Tải bản đầy đủ (.docx) (42 trang)

Tiểu luận Tư tưởng cơ bản của hồ chí minh về Lãnh đạo

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (159.25 KB, 42 trang )

Tư tưởng cơ bản của Hồ Chí Minh về lãnh đạo, quản lý - vận dụng vào thực
tiễn lãnh đạo, quản lý ở nước ta hiện nay
Mở đầu
Tư tưởng Hồ Chí Minh về lãnh đạo, quản lý là một bộ phận rất quan trọng
trong di sản Hồ Chí Minh; là sản phẩm của sự kết hợp, kế thừa, phát triển di sản
lãnh đạo truyền thống Việt Nam, tinh hoa di sản lãnh đạo của nhân loại, giá trị di
sản lãnh đạo của chủ nghĩa Mác - Lênin. Tư tưởng Hồ Chí Minh về lãnh đạo, quản
lý là hệ thống các quan điểm toàn diện và sâu sắc về mục tiêu, đường lối phát triển
xã hội đúng đắn của cách mạng Việt Nam, về tổ chức các lực lượng xã hội để thực
hiện mục tiêu, đường lối đó trong suốt quá trình đấu tranh cho sự nghiệp giải phóng
dân tộc , giải phóng giai cấp, giải phóng con người, với mục đích khơng ngừng cải
thiện và nâng cao dần đời sống của nhân dân lao động, hướng tới các giá trị chân,
thiện, mỹ. Tư tưởng Hồ Chí Minh về lãnh đạo, quản lý là nhân tố quan trọng tập
hợp, đoàn kết toàn thể nhân dân Việt Nam yêu nước, tạo nên sức mạnh to lớn đánh
bại các thế lực ngoại xâm, bảo vệ độc lập, tự do, đưa đất nước đi lên con đường xã
hội chủ nghĩa, đáp ứng yêu cầu xây dựng một nước Việt Nam hịa bình, thống nhất,
dân chủ, tiến bộ và giàu mạnh, góp phần vào sự nghiệp cách mạng thế giới.
Nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về lãnh đạo quản lý, chúng ta sẽ nắm bắt
một cách hệ thống những quan điểm cũng như sự chỉ đạo thực tiễn của Người trong
lãnh đạo xã hội trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội qua các giai
đoạn lịch sử; thấy được ý nghĩa to lớn của tư tưởng ấy đối với việc xây dựng lí luận
lãnh đạo, quản lý Việt Nam thời kỳ mới, góp phần làm phong phú thêm các giá trị
lãnh đạo của chủ nghĩa Mác - Lênin và nhân loại; chúng ta cũng có điều kiện học
tập, vận dụng, phát triển những vấn đề cụ thể về mục tiêu, chủ thể, đối tượng, nội
dung, phương pháp, phong cách lãnh đạo theo quan điểm Hồ Chí Minh vào thực
tiễn xã hội trong điều kiện xây dựng, kiện toàn hệ thống chính trị và đội ngũ cán


bộ lãnh đạo, quản lý trong thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước.


Nội dung
Chương 1: Cơ sở lý luận về tư tưởng Hồ Chí Minh
1.1 Các khái niệm liên quan đến đề tài
1.1.1 Khái niệm tư tưởng Hồ Chí Minh
- Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm và sâu sắc của Hồ Chí
Minh về những vấn đề cơ bản trong sự nghiệp cách mạng Việt Nam, là kết quả của
sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin vào điều kiện cụ thể của
Việt Nam, kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu
tinh hoa văn hoá nhân loại
Theo quan điểm của Đảng được trình bày tại Đại hội Đảng tồn quốc lần thứ
IX, tư tưởng Hồ Chí Minh gồm 9 nội dung cơ bản:
+ Một là, tư tưởng về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, kết hợp
sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại.
+ Hai là, tư tưởng về sức mạnh của nhân dân, của khối đại đoàn kết toàn dân
tộc.
+ Ba là, tư tưởng về quyền làm chủ của nhân dân, xây dựng nhà nước thực
sự của dân, do dân, vì dân.
+ Bốn là, tư tưởng về đạo đức cách mạng, cần, kiệm, liêm, chính, chí cơng
vơ tư.
+ Năm là, tư tưởng về chăm lo bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau.


+ Sáu là, tư tưởng về giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con
người.
+ Bảy là, tư tưởng về quốc phịng tồn dân, xây dựng lực lượng vũ trang
nhân dân.
+ Tám là, tư tưởng về phát triển kinh tế và văn hóa, khơng ngừng nâng cao
đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân.
+ Chín là, tư tưởng về xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, cán bộ, đảng
viên vừa là người lãnh đạo, vừa là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân.

1.1.2 Khái niệm lãnh đạo
- Lãnh đạo là một quá trình chủ thể lãnh đạo gây ảnh hưởng tới con người và
tổ chức; là đưa ra những chủ trương, phương hướng nhằm phát triển và thực hiện
mục tiêu tổ chức
+ Lãnh đạo xuất phát từ ảnh hưởng xã hội chứ không phải từ quyền hạn hay
quyền lực.
+ Lãnh đạo không cần thông qua “cấp dưới” để đưa ra mệnh lệnh.
+ Có nhiều phong cách, con đường dẫn đến lãnh đạo hiệu quả mà khơng cần
đề cập đến đặc điểm tính cách, thuộc tính hoặc thậm chí là danh hiệu.
+ Lãnh đạo cần có tầm nhìn và mục tiêu rõ ràng để tạo ra kết quả mong đợi.
1.1.3 Khái niệm quản lý
- Quản lý là quá trình điều hành các hoạt động nhằm đạt được các kết quả cụ
thể một cách ổn định ngay cả trong các điều kiện khơng hồn tồn được kiểm sốt
và khơng chắc chắn.


+ Quản lý là khoa học và nghệ thuật sử dụng hiệu quả nhất mọi nguồn lực
sẵn có và giải quyết tốt nhất những vấn đề đặt ra trong hệ thống.
+ Quản lý là biết chính xác điều bạn muốn người khác làm, và sau đó hiểu
được họ đã hồn thành công việc một cách tốt nhất và rẻ nhất.
+ Quản lý là làm cho mọi việc cần làm trở thành hiện thực
Trong đời sống xã hội, quản lí xuất hiện khi có hoạt động chung của con
người. Quản lí điều khiển, chỉ đạo hoạt động chung của con người, phối hợp các
hoạt động riêng lẻ của từng cá nhân tạo thành hoạt động chung thống nhất của tập
thể hướng tới mục tiêu đã định trước. Để thực hiện hoạt động quản lí cần phải có tổ
chức và quyền uy. Tổ chức phân định rõ ràng chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và
mối quan hệ của những người tham gia hoạt động chung; quyền uy đem lại khả
năng áp đặt ý chí của chủ thể quản lí đối với các đối tượng quản lí, bảo đảm sự
phục tùng của cá nhân đối với tổ chức. Quyền uy là phương tiện quan trọng để chủ
thể quản lí điều khiển, chỉ đạo cũng như bắt buộc các đối tượng quản lí thực hiện

các yêu cầu, mệnh lệnh của mình.
1.2 Nguồn gốc hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh
1.2.1 Những truyền thống tốt đẹp của dân tộc, trước hết là chủ nghĩa yêu
nước Việt Nam
Tư tưởng Hồ Chí Minh bắt nguồn từ truyền thống cần cù lao động, anh dũng
chiến đấu trong dựng nước và giữ nước, truyền thống đồn kết, sống có tình, có
nghĩa, nhân ái Việt Nam. Trong những truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam
thì chủ nghĩa yêu nước là dòng chủ lưu xuyên suốt lịch sử dân tộc.
Chủ nghĩa yêu nước đã trở thành động lực, sức mạnh truyền thống, đạo lý
làm người, niềm tự hào và là nhân tố hàng đầu trong bảng giá trị tinh thần của con
người Việt Nam. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết: “Dân ta có một lịng nồng nàn u
nước. Đó là một truyền thống quý báu của ta. Từ xưa đến nay, mỗi khi Tổ quốc bị


xâm lăng, thì tinh thần ấy lại sơi nổi, nó kết thành một làn sóng vơ cùng mạnh mẽ,
to lớn, nó lướt qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước
và lũ cướp nước” .
Chính sức mạnh truyền thống ấy đã thúc giục Nguyễn Tất Thành (Hồ Chí
Minh) đi tìm đường cứu nước, cứu dân. Đó là động lực chi phối mọi suy nghĩ, hành
động của Người trong suốt cả cuộc đời hoạt động cách mạng. Đó cũng chính là cơ
sở tư tưởng đã dẫn dắt Người đến với chủ nghĩa Mác - Lênin. Hồ Chí Minh viết:
“Lúc đầu, chính là chủ nghĩa yêu nước, chứ chưa phải chủ nghĩa cộng sản đã đưa
tôi tin theo Lênin, tin theo Quốc tế thứ ba” .
1.2.2 Tinh hoa văn hố nhân loại: phương Đơng và phương Tây
Cùng với chủ nghĩa u nước, Hồ Chí Minh cịn chịu ảnh hưởng của văn hố
phương Đơng. Người cũng đã tiếp thu và kế thừa có phê phán tư tưởng dân chủ,
nhân văn của văn hoá Phục hưng, thế kỷ Ánh sáng, của cách mạng tư sản phương
Tây và cách mạng Trung Quốc.
Nguyễn Tất Thành - Hồ Chí Minh được theo học chữ Nho với các thầy vốn
là những nhà Nho yêu nước. Đạo đức Nho giáo thấm vào tư tưởng tình cảm của

Người khơng phải là những giáo điều “tam cương”, “ngũ thường” nhằm bảo vệ tôn
ti trật tự phong kiến, mà tinh thần “nhân nghĩa”, đạo “tu thân”, sự ham học hỏi, đức
“khiêm tốn”, tính “hồ nhã”, cách đối nhân xử thế “có lý, có tình”. Những mệnh đề
“trung hiếu”, “nhân nghĩa”, “tứ hải giai huynh đệ”, “dân vi quý, xã tắc thứ chi,
quân vi khinh”, phương châm “khắc kỷ phục lễ”,... của các nhà hiền triết phương
Đông được Hồ Chí Minh hết sức trân trọng. Trong khi tiếp thu, vận dụng những
yếu tố tích cực của Nho giáo, Người cũng đồng thời phê phán loại bỏ những yếu tố
thủ cựu, tiêu cực của nó.
Trước khi đến với chủ nghĩa Mác - Lênin, Hồ Chí Minh đã quan tâm nghiên
cứu, tìm hiểu tư tưởng dân chủ tư sản Pháp, Mỹ, đặc biệt là tư tưởng Tự do, Bình
đẳng, Bác ái, chủ nghĩa Tam dân của Tôn Trung Sơn (Trung Quốc)... Người đã vận


dụng và phát triển các trào lưu tư tưởng học thuyết ấy lên một trình độ mới phù hợp
với dân tộc và thời đại mới.
Như vậy, trong quá trình hình thành phát triển tư tưởng của mình, Hồ Chí
Minh đã kế thừa có chọn lọc tinh hoa văn hố phương Đơng phương Tây, nâng lên
một trình độ mới trên cơ sở phương pháp luận mácxít - lêninnít.
1.2.3 Chủ nghĩa Mác - Lênin
Từ khi rời Tổ quốc (1911) cho đến năm 1917, Hồ Chí Minh đã đến nhiều
nước thuộc địa và nhiều nước tư bản đế quốc. Trong khoảng thời gian đó, Hồ Chí
Minh được bổ sung thêm những nhận thức mới về những gì ẩn dấu đằng sau các từ
Tự do, Bình đẳng, Bác ái mà vào trạc tuổi 13, lần đầu tiên Người đã nghe. Khoảng
cuối năm 1917, khi trở lại Pari, Hồ Chí Minh đã làm quen với nhiều nhà hoạt động
chính trị, xã hội của nước Pháp và nhiều nước trên thế giới. Năm 1919, Hồ Chí
Minh tham gia Đảng Xã hội Pháp (SFIO), một đảng tiến bộ lúc bấy giờ thuộc Quốc
tế II.
Việc Hồ Chí Minh tiếp thu bản Luận cương của Lênin tháng 7-1920 và trở
thành người cộng sản vào cuối năm đó đã tạo nên bước ngoặt căn bản trong tư
tưởng của Người. Thế giới quan và phương pháp luận Mác - Lênin đã giúp Hồ Chí

Minh nhìn nhận, đánh giá phân tích tổng kết các học thuyết, tư tưởng, đường lối
các cuộc cách mạng một cách khoa học; cùng với kinh nghiệm hoạt động thực tiễn
của mình để đề ra con dường cách mạng giải phóng dân tộc đứng đắn.
Chủ nghĩa Mác - Lênin là nguồn gốc lý luận cơ sở chủ yếu nhất của sự hình
thành phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh.
1.2.4 Tài năng và hoạt động thực tiễn sáng tạo của Hồ Chí Minh
Lý luận tư tưởng bao giờ cũng là sản phẩm của con người, do con người
sáng tạo ra trên cơ sở nhận thức các nhân tố khách quan.
Ngay từ khi cịn trẻ, Hồ Chí Minh đã có hồi bão lớn, có bản lĩnh kiên định,
giàu lịng nhân ái và sớm có chí cứu nước, tự tin vào mình.


Tư chất thông minh, tư duy độc lập, sáng tạo tính ham hiểu biết và nhạy bén
với cái mới là những đức tính dễ thấy ở người thanh niên Nguyễn Tất Thành. Phẩm
chất đó được rèn luyện, phát huy trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của
Người. Nhờ vậy, giữa thực tiễn phong phú và sinh động, giữa nhiều học thuyết,
quan điểm khác nhau, giữa biết bao tình huống phức tạp, Hồ Chí Minh đã tìm hiểu,
phân tích tổng hợp, khái quát hình thành những luận điểm đúng đắn và sáng tạo,
hình thành nên tư tưởng Hồ Chí Minh. Cũng như mơn học Tư tưởng Hồ Chí Minh,
khái niệm tư tưởng Hồ Chí Minh mới chỉ được bắt đầu nghiên cứu, tuy vậy, đến
nay đã có tới mấy chục khái niệm về tư tưởng Hồ Chí Minh. Kế thừa thành tựu
nghiên cứu của các nhà khoa học căn cứ vào các văn kiện của Đảng thì tư tưởng Hồ
Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện, sâu sắc về những vấn đề cơ bản của
cách mạng Việt Nam, là kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa
Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của nước lao kế thừa và phát triển các giá trị
truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hố nhân loại.

1.3. Q trình hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh
1.3.1 Từ nhỏ đến khi ra đi tìm đường cứu nước trước tháng 6/1911
Nguyễn Tất Thành - Hồ Chí Minh sinh ra và lớn lên trong hoàn cảnh nước

mất, nhà tan. Xuất thân trong một gia đình nhà nho yêu nước từ thuở nhỏ, Hồ Chí
Minh đã hấp thụ truyền thống chống ngoại xâm của dân tộc, nền văn hiến của nước
nhà và những tinh hoa văn hố phương Đơng, Người lại được hưởng nền giáo huấn
u nước, thương nịi của gia đình, truyền thống đấu tranh bất khuất của đất Lam
Hồng.
Đất nước, quê hương, gia đình và nhà trường đã hình thành nên ở người
thanh niên Nguyễn Tất Thành một nhân cách giàu lòng u nước, nhân ái, thương
người, có hồi bão cứu nước và thấu hiểu được sức mạnh ý chí độc lập tự cường
của dân tộc. Vốn có tư chất thơng minh, linh khiếu chính trị sắc sảo, với ý chí lớn


tìm đường cứu nước, cứu dân. Người khơng đi theo con đường phong kiến, lối mòn
của các bậc tiền bối. Người nói: “Vào trạc tuổi 13, lần đầu tiên tơi nghe những
tiếng Pháp “tự do, bình đẳng, bác ái”. Thế là tơi muốn làm quen với nền văn minh
Pháp, tìm xem những gì ẩn dấu đằng sau những từ mĩ miều ấy. Vì thế tơi nảy ra ý
muốn sang xem “Mẫu quốc” ra sao và tôi tới Pari để học hỏi”.
Hành trang tìm đường cứu nước của Hồ Chí Minh là tri thức ban đầu rất
quan trọng về văn hoá Đơng - Tây và lịng u nước nhiệt thành với chí hướng rõ
rệt: trên cơ sở tiếp thu có chọn lọc con đường cứu nước của các nhà yêu nước lớp
trước.
1.3.2 Thời kỳ tìm đường cứu nước, đến với chủ nghĩa Mác - Lênin, trở
thành người cộng sản (1911 - 1920)
Tháng 7-1911, Hồ Chí Minh đặt chân lên đất Pháp. Tiếp đó Người cịn đến
nhiều nước thuộc địa ở châu Á, châu Phi, châu Mỹ Latinh và các nước đế quốc như
Mỹ, Anh để nghiên cứu và tìm lời giải đáp cho câu hỏi lúc ra đi. Cuộc hành trình
vạn dặm ấy đã giúp Người tìm ra mọi cội nguồn những khổ đau của nhân loại là
các nước đế quốc “chính quốc”.
Giữa lúc Chiến tranh thế giới lần thứ nhất ở vào thời kỳ ác liệt cuối năm
1917, Người từ nước Anh trở lại nước Pháp. Ngày 11-1917, Cách mạng xã hội chủ
nghĩa Tháng Mười nổ ra và thắng lợi, Hồ Chí Minh có cảm tình sâu sắc với cuộc

cách mạng ấy và với lãnh tụ Lênin.
Chiến tranh kết thúc năm 1919, các nước đế quốc họp hội nghị ở Vécxây
(Pháp). Thực chất của hội nghị là các nước thắng trận chia lại thuộc địa được dấu
dưới những lời lẽ “tự do”, “cơng bằng”, “nhân đạo”, theo chương trình 14 điều của
Uynxơn - Tổng thống Mỹ lúc bấy giờ.
Thay mặt nhóm những người Việt Nam yêu nước tại Pháp, Nguyễn Ái Quốc
đã gửi đến hội nghị “Yêu sách của nhân dân An Nam” đòi các cường quốc thừa
nhận quyền tự do, dân chủ, bình đẳng cho dân tộc Việt Nam. Qua hội nghị Vécxây,
Hồ Chí Minh rút ra kết luận: ““Chủ nghĩa Uynxơn” chỉ là một trò bịp bợm lớn” ;


các dân tộc muốn được giải phóng chỉ có thể dựa vào sức lực của bản thân mình.
Nhờ nhận thức rút ra từ thực tiễn gần 10 năm lăn lộn tìm đường cứu nước nên khi
đọc Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa
của Lênin (7-1920), Hồ Chí Minh tìm thấy những lời giải đáp đầy thuyết phục cho
những câu hỏi của mình. Người viết: “Luận cương của Lênin làm cho tôi rất cảm
động phấn khởi, sáng tỏ, tin tưởng biết bao! Tơi vui mừng đến phát khóc lên. Ngồi
một mình trong buồng mà tơi nói to lên như đang nói trước quần chúng đơng đảo:
“Hỡi đồng bào bị đoạ đày đau khổ! Đây là cái cần thiết cho chúng ta, đây là con
đường giải phóng chúng ta” . Đến đây, Hồ Chí Minh khẳng định con đường cứu
nước của mình: giải phóng dân tộc bằng con đường cách mạng vơ sản, gắn giải
phóng dân tộc với giải phóng giai cấp vơ sản. Hồ Chí Minh rời bỏ Đảng Xã hội
theo quan điểm Đệ nhị quốc tế để đến với Quốc tế III - Quốc tế Cộng sản do Lênin
sáng lập (3-1919).
Tháng 12-1920, đại hội lần thứ 18 của Đảng Xã hội Pháp gắn liền với việc
Hồ Chí Minh trở thành người cộng sản đánh dấu bước ngoặt trong quá trình phát
triển tư tưởng và cuộc đời hoạt động cách mạng của Người - chủ nghĩa yêu nước
chân chính đã gặp chủ nghĩa quốc tế vơ sản chân chính.
1.3.3 Thời kỳ tư tưởng Hồ Chí Minh hình thành về cơ bản (1920-1930)
Những năm bôn ba, lăn lộn trong phong trào u nước, phong trào cơng nhân

“chính quốc” và các nước thuộc địa, Hồ Chí Minh đã mở rộng quan hệ xã hội và tri
thức của mình. Nhờ thơng hiểu nhiều ngoại ngữ và giao tiếp rộng với nhiều bạn bè
quốc tế mà Người tiếp thu được kiến thức cổ, kim, đông, tây, nắm được cốt lõi của
chủ nghĩa Mác - Lênin. Do tích cực tham gia các hoạt động quốc tế và các buổi
sinh hoạt lý luận bàn về chiến lược sách lược cách mạng thế giới, qua thực tiễn
công tác, tổng kết kinh nghiệm nhiều cuộc cách mạng, Hồ Chí Minh đã tích lũy
được nhiều tri thức cách mạng, dần dần trong tư duy của Người hình thành nên một
luận điểm đúng đắn: Giải phóng dân tộc gắn liền với giải phóng giai cấp vơ sản và
các dân tộc thuộc địa, giải phóng nhân loại. Cũng từ đó, lý luận, chiến lược cách


mạng vô sản ở một nước thuộc địa nửa phong kiến, đã từng bước hình thành trong
tư duy Hồ Chí Minh.
Từ khi trở thành người cộng sản, cùng với việc thực hiện những nhiệm vụ
của Đảng Cộng sản Pháp và Quốc tế Cộng sản, Quốc tế Nơng dân…, Hồ Chí Minh
đã truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng của mình về nước chuẩn bị cho
việc thành lập một Đảng cộng sản ở Việt Nam. Các bài viết trên báo Người cùng
khổ (1922), báo Thanh niên (1925), báo Nhân đạo, Tạp chí Cộng sản, Đời sống thợ
thuyền, Thơng tin quốc tế, các tác phẩm Bản án chế độ thực dân Pháp (1925),
Đường Cách mệnh (1927),… của Hồ Chí Minh là những công cụ quan trọng trong
việc giáo dục những người Việt Nam yêu nước từng bước chuyển từ yêu nước
truyền thống thành yêu nước theo lập trường cách mạng vô sản.
Từ giữa những năm 20 của thế kỷ XX, do việc truyền bá chủ nghĩa Mác Lênin của Hồ Chí Minh, phong trào cách mạng Việt Nam có những chuyển biến
mạnh mẽ. Bên cạnh những đảng theo xu hướng tư tưởng tư sản đã xuất hiện nhiều
tổ chức cách mạng từ sau đại hội lần thứ nhất của đội Việt Nam cách mạng thanh
niên (5-1929) ba tổ chức cộng sản ở Việt Nam ra đời: Đông Dương Cộng sản Đảng
(6-1929), An Nam Cộng sản Đảng (9-1929) và Đông Dương Cộng sản liên đồn (l1930).
Trước tình hình ở Đơng Dương có các tổ chức cộng sản xuất hiện, ngày 2811-1929, Quốc tế Cộng sản đã có nghị quyết về việc thành lập Đảng Cộng sản
Đông Dương. Thực hiện Nghị quyết của Quốc tế Cộng sản, Hồ Chí Minh đã chủ trì
Hội nghị hợp nhất thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam, ngày 3-2-1930.

Hội nghị hợp nhất đã thông qua Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Chương
trình tóm tắt, Điều lệ vắn tắt của Đảng Cộng sản Việt Nam do Hồ Chí Minh soạn
thảo.
Các văn kiện quan trọng nói trên đã trở thành Cương lĩnh đầu tiên của Đảng.
Trong Cương lĩnh đầu tiên của mình, Đảng Cộng sản Việt Nam nhận định Việt
Nam là một nước thuộc địa, nửa phong kiến, “vì tư bản Pháp hết sức ngăn trở sức


sinh sản làm cho công nghệ bản xứ không thế mở mang được”… “nông nghệ một
ngày một tập trung... nông dân thất nghiệp nhiều” . Đánh giá về giai cấp tư sản dân
tộc và giai cấp địa chủ, Chánh cương vắn tắt có sự phân biệt rõ ràng: “Tư bản bản
xứ khơng có thể lực gì ta khơng nên nói cho họ đi về phe đế quốc được, chỉ bọn đại
địa chủ mới có thế lực và đứng hẳn về phe đế quốc chủ nghĩa”. Đây là một sự đánh
giá hết sức khách quan, chân thực, không hề bị chi phối của tư tưởng giáo điều hay
“tả” khuynh. Từ thực tế đó, Đảng chủ trương làm tư sản dân quyền cách mạng và
thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản” .
Như vậy, ngay từ khi Đảng ra đời, Hồ Chí Minh và Đảng ta đã giải quyết
đúng đắn mối quan hệ giữa dân tộc và giai cấp, phân tích đúng đắn đặc điểm của xã
hội, sắp xếp đúng vị trí của từng giai cấp, tầng lớp và cá nhân trong lực lượng cách
mạng, tạo điều kiện cho Đảng vừa ra đời đã nắm trọn quyền lãnh đạo cách mạng.
Với cột mốc lịch sử ngày 3-2-1930, tư tưởng Hồ Chí Minh về con đường cách
mạng Việt Nam đã hình thành về cơ bản.
1.3.4 Thời kỳ Hồ Chí Minh gặp những khó khăn, thử thách và sự kiên
định của Người về cách mạng Việt Nam (1930-1941)
Những đường lối, chủ trương mà Hồ Chí Minh vạch ra trong Cương lĩnh đầu
tiên của Đảng thể hiện sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện
Việt Nam. Trong sự vận dụng sáng tạo đó có những vấn đề thuộc lý luận, chiến
lược cách mạng vô sản ở nước thuộc địa mà Lênin cũng như Quốc tế Cộng sản có
đề cập nhưng chưa đi sâu. Hơn nữa, vào cuối những năm 20, nửa đầu những năm
30 của thế kỷ XX. Phong trào cộng sản và công nhân quốc tế bị chi phối bởi những

sai lầm tả khuynh, tư tưởng biệt phái, hẹp hịi. Điều đó được thể hiện rõ nhất qua
Nghị quyết Đại hội lần thứ VI Quốc tế Cộng sản (9-1928).
Mặt khác, Quốc tế Cộng sản vì khơng sát tình hình các nước thuộc địa, nên
đã phê phán đường lối cách mạng Việt Nam do Hồ Chí Minh vạch ra.
Tuy bị phê phán, song đường lối cách mạng của Hồ Chí Minh đã được thực tiễn
chứng minh là đúng đắn. Đó là cơ sở để Thường vụ Trung ương ra chỉ thị thành lập


Hội phản đế đồng minh (18-l l-1930), tiếp đó là Chỉ thị về vấn đề thanh Đảng ở
Trung kỳ (20-5-1931). Những chỉ thị này đã uốn nắn quan điểm xa rời thực tiễn
Việt Nam, làm cho toàn Đảng thấy được sức mạnh của chủ nghĩa yêu nước và vai
trò của Mặt trận phản đế trong sứ mệnh đoàn kết toàn dân đưa cách mạng đến
thắng lợi.
Phải đến Đại hội lần thứ VII Quốc tế Cộng sản (7-1935), trước nguy cơ của
chủ nghĩa phátxít và chiến tranh thế giới mới, khi Quốc tế Cộng sản đã nghiêm
khắc tự phê bình về những sai lầm “tả” khuynh trong Nghị quyết Đại hội VI của
mình, thì những quan điểm đúng đắn của Hồ Chí Minh về cách mạng Việt Nam, về
đồn kết các lực lượng cách mạng chống đế quốc đã trình bày trong Cương lĩnh
mới được Quốc tế Cộng sản thừa nhận.
Cuối tháng 9-1939, Quốc tế Cộng sản đã quyết định điều động Người về
công tác ở Đông Dương. Sau gần 30 năm xa Tổ quốc, ngày 28-1-1941 Hồ Chí
Minh vượt qua cột mốc 108 trên biên giới Việt - Trung về nước. Đây là điều kiện
thuận lợi để Hồ Chí Minh biến tư tưởng của mình thành sức mạnh quần chúng đưa
cách mạng đến thắng lợi.
1.3.5 Thời kỳ Hồ Chí Minh về nước trực tiếp lãnh đạo cách mạng Việt
Nam, thời kỳ phát triển của tư tưởng Hồ Chí Minh (1941-1969).
Đây là thời kỳ tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối của đảng về cơ bản là
thống nhất.
Tháng 5-1941, Hồ Chí Minh triệu tập và chủ trì Hội nghị trung ương lần thứ
8 của Đảng. Quan điểm chủ đạo của hội nghị này là nêu cao vấn đề giải phóng dân

tộc coi đó là nhiệm vụ hàng đầu của cách mạng. Người kêu gọi: “Trong lúc này
quyền lợi dân tộc giải phóng cao hơn hết thảy. Chúng ta phải đồn kết lại đánh đổ
bọn đế quốc và bọn Việt gian đảng cứu giống nịi rút khỏi nước sơi lửa nóng”.
Đồng thời, ngày 19-5-1941, Hồ Chí Minh sáng lập ra Mặt trận Việt Nam độc lập
đồng minh, gọi tắt là Việt Minh, không phân biệt dân tộc, giai cấp, đảng phái, tơn
giáo v.v... nhằm đồn kết mọi lực lượng u nước chống đế quốc giành độc lập dân


tộc. Nghị quyết hội nghị Trung ương lần thứ 8 và Chương trình của Việt Minh cùng
với Kính cáo đồng bào của Hồ Chí Minh ngày 6-6-1941, là những chủ trương,
chính sách hợp lịng dân đã quy tụ tồn dân dưới ngọn cờ của Đảng do Hồ Chí
Minh lãnh đạo, đưa Cách mạng tháng Tám 1945 đến thắng lợi.
Ngày 2-9-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ lâm thời đọc bản
Tuyên ngôn độc lập tại Quảng trường Ba Đình (Hà Nội) tuyên bố nước Việt Nam
dân chủ cộng hồ ra đời. Đó là nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở Đơng Nam
Á. Tư tưởng Hồ Chí Minh về đảng cầm quyền về nhà nước của dân, do dân, vì dân
có bước phát triển mới.
Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám là thắng lợi của ý chí độc lập tự chủ tự
lập tự cường của dân tộc Việt Nam và là thắng lợi vĩ đại đầu tiên của tư tưởng Hồ
Chí Minh ở một nước thuộc địa nửa phong kiến.
Nhân dân ta hưởng độc lập chưa được bao ngày thì thù trong giặc ngồi câu
kết với nhau đẩy nước nhà lâm vào cảnh “nghìn cân treo sợi tóc”… Dưới sự lãnh
đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhân dân Việt Nam bước vào cuộc kháng chiến
chống thực dân Pháp lần thứ hai với chủ trương vừa kháng chiến vừa kiến quốc.
Tháng 2-1951, cuộc kháng chiến đang trên đà thắng lợi, Hồ Chí Minh và Ban Chấp
hành trung ương đảng quyết định triệu tập Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II của
Đảng. Đại hội khẳng định đường lối do Hồ Chí Minh vạch ra từ ngày thành lập
Đảng, tiếp tục lãnh đạo nhân dân thực hiện cuộc kháng chiến “toàn dân, toàn diện,
trường kỳ, dựa vào sức mình là chính”.
Đường lối đúng đắn mà Đại hội toàn quốc lần thứ II của Đảng vạch ra đã dắt

dẫn nhân dân ta tiến lên làm nên chiến thắng Điện Biên Phủ chấn động địa cầu, mở
đầu quá trình sụp đổ của chủ nghĩa thực dân cũ trên phạm vi tồn thế giới. Hồ
bình được lập lại nhưng đất nước bị chia cắt làm hai miền với hai chế độ chính trị
khác nhau. Nắm vững bản chất của chủ nghĩa đế quốc, Hồ Chí Minh cùng Trung
ương Đảng đã sớm xác định kẻ thù chính của cách mạng Việt Nam trong giai đoạn
mới là chủ nghĩa đế quốc Mỹ; đồng thời vạch ra đường lối cùng một lúc thực hiện


hai nhiệm vụ chiến lược: miền Nam tiếp tục thực hiện cách mạng dân tộc, dân chủ;
miền Bắc đã được hồn tồn giải phóng, từng bước tiến dần lên chủ nghĩa xã hội.
Lần đầu tiên trong lịch sử, một nước thuộc địa, nửa phong kiến, dưới sự lãnh đạo
của Đảng Cộng sản đã thực hiện quá độ lên chủ nghĩa xã hội không qua chế độ tư
bản. Trong điều kiện ấy tư tưởng Hồ Chí Minh tiếp tục phát triển và hoàn thiện.
Trước thất bại của chiến tranh đặc biệt, năm 1965, đế quốc Mỹ chuyển sang chiến
lược chiến tranh cục bộ. Chúng ào ạt đưa quân Mỹ và chư hầu vào miền Nam, tăng
cường chiến tranh phá hoại bằng khơng qn và hải qn trên miền Bắc, hịng
khuất phục quân và dân ta. Trước hành động leo thang xâm lược hết sức tàn bạo
của đế quốc Mỹ, Hồ Chí Minh khẳng định: “Chúng có thể đưa 50 vạn quân, 1 triệu
quân hoặc nhiều hơn nữa để đẩy mạnh chiến tranh xâm lược ở miền Nam Việt
Nam. Chúng có thể dùng hàng nghìn máy bay, tăng cường đánh phá miền Bắc.
Nhưng chúng quyết khơng thể lay chuyển được chí khí sắt đá, quyết tâm chống Mỹ
cứu nước của nhân dân Việt Nam anh hùng. Chiến tranh có thể kéo dài 5 năm, 10
năm, 20 năm hoặc lâu hơn nữa. Hà Nội, Hải Phịng và một số thành phố, xí nghiệp
có thể bị tàn phá, song nhân dân Việt Nam quyết khơng sợ! Khơng có gì q hơn
độc lập, tự do. Đến ngày thắng lợi, nhân dân ta sẽ xây dựng lại đất nước ta đàng
hoàng hơn, to đẹp hơn” .
Hưởng ứng lời kêu gọi của Người, đồng bào và chiến sĩ cả nước phát huy
cao độ chủ nghĩa anh hùng cách mạng giữ vững lòng tin tưởng tuyệt đối với Người
và Trung ương Đảng, nêu cao quyết tâm đánh Mỹ và thắng Mỹ.
Tư tưởng Hồ Chí Minh hình thành, phát triển cùng chiều với quá trình phát

triển của xã hội Việt Nam và thời đại. Khi đã phát triển hoàn chỉnh về cơ bản, tư
tưởng Hồ Chí Minh trở thành cơ sở lý luận và thực tiễn cho đường lối chính trị
đúng đắn của cách mạng Việt Nam. Chính vì vậy tư tưởng Hồ Chí Minh là tài sản
tinh thần quý báu của dân tộc và nhân loại.


Chương 2: Tư tưởng cơ bản của Hồ Chí Minh về lãnh đạo, quản lý
2.1 Đặc điểm, phong cách lãnh đạo, quản lý của Hồ Chí Minh
Phong cách lãnh đạo Hồ Chí Minh là tổng hịa các phương pháp, biện pháp,
cách thức thực hiện nhiệm vụ lãnh đạo cách mạng của Người. Phong cách đó được
quy định bởi vị trí, vai trị, uy tín, vốn sống, điều kiện chính trị; phản ánh các phẩm
chất cốt lõi về tư tưởng, đạo đức, tình cảm, tri thức, ý chí, tính cách… và gắn liền
với thực tiễn hoạt động cách mạng của Bác. Phong cách lãnh đạo Hồ Chí Minh vừa
thấm nhuần sâu sắc chủ nghĩa Mác - Lê-nin, vừa mang đậm bản sắc văn hóa, tâm
hồn, cốt cách con người Việt Nam, tạo nên nhiều nét độc đáo, đặc sắc, phong phú;
trong đó, tập trung chủ yếu ở những nội dung sau:
2.1.1 Dân chủ nhưng quyết đốn
Hồ Chí Minh khẳng định: chế độ ta “dân là chủ” và dân là chủ thì cách lãnh
đạo phải dân chủ. Người cho rằng, không một ai có thể hiểu biết được mọi thứ, làm
hết được mọi việc. Bởi vậy, người lãnh đạo phải tạo được khơng khí dân chủ trong
nội bộ, tập hợp được tài năng, trí tuệ của nhiều người để phấn đấu cho mục tiêu
chung của cách mạng. Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, thực hành dân chủ là chìa
khóa vạn năng để giải quyết mọi vấn đề: “Dân chủ, sáng kiến, hăng hái, ba điều đó
rất quan hệ với nhau. Có dân chủ mới làm cho cán bộ và quần chúng đề ra sáng
kiến. Những sáng kiến đó được khen ngợi, thì những người đó càng thêm hăng hái,
và người khác cũng học theo. Và trong khi tăng thêm sáng kiến và hăng hái làm
việc, thì những khuyết điểm lặt vặt, cũng tự sửa chữa được nhiều”. Tuy nhiên,
phong cách dân chủ khơng có nghĩa là “cá mè một lứa”, “mạnh ai nấy làm” mà
phải tuân thủ chặt chẽ nguyên tắc “tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách”. Người chỉ
rõ: “Lãnh đạo khơng tập thể, thì sẽ đi đến cái tệ bao biện, độc đoán, chủ quan. Kết

quả là hỏng việc. Phụ trách khơng do cá nhân, thì sẽ đi đến cái tệ bừa bãi, lộn xộn,
vơ chính phủ”. Đối lập với phong cách dân chủ là phong cách quan liêu. Hồ Chí
Minh kịch liệt phê phán cán bộ quan liêu, những người “Miệng thì nói dân chủ,


nhưng làm việc thì họ theo lối “quan” chủ. Miệng thì nói “phụng sự quần chúng”,
nhưng họ làm trái ngược với lợi ích quần chúng, trái ngược với phương châm và
chính sách của Đảng và Chính phủ”. Để chữa căn bệnh quan liêu, Người yêu cầu
cán bộ phải “Theo đúng đường lối nhân dân và 6 điều là: Đặt lợi ích nhân dân lên
trên hết; Liên hệ chặt chẽ với nhân dân; Việc gì cũng bàn bạc với nhân dân, giải
thích cho nhân dân hiểu rõ; Có khuyết điểm thì thật thà tự phê bình trước nhân dân,
và hoan nghênh nhân dân phê bình mình; Sẵn sàng học hỏi nhân dân; Tự mình phải
làm gương mẫu cần kiệm liêm chính, để nhân dân noi theo”
2.1.2 Luôn sâu sát trong khâu quản lý
Hồ Chí Minh là tấm gương tiêu biểu về phong cách lãnh đạo sâu sát. Trong
chỉ đạo kháng chiến chống Pháp, Người khơng những nắm vững tình hình các địa
phương cũng như diễn biến các chiến trường để có sự chỉ đạo cụ thể, đúng đắn; mà
còn đến nhiều đơn vị, trực tiếp đi chiến dịch cùng bộ đội để nắm tình hình, động
viên tinh thần binh sĩ, khen thưởng kịp thời mọi chiến công. Người quan tâm mọi
mặt công tác của Quân đội, yêu cầu cán bộ các cấp phải sâu sát, chu đáo tới chiến
sĩ: “Bộ đội chưa ăn cơm, cán bộ khơng được kêu mình đói. Bộ đội chưa đủ áo mặc,
cán bộ không được kêu mình rét. Bộ đội chưa đủ chỗ ở, cán bộ khơng được kêu
mình mệt”.
Riêng cơng tác hậu cần, Người chỉ thị: “phải làm thế nào một bát gạo, một
đồng tiền, một viên đạn, một viên thuốc, một tấc vải, phải đi thẳng đến chiến sĩ”.
Trong chỉ đạo xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, Người nhiều lần đến thăm
các địa phương, cơng trường, xí nghiệp, hợp tác xã, đơn vị bộ đội, để thăm hỏi
chiến sĩ và đồng bào, xem xét tình hình và kiểm tra cụ thể mọi cơng việc. Ngồi ra,
hằng ngày qua báo cáo của các địa phương, qua báo chí và thư từ của nhân dân gửi
đến, thấy có những vấn đề nổi lên, Người yêu cầu các cơ quan có trách nhiệm

nghiên cứu và giải quyết kịp thời.


Lãnh đạo sâu sát sẽ nâng cao được tính khách quan, minh bạch, tăng cường
được công tác kiểm tra, giám sát, từ đó kiểm sốt tốt hơn đối với việc thực thi
quyền lực, kiểm tra, giám sát chặt chẽ việc sử dụng tài sản của Nhà nước, của nhân
dân, góp phần phịng, chống tham nhũng có hiệu quả. V.I. Lê-nin chỉ rõ, lãnh đạo
mà khơng kiểm tra có nghĩa là khơng lãnh đạo. Hồ Chí Minh nhấn mạnh, khi đã có
đường lối đúng, thì cơng tác kiểm tra là một trong ba nhân tố cơ bản nhất bảo đảm
cho đường lối của Đảng ta thắng lợi. Muốn kiểm tra, giám sát tốt thì cán bộ phải
sâu sát, phải “đi tận nơi, xem tận chỗ”. Sở dĩ sự thật còn bị bưng bít vì sự kiểm tra,
giám sát “của các ngành, các cấp, không nghiêm túc, chưa chặt chẽ”, “chưa biết
dựa vào quần chúng, nhân dân”. Người nghiêm khắc phê bình tình trạng: “cán bộ
lãnh đạo chỉ lo khai hội và thảo nghị quyết, đánh điện và gửi chỉ thị, sau đó, thì họ
khơng biết gì đến những nghị quyết đó đã thực hành đến đâu, có những sự khó
khăn trở ngại gì, dân chúng có ra sức tham gia hay khơng. Họ qn mất kiểm tra.
Đó là một sai lầm rất to. Vì thế mà “đầy túi quần thơng cáo, đầy túi áo chỉ thị” mà
công việc vẫn không chạy”.
2.1.3 Khéo dùng người, trọng dụng người tài
Truyền thống của dân tộc ta là trọng dụng nhân tài, coi hiền tài là nguyên khí
quốc gia. Hồ Chí Minh cho rằng, một quốc gia, một đất nước không biết sử dụng
nhân tài là một khuyết điểm to, làm lãng phí một vốn quý của Đảng và Nhà nước
trong xây dựng và kiến thiết đất nước. Người rất quan tâm đến việc đánh giá, bố trí,
sử dụng cán bộ “đúng người, đúng việc”, và chính cách sử dụng cán bộ của Người
là mẫu mực của việc “khéo dùng người, trọng dụng nhân tài”. Sau khi cách mạng
thành công, với mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, Hồ Chí Minh đã quy
tụ được nhiều trí thức đào tạo từ các nước phương Tây, quan lại triều đình phong
kiến cũ phục vụ cho đất nước, như: Trần Đại Nghĩa, Huỳnh Thúc Kháng, v.v. Đặc
biệt, việc Người tin tưởng giao trọng trách quốc gia cho các đồng chí: Trường
Chinh, Lê Duẩn, Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp…, là những ví dụ điển hình về

điều đó.


Theo Bác, việc dùng người phải đúng năng lực và sở trường, chớ “dùng thợ
mộc làm nghề thợ rèn” và phải cho họ hiểu rõ mọi mặt công việc được phụ trách.
Dùng người không đúng, công việc sẽ không chạy, khơng được việc, làm thui chột
nhân tài, có hại cho Đảng và cũng thể hiện sự yếu kém của công tác cán bộ. Đặc
biệt, người nhấn mạnh đến việc phải “tìm người tài đức”, tức là phải chủ động phát
hiện người tài, đào tạo và bồi dưỡng nhân tài. Theo Người, trọng dụng nhân tài là
công việc thường xuyên, liên tục, như: người làm vườn vun trồng những cây cối
quý báu; phải biết tùy tài mà dùng người: “Tài to ta dùng làm việc to, tài nhỏ ta cắt
làm việc nhỏ, ai có năng lực về việc gì, ta đặt ngay vào việc ấy. Biết dùng người
như vậy, ta sẽ khơng lo gì thiếu cán bộ”. Sau khi nước Việt Nam dân chủ cộng hòa
ra đời, ngày 14-11-1945, trên báo Cứu quốc, Hồ Chí Minh đã thể hiện rõ quan điểm
về sử dụng nhân tài trong điều kiện khó khăn của đất nước: “Kiến thiết cần có nhân
tài. Nhân tài nước ta dù chưa có nhiều lắm nhưng nếu chúng ta khéo lựa chọn, khéo
phân phối, khéo dùng thì nhân tài càng ngày càng phát triển càng thêm nhiều”.
2.1.4 Cách mạng và khoa học.
Hồ Chí Minh khẳng định, điều cốt yếu của người cán bộ là: “Ra sức làm
việc cho Đảng, giữ vững kỷ luật của Đảng, thực hiện tốt đường lối, chính sách của
Đảng. Đặt lợi ích của Đảng và của nhân dân lao động lên trên, lên trước lợi ích
riêng của cá nhân mình. Hết lịng hết sức phục vụ nhân dân. Vì Đảng, vì dân mà
đấu tranh quên mình, gương mẫu trong mọi việc”. Nhiệt tình cách mạng là điều cơ
bản trong phẩm chất của người cán bộ, đảng viên. Tuy nhiên, nhiệt tình cách mạng
phải thống nhất với tri thức khoa học và dựa trên cơ sở khoa học, nếu không sẽ dẫn
tới sai lầm, duy ý chí, hành động trái quy luật, thậm chí dẫn đến phá hoại một cách
vơ ý thức. Để có tri thức khoa học, người cán bộ phải không ngừng học tập, nghiên
cứu nâng cao trình độ về chính trị, văn hóa và nghiệp vụ chun mơn. Hồ Chí Minh
nhắc nhở: “Học hỏi là một việc phải tiếp tục suốt đời. Suốt đời phải gắn liền lý luận
với công tác thực tế. Khơng ai có thể tự cho mình đã biết đủ rồi, biết hết rồi. Thế



giới ngày ngày đổi mới, nhân dân ta ngày càng tiến bộ, cho nên chúng ta phải tiếp
tục học và hành để tiến bộ kịp nhân dân”. Vì thế, làm bất cứ việc gì, cán bộ cũng
phải có kế hoạch và có đích rõ ràng, vì đích là để nhằm vào đó mà bắn, nếu nhiều
đích “thì loạn mắt, khơng bắn trúng đích nào”. Để có kế hoạch thực sự khoa học,
người cán bộ phải “xét kỹ hoàn cảnh mà xếp đặt cơng việc cho đúng. Việc chính,
việc gấp thì làm trước. Khơng nên luộm thuộm, khơng có kế hoạch, gặp việc nào,
làm việc ấy, thành thử việc nào cũng là việc chính, lộn xộn, khơng có ngăn nắp”.
Một việc có thể có nhiều cách thực hiện. Bởi vậy, Người yêu cầu: “chủ trương một,
biện pháp mười, quyết tâm phải hai, ba mươi”.
2.2 Bản chất, phong cách lãnh đạo, quản lý của Hồ Chí Minh
2.2.1 Bản chất khoa học
Phong cách lãnh đạo, quản lý Hồ Chí Minh mang bản chất khoa học chân
chính, bởi nó được hình thành trên nền tảng tư tưởng khoa học, cách mạng của chủ
nghĩa Mác - Lênin. Lý luận Mác - Lênin đã cung cấp cho Hồ Chí Minh thế giới
quan và phương pháp luận khoa học biện chứng, để tổng kết lịch sử và kinh nghiệm
thực tiễn, tìm ra con đường lãnh đạo phong trào cách mạng Việt Nam giành thắng
lợi. Bản chất khoa học trong phong cách lãnh đạo, quản lý Hồ Chí Minh được thể
hiện ở chỗ, trong bất cứ công việc nào Người cũng xác định rõ phương hướng, mục
đích; chương trình, kế hoạch cụ thể; kết hợp phương pháp thực hiện khoa học.
Đối với Hồ Chí Minh, ở bất cứ cương vị nào, Người đều căn cứ tình hình,
điều kiện thực tiễn của Việt Nam, vận dụng các quy luật phát triển của cách mạng
để đề ra những biện pháp giải quyết phù hợp, hiệu quả. Thời kỳ cách mạng giải
phóng dân tộc, từ nhận thức Việt Nam là một nước thuộc địa nửa phong kiến, Hồ
Chí Minh đã kiên trì tư tưởng dân tộc trên hết, Tổ quốc trên hết, đặt yêu cầu phải
giải phóng dân tộc trước khi giải phóng giai cấp. Tư tưởng đó của Hồ Chí Minh có
thời điểm vấp phải sự phản đối của Quốc tế Cộng sản và một số đồng chí trong



Đảng, song thực tế của cách mạng đã chứng minh đó là một nhận thức đúng đắn,
sáng tạo, mang bản chất khoa học của Hồ Chí Minh.
Bước vào thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội, Người đòi hỏi cán bộ, đảng
viên phải đặc biệt coi trọng việc học tập kinh nghiệm quý báu của các nước anh
em. Đồng thời, Người nhắc nhở: “Ta khơng thể giống Liên Xơ, vì Liên Xơ có
phong tục tập qn khác, có lịch sử, địa lý khác. Các cơ, các chú có thảo luận về
Đại hội Đảng Cộng sản Liên Xô lần thứ XX khơng? Đại hội đã chỉ cho ta thấy ta có
thể đi theo con đường khác để tiến lên chủ nghĩa xã hội”. Hồ Chí Minh quan niệm
phải dùng lập trường, quan điểm, phương pháp chủ nghĩa Mác - Lênin mà tổng kết
kinh nghiệm của Đảng, phân tích những đặc điểm của nước ta, qua đó hiểu được
quy luật phát triển của cách mạng và đề ra đường lối, phương châm cụ thể, phù hợp
với tình hình đất nước. Người cũng yêu cầu phải xây dựng chương trình, kế hoạch
cụ thể, thiết thực, phù hợp với phương pháp thực hiện khoa học. Người phê bình
cách làm việc đề ra chương trình, kế hoạch thật to tát, nhưng lại ít tìm cách để thực
hiện cho đúng. “Chương trình cơng tác thì q rộng rãi mà kém thiết thực. Ðặt ra
kế hoạch và chương trình khơng xét rõ năng lực của những người thi hành kế hoạch
và chương trình đó. Thành thử việc gì cũng muốn làm mà việc gì làm cũng khơng
triệt để”. Mỗi khi quyết định một vấn đề trọng đại, Người đều tranh thủ quan điểm
của tập thể và tham khảo ý kiến của các đồng chí lãnh đạo chủ chốt. Chính phong
cách làm việc, lãnh đạo khoa học, khách quan, dân chủ đó giúp cho Hồ Chí Minh
có được những quyết sách đúng đắn, hành động phù hợp với thực tiễn, góp phần
nâng cao uy tín cá nhân và củng cố niềm tin của nhân dân đối với Đảng và sự
nghiệp cách mạng của dân tộc.
2.2.2 Bản chất cách mạng
Hồ Chí Minh đến với chủ nghĩa Mác - Lênin để giải quyết nhu cầu thực tiễn
của cách mạng Việt Nam, nhu cầu hành động, cứu nước, giải phóng dân tộc. Người


nói: “Lúc đầu chính là chủ nghĩa u nước, chứ chưa phải chủ nghĩa cộng sản đã
đưa tôi tin theo Lênin, tin theo Quốc tế thứ ba. Từng bước một, trong cuộc đấu

tranh, vừa nghiên cứu lý luận Mác - Lênin, vừa làm công tác thực tế, dần dần tôi
hiểu được rằng chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được
các dân tộc bị áp bức và những người lao động trên thế giới khỏi ách nơ lệ”.
Tính cách mạng trong phong cách lãnh đạo của Hồ Chí Minh thể hiện rõ
trong q trình chỉ đạo cách mạng Việt Nam ở từng thời điểm khác nhau. Người đã
kế thừa, phát huy chủ nghĩa yêu nước, truyền thống tốt đẹp của dân tộc ta và tinh
hoa văn hố của nhân loại, trong q trình tiến hành cách mạng, Hồ Chí Minh đã
góp phần phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin trên nhiều vấn đề quan trọng, nhất là lý
luận về cách mạng giải phóng dân tộc và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở các
nước thuộc địa và phụ thuộc. Điển hình ở việc, Người cho rằng, các dân tộc thuộc
địa cần phải chủ động thực hiện nhiệm vụ tự giải phóng; cách mạng ở các nước
thuộc địa không những không phụ thuộc vào thắng lợi của cách mạng vơ sản ở
chính quốc mà có thể và cần phải tiến hành trước cách mạng ở chính quốc. Trong
q trình tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa, Người nhận định: Việt Nam xây
dựng chủ nghĩa xã hội trong những điều kiện đặc biệt, không giống với Liên Xô,
Trung Quốc và các nước xã hội chủ nghĩa khác, vì vậy, phải nêu cao tinh thần độc
lập, tự chủ, sáng tạo, phải học tập kinh nghiệm của các nước anh em, nhưng không
được sao chép, rập khn, bởi ta có đặc điểm riêng của ta... Đây chính là sự sáng
tạo, phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin thêm một bước về tư duy và hành động của
Hồ Chí Minh, phản ánh tính cách mạng trong tư tưởng và phong cách của Người.
2.2.3 Bản chất nhân văn
Bản chất nhân văn trong phong cách lãnh đạo, quản lý Hồ Chí Minh hướng
tới giải phóng con người và gắn liền với mục tiêu “độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã
hội”. Hồ Chí Minh cho rằng, mục tiêu giải phóng con người phải nằm trong mục


tiêu giải phóng dân tộc. Bởi lẽ, dân tộc chưa được độc lập thì Nhân dân khơng thể
có tự do, hạnh phúc. Hồ Chí Minh coi con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực
của sự phát triển.
Trong công tác lãnh đạo, quản lý, Hồ Chí Minh ln u thương con người,

bao dung, độ lượng, tin tưởng vào sức mạnh, phẩm giá con người, trước tiên là
nhân dân lao động. Người viết: “Năm ngón tay cũng có ngón vắn ngón dài. Nhưng
vắn dài đều họp nhau lại nơi bàn tay. Trong mấy triệu người cũng có người thế này
thế khác, nhưng thế này hay thế khác đều dòng dõi của tổ tiên ta. Vậy nên ta phải
khoan hồng đại độ. Ta phải nhận rằng đã là con lạc cháu Hồng thì ai cũng có ít hay
nhiều lịng ái quốc. Đối với những đồng bào lạc lối, lầm đường, ta phải lấy tình
thân ái mà cảm hố họ”. Đối với con người nói chung, Hồ Chí Minh ln khuyến
khích, nâng đỡ, khơi dậy ở con người mặt tốt, giúp họ vươn lên, khẳng định bản
thân mình.
Như vậy, với phong cách lãnh đạo, quản lý độc đáo của mình, Hồ Chí Minh
khơng chỉ tác động đến nhận thức mà cịn có sức cảm hoá con người sâu sắc, đồng
thời rất gần gũi, thiết thực. Phong cách của Người nói chung và phong cách lãnh
đạo, quản lý nói riêng tạo thành những giá trị bền vững, có ý nghĩa to lớn đối với
việc rèn luyện phong cách của các bộ, lãnh đạo nhất là cán bộ lãnh đạo chủ chốt
các cấp trong điều kiện hiện nay. Đó khơng chỉ là những bài học, là chuẩn mực cho
việc xây dựng phong cách người cán bộ cách mạng, mà còn là mẫu mực trong bồi
dưỡng nhân cách cho các thế hệ người Việt Nam hơm nay và mai sau.
2.3 Văn hóa lãnh đạo, quản lý của Hồ Chí Minh
2.3.1 Tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hoá lãnh đạo - quản lý trong bộ máy
Đảng và Nhà nước
Vấn đề văn hoá lãnh đạo - quản lý đã được Hồ Chí Minh suy nghĩ hàng chục
năm trước khi có chính quyền. Từ năm 1939, Người đã chỉ ra rằng: “Đảng không


thể đòi hỏi Mặt trận thừa nhận quyền lãnh đạo của mình, mà phải tỏ ra là một bộ
phận trung thành nhất, hoạt động nhất và chân thực nhất. Chỉ trong đấu tranh và
công tác hằng ngày, khi quần chúng rộng rãi thừa nhận chính sách đúng đắn và
năng lực lãnh đạo của Đảng, thì Đảng mới giành được địa vị lãnh đạo”.
Năm 1943, khi bàn đến xây dựng văn hố mới, Người nói đến việc xây dựng
một “nền chính trị dân quyền. Đặc biệt từ khi chính quyền thuộc về nhân dân, Đảng

trở thành đảng cầm quyền, Người càng trăn trở làm thế nào để thực hiện tốt nghĩa
vụ kép “vừa là người lãnh đạo, vừa là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân”.
Để giải quyết tốt mối quan hệ giữa đảng cầm quyền với nhân dân, Hồ Chí
Minh chỉ rõ “phải đưa chính trị vào giữa dân gian”. Đây chính là cách lãnh đạo,
quản lý bằng thuyết phục, cảm hố, là “chính trị đời sống” từ đó sẽ tạo ra quyền uy
của Đảng, thay vì áp đặt quyền lực.
Đảng cầm quyền thì phải xác định vai trị lãnh đạo của Đảng chứ khơng phải
là một đảng cai trị. Nhưng dù là Đảng lãnh đạo thì người dân vẫn là những người bị
lãnh đạo như cách nói của Bác Hồ. Giải quyết mâu thuẫn này chính là ứng xử văn
hoá của đảng lãnh đạo. Cách tốt nhất là nâng cao trình độ, phẩm chất và ý thức
phục vụ nhân dân ngang tầm quyền lực của Đảng. Đó thực chất vừa là nâng cao
năng lực lãnh đạo, vừa nâng cao năng lực đầy tớ của Đảng.
Văn hoá lãnh đạo của Đảng lãnh đạo, Đảng cầm quyền nằm ở trí tuệ bản
lĩnh, phẩm chất của Đảng. Bởi vì Đảng lãnh đạo quần chúng đấu tranh giữ chính
quyền, xây dựng xã hội mới phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Ở đây
khơng có đất cho sự dốt nát và suy thoái, sự lộng quyền và xa dân... Ngược lại,
Đảng cầm quyền địi hỏi sự gắn bó mật thiết giữa văn hố với chính trị, văn hố
đứng trong chính trị. Khơng có một sự thấu hiểu dân, nắm vững dân tình, dân tâm,
dân ý; thực hiện dân quyền, dân chủ, dân sinh, nâng cao dân trí với ý nghĩa là hạt
nhân của văn hố đảng cầm quyền thì khơng bao giờ được dân tin, dân phục, dân
yêu.
Về văn hoá lãnh đạo - quản lý dưới góc độ nhà nước, Hồ Chí Minh từng


khẳng định “nước ta là nước dân chủ”, dân là chủ và dân làm chủ. Dân chủ là “làm
cho người dân được quyền mở miệng ra”. Một nét quản lý đậm chất văn hố phải là
“Chính phủ là cơng bộc của dân”. Chính sách của Chính phủ phải hợp với nguyện
vọng và quyền lợi của dân chúng. Đối với dân, Chính phủ phải xây dựng một nền
chính trị liêm khiết. Thành quả lớn nhất sau khi giành được độc lập, chính quyền
thuộc về nhân dân, đó là dân chủ trở thành một nguồn lực lớn, một giá trị văn hoá,

vừa là động lực vừa là mục tiêu của cách mạng. Dân chủ đối lập với quan liêu.
Tăng cường dân chủ là phải tẩy sạch bệnh quan liêu. Chủ nghĩa quan liêu là phản
văn hoá, là kẻ thù hủy diệt chúng ta. Phải quan tâm xây dựng nhà nước pháp quyền,
một nấc thang thể hiện trình độ văn minh của nhân loại. Một nét đẹp của văn hoá
quản lý là quản lý xã hội bằng pháp luật và duy trì một xã hội dân sự. Cả hai vấn đề
này đã được Hồ Chí Minh bàn tới ở những mức độ đậm nhạt khác nhau. Theo một
số nhà nghiên cứu có tên tuổi, Hồ Chí Minh đã chọn một nhà nước có phạm vi hoạt
động rất rộng, kết hợp nhuần nhuyễn giữa nhà nước (chính quyền – nhà nước chính
trị) với xã hội dân sự và cá nhân con người. Và nhà nước của Hồ Chí Minh khơng
“nuốt” mất xã hội dân sự và cá nhân con người. Trong vấn đề nhà nước, Hồ Chí
Minh đã cực kỳ coi trọng cá nhân để cực kỳ coi trọng cộng đồng. Hồ Chí Minh đã
phát huy được truyền thống cộng đồng là đặc điểm của Việt Nam và châu Á, đồng
thời đã vận dụng được thành quả về cá nhân của phương Tây.
Việc Hồ Chí Minh đề cao nhà nước pháp quyền, kết hợp dân chủ đại diện
(mơ hình bầu cử đại diện của phương Tây có lựa chọn) và dân chủ trực tiếp với sự
góp mặt của xã hội dân sự (bước đầu), khơng giày xéo lên lợi ích cá nhân là một
tầm nhìn xa về văn hố quản lý phù hợp với thế giới ngày nay, thế giới tồn cầu
hố.
2.3.2 Tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hố lãnh đạo quản lý với tư cách là
cá nhân cán bộ, đảng viên
Nhìn tổng thể, nghiên cứu văn hoá lãnh đạo - quản lý của cá nhân cán bộ,


đảng viên cũng phải đặt trong điều kiện đảng cầm quyền. Trong bối cảnh đó, theo
cách phân tích của Hồ Chí Minh, đã có quyền hành thì người cán bộ lãnh đạo quản lý phải biết tập trung xử lý quyền lực một cách có văn hố.
Thơng thường có hai cách lãnh đạo:
1. Lãnh đạo có văn hố là khơng dùng quyền lực, mà bằng thuyết phục, cảm
hố thơng qua trí tuệ và cái tâm, cái đức. Khơng dùng quyền lực mà có quyền uy
2. Lãnh đạo phi văn hố là dựa vào quyền lực. Trường hợp này rơi vào
những người thiếu tâm, dưới tầm. Người ta đã nói tới quyền lực trong tay một

người kém đức, kém tài thì còn tệ hại, nguy hiểm hơn thanh gươm trong tay một
tên đao phủ. Bác Hồ đã dạy rằng, “không phải cứ viết lên trán chữ “cộng sản” là
được quần chúng yêu mến. Quần chúng chỉ quý mến những người có tư cách đạo
đức”.
Có hai mặt của quyền lực:
1. Quyền lực tạo nên sức mạnh để giữ thành quả cách mạng, xây dựng chế
độ mới trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hố. Đó là mặt tích cực, mặt
“văn hoá” của quyền lực - cả quyền lực của Đảng, Nhà nước và từng cán bộ, đảng
viên.
2. Quyền lực làm tha hoá người nắm quyền, dẫn tới cậy quyền, lợi dụng
quyền lực, lạm dụng quyền lực, say mê quyền lực, chạy theo quyền lực, tranh giành
quyền lực, tham quyền cố vị. Đó là những hành vi phản văn hố,phi văn hóa
Bác Hồ là tấm gương lớn, trong sáng về một người lãnh đạo có văn hố.
Người khơng hành xử như một người có quyền mặc dầu đứng ở đỉnh cao quyền lực
trong suốt 24 năm. Nói như Trần Bạch Đằng, “tư tưởng Hồ Chí Minh tất nhiên là tư
tưởng chính trị, định hướng chính trị song mang đặc thù dễ phân biệt với các tư
tưởng đương thời khác ở phần lớn biểu hiện của tư tưởng dưới dạng văn hố. Nói


×