Tải bản đầy đủ (.pdf) (21 trang)

Bài Tập Thảo Luận Luật Dân Sự Lần 6 (Những Quy Định Chung Tài Sản, Thừa Kế) Nhóm

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (823.08 KB, 21 trang )

NHỮNG QUY ĐỊNH CHUNG VỀ LUẬT DÂN SỰ,
TÀI SẢN VÀ THỪA KẾ
BÀI THẢO LUẬN LẦN THỨ SÁU


MỤC LỤC
PHẦN 1: HÌNH THỨC CỦA DI CHÚC ........................................................................1
PHẦN 2: TÀI SẢN ĐƯỢC ĐỊNH ĐOẠT THEO DI CHÚC .........................................8
PHẦN 3: DI CHÚC CHUNG CỦA VỢ CHỒNG ........................................................14
PHẦN 4: DI SẢN DÙNG VÀO VIỆC THỜ CÚNG ....................................................16

i


PHẦN 1: HÌNH THỨC CỦA DI CHÚC
Tóm tắt Bản án số 83/2009/DSPT:
Vụ án về tranh chấp di sản thừa kế giữa nguyên đơn là ông Nguyễn Thành Hiếu (con riêng
của ông Này) và bị đơn là bà Đặng Thị Trọng, ông Này và bà Trọng có mối quan hệ vợ
chồng hợp pháp và có tài sản chung là ngơi nhà mang số 27 với diện tích là 225m2. Trước
khi qua đời, ông Này đã lập di chúc để lại cho ông Hiếu toàn bộ nhà đất thuộc quyền sở
hữu chung của vợ chồng ông. Di chúc do ông Này lập là hồn tồn hợp pháp, di chúc viết
tay và có sự làm chứng của ba người, trong đó em trai và em gái là hai người hợp pháp.
Theo Tòa án quyết đinh, ơng Này chỉ có quyền giao một phần tài sản nhà cho ơng Hiếu
vì đây là tài sản chung của vợ chồng. Và sau khi xem xét về các mặt hiện vật, điều kiện
về chỗ ở, Tòa án quyết định giao cho bà Trọng quyền sở hữu toàn bộ nhà đất, và có trách
nhiệm thanh tốn cho ơng Hiếu ½ giá trị tài sản, tức phần thừa kế nhận theo di chúc của
ơng Này.
Tóm tắt Quyết định 874/2011:
Vụ án “tranh chấp về thừa kế tài sản” giữa hai bên, nguyên đơn là ông Đỗ Văn Quang, bị
đơn là bà Hồng Thị Ngâm, được biết, ơng Quang là con riêng của cụ Hựu và cụ Sách,
còn bà Ngâm là vợ của con trai cụ Hằng và cụ Hựu. Ông Quang đã khởi kiện yêu cầu hủy


di chúc mà cụ Hựu lập năm 1998 với nội dung cụ Hựu để lại tài sản nhà, đất cho bà Ngâm
và bà Lựu, cho rằng di chúc đó khơng hợp pháp và u cầu chia di sản thừa kế. Ông Quang
cũng xác nhận cụ Hựu không biết chữ và nhờ ông Vũ viết di chúc hộ cũng như cùng cụ
Quý (mẹ ông Quang) làm nhân chứng. Sau đó, khoảng 1 tháng, bà Lựu đem bản di chúc
ra cơ quan nhà nước công chứng, chứng thực. Vấn đề bất cập là người có quyền lợi yêu
cầu công chứng là cụ Hựu nhưng lại không có mặt, và điểm chỉ dấu vân tay khơng rõ
ràng. Vì vậy vụ án cần xem xét và xét xử sơ thẩm lại theo quy định của pháp luật.
Câu 1: Điều kiện về hình thức để di chúc tự viết tay có giá trị pháp lý? Nêu cơ sở
pháp lý khi trả lời.
Theo Điều 631 BLDS 2015 quy định về nội dung của di chúc:
“1. Di chúc gồm các nội dung chủ yếu sau:
a) Ngày, tháng, năm lập di chúc;
b) Họ, tên và nơi cư trú của người lập di chúc;
c) Họ, tên người, cơ quan, tổ chức được hưởng di sản;
1


d) Di sản để lại và nơi có di sản.
2. Ngoài các nội dung quy định tại khoản 1 Điều này, di chúc có thể có các nội dung khác.
3. Di chúc không được viết tắt hoặc viết bằng ký hiệu, nếu di chúc gồm nhiều trang thì
mỗi trang phải được ghi số thứ tự và có chữ ký hoặc điểm chỉ của người lập di chúc.
Trường hợp di chúc có sự tẩy xóa, sửa chữa thì người tự viết di chúc hoặc người làm
chứng di chúc phải ký tên bên cạnh chỗ tẩy xoá, sửa chữa”.
Theo Điều 633 BLDS 2015: “Người lập di chúc phải tự viết và ký vào bản di chúc”.
Như vậy, điều kiện về hình thức để di chúc tự viết tay có giá trị pháp lý:
-

Thứ nhất, người lập di chúc phải ghi rõ ngày, tháng, năm lập di chúc, thể hiện mốc
thời gian lập di chúc.


-

Thứ hai, di chúc phải nêu đầy đủ họ tên và nơi cư trú của người lập di chúc.
Thứ ba, khi lập di chúc thì người lập chúc ghi rõ họ, tên người, cơ quan, tổ chức
được hưởng di sản.

-

Thứ tư, phải nêu rõ thông tin về di sản để lại và nơi có di sản trong di chúc theo
quy định của pháp luật.
Thứ năm, nội dung trong di chúc không được viết tắt hoặc bằng ký hiệu.
Thứ sáu, nếu có chỉnh sửa, bơi xóa, người lập di chúc hoặc làm chứng phải ký tên

-

bênh cạnh chỗ tẩy xóa, sửa chữa. Đây cũng là điểm khác so với quy định về nội
-

dung di chúc bằng văn bản tại Điều 653 BLDS 2005
Thứ bảy, người tự viết di chúc phải ký vào bản di chúc.

Câu 2: Nếu di chúc của ông Này là di chúc phải có người làm chứng thì những người
đã làm chứng di chúc của ơng Này có là người làm chứng hợp pháp khơng? Nêu cơ
sở pháp lý khi trả lời.
Nếu di chúc của ông Này là di chúc phải có người làm chứng thì chỉ có em gái, em trai
ơng Này là người làm chứng hợp pháp; cịn cha ơng Này khơng phải là người làm chứng
hợp pháp.
Vì ơng Chìa (cha ơng Này) là người thừa kế theo pháp luật thuộc hàng thừa kế thứ nhất
được quy định tại điểm a khoản 1 Điều 651 BLDS 2015:
“Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con

nuôi của người chết”

2


Nên ơng Chìa rơi vào trường hợp khơng phải là người làm chứng cho việc lập di chúc,
tức là người thừa kế theo pháp luật của người lập di chúc, căn cứ theo Điều 632 BLDS
2015 quy định:
“Mọi người đều có thể làm chứng cho việc lập di chúc, trừ những người sau đây:
1. Người thừa kế theo di chúc hoặc theo pháp luật của người lập di chúc.
2. Người có quyền, nghĩa vụ tài sản liên quan tới nội dung di chúc.
3. Người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong
nhận thức, làm chủ hành vi.”
Từ đó có thể kết luận rằng ơng Chìa (cha ơng Này) khơng là người làm chứng hợp pháp.
Còn những người làm chứng còn lại khi ông Này lập di chúc là em trai, em gái ông nhưng
nội dung di chúc là chuyển quyền thừa kế tồn bộ nhà đất thuộc quyền sở hữu chung của
ơng với bà Trọng cho Nguyễn Thành Hiếu là con riêng ông Này do đó em trai, em gái
ông Này không là người thừa kế theo di chúc, cũng không là người có quyền, nghĩa vụ tài
sản liên quan tới di chúc. Nên họ là người làm chứng hợp pháp.
Câu 3: Di chúc của ơng Này có là di chúc do ông Này tự viết tay không? Vì sao?
Nếu xét theo cả hai BLDS năm 2015 và năm 2005, cụ thể ở quy định về việc lập di chúc
bằng văn bản khơng có người làm chứng1, người lập di chúc phải tự tay viết và ký vào
bản di chúc đồng thời khơng vi phạm về mặt nội dung và hình thức của di chúc2, cũng
như người lập di chúc phải đảm bảo minh mẫn, sáng suốt trong khi lập di chúc; không bị
lừa dối, đe doạ, cưỡng ép. Như vậy, xét các yếu tố trên, di chúc của ông Này là di chúc
do ơng này viết tay. Cịn về vấn đề cơng chứng, chức thực, đó là nhằm đảm bảo tính chính
xác, và dành cho một số đối tượng nhất định, ông Này không thuộc đối tượng bắt buộc
phải công chứng, chứng thực.
Câu 4: Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tịa án liên quan đến hình
thức di chúc của ông Này khi đây là di chúc do ông Này tự viết tay.

Hướng giải quyết trên của Tòa án hồn tồn hợp lý. Bởi vì di chúc của ông Này được tự
tay ông Này viết và có hai người làm chứng hợp pháp là em trai và em gái đồng thời cả
hai người này đều đã điểm chỉ và ký tên. Ngoài ra, di chúc được lập trong lúc ơng Này
hồn tồn minh mẫn, sáng suốt và khơng hề bị ép buộc hay lừa dối. Như vậy không cần

1
2

Xem: Điều 633 BLDS 2015 và Điều 655 BLDS 2005.
Xem: Điều 653 BLDS 2005 và Điều 631 BLDS 2015

3


đền việc yêu cầu công chứng hoặc chứng thực bản di chúc, bản di chúc vẫn được coi là
hợp pháp.
Câu 5: Di chúc của cụ Hựu đã được lập như thế nào?
Theo Quyết định giám đốc thẩm số 874/2011/DS-GĐT ngày 22/11/2011 thì di chúc của
cụ Hựu được lập vào ngày 25/11/1998 bằng cách đọc cho ông Vũ viết, cụ Hựu điểm chỉ,
ông Vũ và cụ Đỗ Thị Quý (là mẹ của ơng Vũ) ký tên làm chứng. Sau đó ngày 4/9/1999
bà Lựu mang di chúc đến cho ơng Hồng Văn Thưởng (là trưởng thôn) và UBND xã Mai
Lâm xác nhận.
Câu 6: Cụ hữu có biết chữ khơng? Đoạn nào của Quyết định số 874 cho câu trả lời?
Cụ Hựu không biết chữ. Điều này được thể hiện rõ trong Quyết định số 874 ở phần Xét
thấy của Tòa án: “Cụ Hựu đọc cho ông Vũ viết, cụ Hựu điểm chỉ, ông Vũ và cụ Đỗ Thị
Quý (là mẹ của ông Vũ) ký tên làm chứng… Ông Quang xác nhận cụ Hựu là người không
biết chữ”.
Câu 7: Di chúc của người không biết chữ phải thỏa mãn các điều kiện nào để có hình
thức phù hợp với quy định của pháp luật?
Theo khoản 3 Điều 652 BLDS 2005 quy định:

“3. Di chúc của người bị hạn chế về thể chất hoặc của người không biết chữ phải được
người làm chứng lập thành văn bản và có cơng chứng hoặc chứng thực”.
Theo Điều 657 BLDS 2005 di chúc có cơng chứng hoặc chứng thực:
“Người lập di chúc có thể u cầu cơng chứng hoặc chứng thực bản di chúc”.
Và theo Điều 656 BLDS 2005 quy định:
“Trong trường hợp người lập di chúc khơng thể tự mình viết bản di chúc thì có thể nhờ
người khác viết, nhưng phải có ít nhất là hai người làm chứng. Người lập di chúc phải ký
hoặc điểm chỉ vào bản di chúc trước mặt những người làm chứng; những người làm
chứng xác nhận chữ ký, điểm chỉ của người lập di chúc và ký vào bản di chúc.
Việc lập di chúc phải tuân theo quy định tại Điều 653 và Điều 654 của Bộ luật này”.
Những người làm chứng thuộc những nhóm người mà Điều 654 BLDS 2005 quy định:
“Mọi người đều có thể làm chứng cho việc lập di chúc, trừ những người sau đây:
1. Người thừa kế theo di chúc hoặc theo pháp luật của người lập di chúc;
4


2. Người có quyền, nghĩa vụ tài sản liên quan tới nội dung di chúc;
3. Người chưa đủ mười tám tuổi, người khơng có năng lực hành vi dân sự.”
Vậy để di chúc của người không biết chữ được pháp luật thừa nhận thì có 4 điều kiện:
-

Được người làm chứng lập thành văn bản.

-

Người lập di chúc phải ký hoặc điểm chỉ vào bản di chúc trước mặt người làm
chứng

-


Có cơng chứng hoặc chứng thực theo u cầu của người lập di chúc.
Thỏa mãn về mặt nội dung, hình thức và người làm chứng được quy định tại Điều
653 và Điều 654 BLDS 2005.

Như vậy, nếu đáp ứng được các quy định như trên thì bản di chúc của người khơng biết
chữ có hình thức phù hợp với quy định của pháp luật.
Câu 8: Các điều kiện nào nêu trên đã được đáp ứng đối với di chúc của cụ Hựu?
Thứ nhất, về điều kiện hình thức theo khoản 3 Điều 652 BLDS 2005: “Di chúc của người
bị hạn chế về thể chất hoặc của người không biết chữ phải được người làm chứng lập
thành văn bản và có công chứng hoặc chứng thực”. Như vậy, cụ Hựu là người khơng biết
chữ, vì thế đã nhờ ơng Vũ viết, cũng như ông Vũ và mẹ ông Vũ (cụ Đỗ Thị Quý) làm
chứng, và lập thành văn bản. Cụ Hựu đã đáp ứng được điều kiện này.
Thứ hai, đối với nhóm chủ thể hạn chế về thể chất, khơng biết chữ, yếu tố công chứng,
chứng thực là bắt buộc. Cụ Hựu cũng đã đáp ứng được điều kiện này.
Thứ ba, đối với yếu tố người làm chứng cho việc lập di chúc, trong trường hợp này, ông
Đỗ Văn Vũ (trưởng họ) và cụ Đỗ Thị Quý (mẹ ông Vũ), là hợp lý, vì theo Quyết định
khơng phản đối về việc cả hai người làm nhân chứng, tức hai chủ thể này là phù hợp với
Điều 654 BLDS 2005.
Như vậy, trên cơ sở pháp lý, ông Hữu đã đáp ứng được các yêu cầu nêu trên.
Câu 9: Các điều kiện nào nêu trên đã không được đáp ứng đối với di chúc của cụ
Hựu?
Xét theo Điều 657 di chúc có cơng chứng hoặc chứng thực: “Người lập di chúc có thể
yêu cầu công chứng hoặc chứng thực bản di chúc”. Đây là yếu tố bắt buộc đối với người
không biết chữ như cụ Hựu nhằm đảm bảo quyền lợi cho người không biết chữ lập di
chúc. Nhưng trong trường hợp này, người yêu cầu công chứng, chứng thực là bà Lựu,
không phải cụ Hựu, vì thế khơng hợp lệ.
5


Câu 10: Theo anh/chị, di chúc nêu trên có thỏa mãn điều kiện về hình thức khơng?

Vì sao?
Xét về điều kiện hình thức của di chúc, di chúc của cụ Hựu là thỏa mãn về mặt hình thức.
Đầu tiên, theo xác nhận của ông Quang, cụ Hựu là người không biết chữ, vì thế có thể nói
ơng Hựu thuộc trường hợp đối tượng bị hạn chế về mặt thể chất, không biết chữ, nên sau
khi nhờ người viết hộ di chúc và điểm chỉ, di chúc được lập thành văn bản và đem đi cơng
chứng nhằm đảm bảo tính chính xác là điều hoàn toàn phù hợp với quy định của pháp
luật. Nhưng vấn đề bất cập ở đây là người đem bản di chúc ra công chứng không phải là
cụ Hựu mà là bà Lựu, theo Điều 657 BLDS 2005 quy định về di chúc có cơng chứng hoặc
chứng thực: “Người lập di chúc có thể u cầu cơng chứng hoặc chứng thực bản di chúc”.
Như vậy có thể cho rằng, người có quyền yêu cầu cơ quan chức năng công chứng hoặc
chứng thực bản di chúc là cụ Hựu, không phải bà Lựu.
Tiếp đến, về vấn đề người làm chứng, được biết 2 người làm chứng cũng như bao gồm
việc viết hộ di chúc cho cụ Hựu là ông Vũ (trưởng họ Đỗ) và cụ Đỗ Thị Quý (mẹ ơng
Vũ), cả hai người đều thuộc dịng họ Đỗ và ơng Vũ là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan, nhưng Tịa án vẫn chưa xác định ơng Vũ và cụ Quý có quyền và nghĩa vụ liên quan
đến tài sản trong di chúc hay khơng, hoặc có thuộc hàng thừa kế theo pháp luật, theo Điều
654 BLDS 2005 hay không. Nếu ông Vũ và cụ Quý thuộc trường hợp như trên, xem như
việc lập di chúc của cụ Hựu là khơng hợp pháp vì vi phạm quy định về người làm chứng.
Câu 11: Suy nghĩ của các anh/chị về các quy định trong BLDS liên quan đền hình
thức di chúc của người không biết chữ.
Trong BLDS 2005, các quy định liên quan đến hình thức lập di chúc của người không
biết chữ được thể hiện cụ thể ở các điều sau:
-

Thứ nhất, khoản 3 Điều 652 BLDS 2005: “Di chúc của người bị hạn chế về thể
chất hoặc của người không biết chữ phải được người làm chứng lập thành văn bản
và có cơng chứng hoặc chứng thực”.

-


Thứ hai, đề đảm bảo tính cơng bằng, và khơng có tác động tiêu cực nào đến nội
dung của di chúc, pháp luật còn quy định về các chủ thể được phép làm nhân chứng,
theo Điều 654: “Mọi người đều có thể làm chứng cho việc lập di chúc, trừ những
người sau đây:
o 1. Người thừa kế theo di chúc hoặc theo pháp luật của người lập di chúc;
o 2. Người có quyền, nghĩa vụ tài sản liên quan tới nội dung di chúc;
o 3. Người chưa đủ mười tám tuổi, người khơng có năng lực hành vi dân sự”
6


-

Thứ ba, Điều 656 của BLDS 2005 quy định về di chúc bằng văn bản có người làm
chứng: “Trong trường hợp người lập di chúc khơng thể tự mình viết bản di chúc
thì có thể nhờ người khác viết, nhưng phải có ít nhất là hai người làm chứng. Người
lập di chúc phải ký hoặc điểm chỉ vào bản di chúc trước mặt những người làm
chứng; những người làm chứng xác nhận chữ ký, điểm chỉ của người lập di chúc
và ký vào bản di chúc”. Đây là một quy định không rõ ràng về chủ thể, và hơi bao

-

quát, nếu theo quy định này, các chủ thể có thể là người không biết chữ và cả người
biết chữ.
Thứ tư, cuối cùng về vấn đề là người không biết chữ lập di chúc thì theo quy định
tại Điều 657 về di chúc có cơng chứng hoặc chứng thực: “Người lập di chúc có thể
u cầu cơng chứng hoặc chứng thực bản di chúc”. Đây là quy định bắt buộc người
không biết chữ khi lập di chúc phải thực hiện nhằm đảm bảo tính chính xác của di
chúc.

Đối với BLDS 2015, các quy định tại khoản 3 Điều 630, Điều 632, và Điều 635 lần

lượt tương tự với khoản 3 Điều 652, Điều 654 và Điều 657 của BLDS 2005. Riêng đối
với Điều 656 BLDS 2005 quy định về di chúc bằng văn bản có người làm chứng, thì
ở BLDS 2015, Điều 634 đã cho thấy rõ hơn về chủ thể trong quy định này là người
biết chữ: “Trường hợp người lập di chúc khơng tự mình viết bản di chúc thì có thể tự
mình đánh máy hoặc nhờ người khác viết hoặc đánh máy bản di chúc, nhưng phải có
ít nhất là hai người làm chứng. Người lập di chúc phải ký hoặc điểm chỉ vào bản di
chúc trước mặt những người làm chứng; những người làm chứng xác nhận chữ ký,
điểm chỉ của người lập di chúc và ký vào bản di chúc.”
Như vậy qua hai BLDS 2005 và 2015, các quy định về người không biết chữ lập di
chúc là khá chặt chẽ, và ngày càng cụ thể hóa đối tượng, tránh được hiện tượng trùng
lặp trong các điều luật.

7


PHẦN 2: TÀI SẢN ĐƯỢC ĐỊNH ĐOẠT THEO DI CHÚC
Tóm tắt Quyết định số 58/2018:
Cụ Nguyễn Văn D và cụ Nguyễn Thị C có tài sản chung là thửa đất số 38. Trước khi mất
hai cụ có lập di chúc để lại thửa đất nêu trên cho ông D1. Tuy nhiên, trước khi lập di chúc,
cụ thể là vào năm 1998 cụ C đã làm giấy tờ chuyển nhượng thửa đất trên cho ơng Y với
giá 140.000.000 đồng. Do đó, nguyên đơn là ông Trần Văn Y yêu cầu tuyên bố Văn bản
Công chứng Di chúc và Văn bản Công chứng Văn bản cơng bố di chúc của Phịng cơng
chứng M tỉnh Vĩnh Phúc vơ hiệu vì cho rằng việc công chứng này không đúng pháp luật
và làm ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp của gia đình ơng. Chánh án Tòa án nhân
dân cấp cao tại Hà Nội bác quyết định của Tòa sơ thẩm và Tòa phúc thẩm tỉnh Vĩnh Phúc
chấp nhận yêu cầu vô hiệu hai văn bản trên của ông Y, giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân
dân thành phố Vĩnh Yên xét xử sơ thẩm lại theo đúng quy định của pháp luật.
Tóm tắt Quyết định số 359/2013:
Vụ án về “tranh chấp thừa kế” giữa nguyên đơn là cụ Quý, bị đơn là ông Dũng và ông
Lộc, được biết hai vợ chồng cụ Quý và cụ Hương có tài sản chung gồm nhà và đất tại

25D/19 Nguyễn Văn Đậu. Ngày 16/1/2009, cụ Hương mất và để lại di chúc với nội dung
chia toàn bộ nhà đất cho các con, biết thời điểm lập di chúc, cụ Hương hoàn toàn minh
mẫn. Nhưng nội dung này khơng phù hợp vì đây là tài sản chung của cụ Quý và cụ Hương
nên phải có sự đồng ý của cụ Quý, đồng thời theo pháp luật, cụ Quý sẽ được hưởng 2/3
một suất tài sản theo pháp luật và ½ giá trị tài sản bàn đầu chia đơi. Nhưng vì Tịa án cấp
sơ thẩm lại chưa yêu cầu ông Lộc giao trả nhà đất mà ông Lộc sử dụng, dẫn đến giải quyết
chưa triệt để và cần xét xử lại. Ngồi ra, cịn phải xem xét cơng sức giữ gìn tài sản của
ơng Lộc.
Câu 1: Cụ Hương đã định đoạt tài sản nào? Đoạn nào của Quyết định số 359 cho
câu trả lời?
Cụ Hương đã định đoạt tài sản chung của cụ Hương và cụ Quý gồm nhà và đất.
Đoạn: “Ngày 06/04/2009 cụ Nguyễn Văn Hương chết, để lại di chúc có nội dung chia
tồn bộ căn nhà và đất số 302 Nguyễn Thượng Hiền, phường 5, quận Phú Nhuận cho 5
người con là: Nguyễn Ngọc Đức, Nguyễn Hữu Nghĩa, Nguyễn Ngọc Hiếu, Nguyễn Hữu
Dũng, Quảng Thị Kiều (vợ Nguyễn Hữu Trí), di chúc đã được cơng chứng tại Phịng cơng
chứng số 4 thành phố Hồ Chí Minh ngày 16/01/2009.”

8


Câu 2: Đoạn nào của Quyết định số 359 cho thấy tài sản cụ Hương định đoạt trong
di chúc là tài sản chung của vợ chồng cụ Hương?
Đoạn của Quyết định số 359 tại phần xét thấy, tài sản cụ Hương định đoạt trong di chúc
là tài sản chung của vợ chồng cụ Hương:
“Tuy nhiên, về nội dung thì di chúc chỉ có giá trị một phần bởi nhà đất trên là tài sản
chung của vợ chồng cụ Hương và cụ Quý. Việc cụ Hương lập di chúc cho toàn bộ nhà đất
cho 5 người con trong khi khơng có sự đồng ý của cụ Quý là không đúng.”
Câu 3: Tịa án đã cơng nhận phần nào của di chúc? Đoạn nào của Quyết định số 359
cho câu trả lời trên?
Tịa án cơng nhận: ½ căn nhà số 302 Nguyễn Thượng Hiền, phường 5, quận Phú Nhuận

có diện tích đất 340,3m2 là phần di chúc có hiệu lực. Cụ thể ở phần xét thấy:
“Vì vậy, Tịa án cấp sơ thẩm xét xử di chúc của cụ Nguyễn Văn Hương có hiệu lực một
phần đối với phần tài sản của cụ Hương (½ nhà đất) nên được chia đều cho 5 người con
là các ông bà Nguyễn Ngọc Đức, Nguyễn Hữu Nghĩa, Nguyễn Ngọc Hiếu, Nguyễn Hữu
Dũng, Quãng Thị Kiều (vợ ông Nguyễn Hữu Trí) sau khi đã chia cho cụ Q 2/3 suất
thừa kế theo pháp luật; cịn ½ diện tích đất cịn lại được chia cho cụ Q; phần giá trị căn
nhà theo kết quả định giá của hội đồng định giá thì được chia cho cụ Q ½ và thêm 2/3
suất thừa kế theo pháp luật và phần còn lại chia đều cho 5 người con được hưởng thừa kế
theo di chúc của cụ Hương là có căn cứ”.
Câu 4: Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tòa Giám đốc thẩm?
Hướng giải quyết trên là hợp lý.
Điều 634 của BLDS năm 2005 có quy định về di sản: “Di sản bao gồm tài sản riêng của
người chết, phần tài sản của người chết trong tài sản chung với người khác”.
Trong trường hợp của cụ Quý và cụ Hương, tài sản thuộc sở hữu chung của cả hai người.
Trước khi chết, cụ Hương cũng khơng có tài sản riêng nên chỉ có phần tài sản trong tài
sản chung với cụ Quý mới được coi là di sản. Di chúc của cụ Hương được lập hợp pháp
về hình thức nhưng về nội dung thì di sản được định đoạt là tài sản chung của cụ Hương
và cụ Q, nên Tịa án quyết định chỉ cơng nhận một phần tài sản của cụ Hương (1/2 nhà
đất), phần di sản của cụ được chia cho 5 người con theo di chúc sau khi đã chia cho cụ
Qúy 2/3 suất thừa kế theo pháp luật là hoàn toàn hợp lý. Và cụ Quý được hưởng 1/2 tài
sản nhà đất trong phần tài sản chung của hai cụ là hoàn toàn đúng pháp luật.

9


Khoản 1 Điều 669 BLDS năm 2005 cũng có quy định về Người thừa kế không phụ thuộc
vào nội dung của di chúc:
“Những người sau đây vẫn được hưởng phần di sản bằng hai phần ba suất của một người
thừa kế theo pháp luật, nếu di sản được chia theo pháp luật, trong trường hợp họ không
được người lập di chúc cho hưởng di sản hoặc chỉ cho hưởng phần di sản ít hơn hai phần

ba suất đó, trừ khi họ là những người từ chối nhận di sản theo quy định tại Điều 642 hoặc
họ là những người không có quyền hưởng di sản theo quy định tại khoản 1 Điều 643 của
Bộ luật này:
1. Con chưa thành niên, cha, mẹ, vợ, chồng;
2. Con đã thành niên mà không có khả năng lao động.”
Cụ Q khơng thuộc trường hợp tại Điều 6423 và Khoản 1 Điều 6434 của BLDS 2005.
Khi cụ Hương chết, cụ Quý là vợ của cụ Hương cũng không được cụ Hương, là người lập
di chúc, cho hưởng di sản. Vì thế, việc Tịa án xác định chia cho cụ Quý 2/3 suất thừa kế
theo pháp luật là hợp lý.
Câu 5: Nếu cụ Quý chết trước cụ Hương, phần nào của di chúc có giá trị pháp lý?
Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.
Trong trường hợp cụ Quý chết trước cụ Hương, phần di chúc của cụ Hương sẽ có hiệu
lực pháp lý tồn bộ, ngồi ra cụ Hương có thể được nhận thêm một phần tài sản từ cụ Quý
theo pháp luật hoặc theo di chúc và phần tài sản của cụ Quý có thể được chia theo các
trường hợp sau:
Trường hợp 1, nếu cụ Quý chết và để lại di chúc không bao gồm cụ Hương mà chỉ chia
cho các con thì vẫn căn cứ theo Điều 669 BLDS 2005 quy định về 2/3 suất tài sản mà
Điều 642 BLDS năm 2005 về Từ chối nhận di sản:
“1. Người thừa kế có quyền từ chối nhận di sản, trừ trường hợp việc từ chối nhằm trốn tránh việc thực hiện nghĩa vụ
tài sản của mình đối với người khác.
2. Việc từ chối nhận di sản phải được lập thành văn bản; người từ chối phải báo cho những người thừa kế khác,
người được giao nhiệm vụ phân chia di sản, cơ quan công chứng hoặc Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi có
địa điểm mở thừa kế về việc từ chối nhận di sản.
3. Thời hạn từ chối nhận di sản là sáu tháng, kể từ ngày mở thừa kế. Sau sáu tháng kể từ ngày mở thừa kế nếu khơng
có từ chối nhận di sản thì được coi là đồng ý nhận thừa kế.”
3

Khoản 1 Điều 643 BLDS 2005 về Người không được quyền hưởng di sản:
“a) Người bị kết án về hành vi cố ý xâm phạm tính mạng, sức khoẻ hoặc về hành vi ngược đãi nghiêm trọng, hành
hạ người để lại di sản, xâm phạm nghiêm trọng danh dự, nhân phẩm của người đó;

b) Người vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ nuôi dưỡng người để lại di sản;
c) Người bị kết án về hành vi cố ý xâm phạm tính mạng người thừa kế khác nhằm hưởng một phần hoặc toàn bộ
phần di sản mà người thừa kế đó có quyền hưởng;
d) Người có hành vi lừa dối, cưỡng ép hoặc ngăn cản người để lại di sản trong việc lập di chúc; giả mạo di chúc, sửa
chữa di chúc, hủy di chúc nhằm hưởng một phần hoặc tồn bộ di sản trái với ý chí của người để lại di sản.”
4

10


người thừa kế không phụ thuộc vào pháp luật được hưởng. Cụ Hương sẽ được hưởng
thêm 2/3 giá trị tài sản trong ½ giá trị tài sản chung với cụ Quý. Như vậy, phần tài sản
theo di chúc của cụ Hương sẽ được tăng thêm một phần như trên.
Trường hợp 2, nếu cụ Quý để lại di sản cho cụ Hương theo di chúc, thì phần tài sản theo
di chúc mà của cụ Hương để lại cho các con cũng sẽ được tăng lên một phần tùy thuộc
vào mức tài sản mà cụ Quý để lại cho cụ Hương, căn cứ vào Điều 631 BLDS 2005.
Trường hợp 3, nếu cụ Q chết mà khơng để lại di chúc, thì phần tài sản của cụ Quý sẽ
được chia căn cứ theo Điều 676 BLDS 2005 quy định về hàng thừa kế theo pháp luật.
Như vậy, giá trị phần di sản mà cụ Hương để lại cho các con trong di chúc cũng sẽ tăng
lên một phần.
Như vậy, có thể nói rằng, nếu cụ Quý chết trước cụ Hương, toàn bộ di chúc của cụ Hương
sẽ có giá trị pháp lý.
Câu 6: Nếu tài sản được định đoạt trong di chúc chỉ thuộc sở hữu của cụ Hương vào
đầu tháng 4/2009 thì di chúc của cụ Hương có giá trị pháp lý khơng ? Vì sao?
Nếu tài sản được đinh đoạt trong di chúc chỉ thuộc sở hữu của cụ Hương vào đầu tháng
4/2009 nhưng nếu đó là tài sản được đảm bảo hình thành trong tương lại, cụ thể theo
khoản 2 Điều 320 về vật đảm thực hiên nghĩa vụ dân sự:
“2. Vật dùng để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự là vật hiện có hoặc được hình thành
trong tương lai. Vật hình thành trong tương lai là động sản, bất động sản thuộc sở hữu
của bên bảo đảm sau thời điểm nghĩa vụ được xác lập hoặc giao dịch bảo đảm được giao

kết”.
Vậy, nếu trong trường hợp, cụ Hương có thể đảm bảo vào lúc bản di chúc được công
chứng, phần tải sản trong di chúc sẽ thuộc quyền sở hữu của cụ trong tương lại thì di chúc
vẫn có giá trị pháp lý.
Xét trong BLDS 2015, về tài sản hình thành trong tương lai, theo khoản 1 Điều 108 BLDS
2015 quy định:
“1. Tài sản hiện có là tài sản đã hình thành và chủ thể đã xác lập quyền sở hữu, quyền
khác đối với tài sản trước hoặc tại thời điểm xác lập giao dịch”.
Như vậy, nhằm để đảm bảo quyền lợi và ý chí của người mất cũng như tài sản của họ, nếu
người lập di chúc có căn cứ về tài sản hình thành trong tương lai, di chúc của họ vẫn có
giá trị pháp lý.
11


Câu 7: Quyết định số 58, đoạn nào cho thấy quyền sử dụng đất của cụ C và cụ D đã
bị thu hồi trước khi hai cụ chết?
Theo quyết định số 58 ở đoạn nhận định của Tịa án:
“Ngồi ra, di sản của cụ D, cụ C để lại là quyền sử dụng đất tại thửa đất số 38, Tờ bản đồ
số 13 đã bị thu hồi theo quyết định số 1208/QĐ-UBND ngày 21/7/2010 của Ủy ban nhân
dân thành phố Vĩnh Yên”
Theo đó ngày cụ D chết là ngày 21/01/2011 và ngày cụ C chết là ngày 07/09/2010 đều
sau ngày Ủy ban nhân dân thu hồi lại quyền sử dụng đất là ngày 21/7/2010.
Câu 8: Đoạn nào của Quyết định số 58 cho thấy Tòa Giám đốc thẩm xác định di sản
của cụ C và cụ D là quyền sử dụng đất? Suy nghĩ của anh/chị về hướng xác định vừa
nêu của Tòa giám đốc thẩm?
Ở đoạn nhận định của Tòa án trong Quyết định số 58 đã cho thấy Tòa giám đốc thẩm xác
định di sản của cụ C và cụ D là quyền sử dụng đất
“Ngoài ra, di sản của cụ D, cụ C để lại là quyền sử dụng đất tại thửa đất số 38, Tờ bản đồ
số 13 đã bị thu hồi theo quyết định số 1208/QĐ-UBND ngày 21-7-2010 của Ủy ban nhân
dân thành phố Vĩnh Yên nhưng giá trị quyền sử dụng đất của người có đất bị thu hồi vẫn

được pháp luật bảo đảm theo quy định của Luật Đất đai nên hai cụ có quyền lập di chúc
định đoạt tài sản trên cho ông D1”
Hướng xác định vừa nêu của Tòa giám đốc thẩm là hợp lý. Bởi vì, thửa đất tại xứ M là tài
sản chung của cụ C và cụ D nhưng các tài liệu do ơng Y xuất trình thể hiện chỉ có cụ C
chuyển nhượng cho ơng Y mà chưa có ý kiến của cụ D. Trường hợp chỉ cụ C tự ý định
đoạt tài sản chung của hai cụ mà khơng có sự đồng ý của cụ D thì cần xem xét tính hợp
pháp của hợp đồng chuyển nhượng giữa cụ C và ơng Y.
 Tồ giám đốc thẩm làm vậy là có căn cứ xác thực, có giấy tờ chứng cứ rõ ràng,
không thể chối cãi.
Câu 9: Đoạn nào của Quyết định số 58 cho thấy Tòa giám đốc thẩm theo hướng cụ
C và cụ D được định đoạt theo di chúc giá trị quyền sử dụng đất bị Nhà nước thu
hồi? Suy nghĩ của anh/chị về hướng vừa nêu của Tòa giám đốc thẩm.
Ở đoạn nhận định của Tòa án trong Quyết định số 58 đã cho thấy Toà giám đốc thẩm theo
hướng cụ C và cụ D được định đoạt theo di chúc giá trị quyền sử dụng đất được Nhà nước
thu hồi: “Ngoài ra, di sản của cụ D, cụ C để lại là quyền sử dụng đất tại thửa đất số 38,
Tờ bản đồ số 13 đã bị thu hồi theo Quyết định số 1208/QĐ-UBND ngày 21-7-2010 của
12


Ủy ban nhân dân thành phố V nhưng giá trị quyền sử dụng đất của người có đất bị thu hồi
vẫn được pháp luật bảo đảm theo quy định của Luật Đất đai nên hai cụ có quyền lập di
chúc định đoạt tài sản trên cho ơng D1”
Tịa giám đốc thẩm theo hướng của cụ C và cụ D được định đoạt theo di chúc giá trị quyền
sử dụng đất bị nhà nước thu hồi là hoàn toàn hợp lý. Bởi vì, mặc dù quyền sử dụng đất tại
thửa đất số 38, Tờ bản đồ số 13 đã bị thu hồi theo Quyết định số 1208/QĐ-UBND ngày
21-7-2010 của Ủy ban nhân dân thành phố V nhưng theo khoản 2 Điều 42 Luật đất đai:
“Người bị thu hồi loại đất nào thì được bồi thường bằng việc giao đất mới có cùng mục
đích sử dụng, nếu khơng có đất để bồi thường thì được bồi thường bằng giá trị quyền sử
dụng đất tại thời điểm có quyết định thu hồi”
Vậy ta có thể kết luận rằng hai cụ C và D vẫn có quyền lập di chúc định đoạt giá trị quyền

sử dụng đất tại thửa đất số 38 cho ông D1.

13


PHẦN 3: DI CHÚC CHUNG CỦA VỢ CHỒNG
Tóm tắt Bản án số 14/2017:
Vụ việc về “tranh chấp thừa kế theo di chúc” giữa nguyên đơn là bà Hoàng Thị H và bị
đơn là anh Hoàng Tuyết H. Bà Hoàng Thị H và ơng Hồng Minh X là vợ chồng, trước
lúc chết hai người cùng lập di chúc, ông X là người ghi với nội dung tóm gọn là sau khi
ơng chết, di chúc sẽ giao lại cho bà quản lý sử dụng tài sản, và sau khi bà chết thì giao lại
cho con trai là Hoàng Hồng H1. Anh H1 được biết là người có cơng lao chăm sóc cha mẹ
lúc ốm đau. Không đồng ý với nội dung di chúc trên, anh H muốn chia phần tài sản của
ông X thành 5 phần, và cho rằng chữ viết và chữ ký trong di chúc không phải của bố anh
nhưng lại khơng có căn cứ. Qua q trình xác nhận, Công an tỉnh Phú thọ kết luận chữ ký
và viết của ơng X là thật đồng thời trong q trình lập di chúc, ơng X hồn tồn minh
mẫn, tỉnh táo và không bị đe dọa. Như vậy, theo quyết định xét xử, công nhận di chúc của
vợ chồng ông X bà H là hợp pháp và không chấp yếu cầu của anh H.
Câu 1: Đoạn nào của bản án số 14 cho thấy di chúc có tranh chấp là di chúc chung
của vợ chồng?
Đoạn cho thấy di chúc có tranh chấp là di chúc chung của vợ chồng (phần nhận định) cụ
thể:
“Anh H, anh H2 yêu cầu được chia di sản của ông X và xin được hưởng kỷ phần. Xét yêu
cầu của anh H và anh H2 là chính đáng. Tuy nhiên tài sản chung của ông X, bà H đã được
định đoạt bằng di chúc chung của vợ chồng nên yêu cầu các anh không được xem xét.”
“Tháng 01/2016 ơng X chết và có để lại một bản di chúc chung của vợ chồng viết ngày
21/8/2017”.
Câu 2: Theo Tịa án, di chúc chung của vợ chồng có giá trị pháp lý khi áp dụng BLDS
2015 không? Đoạn nào của bản án cho câu trả lời.
Theo Tịa án thì di chúc chung của vợ chồng có giá trị pháp lý khi áp dụng BLDS 2015.

Đoạn của bản án cho câu trả lời là:
“Trong quá trình giải quyết vụ án, các bên đương sự thừa nhận ơng X có tinh thần tỉnh
táo, minh mẫn, không phải nằm điều trị cho đến thời điểm trước khi chết. Sự thừa nhận
trên chứng tỏ vào thời điểm ông X viết bản di chúc cịn khỏe mạnh, minh mẫn, khơng có
sự ép buộc nào. Nội dung trong bản di chúc không vi phạm điều cấm của luật, không trái
đạo đức xã hội phù hợp với qui định tại Điều 630 BLDS 2015.

14


Như vậy, theo BLDS 2015, di chúc của vợ chồng bà H ơng X có giá trị pháp lý vì không
vi phạm điều cầm theo Điều 630 BLDS 2015.
Câu 3: Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tòa án về di chúc chung
của vợ chồng trong mối quan hệ với BLDS 2015.
Trong BLDS 2015 không quy định về việc lập di chúc chung của vợ chồng nhưng cũng
khơng có quy định nào cấm việc lập di chúc chung giữa vợ và chồng. Vậy nếu theo hướng
giải quyết của Tóa án về di chúc của ơng X và bà H là hoàn toàn hợp lý. Và điều này có
thể ngầm hiểu nếu người lập di chúc, tức ơng X, hồn tồn bình thường, minh mẫn, tỉnh
táo và khơng bị đe dọa hay vi phạm bất kỳ điều cấm nào của BLDS 2015 (Điều 630 về
nội dung của di chúc hợp pháp) thì di chúc của hai ơng bà vẫn có hiệu lực pháp lý.

15


PHẦN 4: DI SẢN DÙNG VÀO VIỆC THỜ CÚNG
Tóm tắt Bán án số 211/2009:
Vụ án tranh chấp di sản thừa kế với nguyên đơn là anh Phan Văn Được và bị đơn là anh
Phan Văn Tân và chị Phan Thị Hương. Cha mẹ nguyên đơn và bị đơn khi qua đời để lại
một căn nhà cấp bốn cho bảy người con và anh chị em đã ủy quyền cho bị đơn quản lý
riêng nguyên đơn là anh Phan Văn Tân và chị Phan Thị Hương là không đồng ý, yêu cầu

chia di sản thừa kế bằng tiền cho 6 anh chị em gái tương ứng với phần di sản được hưởng.
Quyết định của Tòa án chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn đối với bị đơn, giao
cho anh Được được quyền sở hữu, sử dụng căn nhà. Anh phải có trách nhiệm thanh tốn
giá trị di sản thừa kế cho anh Tân và chị Hương.
Câu 1: Trong điều kiện nào di sản dùng vào việc thờ cúng có giá trị pháp lý? Nêu cơ
sở pháp lý khi trả lời.
Theo Khoản 1 Điều 645 BLDS 2015 quy định về di sản dùng vào việc thờ cúng thì điều
kiện để di sản dùng vào việc thờ cúng có giá trị pháp lý là khi:
“1. Trường hợp người lập di chúc để lại một phần di sản dùng vào việc thờ cúng thì phần
di sản đó khơng được chia thừa kế và được giao cho người đã được chỉ định trong di chúc
quản lý để thực hiện việc thờ cúng; nếu người được chỉ định không thực hiện đúng di chúc
hoặc khơng theo thoả thuận của những người thừa kế thì những người thừa kế có quyền
giao phần di sản dùng vào việc thờ cúng cho người khác quản lý để thờ cúng.
Trường hợp người để lại di sản không chỉ định người quản lý di sản thờ cúng thì những
người thừa kế cử người quản lý di sản thờ cúng.
Trường hợp tất cả những người thừa kế theo di chúc đều đã chết thì phần di sản dùng để
thờ cúng thuộc về người đang quản lý hợp pháp di sản đó trong số những người thuộc
diện thừa kế theo pháp luật.
2. Trường hợp toàn bộ di sản của người chết khơng đủ để thanh tốn nghĩa vụ tài sản của
người đó thì khơng được dành một phần di sản dùng vào việc thờ cúng”.
Vậy có thể nói, di sản dùng vào việc thờ cúng có giá trị pháp lý khi người lập di sản chết
và có trích một phần tài sản trong di chúc vào việc thờ cúng. Bên cạnh đó, nghĩa vụ về tài
sản của người để lại di chúc đã được thanh toán và phần di sản dùng vào việc thờ cúng
được sử dụng đúng ý chí của người lập di chúc.
Câu 2: Đoạn nào của bản án cho thấy di sản có tranh chấp được di chúc dùng vào
việc thờ cúng?
16


Đoạn cho thấy di sản có tranh chấp được di chúc dùng vào việc thờ cúng là:

“... Tại tờ di chúc ngày 08 tháng 7 năm 2004 bà Lùng để lại nhà đất cho 7 người con đồng
thừa hưởng để thờ cũng cha mẹ, anh Được là người đang quản lý di sản, hiện tại 5/7 anh
chị em của anh Được đồng ý chia di sản và giao cho anh Được sở hữu di sản là có cơ sở
chấp nhận”.
Câu 3: Các điều kiện để di sản dùng vào việc thờ cúng một cách hợp pháp có được
thỏa mãn trong vụ việc đang nghiên cứu không?
Các điều kiện để di sản dùng vào việc thờ cúng một cách hợp pháp đã được thỏa mãn
trong vụ việc đang nghiên cứu. Vì các điều kiện này không thuộc trường hợp như khoản
2 Điều 645 BLDS 2015 về việc sử dụng di sản thờ cúng vào việc thanh toán nghĩa vụ tài
sản.
Câu 4: Ai đồng ý và ai không đồng ý chia di sản vào việc dùng thờ cúng trong vụ
tranh chấp này? Đoạn nào của bản án cho câu trả lời?
Trong bản án trên, anh Thảo, anh Xuân, anh Nhành, chị Hoa và nguyên đơn là anh Được
đồng ý chia di sản dùng vào việc thờ cúng. Còn anh Tân và chị Hương không đồng ý.
Đoạn cho câu trả lời là:
“Trong đơn khởi kiện ngày 04 tháng 5 năm 2008, bản tường trình ngày 07 tháng 7 năm
2008, biên bản lấy lời khai ngày 09 tháng 9 năm 2008 và những lời khai tiếp theo nguyên
đơn anh Phan Văn Được trình bày: … Ngày 8 tháng 7 năm 2004 mẹ anh lập di chúc để
lại nhà đất cho 07 anh chị em, hiện tại anh quản lý nhà đất, năm 2005 năm anh chị em
hợp lại chia di sản của mẹ anh, nhưng anh Tân và chị Hương không đồng ý”.
“Biên bản lấy lời khai ngày 06 tháng 5 năm 2009 bị đơn chị Phan Thị Hương trình bày:
… Ngày 08 tháng 7 năm 2004 mẹ chị có di chúc để lại nhà đất cho 707 anh chị em, hiện
tại anh Được quản lý sử dụng, chị yêu cầu để căn nhà và đất như hiện tại thuộc quyền sở
hữu chung của 07 anh chị em”.
“Biên bản lấy lời khai ngày 23 tháng 02 năm 2009 của anh Phan Văn Thảo, bản tự khai
ngày 05 tháng 9 năm 2008, biên bản lấy lời khai ngày 09 tháng 9 năm 2008 của anh Phan
Văn Xuân, biên bản lấy lời khai ngày 09 tháng 9 năm 2008 của anh Phan Văn Nhành và
biên bản lấy lời khai ngày 17 tháng 10 năm 2008 của chị Phan Thị Hoa là những người
có quyền và nghĩa vụ liên quan trình bày: … Ngày 08 tháng 7 năm 2004 mẹ anh chị có
làm di chúc để lại căn nhà và đất cho 07 anh chị em, anh Được yêu cầu chia di sản thứ kế

các anh chị cũng đồng ý … ”

17


“… Tại tờ di chúc ngày 08 tháng 7 năm 2004 bà Lùng để lại nhà đất cho 7 người con đồng
thừa hưởng để thờ cũng cha mẹ, anh Được là người đang quản lý di sản, hiện tại 5/7 anh
chị em của anh Được đồng ý chia di sản và giao cho anh Được sở hữu di sản là có cơ sở
chấp nhận”.
Câu 5: Cuối cùng Tịa án có chấp nhận chia di sản đã được di chúc dùng vào việc
thờ cúng không? Đoạn nào của bản án cho câu trả lời?
Cuối cùng Tòa án đã chấp nhận chia di sản đã được di chúc dùng vào việc thờ cúng. Điều
này được thể hiện ở đoạn:
“Tại tờ di chúc ngày 08 tháng 7 năm 2004 bà Lùng để lại nhà đất cho 7 người con đồng
thừa hưởng để thờ cúng cha mẹ, anh Được là người đang quản lý di sản, hiện tại 5/7 anh
chị em của anh Được đồng ý chia di sản và giao cho anh Được sở hữu di sản là có cơ sở
chấp nhận”.
Câu 6: Suy nghĩ của anh/chị về chế định di sản dùng vào việc thờ cúng trong BLDS
và giải pháp của Tòa án trong vụ việc đang được nghiên cứu.
Theo Điều 670 BLDS 2005 và Điều 645 BLDS 2015 thì phần di sản dùng vào việc thờ
cúng không được chia thừa kế mà được giao cho một người quản lý để thực hiện việc thờ
cúng. Trong thực tiễn xét xử tại Tòa thì Tịa án lại chấp nhận u cầu khởi kiện của anh
Được, giao cho anh Được quyền sở hữu căn nhà và anh phải có nghĩa vụ thanh tốn giá
trị di sản thừa kế cho anh Tân và chị Hương.
Như vậy, xét về lý thì cách xử của Tịa có phần không đúng với quy định của BLDS.
Nhưng xét về tình và thực tiễn nguyện vọng của những người thừa kế thì cách xử của Tịa
vẫn đưa đến được kết quả là di sản vẫn được dùng để thờ cúng. Bởi lẽ phần nhà đất được
chia thừa kế là chia theo giá trị, anh Nhành, anh Thảo, anh Xuân, chị Hoa không nhận di
sản mà cho lại anh Được; căn nhà vẫn được giữ nguyên và anh Được là người quản lý căn
nhà và thực hiện nghĩa vụ thờ cúng chính. Việc bất hợp lý ở đây đó là, di sản để thờ cúng

nếu theo di chúc thì ta xác định là sở hữu chung của những người thừa kế, vậy thì khơng
được định đoạt, chia lẻ chỉ được quản lý. Tuy nhiên, Tòa án lại xử chia di sản và anh Được
phải thanh toán giá trị di sản phần thừa kế cho hai người, như vậy tức là đã xé lẻ di sản
ra, đánh mất bản chất chỉ quản lý để thờ cúng mà không định đoạt.

18


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ luật dân sự năm 2005.
2. Bộ luật dân sự năm 2015.

19



×