1.2. Đặc điểm của quy hoạch sử dụng đất
Quy hoạch sử dụng đất thuộc loại quy hoạch có tính lịch sử - xã hội, tính

5



khống chế vĩ mơ, tính chỉ đạo, tính tổng hợp trung và dài hạn, là bộ phận hợp
thành quan trọng của của hệ thống kế hoạch phát triển xã hội và kinh tế quốc
dân. Các đặc điểm của quy hoạch sử dụng đất: [4]
* Tính lịch sử - xã hội: Lịch sử phát triển của xã hội chính là lịch sử phát
triển của quy hoạch sử dụng đất. Mỗi hình thái kinh tế - xã hội đều có một
phương thức sản xuất xã hội thể hiện theo hai mặt: lực lượng sản xuất (mối
quan hệ giữa người với sức hoặc vật tự nhiên trong quá trình sản xuất) và
quan hệ sản xuất (quan hệ giữa người với người trong quá trình sản xuất).
Trong quy hoạch sử dụng đất ln nảy sinh mối quan hệ giữa người với đất
đai – là sức tự nhiên (như điều tra, đo đạc, khoanh định, thiết kế . . .) cũng
như quan hệ giữa người với người (xác nhận bằng văn bằng về sở hữu và
quyền sử dụng đất giữa người với chủ sử dụng đất – GCN QSDĐ). Quy
hoạch sử dụng đất thể hiện đồng thời là yếu tố thúc đẩy phát triển lực lượng
sản xuất, vừa là yếu tố thúc đẩy mối quan hệ sản xuất, vì vậy nó ln là một
bộ phận của phương thức sản xuất xã hội.
Tuy nhiên, trong xã hội có phân chia giai cấp, quy hoạch sử dụng đất mang
tính tự phát, hướng tới mục tiêu vì lợi nhuận tối đa và nặng về pháp lý (là
phương tiện mở rộng, củng cố, bảo vệ quyền tư hữu đất đai: phân chia, tập
trung đất đai để mua, bán, phát canh thu tô . . . ) Ở nước ta, quy hoạch sử
dụng đất phục vụ nhu cầu sử dụng đất và quyền lợi của xã hội; góp phần tích
cực thay đổi quan hệ sản xuất ở nông thôn; nhằm sử dụng, bảo vệ đất và nâng
cao hiệu quả sản xuất xã hội. Đặc biệt, trong nền kinh tế thị trường, quy hoạch
sử dụng đất đã góp phần giải quyết các mâu thuẫn nội tại của từng lợi ích kinh
tế, xã hội và mơi trường nảy sinh trong q trình sử dụng đất, cũng như mâu
thuẫn giữa các lợi ích trên với nhau.
* Tính tổng hợp: Tính tổng hợp của quy hoạch sử dụng đất thể hiện ở hai
mặt: Đối tượng của quy hoạch là khai thác, sử dụng, cải tạo, bảo vệ tài

6



nguyên đất đai cho nhu cầu toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Quy hoạch sử dụng
đất đề cập đến nhiều lĩnh vực về khoa học, kinh tế và xã hội như khoa học tự
nhiên, khoa học xã hội, dân số và đất đai, sản xuất nông, công nghiệp, môi
trường sinh thái . . Với đặc điểm này, quy hoạch lãnh trách nhiệm tổng hợp
toàn bộ nhu cầu sử dụng đất; Điều hoà các mâu thuẫn về đất đai của các
ngành, lĩnh vực; xác định và điều phối phương hướng, phương thức phân bổ
sử dụng đất phù hợp với mục tiêu kinh tế - xã hội, bảo đảm cho nền kinh tế
quốc dân luôn phát triển bền vững, đạt tốc độ cao và ổn định.
* Tính dài hạn: Thể hiện ở việc xác định nhu cầu sử dụng đất để phát triển
kinh tế - xã hội lâu dài.
Căn cứ vào các dự báo xu thế biến động dài hạn của những yếu tố kinh tế
xã hội quan trọng (sự thay đổi về nhân khẩu, tiến bộ khoa học kỹ thuật, đơ thị
hố cơng nghiệp hố, hiện đại hố nơng nghiệp . . .), từ đó xác định quy hoạch
trung và dài hạn về sử dụng đất đai, đề ra các phương hướng, chính sách và
biện pháp có tính chiến lược, tạo căn cứ khoa học cho việc xây dựng kế hoạch
sử dụng đất hàng năm, 5 năm và lâu hơn nữa.
Quy hoạch dài hạn nhằm đáp ứng nhu cầu đất để phát triển lâu dài kinh tế
- xã hội. Cơ cấu và phương thức sử dụng đất được điều chỉnh từng bước trong
thời gian dài (cùng với phát triển dài hạn kinh tế - xã hội) cho đến khi đạt
được mục tiêu dự kiến. Thời hạn (xác định phương hướng, chính sách và sử
dụng đất để phát triển kinh tế và hoạt động xã hội) của quy hoạch sử dụng đất
thường từ trên 10 năm đến 20 năm hoặc lâu hơn.
* Tính chiến lược và chỉ đạo vĩ mơ: Với đặc tính trung và dài hạn, quy
hoạch sử dụng đất đai chỉ dự kiến được các xu thế thay đổi phương hướng,
mục tiêu, cơ cấu và phân bố sử dụng đất (mang tính đại thể, khơng dự kiến
được các hình thức và nội dung cụ thể, chi tiết của sự thay đổi). Vì vậy, quy
hoạch sử dụng đất là quy hoạch mang tính chiến lược, các chỉ tiêu của quy


7


hoạch mang tính chỉ đạo vĩ mơ, tính phương hướng và khái lược về sử dụng
đất của các ngành như:
- Phương hướng, mục tiêu và trọng điểm chiến lược của việc sử dụng đất
trong vùng;
- Cân đối nhu cầu sử dụng đất của các ngành;
- Điều chỉnh cơ cấu sử dụng đất và phân bổ đất đai trong vùng;
- Phân định ranh giới và các hình thức quản lý việc sử dụng đất đai trong
vùng;
- Đề xuất các biện pháp, các chính sách lớn để đạt được mục tiêu của
phương hướng sử dụng đất.
Do khoảng thời gian dự báo là tương đối dài, chịu ảnh hưởng của nhiều
nhân tố kinh tế - xã hội khó xác định, nên chỉ tiêu quy hoạch càng khái lược
hoá, quy hoạch sẽ càng ổn định.
* Tính chính sách: Quy hoạch sử dụng đất thể hiện rất mạnh đặc tính chính
trị và chính sách xã hội. Khi xây dựng phương án phải quán triệt các chính
sách và quy định có liên quan đến đất đai của Đảng và Nhà nước, đảm bảo thể
hiện cụ thể trên mặt bằng đất đai các mục tiêu phát triển kinh tế quốc dân,
phát triển ổn định kế hoạch kinh tế - xã hội; Tuân thủ các quy định, chỉ tiêu
khống chế về dân số và môi trường sinh thái.
* Tính khả biến: Dưới sự tác động của nhiều nhân tố khó dự đốn trước,
theo nhiều phương diện khác nhau, quy hoạch sử dụng đất chỉ là một trong
những giải pháp biến đổi hiện trạng sử dụng đất sang trạng thái mới thích hợp
cho việc phát triển kinh tế trong thời kỳ nhất định. Khi xã hội phát triển, khoa
học kỹ thuật ngày càng tiến bộ, chính sách và tình hình kinh tế thay đổi, các
dự kiến của quy hoạch sử dụng đất khơng cịn phù hợp. Việc chỉnh sửa, bổ
sung, hoàn thiện quy hoạch và điều chỉnh biện pháp thực hiện là cần thiết.


8


Điều này thể hiện tính khả biến của quy hoạch. Quy hoạch sử dụng đất luôn là
quy hoạch động, một quá trình lặp lại theo chiều xoắn ốc “quy hoạch - thực
hiện - quy hoạch lại hoặc chỉnh lý - tiếp tục thực hiện . . .” với chất lượng,
mức độ hồn thiện và tính phù hợp ngày càng cao.
2.1.2. Những nguyên tắc của quy hoạch sử dụng đất.
Với những áp lực và thực trạng sử dụng đất đai hiện nay cho thấy nguồn
tài nguyên đất đai ngày càng khan hiếm và có giới hạn, dân số thế giới gia
tăng. Do đó, địi hỏi phải có sự đối chiếu hợp lý giữa các kiểu sử dụng đất đai
và loại đất đai để đạt được khả năng tối đa về sản xuất ổn định và an toàn
lương thực, đồng thời cũng bảo vệ được hệ sinh thái cây trồng và môi trường
sống. Quy hoạch sử dụng đất đai là nền tảng cho q trình này, thơng qua quy
hoạch sử dụng đất, Nhà nước thực hiện chức năng phân phối và tái phân phối
quỹ đất nhằm đáp ứng nhu cầu về sử dụng đất cho các ngành, các đơn vị, cá
nhân sử dụng đất và điều chỉnh các mối quan hệ đất đai. Như vậy quy hoạch
sử dụng đất thực hiện đồng thời hai chức năng: điều chỉnh mối quan hệ đất
đai và tổ chức sử dụng đất như một tư liệu sản xuất đặc biệt được xây dựng
dựa trên những nguyên tắc sau:
Một là, Chấp hành quyền sở hữu Nhà nước về đất đai
Nguyên tắc này là cơ sở của mọi hoạt động và biện pháp liên quan tới
quyền sử dụng đất, là nguyên tắc quan trọng nhất trong hoạt động quy hoạch sử
dụng đất. Nó khơng chỉ mang tính ý nghĩa kinh tế, mà cịn là một vấn đề chính
trị quan trọng, bởi vì tài nguyên đất đã được quốc hữu hoá là đối tượng sở hữu
Nhà nước, đồng thời là căn cứ quan trọng để phát triển sức sản xuất, để củng cố
và hoàn thiện phương thức sản xuất xã hội chủ nghĩa, đặc biệt là nông nghiệp.
Luật pháp nhà nước tuyệt đối nghiêm cấm việc sử dụng đất khơng đúng
mục đích, bảo vệ quyền bất khả xâm phạm quyền sử dụng đất và tính ổn định


9


của mỗi đơn vị sử dụng đất, đó là cơ sở quan trọng nhất để phát triển sản xuất.
Theo quy định tại điều 5 của Luật đất đai năm 2003: đất đai thuộc sở hữu toàn
dân do Nhà nước là đại diện chủ sở hữu. Quyền quản lý tập trung thống nhất
của Nhà nước được thể hiện theo luật pháp và thể hiện ở nhiều mặt như đại
diện chủ quyền quốc gia về lãnh thổ; quyền giao đất sử dụng ổn định lâu dài
cho các tổ chức, hộ gia đình cá nhân; quyền cho các tổ chức, cá nhân trong và
ngồi nước th đất; quyền quyết định mục đích sử dụng đất; quyền xác định
khung giá đất; quyền giám sát, xử lý các vi phạm pháp luật về đất đai. Để
thực hiện quyền quản lý tập trung, thống nhất của mình, Nhà nước phải nắm
và sử dụng tốt các cơng cụ quản lý cơ bản về quy hoạch sử dụng đất, cơng cụ
tài chính, pháp luật và các chính sách kinh tế khác.
Quy hoạch sử dụng đất cịn có vai trò quan trọng trong việc ngăn ngừa các
hành vi xâm phạm sự toàn vẹn lãnh thổ của các đơn vị sử dụng đất. Khi quy
hoạch sử dụng đất, người ta đã thiết lập nên đường ranh giới giữa các đơn vị
sử dụng đất, giữa sản xuất nông nghiệp với khu dân cư, giữa các chủ sử dụng
đất với nhau, tức là đã xác định phạm vi quyền lợi của mỗi chủ sử dụng đất.
Nhà nước cho phép các chủ sử dụng đất có các quyền về sử dụng đất, quyền
sử dụng đất của các chủ sử dụng được xác nhận bằng các văn bản pháp luật
và được luật pháp Nhà nước bảo hộ. Mọi thay đổi trong cơ cấu đơn vị sử
dụng đất phải được phản ánh kịp thời trong các tài liệu thích hợp.
Hai là, sử dụng đất tiết kiệm, bảo vệ đất và bảo vệ tài nguyên thiên nhiên.
Đất đai là tư liệu sản xuất đặc biệt, là điều kiện tồn tại cơ bản, gắn liền với
hoạt động của con người, của các tổ chức kinh tế, chính trị, xã hội của Nhà
nước, có vai trị quan trọng với con người. Đất đai có một đặc điểm rất quan
trọng là nếu được sử dụng đúng mục đích và hợp lý thì chất lượng ngày càng
tốt lên. Tính chất đặc biệt này của đất đòi hỏi chúng ta phải hết sức chú ý
trong việc sử dụng đất. Trong điều kiện diện tích đất đai có hạn, trong khi dân


10


số không ngừng tăng nhanh, gây áp lực lớn đối với việc sử dụng đất đai. Điều
này đòi hỏi việc sử dụng đất phải tiết kiệm và hiệu quả. Sử dụng đất tiết kiệm
nghĩa là phải bố trí hài hồ giữa nhu cầu sử dụng đất của các ngành, hạn chế
tối đa việc chuyển đất canh tác có hiệu quả cao sang sử dụng và các mục đích
phi nơng nghiệp, đảm bảo an toàn lương thực quốc gia, thoả mãn nhu cầu
nơng sản cho tồn xã hội và ngun liệu cho cơng nghiệp, đồng thời cân đối
quỹ đất thích hợp với nhiệm vụ cơng nghiệp hố, hiện đại hố đất nước, nâng
cao chất lượng đất và mở rộng diện tích.
Một trong những vấn đề bảo vệ đất quan trọng nhất là ngăn ngừa và dập
tắt các q trình xói mịn do gió và nước gây nên. Đặc biệt đối với nước ta với
đặc điểm địa hình đồi núi chiếm tới 3/4 lãnh thổ, lại nằm ở vùng nhiệt đới,
mưa nhiều và tập trung, nhiệt độ khơng khí cao, các q trình khống hố
diễn ra mạnh trong đất nên dễ bị rửa trơi, xói mịn, nghèo chất hữu cơ và chất
dinh dưỡng dẫn đến suy thoái; quan trọng hơn nữa trong thời gian qua do nạn
chặt phá, đốt rừng diễn ra bừa bãi, sử dụng đất không bền vững làm cho nhiều
vùng đất bị thoái hoá ngày càng nghiêm trọng, nhiều nơi mất khả năng sản
xuất và xu hướng hoang mạc hố ngày càng tăng. Những điều này có tác hại
rất lớn đối với hoạt động sản xuất nông nghiệp, nếu chúng ta khơng có biện
pháp chống xói mịn một cách có hệ thống thì hậu quả ngày càng lớn. Xói
mịn sẽ làm mất đi lớp đất mặt mầu mỡ nhất. Khi tổ chức các biện pháp
chống xói mịn cần tính đến các đặc điểm địa hình, thổ nhưỡng, thuỷ văn của
từng vùng. Tổ hợp các biện pháp chống xói mịn sẽ được giải quyết trong một
đồ án quy hoạch có luận chứng khoa học.
Nhưng trong lĩnh vực bảo vệ đất, quy hoạch sử dụng đất không chỉ làm
nhiệm vụ chống xói mịn, mà cịn phải chống các q trình ơ nhiễm đất, bảo
vệ các yếu tố của môi trường thiên nhiên.


11


Ô nhiễm môi trường là vấn đề đáng quan tâm của tồn xã hội. Đất có thể
bị ơ nhiễm bởi chất thải công nghiệp, chất thải sinh hoạt, nước thải ra từ các
nhà máy và nước thải sinh hoạt từ các đơ thị lớn, ơ nhiễm bởi các chất phóng
xạ, bởi việc sử dụng quá mức các hoá chất bảo vệ thực vật độc hại và lạm
dụng phân hoá học. Trong các phương án quy hoạch sử dụng đất cần dự kiến
các biện pháp chống ơ nhiễm một cách có hiệu quả.
Để tránh lãng phí, khi cấp đất cho các nhu cầu phi nông nghiệp, trong các
phương án quy hoạch sử dụng đất phải bố trí hợp lý các cơng trình nhà ở và
phục vụ sản xuất theo tinh thần tiết kiệm đất.
Ba là, tổ chức phân bổ quỹ đất cho các ngành đáp ứng mục tiêu phát triển
kinh tế - xã hội.
Khi phân bổ quỹ đất cho các ngành, cần bảo đảm nguyên tắc tổ chức sử
dụng tài nguyên đất vì lợi ích của nền kinh tế quốc dân nói chung và từng
ngành nói riêng, trong đó ưu tiên cho ngành nông nghiệp.
Sự phát triển của các ngành nông nghiệp, công nghiệp, giao thông vận
tải, xây dựng, thuỷ điện, dầu khí . . . đều địi hỏi phải có đất. Việc bố trí các xí
nghiệp cơng nghiệp, các tuyến giao thơng vận tải, các khu khai thác khống
sản và cơng trình xây dựng lớn thường được dự kiến trước trong kế hoạch
phát triển kinh tế quốc dân dài hạn, với tiêu chí: những khoanh đất giao cho
các nhu cầu phi nông nghiệp nên lấy từ đất chưa sử dụng hoặc đất sử dụng
kém hiệu quả trong nông nghiệp.
Khi giao đất cho các nhu cầu phi nông nghiệp, hầu như bao giờ cũng làm
thay đổi cơ cấu sử dụng đất của đơn vị bị mất đất. Do đó, khi xây dựng dự án
giao đất cần lưu ý để hoạt động sản xuất của các cơ sở đó khơng bị hoặc ít bị
ảnh hưởng nhất. Trong trường hợp, nếu việc giao đất cho nhu cầu phi nông
nghiệp làm cho cơ cấu sử dụng đất bị thay đổi nhiều, tổ chức lãnh thổ bên


12


trong bị đảo lộn thì phải quy hoạch lại tồn bộ hoặc một phần hoặc từng bộ
phận cho đơn vị sử dụng đất đó.
Khi đánh giá về mặt kinh tế những hậu quả do việc giao đất gây ra. Chủ sử
dụng đất bị mất đất có quyền địi hỏi chủ được giao đất phải bồi thường toàn
bộ những khoản thiệt hại do việc thu hồi đất và giao đất gây ra và cả những
chi phí để quy hoạch lại. Việc bồi thường những khoản chi phí trên cho chủ bị
mất đất là nghĩa vụ và trách nhiệm của chủ được giao đất.
Bốn là, quy hoạch sử dụng đất phải tạo ra những điều kiện tổ chức lãnh thổ
hợp lý.
Quy hoạch sử dụng đất được tiến hành theo kế hoạch chung của Nhà nước,
của ngành và của từng đơn vị sử dụng đất cụ thể. Trên cơ sở đó có thể áp
dụng các hình thức quản lý kinh tế tiên tiến, ứng dụng các công nghệ mới, các
tiến bộ khoa học kỹ thuật nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất, hiệu quả sử dụng
đất và sử dụng lao động.
Quy hoạch sử dụng đất phải nhằm mục đích tạo ra những điều kiện về tổ
chức lãnh thổ thúc đẩy các đơn vị sản xuất thực hiện đạt và vượt mức kế
hoạch Nhà nước giao. Khi quy hoạch sử dụng đất, người ta dự kiến phương
hướng sử dụng đất trong một thời gian dài.
Quy hoạch sử dụng đất phải có sự kết hợp hài hoà nhu cầu sử dụng đất của
các ngành, tổ chức lãnh thổ hợp lý mới giúp cho việc phát triển các ngành cân
đối theo chỉ tiêu và nhu cầu sử dụng đất đã định.
Năm là, phải phù hợp với điều kiện tự nhiên kinh tế - xã hội của vùng
lãnh thổ.
Mỗi vùng, mỗi đơn vị sử dụng đất đều có những điểm khác biệt về điều
kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội nên phương án quy hoạch xây dựng phù hợp
cho từng vùng cũng khác nhau. Nếu khơng thì không thể tổ chức sử dụng hợp

lý đất đai.

13


Điều kiện tự nhiên là các yếu tố về khí hậu, điều kiện đất đai (địa hình, thổ
nhưỡng), khí hậu, ánh sáng, nguồn nước và các điều kiện khác đây là các yếu
tố cơ bản để xác định công dụng của đất đai, có ảnh hưởng trực tiếp, cụ thể và
sâu sắc nhất đối với hoạt động sản xuất nông nghiệp. Vì vậy, trong thực tiễn
việc sử dụng đất cần tuân thủ quy luật tự nhiên, tận dụng các lợi thế nhằm đạt
hiệu ích cao nhất về kinh tế, xã hội và môi trường.[2]
Trong số các điều kiện kinh tế - xã hội phải kể đến các yếu tố như chế độ
xã hội, dân số, lao động, chính sách đất đai, sức sản xuất và trình độ phát triển
của kinh tế hàng hoá, cơ cấu kinh tế và phân bổ sản xuất, các điều kiện về
công nghiệp, nông nghiệp, thương nghiệp, giao thông vận tải . . . Căn cứ vào
yêu cầu của thị trường và xã hội, xác định mục đích sử dụng đất, kết hợp chặt
chẽ yêu cầu sử dụng đất với ưu thế tài nguyên thiên nhiên đất đai để đạt tới cơ
cấu tổng thể hợp lý nhất, với diện tích đất đai có hạn sẽ mang lại hiệu quả
kinh tế, hiệu quả xã hội ngày càng cao và sử dụng đất đai được bền vững.
2.1.3. Một số lý luận về sử dụng đất hợp lý
2.1.3.1. Đất đai và chức năng của đất đai
Định nghĩa đất đai theo Brinkman và Smyth (1976), về mặt địa lý mà nói
đất đai “là một vùng đất chuyên biệt trên bề mặt của trái đất có những đặc
tính mang tính ổn định, hay có chu kỳ dự đốn được trong khu vực sinh khí
quyển theo chiều thẳng từ trên xuống dưới, trong đó bao gồm: khơng khí, đất
và lớp địa chất, nước, quần thể thực vật và động vật và kết quả của những
hoạt động bởi con người trong việc sử dụng đất đai ở quá khứ, hiện tại và
trong tương lai”.
Đến năm 1993, trong Hội nghị quốc tế về môi trường ở Rio de janerio,
Brazinl, (1993) [32], đất đai về mặt thuật ngữ khoa học được hiểu theo nghĩa

rộng được xác định đất đai là: “diện tích cụ thể của bề mặt trái đất, bao gồm

14


tất cả các cấu thành của môi trường sinh thái ngay trên và dưới bề mặt đó, bao
gồm: khí hậu bề mặt, thổ nhưỡng, dạng địa hình, mặt nước (hồ, sơng, suối,
đầm lầy), các lớp trầm tích sát bề mặt, cùng với nước ngầm và khống sản
trong lịng đất, tập đoàn thực vật và động vật, trạng thái định cư của con
người, những kết quả của con người trong quá khứ và hiện tại để lại (san nền,
hồ chứa nước, hay hệ thống thoát nước, đường xá, nhà cửa . . .)
Như vậy, đất đai có thể gồm: Khí hậu, Đất, Nước, Địa hình/địa chất, Thực
vật, Động vật, Vị trí, Diện tích, Kết quả hoạt động của con người. [12]
Theo định nghĩa về đất đai của Luật đất đai năm (2003) [8] thì: “Đất là tài
sản quốc gia, là tư liệu sản xuất chủ yếu, là đối tượng lao động đồng thời cũng
là sản phẩm lao động. Đất còn là vật mang của hệ sinh thái tự nhiên và hệ
sinh thái canh tác, đất là mặt bằng để phát triển nền kinh tế quốc dân.”
Theo FAO (1995), các chức năng của đất đai đối với hoạt động sản xuất và
tồn tại của xã hội loài người được thể hiện qua các mặt như sau: sản xuất, môi
trường sống, điều chỉnh khí hậu, cân bằng sinh thái, tồn trữ và cung cấp nguồn
nước, dự trữ (ngun liệu, khống sản trong lịng đất); không gian sự sống,
bảo tồn, lịch sử; vật mang sự sống; phân vị lãnh thổ. Như vậy, có thể khái quát.
Đất đai là điều kiện chung nhất đối với mọi ngành sản xuất và hoạt động của
con người, vừa là đối tượng lao động (cho môi trường để tác động như: xây
dựng nhà xưởng, bố trí máy móc, làm đất . . .), vừa là phương tiện lao động
(cho công nhân nơi đứng, dùng để gieo trồng, nuôi gia súc . . .). Như vậy, đất
không phải là đối tượng của từng cá thể mà chúng ta đang sử dụng coi là của
mình, khơng chỉ thuộc về chúng ta. Đất là điều kiện vật chất cần thiết để tồn tại
và tái sản xuất các thế hệ tiếp nhau của lồi người. Vì vậy trong sử dụng đất
cần làm cho đất tốt hơn cho các thế hệ mai sau (Tổng cục Địa chính 1996).

Nhu cầu tăng trưởng kinh tế xã hội phát triển mạnh, cùng với sự bùng nổ
dân số đã làm cho mối quan hệ giữa con người và đất ngày càng căng

15


thẳng, những sai lầm liên tục của con người trong q trình sử dụng đất (có
ý thức hoặc vơ ý thức) dẫn đến huỷ hoại môi trường đất, một số chức năng
nào đó của đất bị yếu đi. Vấn đề sử dụng đất đai ngày càng trở nên quan
trọng và mang tính tồn cầu. Với sự phát triển khơng ngừng của sức sản
xuất, chức năng của đất đai cần được nâng cao theo hướng đa dạng nhiều
tầng nấc, để truyền lại cho các thế hệ mai sau. [12]
Các chức năng của đất đai đối với hoạt động sản xuất và sinh tồn của
xã hội lồi người theo Lê Quang Trí [12], được thể hiện ở các mặt sau:
- Chức năng sản xuất: Đất đai là nền tảng cho hệ thống hỗ trợ sự sống,
thông qua việc sản xuất sinh khối để cung cấp lương thực, thực phẩm chăn
nuôi, sợi, dầu, gỗ và các vật liệu sinh vật sống khác cho con người sử dụng,
một cách trực tiếp hay thông qua các vật nuôi như nuôi trồng thuỷ sản và
đánh bắt thuỷ sản vùng ven biển.
- Chức năng về môi trường sống: Đất đai là nền tảng của đa dạng hoá
sinh vật trong đất thông qua việc cung cấp môi trường sống cho sinh vật và
nơi dự trữ nguồn gen cho thực vật, động vật, và vi sinh vật, ở trên và bên dưới
bề mặt đất.
- Chức năng điều hồ khí hậu: Đất đai và sử dụng đất đai là nguồn và
nơi chứa khí ga từ nhà kính hay hình thành một sự cân bằng năng lượng toàn
cầu giữa phản chiếu, hấp thu hay chuyển đổi năng lượng bức xạ mặt trời và
của chu kỳ thuỷ văn của toàn cầu.
- Chức năng trữ nước: Đất đai điều hoà sự tồn trữ và lưu thông của
nguồn tài nguyên nước mặt và nước ngầm, và những ảnh hưởng của chất
lượng nước.

- Chức năng tồn trữ: đất đai là kho chứa các vật liệu và chất khống thơ
cho việc sử dụng của con người.

16


- Chức năng kiểm sốt chất thải và ơ nhiếm: Đất đai có khả năng hấp
thụ, lọc, đệm và chuyển đổi những thành phần nguy hại.
- Chức năng không gian sống: Đất đai cung cấp nền tảng tự nhiên
cho việc xây dựng khu dân cư, nhà máy và các hoạt động xã hội như thể
thao, nghỉ ngơi.
- Chức năng bảo tồn di tích lịch sử: Đất đai là nơi chứa đựng và bảo vệ
các chứng tích lịch sử văn hố của lồi người, và nguồn thơng tin về các điều
kiện khí hậu và những sử dụng đất đai trong quá khứ.
- Chức năng nối liền không gian: Đất đai cung cấp không gian cho sự
vận chuyển của con người, đầu tư và sản xuất, và cho sự di chuyển của thực
vật, động vật giữa những vùng riêng biệt của hệ sinh thái tự nhiên.
Sự thích hợp của đất cho nhiều chức năng trên thể hiện rất khác nhau ở
mọi nơi trên thế giới. Các khu vực cảnh quan là khu vực tài nguyên thiên
nhiên, có động thái riêng của chúng. Nhưng con người lại có rất nhiều tác
động ảnh hưởng đến động thái này (kể cả không gian và thời gian). Có thể cải
thiện chất lượng của đất cho một hoặc nhiều chức năng, nói chung đất đã và
đang bị các hoạt động của con người gây thoái hoá.
Mức độ suy thối đất đai có thể tiếp tục xảy ra hay cũng có thể gia tăng
thêm dưới điều kiện ảnh hưởng của con người trong việc thay đổi khí hậu
tồn cầu. Sự suy thối đất có thể được kiểm sốt, cải thiện tốt lên hay ngay cả
dự trữ cho các loại hình sử dụng khác nhau một cách rộng rãi, nếu như các
chức năng phải được chú ý, các mong ước điều lợi trước mắt ngắn hạn được
thau thế bằng các mong ước lợi nhuận lâu dài và bền vững ở các cấp từ toàn
cầu cho đến quốc gia và địa phương [12].

Sự suy thoái Đất đai đã và đang trầm trọng hơn ở những nơi sử dụng
đất đai không có quy hoạch, hay những lý do khác về pháp chế và tài chính

17


làm cho các quyết định sử dụng đất đai sai hay chỉ có quy hoạch một chiều từ
Trung ương xuống mà khơng có tham khảo ý kiến thực tế của địa phương
đưa đến việc khai thác quá độ nguồn tài nguyên. Hậu quả của các hành động
này là làm cho một số lớn người dân địa phương ngày càng gặp khó khăn
trong cuộc sống và đồng thời cũng phá huỷ dần hệ sinh thái có giá trị. Như
thế, những phương pháp hạn hẹp cần phải được thay thế bằng một kỹ thuật
mới trong quy hoạch và quản lý nguồn tài nguyên đất đai, đó là tổng hợp hay
tổng thể và đặt người sử dụng đất đai là trung tâm. Điều này sẽ bảo đảm chất
lượng lâu dài của đất đai cho con người sử dụng, hạn chế hay có những giải
pháp cho các mẫu chuẩn về mặt xã hội liên quan đến sử dụng đất đai và bảo
vệ hệ sinh thái có các giá trị đa dạng sinh học cao [12].
2.1.3.2. Những lợi ích khác nhau về sử dụng đất
Đất đai là điều kiện chung nhất (khoảng không gian lãnh thổ cần thiết)
đối với mọi quá trình sản xuất trong các ngành kinh tế quốc dân và hoạt động
của con người. Điều này có nghĩa - thiếu khoảnh đất (vị trí, hình thể, quy mơ,
diện tích và u cầu về chất lượng nhất định) thì khơng một ngành nào, một xí
nghiệp nào có thể bắt đầu cơng việc và hoạt động được. Nói khác đi – khơng
có đất sẽ khơng có sản xuất cũng như khơng có sự tồn tại của chính con
người.
- Lợi ích của việc sử dụng đất trong các ngành phi nông nghiệp:
Trong các ngành phi nông nghiệp, đất đai giữ vai trò thụ động với chức
năng là cơ sở khơng gian và vị trí để hồn thiện quá trình lao động, là kho
tàng dự trữ trong lịng đất (các ngành khai thác khống sản). Q trình sản
xuất và sản phẩm được tạo ra không phụ thuộc vào đặc điểm, độ phì nhiêu

của đất, chất lượng thảm thực vật và tính chất tự nhiên sẵn có trong đất.
- Lợi ích của việc sử dụng đất trong ngành nông nghiệp – lâm nghiệp:

18


Đất giữ vai trị tích cực trong q trình sản xuất, là điều kiện vật chất,
cơ sở không gian, đồng thời là đối tượng lao động (luôn chịu sự tác động
trong q trình sản xuất) và là cơng cụ hay phương tiện hoạt động (sử dụng
đất để trồng trọt, chăn ni . . . ). Q trình sản xuất nơng – lâm nghiệp ln
liên quan chặt chẽ với độ phì nhiêu và quá trình sinh học tự nhiên trong đất.
Lợi ích của việc sử dụng đất rất đa dạng, song có thể chia thành ba
nhóm lợi ích cơ bản sau:
+ Sử dụng đất làm tư liệu sản xuất và tư liệu sinh hoạt để thoả mãn nhu
cầu sinh tồn và phát triển của con người;
+ Dùng đất làm cơ sở sản xuất và môi trường hoạt động;
+ Cung cấp không gian môi trường cảnh quan mỹ học cho việc hưởng
thụ tinh thần.
2.1.3.3. Những nhân tố ảnh hưởng đến việc sử dụng đất
Mục tiêu của việc sử dụng hợp lý tài nguyên đất là phát huy tối đa tiềm
năng đất đai nhằm đạt hiệu quả kinh tế, xã hội, môi trường và sự phát triển bền
vững. Vì vậy, phạm vi, cơ cấu và phương thức sử dụng đất vừa bị chi phối bởi
các điều kiện quy luật sinh thái tự nhiên vừa bị chi phối bởi các điều kiện quy
luật kinh tế - xã hội và các yếu tố kỹ thuật. Theo nghiên cứu của Viện điều tra
quy hoạch đất đai [16]: có ba nhóm nhân tố ảnh hưởng đến sử dụng đất:
- Nhân tố điều kiện tự nhiên:
Khi sử dụng đất đai, ngồi bề mặt khơng gian cần chú ý đến việc thích
ứng với các điều kiện tự nhiên và quy luật sinh thái của đất cũng như của các
yếu tố bao quanh mặt đất như nhiệt độ, ánh sáng, bức xạ, độ ẩm, yếu tố địa
hình, thổ nhưỡng, xói mòn . . . để xác định yếu tố hạn chế hay tích cực cho

việc sử dụng đất. Trong điều kiện tự nhiên khí hậu là yếu tố hàng đầu tác
động đến việc sử dụng đất đai, sau đó là điều kiện đất đai và các yếu tố khác.

19


+ Yếu tố khí hậu: Khí hậu là một thành phần rất quan trọng của hệ sinh
thái đồng ruộng. Nó cung cấp năng lượng chủ yếu cho quá trình tạo thành
chất hữu cơ, mang lại năng suất cho cây trồng. Tổng tích ơn nhiều hay ít,
nhiệt độ bình qn cao thấp, sự sai khác nhiệt độ về thời gian và không gian,
sự sai khác giữa nhiệt độ tối cao và tối thấp, sai khác về độ ẩm trong ngày,
giữa các mùa trong năm hay các khu vực khác nhau . . . trực tiếp ảnh hưởng
đến sự phân bố, sinh trưởng và phát triển của cây trồng, rừng tự nhiên và thực
vật thuỷ sinh . . . Cường độ ánh sáng mạnh hay yếu, thời gian chiếu dài hay
ngắn cũng có tác dụng nhất định tới sinh trưởng, phát triển và quang hợp của
cây trồng. Chế độ nước, lượng mưa nhiều hay ít, bốc hơi mạnh hay yếu có ý
nghĩa quan trọng cho việc giữ nhiệt độ và độ ẩm của đất, cũng như khả năng
đảm bảo cung cấp nước cho sinh trưởng của cây trồng, thảm thực vật, gia súc
và thuỷ sản . . .
+ Điều kiện đất đai: Sự khác nhau giữa địa hình, địa mạo, độ cao so với
mặt nước biển, độ dốc và hướng dốc, sự bào mịn mặt đất và mức độ xói
mịn . . . thường dẫn tới sự khác nhau về đất đai và khí hậu, ảnh hưởng tới sản
xuất và phân bổ các ngành nơng, lâm nghiệp.
Địa hình là yếu tố phức tạp ảnh hưởng đến nhiều yếu tố khác nhau. Ở
vùng đồi núi, địa hình và độ dốc ảnh hưởng đến phương thức sử dụng đất
nông nghiệp, đặt ra yêu cầu xây dựng hệ thống đồng ruộng để thuỷ lợi hoá và
cơ giới hố. Đối với ngành phi nơng nghiệp, địa hình quyết định những thuận
lợi hay khó khăn của việc thi cơng cơng trình hay khả năng lưu thơng hàng
hố, gián tiếp ảnh hưởng đến khả năng và quy mô sản xuất.
Đặc thù của điều kiện tự nhiên mang tính khu vực, Vị trí địa lý của

vùng với sự khác biệt về điều kiện ánh sáng, nhiệt độ, nguồn nước và các điều
kiện tự nhiên khác sẽ quyết định đến khả năng, công dụng và hiệu quả sử
dụng đất đai. Vì vậy, trong thực tiễn sử dụng đất cần tuân thủ các quy luật tự

20


nhiên, tận dụng các lợi thế nhằm đạt lợi ích cao nhất về kinh tế, xã hội và môi
trường.
- Nhân tố kinh tế xã hội:
Điều kiện kinh tế - xã hội bao gồm các yếu tố: Điều kiện dân số và lao
động, điều kiện vốn và cơ sở vật chất kỹ thuật của sản xuất xã hội, trình độ
quản lý và tổ chức sản xuất, Sự phát triển của khoa học và ứng dụng tiến bộ
kỹ thuật, chế độ kinh tế, xã hội.
Các điều kiện tự nhiên của đất đai là cơ sở cho phép xác định khả năng
thích ứng về phương thức sử dụng đất; còn phương hướng sử dụng đất được
quyết định bởi yêu cầu của xã hội và mục tiêu kinh tế trong từng thời kỳ nhất
định. Việc sử dụng đất như thế nào được quyết định bởi sự năng động của con
người và các điều kiện kinh tế - xã hội, kỹ thuật hiện có; quyết định bởi tính
hợp lý, tính khả thi về kỹ thuật và mức độ đáp ứng của chúng . . .; quyết định
bởi nhu cầu thị trường.
Trên thực tế điều kiện tự nhiên của mỗi vùng thì ít có sự khác biệt
nhưng hiệu quả sử dụng đất thì có sự khác biệt lớn, nguyên nhân chủ yếu là
do các điều kiện kinh tế, xã hội: vốn, nguồn nhân lực, cơ sở hạ tầng . . . quyết
định; với điều kiện tự nhiên đồng nhất nhưng vùng nào có kinh tế phát triển,
vốn đầu tư lớn, nhận thức và trình độ của người lao động cao thì sử dụng có
hiệu quả.
Trình độ phát triển kinh tế - xã hội khác nhau dẫn đến trình độ sử dụng
đất khác nhau. Khi khoa học cơng nghệ ngày càng phát triển thì hiệu quả sử
dụng đất cũng được nâng lên. Nhờ có thành tựu khoa học kỹ thuật tiên tiến

mà chúng ta có những nghiên cứu về lai tạo giống cây trồng cho năng suất
cao, phù hợp với điều kiện sinh thái của từng vùng, chế tạo ra máy móc, cơng
cụ sản xuất theo cơng nghệ tiên tiến. . . tạo điều kiện nâng cao tối đa hiệu quả
sản xuất, đảm bảo cho sự phát triển bền vững.

21


Từ những lý luận trên cho thấy, các điều kiện kinh tế - xã hội có tác
động khơng nhỏ tới sử dụng đất đai, thúc đẩy hoặc kìm hãm quá trình sử
dụng đất hiệu quả của con người. Vì vậy, khi lựa chọn phương án sử dụng
đất, ngoài việc dựa vào quy luật tự nhiên thì các yếu tố kinh tế - xã hội cũng
không kém phần quan trọng.
- Nhân tố không gian:
Trong thực tế, đất đai là điều kiện không gian đảm bảo hoạt động của
bất kỳ ngành sản xuất nào (nơng nghiệp, cơng nghiệp, xây dựng, khai thác
khống sản . . .). Tính khơng gian của đất đai bao gồm: vị trí địa lý, địa hình,
hình dạng, diện tích. Đất đai phải khai thác tại chỗ nên sự thừa thãi của nơi
này không thể sử dụng để đáp ứng sự thiếu đất ở địa phương khác. Do đó,
khơng gian là yếu tố quan trọng quyết định hiệu quả của việc sử dụng đất.
Sự bất biến của tổng diện tích đất đai khơng chỉ hạn chế khả năng mỏ
rộng khơng gian sử dụng đất, mà cịn chi phối giới hạn thay đổi của cơ cấu đất
đai. Điều này quyết định việc điều chỉnh cơ cấu đất đai theo loại, số lượng
được sử dụng căn cứ sức sản xuất của đất và yêu cầu sản xuất của xã hội
nhằm đảm bảo nâng cao năng lực của đất đai.
Đối với đất xây dựng đô thị, đất dùng cho công nghiệp, xây dựng, nhà
xưởng, giao thông . . . mặt bằng không gian và vị trí của đất đai có ý nghĩa
đặc biệt quan trọng và giá trị kinh tế cao.
Như vậy nhân tố khơng gian ảnh hưởng tới q trình sử dụng đất, nó sẽ
gián tiếp quyết định hiệu quả sử dụng đất.

2.1.3.4. Các xu thế phát triển sử dụng đất:
Sử dụng đất là hệ thống các biện pháp nhằm điều hoà mối quan hệ
người - đất trong tổ hợp các nguồn tài nguyên thiên nhiên khác và môi trường.
Căn cứ nhu cầu thị trường sẽ phát hiện, quyết định phương hướng chung và

22


mục tiêu sử dụng hợp lý tài nguyên đất, phát huy tối đa công dụng của đất
nhằm đạt tới lợi ích sinh thái, kinh tế và xã hội cao nhất. Vì vậy, sử dụng đất
thuộc phạm trù hoạt động kinh tế của nhân loại. Trong mỗi phương thức sản
xuất xã hội nhất định, việc sử dụng đất theo yêu cầu của sản xuất và đời sống
cần căn cứ vào thuộc tính tự nhiên của đất đai. Với ý nghĩa là nhân tố của sức
sản xuất, các nhiệm vụ và nội dung sử dụng đất thể hiện ở các mặt sau:
- Sử dụng đất hợp lý về khơng gian, hình thành hiệu quả kinh tế không
gian sử dụng đất;
- Phân phối hợp lý cơ cấu đất đai trên diện tích đất được sử dụng, hình
thành cơ cấu kinh tế sử dụng đất;
- Quy mơ sử dụng đất cần có sự tập trung thích hợp, hình thành quy mơ
kinh tế sử dụng đất;
- Giữ mật độ sử dụng đất thích hợp, hình thành việc sử dụng đất một
cách kinh tế, tập trung, thâm canh.
Hiện nay, các xu thế sử dụng đất được phát triển theo các hướng sau:
* Sử dụng đất theo chiều rộng và tập trung:
Lịch sử phát triển của xã hội lồi người chính là lịch sử biến đổi của
q trình sử dụng đất. Thời kỳ du mục, con người sống trong lều cỏ, những
vùng đất có nước và cỏ bắt đầu được sử dụng. Khi xuất hiện ngành trồng trọt
với những cơng cụ sản xuất thơ sơ, diện tích đất đai được sử dụng tăng lên
nhanh chóng, năng lực sử dụng cũng như ý nghĩa kinh tế của đất đai cũng gia
tăng. Tuy nhiên, trình độ sử dụng đất còn rất thấp. Với sự tăng trưởng của dân

số và phát triển kinh tế, kỹ thuật, văn hoá, khoa học, quy mô, phạm vi và
chiều sâu của việc sử dụng đất ngày một nâng cao. Yêu cầu sinh hoạt vật chất
và tinh thần của người dân ngày càng tăng cao, các ngành nghề cũng phát
triển theo xu hướng phức tạp và đa dạng, phạm vi sử dụng đất được mở rộng.

23


Cùng với việc phát triển đất theo không gian, trong điều kiện gia tăng
nhu cầu sử dụng đất của các ngành, các lĩnh vực thì đất canh tác cũng như đất
sử dụng cho các mục đích khác được sử dụng theo hướng kinh doanh tập
trung, với diện tích ít nhưng hiệu quả sử dụng cao.
Tuy nhiên, trong thời kỳ quá độ từ kinh doanh quảng canh sang kinh
doanh thâm canh cao, để nâng cao sức sản xuất của một đơn vị diện tích, địi
hỏi phải liên tục nâng cao mức đầu tư về vốn và lao động, thường xuyên cải
tiến kỹ thuật và công tác quản lý.
* Sử dụng đất phát triển theo hướng phức tạp và chun mơn hố
Khoa học kỹ thuật và kinh tế - xã hội phát triển, sử dụng đất từ hình
thức quảng canh chuyển sang thâm canh, kéo theo xu thế từng bước phức tạp
hoá và chun mơn hố cơ cấu sử dụng đất.
Khi kinh tế phát triển, nhu cầu của con người về vật chất, văn hố, tinh
thần và mơi trường ngày một cao sẽ trực tiếp hoặc gián tiếp đòi hỏi yêu cầu
cao hơn đối vơi đất đai. Khi mức sống còn thấp, việc sử dụng đất chủ yếu tập
trung vào sản xuất nông nghiệp nhằm giải quyết vấn đề thường nhật của cuộc
sống là đủ cơm ăn, áo mặc và chỗ ở. Khi đời sống nâng cao, chuyển sang giai
đoạn hưởng thụ, vấn đề sử dụng đất ngoài việc sản xuất vật chất cịn phải thoả
mãn nhu cầu vui chơi, giải trí, văn hố, thể thao và mơi trường . . . đã làm cho
cơ cấu sử dụng đất trở nên phức tạp hơn.
Tiến bộ khoa học kỹ thuật đã cho phép mở rộng khả năng kiểm soát tự
nhiên của con người, áp dụng các biện pháp thâm canh, cải tạo và nâng cao

sức sản xuất của đất đai, thoả mãn các loại nhu cầu của xã hội. Khi nền kinh
tế khoa học kỹ thuật cịn ở trình độ thấp, chủ yếu sử dụng bề mặt đất đai,
nông nghiệp độc canh, trồng cỏ, khai thác khống sản cịn hạn chế, xây dựng
chủ yếu chọn đất bằng. Khi khoa học kỹ thuật hiện đại phát triển, ngay cả đất

24


xấu cũng được khai thác triệt để, hình thức sử dụng đa dạng, ruộng nước phát
triển, . . . đã làm cho nội dung sử dụng đất ngày một phức tạp hơn theo hướng
sử dụng toàn diện, triệt để các chất dinh dưỡng, sức tải, vật chất cấu thành và
sản phẩm của đất đai để phục vụ cho lợi ích con người.
Hiện đại hoá nền kinh tế quốc dân và phát triển kinh tế hàng hố, dẫn
đến sự phân cơng trong sử dụng đất theo hướng chun mơn hố. Do đất đai
có đặc tính khu vực rất mạnh, sự sai khác về ưu thế tài nguyên hết sức rõ
rệt, phương hướng và biện pháp sử dụng đất của các vùng cũng rất khác
nhau. Để sử dụng hợp lý đất đai, đạt sản lượng và hiệu quả kinh tế cao rất
cần có sự phân cơng và chun mơn hóa theo khu vực. Cùng với việc đầu
tư trang thiết bị và ứng dụng công nghệ kỹ thuật, công cụ quản lý hiện đại
sẽ nảy sinh yêu cầu phát triển các vùng sản xuất nơng nghiệp có quy mơ
lớn và tập trung, đồng thời cũng hình thành các khu vực chun mơn hố sử
dụng đất khác nhau về hình thức và quy mơ.
* Sử dụng đất phát triển theo hướng xã hội hoá và cơng hữu hố.
Mỗi vùng đất thực hiện sản xuất tập trung một sản phẩm và hỗ trợ bổ
sung lẫn nhau đã hình thành nên sự phân cơng hợp tác mang tính xã hội hố
sản xuất, cũng như xã hội hoá việc sử dụng đất đai.
Đất đai là cơ sở vật chất và là công cụ để con người sinh sống và xã hội
tồn tại.. Vì vậy, việc chun mơn hoá theo yêu cầu xã hội hoá sản xuất phải
đáp ứng nhu cầu của xã hội hướng tới lợi ích cộng đồng và tiến bộ xã hội.
Ngay cả ở xã hội mà mục tiêu sử dụng đất chủ yếu vì lợi ích của tư nhân,

những vùng đất đai hướng dụng cộng đồng như: nguồn nước, núi rừng,
khống sản, sơng ngịi, mặt hồ, biển cả, hải cảng, danh lam thắng cảnh, động
thực vật quý hiếm . . . vẫn có những quy định về chính sách thực thi hoặc tiến
hành cơng quản, kinh doanh . . . của Nhà nước nhằm ngăn chặn, phòng ngừa
việc tư hữu tạo nên những mâu thuẫn gay gắt của xã hội.

25


×