Tải bản đầy đủ (.pdf) (25 trang)

Sự khác nhau giữa bản chất kiểu nhà nước bóc lột và bản chất của nhà nước XHCN. Mối quan hệ giữa pháp luật và kinh tế, pháp luật và chính trị, pháp luật và nhà nước.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (586.57 KB, 25 trang )

Hanoi University of Mining and Geology
Faculty of Information Technology


TIỂU LUẬN MƠN PHÁP LUẬT ĐẠI CƯƠNG
Chủ đề 4:
1. Phân tích sự khác nhau giữa bản chất kiểu nhà nước bóc lột và bản chất của
nhà nước XHCN? Liên hệ thực tiễn Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam?
Từ bản chất và đặc điểm của nhà nước, anh (chị) hãy phân tích
2. Mối quan hệ giữa pháp luật và kinh tế, pháp luật và chính trị, pháp luật và
nhà nước. Liên hệ vào điều kiện Việt nam hiện nay.
_______________________________________________________________

Giảng viên môn học:
Sinh viên thực hiện:
Mã sinh viên:
Lớp:

Năm học: 2021 – 2022


1. Phân tích sự khác nhau giữa bản chất kiểu nhà nước bóc
lột và bản chất của nhà nước XHCN? Liên hệ thực tiễn
Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam? Từ bản chất và
đặc điểm của nhà nước, anh (chị) hãy phân tích.
Bản chất nhà nước là tổng thể những mặt, những mối liên hệ, những thuộc tính
quan trọng nhất thể hiện các quy luật sâu sắc nhất của nhà nước, quy định sự
phát triển và tồn tại của nhà nước. Đây luôn là đối tượng của những cuộc đấu
tranh tư tưởng gay gắt nhất. Một trong những vấn đề quan trọng và phức tập
nhất. Mang tính thời sự và trở thành tâm điểm, trung tâm của mọi vấn đề chính
trị và mọi tranh luận chính trị.


Bắt nguồn từ việc nghiên cứu nguồn gốc nhà nước, Chủ nghĩa Marx-Lenin đã đi
đến kết luận: “Nhà nước là sản phẩm và biểu hiện của những mâu thuẫn giai cấp
khơng thể điều hịa được”. Điều mà nhiều nhà lý luận tư sản không giải thích
được một cách đúng đắn và khoa học. Dẫn đến việc không thừa nhận những quy
luật vận động khách quan của nhà nước và đã biện hộ cho sự thống trị của giai
cấp bóc lột.
Từ hai nhu cầu cơ bản là tổ chức quản lí xã hội và bảo vệ lợi ích giai cấp thống trị
về kinh tế nên khi nhà nước được sinh ra. Có thể hiểu được rằng, đây là một hiện
tượng xã hội. Một tổ chức đặc biệt của chính trị, bảo vệ địa vị, lợi ích của lực
lượng thống trị trong xã hội. Nhà nước quản lí, duy trì trật tự xã hội, vì sự tồn tại
và phát triển của cả xã hội.
=> Từ đó, ta cần tập trung vào 2 phương diện là: Phương diện xã hội &
phương diện giai cấp khi muốn tìm hiểu bản chất nhà nước.
Theo quan điểm của chủ nghĩa Marx-Lenin thì bản chất nhà nước có 2 thuộc
tính là: Tính giai cấp và Tính xã hội của Nhà nước.
Cũng theo đó, ta phải xem xét cơ sở kinh tế và cơ sở xã hội của nhà nước để
đánh giá bản chất của nhà nước.


Vì mỗi nhà nước đều được xây dựng và tồn tại trên cơ sở kinh tế nhất định hay
nói theo cách khác là những quan hệ sản xuất chủ yếu để nhà nước dựa vào đó
để tồn tại và phát triển, cũng như ra sức bảo vệ, củng cố và tạo điều kiện để phát
triển cho cơ sở kinh tế đó. Theo đó, nhà nước với kinh tế ln có mối quan hệ
chặt chẽ với nhau, ảnh hưởng qua lại lẫn nhau. Nằm chung trong mối quan hệ
giữa thượng tầng và hạ tầng khi nhà nước lại là một bộ phận thuộc kiến trúc
thượng tầng. Nên khi cơ sở kinh tế thay đổi thì nhà nước thay đổi. Cũng như các
chính sách, quy định pháp luật của nhà nước đều xuất pháp và thực hiện từ điều
kiện kinh tế của đất nước. Có thể khẳng định rằng, xét đến cùng cơ sở kinh tế
quyết định sự ra đời, bản chất, chức năng và sự phát triển của nhà nước song
ảnh hưởng của nhà nước sự phát triển của kinh tế cũng là rất lớn.

Nhà nước ngoài bị phụ thuộc vào cơ sở kinh tế thì cịn bị chi phối bởi cơ sở xã
hội, ln phụ thuộc vào xã hội vì là hình thức tổ chức của xã hội, cũng là sản
phẩm được sinh ra của sự phát triển xã hội. Cơ sở xã hội ở đây là các lực lượng
(giai cấp) tồn tại trong xã hội, trong đó lực lượng (giai cấp) cầm quyền cùng mối
quan hệ của họ đối với xã hội là quan trọng nhất. Theo nguyên tắc giai cấp nào
nắm giữ quyền lực kinh tế thì cũng là giai cấp nắm giữ quyền lực chính trị nhà
nước. Nên khi cơ sở xã hội thay đổi thì bản chất nhà nước cũng sẽ thay đổi theo.
Xã hội sinh ra Nhà nước, Nhà nước lại tạo ra cho mình một vị thế để đại diện
chính thức cho xã hội. Thực hiện ban hành pháp luật, chủ quyền quốc gia, nhằm
thay mặt xã hội thực hiện việc việc quản lí xã hội, giải quyết các vấn đề quan
trọng nảy sinh trong xã hội, giữ cho xã hội trong vòng trật tự. Do đó, nhà nước
ảnh hưởng rất lớn đổi với mọi mặt của xã hội vì nhà nước đại diện và thực hiện
các chức năng của xã hội. Nên cứ nhà nước này mất đi, một nhà nước khác lại
xuất hiện, để thay thế, quản lí, duy trì trật tự xã hội trong một xã hội có giai cấp.
Như vậy, ở mỗi thời kì phát triển khác nhau thì cơ sở kinh tế, cơ sở xã hội cũng
biến đổi khác nhau dẫn đến bản chất nhà nước cũng thay đổi theo sự biến đổi
đó của cơ sở kinh tế và cơ sở xã hội của nhà nước . Từ đó, ta kết luận rằng bản
chất nhà nước dù rằng phụ thuộc rất nhiều yếu tố khác nhau nhưng quan trọng
nhất lại vẫn nằm ở cơ sở kinh tế và cơ sở xã hội.


o Tính giai cấp của Nhà nước.
Theo Vladimir Ilyich Lenin (Cựu Thủ tướng Liên Xô) định nghĩa rằng
“Nhà nước là một bộ máy dùng để duy trì sự thống trị của giai cấp này
đối với giai cấp khác”. Điều này cịn được Người giải thích rõ thêm là
“Nhà nước theo đúng nghĩa của nó, là một bộ máy trấn áp đặc biệt của
giai cấp này với giai cấp khác”. Được trích dẫn từ tác phẩm ‘Nhà nước
và cách mạng. Tuy vậy, nhà nước Xã hội chủ nghĩa với bản chất là
chun chính vơ sản đã khơng cịn là một nhà nước đúng nghĩa nữa,
chỉ còn là nửa nhà nước dù rằng đều có một số đặc điểm chung như

các kiểu nhà nước khác.
Như vậy, ta hiểu được rằng tính giai cấp của nhà nước là mặt cơ bản,
không thể thiếu của mọi nhà nước, thể hiện bản chất của nhà nước. Là
công cụ chủ yếu đê bảo vệ cho giai cấp thống trị, thực hiện mục đích
mà giai cấp ấy đề ra.
Việc tại sao nhà nước lại có tính giai cấp?
Thì có khá nhiều lý do để trả lời cho câu hỏi này.
Đầu tiên, nhà nước theo các nhà kinh điển thì mang nghĩa chung nhất
chỉ là sự thể hiện dưới hình thức tập trung nhất những nhu cầu kinh tế
của lực lượng thống trị trong sản xuất. Những điều kiện kinh tế bảo
đảm cho sự tồn tại và phát triển trong xã hội có giai cấp thì chính chúng
lại tạo ra sự đối kháng, mâu thuẫn không thể điều hòa được giữa các
giai cấp nên buộc lực lượng thống trị trong mối quan hệ kinh tế đó phải
tập trung, quy tụ sức mạnh của mình lại vào cái gọi là nhà nước. Từ đó,
lực lượng thống trị kinh tế trở thành giai cấp thống trị về chính trị hay
cịn gọi là chun chính giai cấp được thể hiện thơng qua nhà nước và
các tổ chức chính trị khác. Để thể hiện ý chí của lực lượng cầm quyền,
Nhà nước thơng qua pháp luật và những quy định có giá trị bắt buộc
xã hội phải phải tôn trọng, thực hiện và phục tùng ý chí của lực lược đó
trong xã hội có giai cấp. Ta kết luận được rằng, Nhà nước xuất hiện do
nhu cầu bảo vệ lợi ích, địa vị và quyền của giai cấp thống trị.


Thứ hai, trong một vài điều kiện nhất định, giai cấp thống trị sử dụng
các tổ chức chính trị xã hội khác, đặc biệt là các đảng phái chính trị bên
cạnh nhà nước để thực hiện quyền lực chính trị của mình nhưng cơng
cụ quan trọng nhất trong việc thể hiện quyền lực chính trị ấy lại vẫn là
nhà nước. Bởi vì nhà nước nắm giữ vai trị đặc biệt, là trung tâm của
các tổ chức chính trị xã hội. Nắm giữ những cơ quan đặc biệt kèm theo
các phương tiện vật chất như cảnh sát, quân đội toà án, nhà tù … và

qua việc sử dụng, tổ chức và quản lý các phương tiện thông tin đại
chúng, các cơ sở văn hóa, giáo dục. Từ đó, nhà nước có thể tác động
đến đời sống xã hội mạnh mẽ, sâu sắc và tồn diện.
Tiếp đó, thơng qua chủ trương, đường lối, chính sách được đề ra nhằm
thực hiện các nhiệm vụ chính trị của giai cấp cầm quyền muốn, q
trình phát triển của xã hội đã bị tác động. Những chủ trương chính sách
này lúc nào cũng thể hiện một cách trực tiếp lợi ích kinh tế, chính trị
của các giai cấp. Vì là giữ vai trị quyết định trong việc thực hiện những
lợi ích cơ bản của giai cấp, nên trong chính sách của nhà nước việc nhà
nước tham gia vào việc xác định nhiệm vụ kinh tế, chính trị, xã hội cùng
với đó là xác định hình thức, phương hướng, nội dung hoạt động nhà
nước là một yếu tố quan trọng.
Từ Nhà nước, một hệ tư tưởng thống trị xã hội xuất hiện, buộc các giai
cấp khác phải thực hiện theo, xuất phát từ hệ tư tưởng của lực lượng
thống trị.
Từ đây, những đặc điểm riêng biệt của nhà nước dần được hình thành
khi đem so sánh với các tổ chức khác trong xã hội có giai cấp:

− Một quyền lực công cộng đặc biệt được thiết lập bởi nhà
nước. Nghĩa là, lực lượng thống trị về kinh tế và cả chính trị
sẽ là chủ thể của quyền lực này và tách biệt hơn so với dân
cư. Những lớp người đặc biệt tham gia vào các cơ quan của
nhà nước chuyên làm nhiệm vụ quản lý, tạo nên một bộ máy
nhà nước cưỡng chế, duy trì địa vị lực lượng thống trị. Theo


đó, những lực lượng khác bị buộc phải thực hiện theo ý
muốn của lực lượng thống trị.
− Chủ quyền quốc gia được thiết lập. Đây là một nội dung
chính trị mang tính pháp lý, thể hiện quyền độc lập và tự

quyết trong những chính sách đối nội, đối ngoại của nhà
nước đó mà khơng bị phụ thuộc vào những yếu tố bên
ngồi. Một thuộc tính khơng thể chia cắt của nhà nước.
− Pháp luật được ban hành bởi Nhà nước, thực hiện sự quản
lý với mọi công dân một cách bắt buộc. Vì nhà nước là đại
diện cho tồn xã hội nên là tổ chức có quyền ban hành ra
pháp luật. Chính vì thế, pháp luật mang tính bắt buộc chung,
buộc mọi công dân đều phải tôn trọng pháp luật.
− Nhà nước thu các loại thuế qua những quy định và thực
hiện dưới các hình thức bắt buộc. Lý do là vì bộ máy nhà
nước chỉ thực hiện hiện chức năng quản lý bởi một nhóm
người đặc biệt và bị tách ra khỏi khu vực sản xuất trực tiếp
nên muốn có nguồn tài chính để vận hành, hoạt động bắt
buộc phải lấy từ khu vực sản xuất trực tiếp. Nếu không, bộ
máy này không thể hoạt động và tồn tại được. Chỉ có tổ chức
đại diện cho tồn xã hội mới có tư cách quyền đặt ra và thu
thuế này và đó chính là Nhà nước.
Năm đặc điểm nêu ra bên trên đã phản ánh vị trí và vai trị của nhà
nước trong xã hội có giai cấp. Và cho ta thấy được khác biệt giữa các
tổ chức chính trị xã hội so với nhà nước.
Thứ ba, khi mâu thuẫn và đấu tranh giai cấp xuất hiện. Nhà nước, một
tổ chức được hình thành trong xã hội giai cấp, bằng sức mạnh và bộ
máy cưỡng chế của nó, đủ sức giữ cho xã hội giai cấp này tồn tại và
phát triển bằng cách giữ xung đột giai cấp trong xã hội có giai cấp trong
tầm kiểm sốt, trật tự nhất định.


Tổng kết lại, nhà nước dưới góc độ giai cấp thể hiện là công cụ, là bộ
máy đặc biệt nằm trong tay lực lượng cầm quyền để bảo vệ, thực hiện
những nhiệm vụ kinh tế, chính trị của giai cấp thống trị, tác động về tư

tưởng và thực hiện duy trì sự thống trị về chính trị và của lực lượng này
đối với tồn xã hội.

o Tính xã hội của Nhà nước.
Tính xã hội của Nhà nước cũng là một mặt cơ bản, khách quan không
thể thiếu của mọi nhà nước, song hành cùng với tính giai cấp theo quan
điểm của Chủ nghĩa Marx-Lenin.
Xã hội trong xã hội giai cấp sẽ hỗn loạn nếu khơng có sự tổ chức và
quản lí chặt chẽ nên Nhà nước là một tổ chức được sinh ra từ xã hội
giai cấp nhắm giữ vai trị quản lí và duy trì xã hội khi xã hội đã phát
triển đến một giai đoạn nhất định nhằm giữ xã hội ổn định, trật tự và
tiếp tục phát triển. Lý do đầu tiên chứng minh cho việc nhà nước mang
trong mình tính xã hội.
Nhà nước sẽ thay mặt cho xã hội để quản lý, tập hợp và tổ chức tồn
bộ xã hội, thiết lập một quyền lực cơng cho tồn xã hộ vì xã hội nào
cũng có những vấn đề có mang chất chung như sản xuất, thiên tai, an
ninh xã hội… và không phải là vấn đề riêng của một cá nhân hay lực
lượng nào nên cần một tổ chức mà ở đây là Nhà nước để giải quyết các
vấn đề đó.
Khi đó, nhà nước sẽ phải gánh lấy trách nhiệm, đứng ra tổ chức dân cư
giải quyết các vấn đề chung vì sự ổn định và sống cịn của cả xã hội chứ
khơng phải riêng một cá nhân hay giai cấp nào vì khi ấy Nhà nước đã
và đang đại diện và thay mặt cho toàn xã hội. Là một diện chính thức
của tồn xã hội nên ở mức độ này hay mức độ khác, nhà nước có trách
nhiêm thực hiện, bảo vệ và xác lập các lợi ích cơ bản nhất và lâu dài
của dân tộc, quốc gia và cơng dân của Nhà nước mình. Mọi lực lượng,
tầng lớp trong xã hội được Nhà nước huy động và tập hợp nhằm thực
hiện những nhiệm vụ phát triển văn hóa, kinh tế, xã hội, duy trì trật tự
xã hội, giải quyết những vấn đề trong và ngoài nước, bảo vệ chủ quyền



đất nước. Tiến hành bình thường, hiệu quả và tạo điều kiện cho các
lĩnh vực của hoạt động của xã hội, thúc đẩy sự phát triển của xã hội vì
lợi ích chung của cộng đồng. Lý do tiếp theo để khẳng định nhà nước
mang trong mình tính xã hội khi Nhà nước được sinh ra do nhu cầu
quản lý, điều hành xã hội, bảo vệ và giữ gìn lợi ích chung của toàn xã
hội.
Nhà nước vừa bảo vệ, đảm bảo quyền lợi lực lượng thống trị đồng thời
bảo vệ lợi ích trong giới hạn của các giai cấp, tầng lớp khác mà lực
lượng thống trị cho phép vì dù là là giai cấp thống trị hay bị trị thì cũng
đều là những bộ phận thống nhất hình thành nên xã hội. Theo Friedrich
Engels, về mặt xã hội những hoạt động này của Nhà nước ‘là cơ sở
thống trị chính trị và sự thống trị này cũng chỉ kéo dài khi nào mà còn
thực hiện những hoạt động về mặt xã hội của nó’. Nghĩa là hoạt động
này khơng mang tính thuần túy xã hội như ở các tổ chức trước kia, khi
còn chưa xuất hiện nhà nước. Mà theo một múc độ nào đố vẫn bị chi
phối và mang lợi ích của lực lượng thống trị. Vậy nên, không chỉ phục
vụ lợi ích của giai cấp thống trị, nhà nước muốn tồn tại cũng phải tính
đến những lợi ích, nguyện vọng của lực lượng, giai cấp khác trong xã
hội.
Tính xã hội của Nhà nước mang tính khách quan khi dù Nhà nước có vị
trí đặc biệt trong xã hội, tựa hồ đứng trên và đại diện cho xã hội nhằm
giải quyết những vấn đề mang tính xã hội nhưng lại được sinh ra và tồn
tại trong lòng xã hội. Mặc dù khách quan là thuộc tính chung của tất cả
nhà nước là vậy nhưng mức độ và phạm vi tính xã hội của nước phụ
thuộc vào nhiều yếu tô, điều kiện và hoàn cảnh lịch sử cụ thể trong mỗi
kiểu nhà nước và khơng hồn tồn giống nhau giữa những kiểu nhà
nước.
Tính xã hội của Nhà nước càng ngày thể hiện sâu sắc, rộng rãi, rõ rệt
hơn, cùng với giới hạn quyền lực ngày càng xác định rõ ràng và chặt

chẽ hơn hơn khi hịa mình vào sự phát triển của khoa học, kỹ thuật,
dân chủ và văn minh. Các cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước càng
hiệu quả, một số hoạt động xã hội hóa nhà nước diễn ra mạnh mẽ hơn
và kèm theo đó chính là sự minh bạch cùng tính cơng khai.


Tại thời điểm viết bài này tính xã hội của Nhà nước không chỉ ở trong
phạm vi một quốc gia mà cịn được mở rộng ra bên ngồi, các nhà nước
phải liên kết, tùy thuộc với nhau nhiều hơn trong việc giải quyết vấn
đề của mỗi nước và toàn nhân loại khi cả thế giới đang trong thời đại
hội nhâp và phát triển, tồn cầu hóa với những vấn đề khơng cịn là
mang mỗi tính quốc gia mà cịn là mang tính quốc tế như lao động,
nhập cư, mơi trường, khủng bố… dẫn đến trách nhiệm của nhà nước
ngày càng nặng nề hơn và đòi hỏi bản thân mỗi nhà nước phải có trách
nhiệm giải quyết vấn đề.

Kiểu nhà nước?
Trong lý luận về nhà nước và pháp luật thì kiểu nhà nước là thuật ngữ để nói về
những dấu hiệu đặc trưng cơ bản thể hiện lên bản chất giai cấp những nhà nước
đó cùng điều kiện kinh tế xã hội của để nhà nước đó tồn tại; đồng thời cũng là
một trong những khái niệm cơ sở có ý nghĩa rất quan trọng để nhận thức hợp lý,
cụ thể về bản chất, ý nghĩa xã hội của các nhà nước được xếp vào cùng loại cũng
như điều kiện để phát triển, tồn tại.
Kiểu nhà nước là tổng thể đặc điểm, đặc thù cơ bản của nhà nước, mang bản
chất giai cấp và một hình thái kinh tế xã hội nhất định là điều kiện để nhà nước
tồn tại và phát triển theo lý luận Marx-Lenin về nhà nước và pháp luật. Mỗi nhà
nước phù hợp với một chế độ kinh tế nhất định và điểm chung của mỗi hình thái
kinh tế xã hội có giai cấp đó sẽ quyết định những dấu hiệu đặc thù, cơ bản của
kiểu nhà nước tương ứng với và học thuyết Marx-Lenin về các hình thái kinh tế
xã chính là cơ sở để xác định kiểu nhà nước.

Loài người đã trải qua một lịch sử phát triển dài đằng đẵng, trong dịng lịch sử
đó đã có một thời kỳ gọi là cộng sản nguyên thủy, là thời kỳ xã hội chưa hề có
nhà nước. Sau thời cộng sản nguyên thủy, một xã hội có giai cấp đã xuất hiện và
kéo dài đến tận ngày nay. Khoảng thời gian này, đã xuất hiện các hình thái kinh
tế xã hội gồm Chiếm hữu nô lệ với kiểu nhà nước chủ nô; Phong kiến với kiểu
nhà nước phong kiến; Chủ nghĩa Tư bản với kiểu nhà nước tư sản và Chủ nghĩa
xã hội với kiểu nhà nước xã hội chủ nghĩa.


• Bản chất kiểu nhà nước bóc lột:
o Nhà nước chủ nô.
Trong hệ thống khoa học pháp lý, nhà nước chủ nơ là nhà nước đầu
tiên trong lịch sử lồi người, đánh dấu một bước phát triển mới của xã
hội lồi người. Một tổ chức quyền lực chính trị đặc biệt của giai cấp
chủ nô, ra đời trên cơ sở tan rã của xã hội cộng sản nguyên thủy, sự
tan rã của chế độ thị tộc, bộ lạc gắn liền với sự xuất hiện chế độ tư hữu
và sự phân chia xã hội thành các giai cấp đầu tiên đối kháng nhau là
giai cấp nô lệ và giai cấp chủ nô..
Ta phải xuất phát từ cơ sở xã hội chiếm hữu nô lệ lẫn cơ sở kinh tế khi
muốn xem xét bản chất của nhà nước chủ nô. Tại đây, quan hệ sản xuất
chiếm hữu nô lệ là cơ sở kinh tế của nhà nước chủ nô, dựa trên việc
chủ nô sở hữu không những đất đai, tư liệu sản xuất mà cịn đối với cả
nơ lệ (người lao động).
Cơ sở xã hội của Nhà nước chủ nô gồm hai giai cấp chính cơ sở kinh tế
quy định là giai cấp chủ nô nắm quyền thống trị dù chỉ là thiểu số trong
xã hội và giai cấp nô lệ chiếm đa số, là lực lượng chủ yếu tạo ra của cải
vật chất nhưng lại phụ thuộc vào giai cấp chủ nô khi không nắm giữ
được tư liệu sản xuất. Nô lệ trong xã hội chiếm hữu nô lệ chỉ là một tài
sản của chủ nô và chủ nô như một chủ sở hữu đích thực có tồn quyền
quyết định đối tài sản của mình như tặng, bán, cho…

Những tầng lớp xã hội khác như nông dân tư hữu, người buôn bán, thợ
thủ công…mặc dù cũng chịu sự chi phối của lực lượng chủ nô nhưng lại
không thấp kém như giai cấp nơ lệ trong xã hội này.
Chính điều kiện xã hội, địa lý và kinh tế cùng các yếu tố tác động bên
ngoài khiến cho sự xuất hiện nhà nước chủ nô ở các khu vực địa lý khác
nhau cũng rất khác biệt. Căn cứ vào những đặc điểm cụ thể, Karl Marx
và Friedrich Engels đã phân biệt ra hchế độ chủ nô xuất hiện ở phương
Đông cổ đại và chế độ chủ nô xuất hiện ở phương Tây cổ đâij với đại


diện cho phương Tây là nhà nước Hy Lạp và La Mã cổ đại khi hai người
nghiên cứu chế độ nô lệ trên thế giới.
Chế độ nô lệ gia trưởng hay cịn gọi là chế độ nơ lệ phương Đơng cổ
đại là là loại hình mà quá trình hình thành xã hội giai cấp diễn ra rất
chậm và kéo dài, đến cả khi nhà nước xuất hiện thì trong xã hội vẫn
cịn duy trì nhiều tàn dư của cơng xã thị tộc chế độ. Nô lệ tại chế độ
chủ yếu làm các công việc trong nhà chủ nô và không phải lực lượng
lao động chính sản xuất ra của cải, hàng hóa cho chủ nơ. Sở hữu tư
nhân đối với đất đai diễn ra rất chậm khi đất đai thuộc sở hữu của cả
công xã được giao cho các thành viên cơng xã là lực lượng chính của xã
hội này sử dụng, chiếm hữu nên mặc dù tự do hơn so với nơ lệ thì
những thành viên cơng xã vẫn phải chịu sự áp bức, bóc lột trước hết
của chủ nơ.
Nhà nước chủ nơ một chừng mực nhất định thì bên cạnh tính giai cấp
cũng có một vai trị xã hội nhất định khi tiến hành những hoạt động
như làm thủy lợi ở phương Đông; phát triển kinh tế, thương mại ở Hy
Lạp; xây dựng và bảo vệ các công trình cơng cộng … Những hoạt động
mang tính chất xã hơi.
Mặc dù mỗi loại hình chế độ nơ lệ đều có các đặc trưng, những khác
biệt nhất định được phản ánh trong hình thức, chức năng của các nhà

nước chủ nơ tương ứng nhưng ỏ góc độ chung nhất bảo vệ sự thống
trị và kinh tế và chính trị của giai cấp chủ nơ, bảo vệ, xây dưng các cơng
trình cơng cộng và duy trì sự phát triển và tồn tại của xã hội chiếm hữu
nơ lệ.
Như đã nói ở trên sự xuất hiện của nhà nước chủ nô mặc dù có rất
nhiều hạn chế nhưng khách quan mà nói đã tạo điều kiện phát triển
đưa lại lợi ích to lớn cho nhân loại, là tiền đề cho sự phát triển văn hóa,
chính trị, kinh tế… của các xã hội sau này, đánh dấu một bước phát
triển mới của nhân loại.


“Chế độ nơ lệ khơng xuất hiện thì cũng sẽ khơng có, đế chế La Mã , quốc
gia, nghệ thuật và khoa học Hy Lạp. Sẽ khơng có Châu Âu hiện tại nếu
khơng có cơ sở của nền văn minh Hy Lạp và đế chế La Mã. Không bao
giờ được quên rằng tiền đề của toàn bộ sự phát triển kinh tế, chính trị
và trí tuệ của chúng ta là một trạng thái mà chế độ nơ lệ cũng hồn
tồn cần thiết, được tất cả mọi người thừa nhận”. Do Friedrich Engels
đã chỉ rõ ra.
▪ Tính giai cấp của nhà nước chủ nô.
Nhà nước chủ nô là tổ chức quyền lực chính trị của chủ nơ, là
cơng cụ bạo lực để duy trì tình trạng bất bình đẳng, sự thống trị
mọi mặt của giai cấp chủ nô đối với giai cấp nô lệ và các tầng lớp
lao động khác trong xã hội.
Căn cứ vào những đặc điểm cụ thể Karl Marx và Friedrich Engels
đã phân biệt chế độ nô lệ phương Đông cổ điển và phương Tây
cổ điển.
❖ Đặc trưng của chế độ nô lệ Hy Lạp - La Mã đại diện cho
cho chế độ nô lệ phương Tây là tính điển hình của phương
thức sản xuất chiếm hữu nơ lệ khi nô lệ vừa chiếm số
lượng đông đảo cũng như lao động chính trong xã hội mà

thực chất là cho chủ nơ với sự bóc lột điển hình và phổ
biến.
❖ Đặc trưng của chế dộ nô lệ phương Đông cổ đại là sự duy
trì nhiều tàn dư của chế độ cơng xã thị tộc với lực lượng
sản xuất chính tạo ra của cải là các thành viên công xã thị
tộc với địa vị tự do hơn chủ nô những vẫn phải chịu sự áp
bức, bóc lột của chủ nơ mà lại không phải nô lệ chỉ làm
những công việc trong nhà chủ nơ.
▪ Tính xã hội của nhà nước chủ nô.
Được sinh ra để quản lý, thay thế cho tổ chức thị tộc, bộ lạc
khơng cịn phù hợp trong xã hội chiếm hữu nơ lệ nữa. Từ đó, nhà


nước chủ nô gánh trách nhiệm quản lý, tổ chức một số hoạt
động như khai hoang, quản lý đất đai, quản lý kinh tế ở quy mơ
lớn …vì sự tồn tại và phát tiển chung của tồn xã hội.
Tính xã hội ở các nước chủ nô chưa thể hiện được nhiều nhưng
khi so sánh nhà nước chủ nô phương Đông cổ đại và phương Tây
cổ đại, ta vẫn thấy tính xã hội rõ nét hơn được thể hiện ở nhà
nước chủ nô phương Đông khi tổ chức dân cư tiến hành công
cuộc trị thủy, quản lý đất đai, chống ngoại xâm … và các hoạt
động khác là do nhu cầu của cả cộng đồng nhằm duy trì đời sống
chung.
Cũng từ khi xuất hiện chế độ tư hữu kèm theo đó là sự phát triển
của xã hội thì mẫu thuẫn giai cấp cũng dần trở nên gay gắt hơn.

o Nhà nước phong kiến.
Nhà nước phong kiến là kiểu nhà nước ra đời trên cơ sở tan rã của xã
hội chiếm hữu nô lệ, là kiểu nhà nước thứ hai xuất hiện trong lịch sử
loài người. Khi quan mẫu thuẫn giữa giai cấp chủ nô và nô lệ ngày càng

gay gắt và quan hệ sản xuất chiếm hữu nô lệ bắt đầu kìm hãm sự phát
triển của lực lượng sản xuất trong xã hội. Dẫn đến việc chế độ chiếm
hữu càng lúc càng lung lay bởi những cuộc khởi nghĩa nổi dậy của nô lệ
liên tiếp nổ ra, khiến xã hội dần hình thành và phát triển lực lượng mới
là giai cấp lệ nơng lệ và thay thế hình thái kinh tế xã hội chiếm hữu nô
lệ bằng chế độ nông lệ.
Do điều kiện lịch sử của các nhà nước là khác nhau nên sự phát triển
của các nhà nước phong kiến ở các khu vực cũng khác nhau. Ở các nước
phương Đơng như North Korea, Vietnam, Mongolia, … thì kiểu nhà
nước phong kiến mới là nhà nước đầu tiên của dân tộc này chứ khơng
phải là hình thành trên sự sụp đổ của chế độ chiếm hữu nô lệ như ở
các nước phương Tây.


Nhà nước phong kiến là kiểu nhà nước được xây dựng trên sự sụp đổ
của chế độ chiếm hữu nô lệ nên đây là kiểu nhà nước tiến bộ hơn so
với nhà nước chiếm hữu nơ lệ với hình thái kinh tế xã hội phong kiến
úng với kiểu nhà nước phong kiến này.
Nền tảng của cơ sở phương thức phong kiến là nền kinh tế dựa trên sở
hữu của giai cấp địa chủ phong kiến, lãnh chúa đối với một số tư liệu
sản xuất khác mà rộng đất là tư liệu sản xuất chính trong chế độ phong
kiến. Sự phụ thuộc của sở hữu cá thể của nông dân, nông nô vào giai
cấp lãnh chúa, địa chủ phong kiến với địa tơ là phương thức bóc lột đặc
trưng. Ngồi ra ta cịn có những tầng lớp khác như thợ thủ công, thị
dân trong xã hội phong kiến này.
❖ Từ thời chủ nô, bên phương Tây chế độ tư hữu rộng đất đã phát
triển triệt để và được phát triển lên mức cao hơn gọi là các lãnh địa
trong thời phong kiến. Sự phát triển của chế độ ruộng đất phong
kiến khiến người nông nô dần bị mất đi ruộng đất và phải lệ thuộc
vào địa chủ, lãnh chúa dù rằng trong thời kỳ đầu, người nơng nơ tự

do cũng có ruộng đất. Là lực lượng sở hữu đất đai nhưng những địa
chủ, lãnh chúa lại không trực tiếp canh tác mà thu về một mức địa
tô tương đối nặng nề khi cho nông dân thuê đất cày cấy. Mối quan
hệ giữa địa chủ, lãnh chúa với nông nô là mối quan hệ sản xuất trong
xã hội phong kiến điển hình. Bên cạnh đó các vị linh mục, thầy tu
cũng có thể coi là những địa chủ phong kiến khi cũng chiếm nhiều
đất đai lập thành lãnh địa lớn để xây dựng nên những nhà thờ.
❖ Bên phía phương Đơng lại khơng giống như phương Tây khi nhà vua
có quyền sở hữu tối cao về ruộng đất, đối với cả ruộng đất tư nhân.
Ruộng đát thuộc sở hữu công khi được nhà nước cho phép nông
dân cày cầy và làm bổng lộc ban phát cho quan lại. Ruộng đất thuộc
sở hữu tư nhân bắt đầu hình thành dần phát triển thành sở hữu của
cơ sở tôn giáo, địa chủ … khi lực lượng sản xuất bắt đầu phát triển.


Tính giai cấp của nhà nước phong kiến.
Nhà nước phong kiến có tính giai cấp rõ nét, sâu sắc khơng kém gì
nhà nước chủ nơ cùng với đó là kết cấu giai cấp khá phức tạp khi
chế phong kiến có đặc trưng là kết cấu thứ bậc trong giai cấp với hai
giai cấp chính là giai cấp địa chủ, lãnh chúa và nông dân, nông nô.
Những đặc quyền về sở hữu ruộng đất đều gắn liền với các hệ thống
thứ bậc phong kiến như bên phong kiến phương Tây là các tước
hiệu quý tộc từ cao đến thấp với vị trí cao nhất là là nhà vua rồi đến
các đẳng cấp như công tước, hầu tước, bá tước, tử tước, nam tước.
Giai cấp nông tự do hơn giai cấp nô lệ khơng có vị trí đáng kể trong
sản xuất, chủ yếu phục vụ trong gia đình địa chủ, lãnh chúa ở thời
xã hội phong kiến này. Nơng dân có kinh tế cá thể, quyền sở hữu
các tư liệu sinh hoạt, tư liệu sản xuất nhỏ nhưng vẫn chịu cảnh bóc
lột năng nề dưới hình thức thu tơ với sưu cao, thuế nặng khi sống
và lao động trên các lãnh địa của các địa chủ, lãnh chúa phong kiến.

Chính kết cấu giai cấp phức tập và cơ sở kinh tế tương ứng theo xã
hội phong kiến đã quy định nên bản chất của nhà nước phong kiến
là bộ máy, công cụ chuyên chính thể hiện sự thống trị của giai cấp
địa địa chủ phong kiến đối với toàn xã hội, cũng như bảo vệ lợi ích
kinh tế cho giai cấp địa chủ phong kiến dù có là nhà nước phong
kiến phương Đông cổ địa hay là phương Tây cổ đại.
Là một bộ máy với quyền lực tập trung chủ yếu vào việc đàn áp, bóc
lột người dân lao động, bắt họ phải tuân theo những quy chế, luật
pháp nhất định nhằm duy trì quyền lực của địa chủ phong kiến với
nơng dân là mục đích duy nhất.
Tính xã hội của nhà nước phong kiến.
Nhà nước phong kiến là đại diện chính thức cho toàn xã hội, tổ chức
quyền lực chung của xã hội nên nhà nước phong kiến có sứ mệnh


và nhiệm vụ là tổ chức, điều hành, quản lý các mặt đời sống xã hội,
các hoạt động chung của xã hội vì lợi ích chung của cả cộng đồng.
Dù vẫn còn mờ nhạt, hạn chế nhưng so với nhà nước chủ nơ thì tính
xã hội của nhà nước phong kiến đã rõ nét hơn khi các hoạt động
nhằm vào phát triển kinh tế của nhà nước cũng thiết thực hơn khi
những vấn chung đê chung cho toàn xã hội được nhà nước giải
quyết, quan tâm nhiều hơn.

o Nhà nước tư sản.
Là kiểu nhà nước ra đời, phát triển và tồn tại trong hình thái kinh tế xã
hội tư bản chủ nghĩa với cơ sở kinh tế là phương thức dựa nền kinh tế
hàng hóa thị trường, chế độ chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất.
Nhà nước tư sản vẫn khơng vượt ra khỏi bản chất bóc lột khi cùng với
thắng lợi của cuộc cách mạng tư sản đã đánh dâu một bước phát triển
tiến bộ, một giai đoạn mới trong lịch sử lồi người. Chính các điều kiện

nội tại của xã hội tư sản là cơ sở kinh tế, cơ sở xã hội và cơ sở tư tưởng
đã quyết định nên bản chất của nhà nước tư sản.
▪ Cơ sở kinh tế.
Dựa trên nền kinh tế hàng hóa thị trường và chế độ sở hữu tư
nhân về tư liệu sản xuất, chủ yếu dưới các dạng đồn điền, nhà
máy … cũng như sản xuất bằng máy móc với năng suất lao
động cáo hơn rất nhiều sơ với các phương thức sản xuất trước
đây thơng qua hình thức bóc lột giá trị thặng dư để thực hiện
việc sở hữu tư nhân này.
▪ Cơ sở xã hội.
Là một kết cấu xã hội phức tạp với hai giai cấp cơ bản là tư sản
và vô sản cùng tồn tài song song, đối kháng với nhau do chính
phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa gây nên.


Trong phương thức sản xuất phong kiến, có hai giai cấp cơ bản
là địa chủ, nông dân với nông nghiệp chiếm ưu thế trong xã hội.
Thì trong phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, theo cùng với
sự phát triển thương mại, kĩ thuật, khoa học và công nghiệp, xã
hội tư bản dần hình thành nên hai giai cấp cơ bản là giai cấp tư
sản dù chỉ chiếm thiểu số nhưng lại nắm giữ hầu hết tư liệu sản
xuất của xã hội và giai cấp vô sản là bộ phận đông đảo trong xã
hội, gồm những lực lượng lao động chính trong xã hội như nơng
dân, cơng nhân được tự do trên phương diện pháp lý nhưng lại
phải bán sức lao động cho giai cấp tư sản vì khơng có tư liệu sản
xuất. Ngồi ra cịn có nhiều tầng lớp khác như tiểu tư sản, trí
thức trong xã hội.
▪ Cơ sở tư tưởng.
Giai cấp tư sản trên mặt tư tưởng luôn tuyên truyền về tư
tưởng dân chủ, đa nguyên, nhưng lại đảm bảo địa vị độc tôn ý

thức hệ tư sản trên thực tế bằng mọi cách. Tư tưởng cách
mạng, tiến bộ của giai cấp công nhân và nhân dân lao động ln
bị ngăn cản phát triển và tun truyền.

• Bản chất của nhà nước xã hội chủ nghĩa:
Nhà nước xã hội chủ nghĩa nhà nước chun chính vơ sản tức nhà nước của
đại đa số nhân dân lao động trong xã hội với nền tảng là liên minh giai cấp
cơng nhân, nhân dân và đội ngũ trí thức với nhiệm vụ bảo vệ lợi ích của giai
cấp cơng nhân và nhân dân lao động chiếm đa số trong xã hội.
Nhà nước xã hội chủ nghĩa vừa là bộ máy chính trị, cưỡng chế, vừa là một tổ
chức quản lý kinh tế, xã hội của nhân dân lao động dù mang một số đặc điểm
chung với các kiểu nhà nước khác nhưng với bản chất là chun chính vơ sản
thì khơng cịn là nhà nước đúng nghĩa mà chỉ là nửa nhà nước. Các chính sách
nhà nước xã hội chủ dựa trên chế độ sở hữu về tư liệu sản xuất của xã hội
chủ nghĩa nghĩa luôn bảo vệ lợi ích chung của giai cấp nhân dân, công nhân
lao động.


Nhà nước xã hội chủ nghĩa với bản chất là nhà nước của đông lực lượng lao
động trong xã hội thì dân chủ là thuộc tính đặc trưng được mở rộng trên tất
cả các lĩnh vực đời sống xã hội như kinh tế, chính trị, tự do cá nhân, tự do dân
chủ … Nhà nước xã hội chủ nghĩa thông qua các quy định của pháp luật, xây
dựng một cơ chế hữu hiệu để nhân dân thực hiện các quyền dân chủ và các
quyền con người thành quyền công dân ngày càng ghi nhận nhiều hơn.
Là chủ thể tối cao của quyền lực nhà nước, nhân dân thực hiện quyền lực
dưới nhiều hình thức như thơng qua bầu cử dân chủ lập ra hệ thống cơ quan
đại diện; kiểm tra, giám sát hoạt động của các cơ quan nhà nước thông qua
các tổ chức xã hội bằng hoạt động đưa ra những kiến nghị, yêu cầu.

Sự khác nhau giữa bản chất kiểu nhà nước bóc lột và bản chất

của nhà nước Xã Hội Chủ Nghĩa.
Khái niệm nội hàm ‘nhân dân’ trong chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa so với nhà
nước bóc lột là khác biệt và hồn tồn khơng giống nhau. Khi nhà nước bóc lột
vẫn đại diện cho thiểu số giai cấp bóc lột. Giai cấp bóc lột để bảo đảm lợi ích của
giai cấp mình, những nguyên tắc được thiết kế, bao giờ cũng khiến người dân
lao động trong thực tế khơng bao giờ có cơ hội tham gia công việc của nhà nước,
là điểm khác biệt với nhà nước xã hội khi quyền lực nhà nước phải thuộc về nhân
dân, nhân dân có quyền làm chủ tất cả các lĩnh đời sống xã hội từ kinh tế, chính
trị đến văn hóa, xã hội và sử dụng chính quyền lực đấu của mình để quản lý nhà
nước. Chế độ sở hữu tư nhân của nhà bóc lột vẫn được duy trì, giai cấp bóc lột
với đặc quyền tự do chuyển nhượng tài sản, tự do sở hữu tư liệu sản xuất đã
ngang hàng với các quyền tự do khác.
Ở nhà nước tư bản, quá trình sản xuất giá trị thặng dư đã tách người lao động
ra khỏi tư liệu sản xuất đồng thời sự tập trung tư liệu sản xuất ngày càng lớn vào
giới chủ tư sản. Trong xã hội tư bản, cái gọi là bình đẳng, tự do chỉ là hình thức
mang tính ước lệ khi người dân muốn có tiếng nói thì họ phải có tài sản. Quyền
lực thuộc về nhân dân được ghi nhận trong chế độ dân chủ tư sản chỉ là sự
chuyển quyền lực từ một người sang tay một số người đông hơn trong xã hội là
là giai cấp tư sản, chứ khơng phải tồn thể nhân dân lao động khác.


Đây là sự khác nhau căn bản giữa dân chủ xã hội chủ nghĩa và các chế độ nhà
nước bóc lột có trong lịch sử.
Khác biệt tiếp theo cịn nằm ở chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa khi dân chủ xã
hội chủ nghĩa thực hành dân chủ thông qua hình thức pháp quyền xã hội chủ
nghĩa khác với với nhà nước bóc lột như ở nhà nước tư sản thực hành dân chủ
thơng qua hình thức pháp quyền tư sản.
Khác biệt tiếp nữa còn là ở phương thức, mục tiêu và mức độ can thiệp của nhà
nước vào nền kinh tế giữa xã hội chủ ghĩa với nhà nước bóc lột. Khi ở nhà nước
bóc lột, cơ chế thị trường hoạt động trên nền tảng của chế độ sở hữu tư nhân

về tư liệu sản xuất khác biệt với nhà nước xã hội chủ nghĩa với vai trò chủ đạo
của kinh tế nhà nước, sự đa dạng các quan hệ sở hữu và chế độ công hữu giữ vai
trò nền tảng của kinh tế quốc dân.
Trên phương diện lĩnh vực văn hóa, xã hội thì cả nhà nước bóc lột lẫn chue nghĩa
xã hội đều thể hiện là phương thức tổ chức, quản lý và hoạt động của tổ chức xã
hội nhưng lại vì sự khác nhau mang tính bản chất mà cách thức thực hiện, tổ
chức quản lý và hoạt động của tổ chức xã hội lại có sự khác nhau

Bản chất Nhà nước Cộng hịa XHCN Việt Nam
Hiến Pháp năm 2013, điều 2 của Nhà nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
đã chỉ rõ ràng, rằng:
1. Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân.
2. Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam do Nhân dân làm chủ; tất cả quyền
lực nhà nước thuộc về Nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công
nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức.
3. Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân cơng, phối hợp, kiểm sốt giữa
các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp,
tư pháp.
Tức, Nhà nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thể hiện bản chất ở những
đặc điểm sau đây:


Đầu tiên, nhà nước Việt Nam là nhà nước xã hội chủ nghĩa với nền tảng là liên
minh giai cấp cơng nhân, nơng đan và đội ngũ trí thức và sự lãnh đạo của Đảng
Cộng sản Việt Nam đối với Nhà nước và xã hội là nguyên tắc hiến định; thực hiện
và biểu hiện tập trung khối đại đoàn kết dân tộc.
Tiếp theo, Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp
quyền của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân với Nhân dân là chủ thể của quyền
lực tối cao của nhà nước khi nhà nước với quyền lực xuất phát từ nhân dân,

được nhân dân tổ chức, vì lợi ích của nhân dân và thực hiện quyền lực bằng cách
thông qua giám sát, kiểm tra hoạt động của cơ quan nhà nước, từ đó trực tiếp
đưa ra, trình bày ý kiến, kiến nghị đến với các cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
Nhà nước với quyền lực là thống nhất, có sự phối hợp, kiểm sốt, phân cơng
trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp giữa các cơ quan
nhà nước. Nhà nước phải theo Hiến pháp và pháp luật và thực hiện nguyên tắc
tập trung dân chủ khi thực thi quyền lực, tổ chức và quản lý xã hội.
Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước thống nhất của 54
sinh sống và trải dài trên khắp đất nước Việt Nam, thực hiện chính sách trên cơ
sở nguyên tắc đoàn kết giữa các đân tộc, bình đảng trong mối quan hệ giữa nhà
nước và cơng dân.
Nhà nước Cộng hịa xã hội chủ nghĩa Việt Nam với dân chủ là thuộc tính đảm
bảo mọi cơng dân có đầy đủ các quyền và phát huy quyền làm chủ của nhân dân
trên mọi lĩnh vực đời sống xã hội của đất nước, tạo điều kiện để nhân dân tham
gia vào các công việc của Nhà nước, xã hội.
• Nhà nước đảm bảo quyền tự do, đan chủ của công dân bằng việc tạo ra cơ sở
pháp lý hay cịn gọi là pháp luật.
• Nhà nước chú trọng giải quyết các vấn đề văn hóa xã hội như giáo dục, tệ nạn
xã hội, thiên tai… Bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của cơng dân cũng như trừng
phạt các hành vi phá hoại, vi phạm pháp luật và xâm hại đến lợi ích quốc gia.
• Chính sách ngoại giao hịa bình, hữu nghị, mở rộng giao lưu và hợp tác với
các nước trên thế giới trên cơ sở tơn trọng độc lập, chủ quyền tồn vẹn lãnh
thổ, khơng can thiệp nội bộ của 2 bên, ủng hộ các cuộc đấu tranh của nhân
dân trên thế giới vì tiến bộ xã hội, độc lập dân tơc và hịa binh thế giới.


Nhà nước Cộng hoà chủ xã hội chủ nghĩa Việt Nam với mục tiêu của là xây dựng
một đất nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Độc lập, tự do, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, người dân có điều kiện phát
triển tồn diện và cuộc sống ấm no.


2. Mối quan hệ giữa pháp luật và kinh tế, pháp luật và chính
trị, pháp luật và nhà nước. Liên hệ vào điều kiện Việt
nam hiện nay.
• Mối quan hệ giữa pháp luật và kinh tế.
Pháp luật là yếu tố thượng tầng xã hội, sinh ra trên cơ sở hạ tầng với kinh tế
thuộc về yếu tố hạ tầng và kinh tế giữ vai trò quy định đối với pháp luật, là
nguyên nhân trực tiếp hình thành nên pháp luật nhưng chính bản thân pháp
luật cũng có sự tác động mạnh mẽ tới kinh tế và tính độc lập tương đối.
Sự ra đời của nhà nước và pháp luật là do sự xuất hiện của nền kinh tế sản
xuất và trao đổi, cùng với đó là lực lượng sản xuất phát triển, chế độ tư hữu
và sự phân hóa xã hội mà dẫn tới.
Pháp luật bị lệ thuộc vào kinh tế ở các mặt sau:
o Trong cơ cấu nền kinh tế, hệ thống kinh tế quyết định thành phần cơ
cấu của các ngành luật vì khi các quan hệ kinh tế mới nảy sinh cũng dẫn
tới sự xuất hiện pháp luật tương ứng mới để điều chỉnh các quan hệ
kinh tế đó.
o Pháp luật với các quy định mang tính khả thi khi được xây dựng trên
nền tảng kinh tế của xã hội và có sự đảm bảo của điều kiện kinh tế ở
mức độ nhất định. Thế nên pháp luật không thể phản ánh thấp hơn
hoặc cao hơn trình độ phát triển kinh tế. Thế nên tính chất nội dung
của của cơ chế kinh tế, các quan hệ kinh tế quyết định nội dung, tính
chất của phương pháp điều chỉnh pháp luật, các quan hệ pháp luật.
Mối quan hệ chủ giữa các chủ thể trong quan hệ kinh tế là thể hiện rõ
nét nhất vì nếu các chủ thể đó độc lập với nhau thì trong quan hệ pháp


luật cũng sẽ độc lập, bình đẳng với nhau. Mỗi thành phần kinh tế lại có
một lĩnh vực pháp luật tương ứng điều chỉnh các mối quan hệ trong
thành phần đó và mọi sự biến động trong nền kinh tế cũng sẽ dẫn tới

những thay đổi tương ứng trong pháp luật nên cơ cấu pháp luật phụ
thuộc vào cơ cấu kinh tế. Các nước có hệ thống kinh tế khác nhau có
các quy định pháp luật khác nhau trong lĩnh vực kinh tế và sự khác biệt
không chỉ ở chỗ có cùng loại, mà cịn có cùng trình độ phát triển ở các
nền kinh tế cùng loại hay khơng. Đó là ý nghĩa của sự tương đồng và
khác biệt trong hệ thống kinh tế.

• Mối quan hệ giữa pháp luật và chính trị.
Những hoạt động liên quan đến các mối quan hệ giữa dân tộc, tầng lớp xã
hội, giai cấp với vấn đề cốt lõi là duy trì, sử dụng quyền lực và tham gia vào
công việc của Nhà nước thì được gọi là Chính trị như việc xác định nội dung
hoạt động, nhiệm vụ của Nhà nước.
Hệ thống quy tắc xử sự chung mang tính bắt buộc chung do Nhà nước ban
hành được gọi là Pháp luật nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hôi, bảo vệ và
phục vụ các tầng lớp công dân trong xã hội.

o Trong việc Bộ máy nhà nước được ra đời và tổ chức.
Toàn bộ các hệ thống các cơ quan từ địa phương đến trung ương bao
gồm các cơ quan tư pháp, hành pháp, lập pháp… được gọi là bộ máy
nhà nước và được thiết chế từ nhiều bộ phận cấu thành một cách phức
tạp. Để hoạt động một cách có hiệu quả đòi hỏi bộ máy nhà nước phải
xác định rõ thẩm quyền, nhiệm vụ, trách nhiệm và chức năng của mỗi
loại cơ quan nhà nước trong mối quan hệ giữa chúng để có thể tạo ra
một cơ chế đồng bộ bằng những phương pháp tổ chức hoạt động phù
hợp trong quá trình thiết lập thực hiện quyền lực nhà nước và phải
thực hiện trên cơ sở vững chắc của những quy định của pháp luật.
Bộ máy nhà nước rất dễ có tình trạng chồng chéo, trùng lặp, thực hiện
khơng đúng chức năng giữa các cơ quan trong bộ máy nhà nước khi
các quy phạm pháp luật về tổ chức của một hệ thống chưa phù hợp,



đầy đủ, chính xác và đồng bộ để làm cơ sở cho việc hoạt động, xác lập
của bộ máy nhà nước. Quyền hạn, nhiệm vụ, trách nhiệm từng cơ quan
và của các cá nhân trong bộ máy nhà nước còn quy định rõ ràng trong
pháp luật.
Pháp luật cũng có sự tác động trực tiếp tới từ bộ máy nhà nước hoàn
chỉnh hội khi đưa ra hệ thống pháp luật phù hợp với tình hình phát
triển kinh tế xã hội chung của đất nước, đại diện cho giai cấp tiến bộ
trong xã hội khiến pháp luật trở nên tiến bộ và thể hiện đúng vai trị,
vị trí của mình.

o Trong quan hệ ngoại giao.
Trong việc thiết lập các mối quan hệ ngoại giao giữa các quốc gia thì
pháp luật ln tạo ra môi trường ổn định cho việc này và pháp luật của
các nước cũng địi hỏi ở có sự thay đổi sao cho phù hợp với từng thời
kì phát triển của mỗi quốc gia trong sự phát triển của quan hệ ngoại
giao.
Ví dụ, trước thời kì đổi mới, chính sách ngoại giao khép kín, chỉ thực
hiện quan hệ ngoại giao với các nước có nền kinh tế, chính trị xã hội
chủ nghĩa, ngăn cấm các hoạt động đầu tư của tư bản nước ngoài là
chủ trương của Đảng và Nhà nước ta.. Đường lối ngoại giao của nước
ta hiện nay như đã có sự thay đổi căn bản trong thời đại mở cửa và hội
nhập quốc tế đòi hỏi pháp luật của chúng ta phải có những thay đổi để
phù hợp với xu thế chung với việc chúng ta đã đặt quan hệ ngoại giao
với hơn 180 quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới. Đặc biệt, Nhà nước
ta đã có nhiều chính sách nhằm thu hút nguồn vốn đầu tư nước ngoài
với sự thay đổi thể hiện trong các Luật Thương Mại, Luật Đầu tư…

o Trong đường lối chính của lực lượng thống trị.
Thể hiện tập trung nhất trong các quan hệ đường lối chính sách của

đảng cầm quyền với pháp luật của nhà nước, thể chế hóa đường lối
chính sách cho ý chí của đảng cầm quyền trở thành ý chí của nhà nước.


Trong việc chỉ đạo về nội dung, phương hướng phát triển của pháp luật
thì đường lối chính sách của Đảng có vai trị quan trọng vì khi đường
lối chính sách của đảng thay đổi cũng dẫn đến pháp luật bị thay đổi.

• Mối quan hệ giữa pháp luật và nhà nước.
Tổ chức quyền lực, chính trị với chính quyền độc lập của xã hội có lãnh thổ,
giai cấp có khả năng thực thi, đặt ra pháp luật trong phạm vi lãnh thổ của
mình nhằm thiết lập trật tự xã hội nhất định thì đó gọi là Nhà nước.
Pháp luật và Nhà nước ln có mối quan hệ biện chứng với nhau, sự tác động
qua lại giữa nhà nước và pháp luật có thể là tích cực hoặc tiêu cực, ở mức độ
này hay mức độ khác được thể hiện trước hết là ở việc nhà nước ban hành,
hoàn thiện, thay đổi pháp luật và đưa pháp luật vào đời sống. Pháp luật có
vai trị điều chỉnh hoạt động nhà nước và các quan hệ xã hội và cũng là sản
phẩm trực tiếp từ hoạt động của nhà nước mang tính pháp lí.
Pháp luật là mục đích tồn tại của nhà nước, là phương tiện kiểm soát, xác
định giới hạn cho phép hay không cho phép trong hoạt động nhà nước. Kiểm
soát đối với nhà nước bằng sự đảm bảo của pháp luật. Từ đó quy định cơ cấu
tổ chức, hoạt động của các cơ quan nhà nước. Toàn bộ hoạt động nhà nước
đều xuất phát từ chế độ pháp luật, trong các hình thức trình tự, tự thủ tục
pháp luật. Các nhiệm vụ, chức năng, chính sách đối nội và đối ngoại của mình
nhờ pháp luật mà nhà nước từ đó xác định các quy chế pháp lý đối với các cá
nhân và chế độ kinh tế, xã hội và chính trị.
Nhà nước và pháp luật khơng thể tồn tại thiếu nhau và ln tác động phụ
thuộc lẫn nha vì pháp luật có vai trị cũng cố hồn thiện nhà nước để thích
ứng sự phát triển khách quan của xã hội vì sự tiến bộ hay trì trệ của pháp luật
sẽ kéo theo sự hồn thiện hay trì trệ, lạc hậu của nhà nước và ngược lại.




×