Tải bản đầy đủ (.docx) (10 trang)

TIỂU LUẬN : VẬN DỤNG MỐI QUAN HỆ GIỮA VẬT CHẤT VÀ Ý THỨC VÀO NỀN KINH TẾ HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (69.9 KB, 10 trang )

VẬN DỤNG MỐI QUAN HỆ GIỮA VẬT CHẤT VÀ Ý THỨC VÀO NỀN KINH
TẾ NƯỚC TA HIỆN NAY
I. LÝ LUẬN CHUNG VỀ MỐI QUAN HỆ GIỮA VẬT CHẤT VÀ Ý THỨC .
1. Vật chất:
1.1. Định nghĩa về vật chất:
- Lênin đã định nghĩa: “ Vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách
quan được đem lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép
lại, chụp lại, phản ánh, và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác”.
- Cần phân biệt khái niệm “Vật chất” với tư cách là phạm trù triết học khác với khái
niệm “vật chất” được sử dụng trong các khoa học chuyên ngành. Vì phạm trù triết học
là kết quả của sự khái quát hóa, trừu tượng hóa những thuộc tính, những mối liên hệ
vốn có của các sự vật, hiện tượng nên nó phản ánh cái chung, vô hạn, vô tận, không
sinh ra, không mất đi.
- Đặc trưng quan trọng nhất của vật chất là thuộc tính khách quan tức là thuộc tính tồn
tại ngồi ý thức, độc lập, không phụ thuộc vào ý thức của con người, cho dù con
người có nhận thức được hay khơng nhận thức được nó.
- Vật chất (dưới hình thức tồn tại cụ thể của nó) là cái có thể gây nên cảm giác ở con
người khi nó trực tiếp hay gián tiếp tác động đến giác quan của con người; ý thức của
con người là sự phản ánh đối với vật chất, còn vật chất là cái được ý thức phản ánh.
- Định nghĩa của Lênin về vật chất có ý nghĩa quan trọng đối với sự phát triển của chủ
nghĩa duy vật và nhận thức khoa học:
- Bằng việc tìm ra thuộc tính quan trọng nhất của vật chất là thuộc tính khách quan,
Lênin đã phân biệt sự khác nhau giữa vật chất và vật thể, khắc phục được hạn chế
trong quan niệm về vật chất của chủ nghĩa duy vật cũ; cung cấp căn cứ nhận thức
khoa học để xác định những gì thuộc về vật chất; tạo lập cơ sở lý luận cho việc xây
dựng quan điểm duy vật về lịch sử, khắc phục được những hạn chế duy tâm trong
quan niệm về lịch sử của chủ nghĩa duy vật trước Mác.


- Khi khẳng định vật chất là thực tại khách quan “được đem lại cho con người trong
cảm giác” và “được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lai, phản ánh”, Lênin khơng


những đã khẳng định tính thứ nhất của vật chất, tính thứ hai của ý thức theo quan
điểm duy vật mà còn khẳng định khả năng con người có thể nhận thức được thực tại
khách quan thơng qua sự “chép lại, chụp lại, phản ánh” của con người đối với thực tại
khách quan.
1.2. Các đặc tính của vật chất:
1.2.1 Vận động:
- Vận động là phương thức tồn tại của vật chất.
- Ăngghen đã định nghĩa: “Vận động hiểu theo nghĩa chung nhất, - tức được hiểu là
một phương thức tồn tại của vật chất, là một thuộc tính cố hữu của vật chất – thì bao
gồm tất cả mọi sự thay đổi và mọi quá trình diễn ra trong vũ trụ, kể từ sự thay đổi vị
trí đơn giản cho đến tư duy”.
- Ăngghen đã phân chia vận động thành năm hình thức cơ bản: vận động cơ học, vận
động vật lý, vận động hóa học, vận động sinh học và vận động xã hội.
- Cơ sở của sự phân chia đó dựa trên các nguyên tắc: các hình thức vận động phải
tương ứng với trình độ nhất định của tổ chức vật chất; các hình thức vận động có mối
liên hệ phát sinh. Có thể hiểu là hình thức vận động cao nảy sinh trên cơ sở của những
hình thức vận động thấp và bao hàm hình thức vận động thấp; hình thức vận động cao
khác về chất so với hình thức vận động thấp và khơng thể quy về hình thức vận động
thấp.
* Vận động và đứng im:
- Mặc dù vật chất luôn ở trong q trình vận động khơng ngừng nhưng điều đó khơng
loại trừ hiện tượng đứng im tương đối khơng có hiện tượng đứng im tương đối thì
khơng có sự phân hóa thế giới vật chất thành các sự vật và hiện tượng phong phú, đa
dạng.
- Đứng im là tương đối vì đứng im, cân bằng chỉ xảy ra trong một số quan hệ nhất
định, trong một hình thức vận động . Đứng im là tam thời vì đứng im khơng tồn tại


vĩnh viễn mà chỉ tồn tại trong một thời gian nhất định, chỉ xét trong một hay một số
quan hệ nhất định, ngay trong sự đứng im vẫn diễn ra những quá trình biến đổi nhất

định.
- Đứng im là trạng thái đặc biệt của vận động, đó là vận động trong thế cân bằng, ổn
định; vận động chưa làm thay đổi căn bản về chất, về vị trí, hình dáng, kết cấu của sự
vật.
1.2.2. Không gian và thời gian:
- Chủ nghĩa duy vật biện chứng đã khẳng định tính khách quan của không gian và thời
gian, xem không gian và thời gian là hình thức tồn tại của vật chất vận động. Trong đó
khơng gian là hình thức tồn tại của vật chất xét về mặt quảng tính, sự cùng tồn tại, trật
tự, kết cấu và sự tác động lẫn nhau. Thời gian là hình thức tồn tại của vật chất vận
động xét về mặt độ dài diễn biến, sự kế tiếp của các q trình. Khơng gian và thời gian
là những hình thức tồn tại của vật chất vận động và khơng có khơng gian và thời gian
thuần túy khi tách rời vật chất vận động.
- Không gian và thời gian là hai thuộc tính, hai hình thức tồn tại khác nhau của vật
chất vận động, nhưng chúng không tách rời nhau. Khơng có sự vật, hiện tượng nào tồn
tại trong khơng gian mà lại khơng có một q trình diễn biến của nó. Cũng khơng thể
có sự vật, hiện tượng nào có thời gian tồn tại mà lại khơng có quảng tính, kết cấu nhất
định. Tính chất của khơng gian và sự biến đổi của nó bao giờ cũng gắn liền với tính
chất và sự biến đổi của thời gian và ngược lại. Do đó, về thực chất không gian và thời
gian là một thể thống nhất không gian - thời gian.
2. Ý thức:
2.1. Kết cấu của ý thức:
- Theo định nghĩa của triết học Mác - Lênin, ý thức là phạm trù cùng xác định với
phạm trù vật chất, vì vậy ý thức là sự phản ánh thế giới vật chất khách quan vào bộ
não con người và có sự biến đổi, sáng tạo của nó. Ý thức có mối quan hệ biện chứng
với vật chất.
2.2. Các đặc tính của vật chất:


- Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, ý thức có nguồn gốc tự nhiên và
nguồn gốc xã hội.

2.2.1. Mặt tự nhiên:
- Theo quan điểm triết học Mác - Lênin, ý thức là thuộc tính của dạng vật chất có tổ
chức cao là bộ não con người, phản ánh thế giới khách quan vào bộ não con người.
Nếu khơng có sự tác động của thế giới khách quan mà nói, trong bộ não con người và
nếu khơng có bộ não con người với tư cách là cơ quan vật chất của ý thức thì sẽ khơng
có ý thức. Bộ não con người và ảnh hưởng của thế giới khách quan đến bộ não con
người là nguồn gốc tự nhiên của tự nhiên. Bản chất của ý thức. Các yếu tố bao gồm:
* Bộ não: Bộ não của con người hiện đại là sản phẩm của một quá trình tiến hóa lâu
dài liên quan đến sinh học xã hội và rất phức tạp về cấu trúc.
* Phản ánh: Là thuộc tính chung, chung của mọi đối tượng vật chất, phản ánh là khả
năng giữ lại và tái tạo những thuộc tính của hệ vật chất khác của hệ vật chất này.
2.2.2. Mặt xã hội:
- Sự ra đời của ý thức gắn liền với quá trình hình thành và phát triển của bộ não con
người dưới tác động của lao động, giao tiếp và các mối quan hệ xã hội.
* Lao động:
- Là quá trình con người sử dụng công cụ để tác động vào giới tự nhiên, làm cho giới
tự nhiên thích nghi với nhu cầu của con người; Là q trình con người tự mình đóng
vai trị trung gian điều hồ sự trao đổi chất giữa mình và tự nhiên, lao động là hoạt
động cụ thể của con người, là hoạt động mang bản chất của con người. Đó là một hoạt
động tích cực, sáng tạo, quyết tâm và gian khổ, có ý nghĩa quyết định trong việc
chuyển loài vượn thành người từ tâm lý động vật sang ý thức.
* Ngôn ngữ:
- Là phương tiện giao tiếp của con người trong xã hội, là hệ thống tín hiệu thứ hai, là
vỏ vật chất của tư duy, là hình thức biểu hiện của tư duy.
- Là một nhân tố quan trọng trong sự phát triển tâm lý và tư tưởng của con người và
xã hội lồi người. Ngơn ngữ đã trở thành một phương tiện vật chất không thể thiếu
của trừu tượng, của quá trình phát triển lịch sử.


2.3. Bản chất của ý thức :

- Ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan, là sự phản ánh sáng tạo thế
giới vật chất. Điều này có nghĩa là nội dung của ý thức do thế giới khách quan quy
định, nhưng ý thức là hình ảnh chủ quan, hình ảnh tinh thần chứ khơng phải hình ảnh
vật lý hay vật chất như người ta thường nghĩ trong chủ nghĩa duy vật tầm thường.
- Khi nói ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan, cũng có nghĩa là ý thức
là sự phản ánh thế giới một cách tự giác và sáng tạo.
+ Tư duy có ý thức là sáng tạo vì nó ln bị nhu cầu thực tiễn quyết định. Sự cần thiết
này đòi hỏi chủ thể phản ánh phải hiểu rõ những gì đang được phản ánh. . Trên cơ sở
đó hình thành nên hình ảnh tinh thần và những hình ảnh đó ngày càng phản ánh đúng
đắn hơn hiện thực khách quan. Song, sự sáng tạo của ý thức là sự sáng tạo của phản
ánh, dựa trên cơ sở phản ánh.
+ Tư duy có ý thức là sáng tạo, vì tư duy đó ln dựa trên cơ sở hoạt động thực tiễn
và là sản phẩm của các mối quan hệ xã hội.
* Ý thức chẳng qua chỉ là vật chất được đem chuyển vào trong đầu óc con người và
được cải biến đi trong đó. (Theo Karl Marx)
* Cấu tạo của ý thức:
- Được xem xét từ nhiều góc độ khác nhau. Có thể chia cấu trúc của ý thức theo hai
chiều:
+ Chiều ngang: gồm các yếu tố như tri thức, tình cảm, niềm tin, lý trí, ý chí...,
trong đó tri thức là yếu tố cơ bản, cốt lõi.
+ Chiều dọc: gồm các yếu tố như tự ý thức, tiềm thức, vô thức.
3.Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức:
- Là mối quan hệ biện chứng mà trong đó vật chất có trước, ý thức có sau, vật chất là
nguồn gốc của ý thức và quyết định ý thức nhưng khơng thụ động mà có thể tác động
trở lại vật chất qua hoạt động của con người.
3.1.Vật chất quyết định ý thức:


-Ý thức là sản phẩm của một dạng vật chất có tổ chức cao, là sự phản ánh của thế giới
vật chất, là hình ảnh mang tính chủ quan của thế giới vật chất. Vì vậy, nội dung của ý

thức do vật chất quyết định. Nên vật chất không chỉ quyết định nội dung mà hình thức
biểu hiện cũng như mọi sự biến đổi của ý thức.
- Các yếu tố tạo thành nguồn gốc tự nhiên, nguồn gốc xã hội của ý thức (bộ óc người,
thế giới khách quan tác động đến bộ óc gây ra các hiện tượng phản ánh, lao động,
ngơn ngữ), hoặc là chính bản thân thế giới vật chất (thế giới khách quan), hoặc là
những dạng tồn tại của vật chất (bộ óc người, hiện tượng phản ảnh, lao động, ngôn
ngữ) đã khẳng định vật chất là nguồn gốc của ý thức.
Ví dụ: Bộ não con người bình thường thì hoạt động ý thức con người vẫn diễn ra bình
thường. Nhưng khi bộ não con người bị tổn thương thì hoạt động ý thức cũng bị rối
loạn.
3.2.Tác động trở lại của ý thức:
- Ý thức do vật chất sinh ra và quy định, nhưng ý thức lại có tính độc lập tương đối
của nó. Hơn nữa, sự phản ánh của ý thức đối với vật chất là sự phản ánh tinh thần,
phản ánh sáng tạo và chủ động chứ khơng thụ động,máy móc,…Vì vậy nó có tác động
trở lại đối với vật chất thông qua hoạt động thực tiễn của con người. Dựa trên các tri
thức về quy luật khách quan, con người đề ra mục tiêu, phương hướng, xác định
phương pháp, dùng ý chí để thực hiện mục tiêu ấy. Vì vậy, ý thức tác động đến vật
chất theo hai hướng chủ yếu:
+ Nếu ý thức phản ánh đúng đắn điều kiện vật chất,hoàn cảnh khách quan thì sẽ thúc
đẩy tạo sự thuận lợi cho sự phát triển của đối tượng vật chất.
+ Ngược lại, nếu ý thức phản ánh sai lệch hiện thực sẽ làm cho hoạt động của con
người không phù hợp với quy luật khách quan, do đó sẽ kìm hãm sự phát triển của vật
chất.
3.3.Ý nghĩa phương pháp luận:
– Phải luôn xuất phát từ hiện thực khách quan trong mọi hoạt động:


+ Tri thức mà con người thu nhận được sẽ thơng qua chu trình học tập, nghiên cứu từ
các hoạt động quan sát, phân tích để tác động vào đối tượng vật chất và buộc những
đối tượng đó phải thể hiện những thuộc tính, quy luật.

+ Để cải tạo thế giới khách quan đáp ứng nhu cầu của mình, con người phải căn cứ
vào hiện thực khách quan để có thể đánh giá, xác định phương hướng biện pháp, kế
hoạch mới có thể thành cơng.
+ Bên cạnh đó cần phải tránh xa những thói quen chỉ căn cứ vào nhu cầu, niềm tin mà
khơng nghiên cứu đánh giá tình hình đối tượng vất chất.
– Phát huy tính năng động, sáng tạo, sức mạnh to lớn của yếu tố con người:
+ Con người muốn ngày càng tài năng, xã hội ngày càng phát triển thì phải ln chủ
động, phát huy khả năng của mình và ln tìm tịi, sáng tạo cái mới. Bên cạnh đó, con
người phải thường xuyên rèn luyện, tu dưỡng, nâng cao năng lực và không bỏ cuộc
giữa chừng.
+ Con người tuyệt đối không được thụ động, ỷ lại trong mọi trường hợp để tránh việc
sa vào lười suy nghĩ, lười lao động.
II.Vận dụng mối quan hệ giữa vật chất va ý thức trong việc xây dựng nền kinh tế
ở nước ta hiện nay:
1.Vận dụng mối quan hệ giữa vật chất và ý thức vào mối quan hệ biện chứng
giữa kinh tế và chính trị:
- Yếu tố vật chất giữ vai trò cơ bản và quyết định, còn yếu tố ý thức chống lại yếu tố
vật chất. Trong nhiều trường hợp yếu tố ý thức có ảnh hưởng quyết định đến sự thành
bại trong hoạt động con người. Điều này thể hiện rõ qua tác dụng của các chủ trương,
chính sách đổi mới kinh tế của Đảng.
- Trong những điều kiện và hoàn cảnh nhất định, chúng ta có thể thấy rằng giữa kinh
tế ( biểu hiện của vật chất ) và chính trị ( biểu hiện của ý thức ) cũng có một mối liên
hệ chặt chẽ. Bởi vì chúng ta thấy trong hồn cảnh kinh tế của một quốc gia - nó là cơ
sở, là cốt yếu, nhưng chính trị là cơ sở. Nhưng họ vẫn ám chỉ một chính đảng thống
nhất đất nước, và đảng đó vẫn đem lại bình n cho nhân dân. Vì vậy khi đất nước


giàu mạnh thì cuộc sống của nhân dân ngày càng ấm no, hạnh phúc hơn, ngược lại khi
đất nước nghèo đi thì dù có ổn định về chính trị đến đâu thì đời sống của nhân dân
cũng khó khăn dẫn đến đảo chính, sụp đổ chính phủ để thay thế một chính phủ mới sẽ

mang lại nhiều lợi ích cho người dân.
- Mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị thay đổi tuỳ theo hình thái kinh tế - xã hội. Con
người trải qua năm hình thái xã hội: nguyên thủy, nô lệ, phong kiến, tư bản và xã hội
chủ nghĩa. Trình độ tổ chức và quản lý cũng như loại hình sản xuất hiện đại sẽ là
những yếu tố quyết định cho mức độ hiện đại và mức sống trong xã hội. Sản xuất vật
chất còn là cơ sở để hình thành mọi mối quan hệ xã hội và đời sống tinh thần của xã
hội. Trong xã hội này, theo Mác, quan hệ giữa người với người trong quá trình sản
xuất (quan hệ kinh tế) là quan hệ cơ bản nhất quyết định mọi quan hệ khác. Khi sản
xuất phát triển, phương thức sản xuất của con người thay đổi, năng suất lao động tăng
và mức sống được cải thiện, các mối quan hệ và mọi mặt của đời sống xã hội cũng
thay đổi theo.
- Kinh tế là nền tảng để một quốc gia tiến hành những chủ trương, biện pháp trong
việc quản lí, cũng như đề ra các chiến lược phát triển kinh tế, phát triển quân đội nhằm
mục đích đảm bảo an ninh trật tự và chủ quyền quốc gia. Dựa vào thực trạng hiện nay,
nhằm mang lại nguồn lợi kinh tế cao cho xã hội thì nhiều tư tưởng cũng như các chính
sách đổi mới kinh tế phù hợp và hiệu quả được đề ra.
- Theo nguyên lí triết học Mác-Lenin, mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức
đòi hỏi chúng ta phải xem xét tình hình các sự vật một cách khách quan, đồng thời
phát huy tính năng động sáng tạo của ý thức, phát huy nỗ lực chủ quan của con người
( như hoạt động kinh tế của nước ta, trong công cuộc đổi mới do Đảng Cộng Sản Việt
Nam khởi xướng đã chú trọng đến việc đề cao yếu tố con người, khi ý thức đổi thay
thì sẽ tiến hành tiếp cận các cơ sở kinh tế cũng như đông đảo quần chúng nhân dân ).
KẾT LUẬN:
Trong công cuộc hình thành, xây dựng và phát triển của xã hội chủ nghĩa Việt Nam từ
xưa đến nay đã gặp không ít khó khăn và thử thách. Những khó khăn cũng như những
trở ngại hiện thực khách quan của thế giới cũng là một phần ảnh hưởng đến sự phát
triển của nước ta, song... có thể nói nó tác động mạnh đến ý thức của mỗi con người


trong chúng ta. Việt Nam từ một nước nghèo nhất thế giới đã vươn lên trở thành một

nước mức thu nhập trung bình, qua đó có thể thấy được sự nỗ lực, cố gắng, kiên trì,
sáng tạo, thay đổi vật chất, cải biến hiện thực của nhà nước và của tồn thể dân tộc
Việt Nam.
Tình hình thực tế nhất hiện nay mà thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng đang
phải đối mặt rất căng thẳng là đại dịch Covid-19. Trong suốt gần 2 năm cả thế giới
phải cố gắng, đoàn kết, quyết liệt để chung tay chống lại cơn đại dịch này. Covid-19
đã ảnh hưởng rất lớn đến tính mạng con người và hơn hết là nền kinh tế của thế giới
và Việt Nam, nó đã khiến cho nhiều nhà máy, xí nghiệp, khu du lịch lớn phải đóng
cửa, thậm chí cịn có rất nhiều doanh nghiệp lớn phải phá sản rút lui trong thi trường
cạnh tranh,... Tuy nhiên, bên cạnh những khó khăn trầm trọng đó thì nền kinh tế của
nước ta đang đạt ở mức 2,9% tăng trưởng GDP năm 2020, Việt Nam là một trong số ít
quốc gia trên thế giới tăng trưởng kinh tế dương. Qua đó, chúng ta có thể thấy tình
hình khó khăn chung do đại dịch Covid-19 là thực tiễn hiện tại và thực tại khách quan
ấy đã tác động đến bản chất của ý thức, cụ thể nó tác động đến sự sáng tạo trong tư
duy suy nghĩ của mỗi con người, làm thúc đẩy ý chí cố gắng để cùng nhau vượt qua
đại khó khăn thử thách này. Đầu tiên, phải nhắc đến Đảng, Chính phủ và Nhà nước là
những người tiên phong đưa ra sự sáng tạo và sau đó tồn dân tộc Việt Nam áp dụng
theo. Trong số các nhà máy, xí nghiệp tạm ngừng hoạt động hay phá sản thì bên cạnh
đó vẫn cịn có nhiều doanh nghiệp chủ động, tích cực làm việc online nhưng vẫn có
thu nhập ổn định giúp cho nền kinh tế tuy giảm mà vẫn bình ổn được. Từ đó, ta có thể
đứng ở một góc độ khách quan để nhìn sự việc, nhìn một cách tổng qt đó là điều
kiện khó khăn chung của cả thế giới, là một điều kiện khách quan về tình hình chung
của đại dịch hay còn gọi là sự thất nghiệp chung của dân số, nhưng ở một khía cạnh
nào đó một số ít cơng ty, xí nghiệp, doanh nghiệp lớn nhỏ họ đã và đang nổ lực hết
mình, vận dụng hết sự sáng tạo và thể hiện sự nhạy bén, năng động để họ có thể tìm
kiếm ra những phương pháp tốt nhất, hiệu quả nhất giúp cho tình hình riêng trong
cơng ty trở thành sự phát triển chung của cả nước. Từ đó, ta có thể thấy được rằng sự
nhạy bén và sáng tạo của con người sẽ được phát huy tối đa nhất ở một hoàn cảnh cấp
bách cụ thể.



Chúng ta hiện tại đang là một người con của tổ quốc và là một sinh viên, chúng ta nên
và phải nổ lực rất nhiều trong công cuộc đổi mới của đất nước. Mỗi sinh viên cần có ý
thức phấn đấu, cố gắng để trở thành một sinh viên hiểu biết và giỏi gian. Phải học hỏi
và đút kết ra được những phương pháp để tiếp thu tri thức thời đại, vận dụng sáng tạo
nhưng tri thức đó vào thực tiễn hiện tại để góp phần làm cho nền kinh tế nước ta ngày
càng trở thành một đất nước giàu mạnh phát triển và phồn thịnh trên thế giới.
Quán triệt phương pháp luận của chủ nghĩa Maclenin và tư tưởng HCM, ta đã vận
dụng thành tạo và triệt để phép duy vật biện chứng vào việc nghiên cứu cũng như
quán lí kinh tế, đồng thời phát huy mạnh mẽ hơn nữa quan hệ biện chứng giữa kinh tế
và chính trị trong công cộc đổi mới nhằm tăng trưởng nền kinh tế quốc, bằng tất cả sự
nổ lực nhất định chúng ta sẽ trở thành những cán bộ quản lí kinh tế giỏi và nổi bật góp
phần xứng đáng vào cơng cuộc đổi mới kinh tế đất nước, từ đó tạo điều kiện cho nền
kinh tế Việt Nam vươn xa và vững mạnh, để từ đó nâng cao hơn nữa vị trí của Việt
Nam trên chiến trường quốc tế, góp phần củng cố hơn nữa về mặt ổn định về chính trị
của đất nước. Đó là đường lối và cũng là trách nhiệm của những nhà quán lí kinh tế,
chính trị của nước nhà để một lần nữa khẳng định rõ ràng vị trí kinh tế lẫn chính trị
của Việt Nam trên bàn cân quốc tế.



×