Tải bản đầy đủ (.pdf) (30 trang)

YẾU TỐ VĂN HÓA DÂN GIAN TRONG CHÈO

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (623.78 KB, 30 trang )

----------

BÀI TIỂU LUẬN
ĐỀ TÀI: YẾU TỐ VĂN HÓA DÂN GIAN TRONG CHÈO

2


MỤC LỤC
I. Phần tổng quan................................................................................3
1. Lí do chọn đề tài...........................................................................3
2. Mục đích nghiên cứu...................................................................5
3. Đối tượng nghiên cứu..................................................................5
4. Phương pháp nghiên cứu............................................................5
II. Phần nội dung................................................................................5
1. Cơ sở lí luận..................................................................................5
2. Cơ sở thực tiễn.............................................................................6
3. Vài nét về Chèo Bắc Bộ...............................................................7
3.1. Lịch sử hình thành.................................................................7
3.2. Chèo mang âm hưởng văn hóa dân gian Bắc Bộ................7
4. Nét văn hóa dân gian đặc sắc trong Chèo..................................8
4.1. Chất dân gian trong ca từ, ngôn ngữ...................................8
4.2. Trang phục chèo....................................................................9
4.3. Chèo, từ chiếu diễn sân khấu đình chuyển dần vào sân
khấu hộp.............................................................................................11
5. Nội dung Chèo là tiếng nói phản ảnh đời sống nhân dân.......12
5.1. Chèo thuộc loại sân khấu khuyến giáo đạo đức.................14
5.2. Chèo xây dựng thành công các nhân vật đại diện
cho quan hệ xã hội bình dân.............................................................19
III. Kết luận........................................................................................26
IV. Tài liệu tham khảo.......................................................................26



2


I.

Phần tổng quan
Trong thiên nhiên, trong cuộc sống của con người có mn vàn âm

thanh, song khơng phải âm thanh nào cũng có tính nghệ thuật và khoa học như
âm nhạc. Âm thanh trong cơng trình này được xác định là âm thanh có tính nghệ
thuật, có tính thẩm mỹ và chúa chức năng phản ánh, nhận thức giáo dục. Đó chính
là âm nhạc mợt loại hình nghệ thuật có tính khoa học hồn chỉnh. Loại hình này
có tính quy luật chặt chẽ và ổn định.
Thành tố nghệ thuật âm thanh hình thành từ rất sớm, từ thuở bình minh của
con người. Nó là mợt phần giúp cho đời sống con người thêm phần sinh động,
giải toả những căng thẳng trong công việc bộn bề. Và để truyền tải những bài ca,
giọng hát ấy con người ta bắt đầu từ những cách thân tḥc, gần gũi nhất như
những bài lí, bài hị khi lao đợng, những câu hát ấy khơng chỉ để giải toả mỏi mệt
ngày lúc ấy mà còn là mợt kí hiệu giúp cho năng suất lao đợng tăng lên. Thời gian
dần qua, xã hội con người phát triển kéo theo nhu cầu về đời sống tinh thần ngày
càng được chú trọng hơn, chính vì thế các loại hình biểu diễn sân khấu dân gian
đã ra đời.
Sân khấu hợp thành bởi nhiều loại, mỗi loại có những đặc thù riêng và
phương tiện thể hiện riêng. Sân khấu với ý nghĩa rợng, gồm cái xưa và nay, có thể
chia ra thành lĩnh vực sân khấu dân tộc và sân khấu dân gian. Sân khấu dân gian,
như tiêu chí phân loại đã xác định là các tích, trị, chuyện do dân chúng sáng tạo
và được lưu truyền từ đời này sang đời khác dưới hình thức truyền miệng khơng
thành văn bản. Tìm hiểu các loại hình sân khấu dân gian, ta có thể cảm nhận được
sự phát triển của quá trình lịch sử con người Việt Nam, những nét đẹp văn hóa

truyền thống tinh hoa cần được giữ gìn cẩn thận, và Chèo là mợt loại hình sân
khấu dân gian vơ cùng đợc đáo, mang trong mình nét đẹp văn hố dân gian của
cả mợt thời đại.

1.

Lí do chọn đề tài
3


Chèo, mợt loại hình sân khấu dân gian tiêu biểu, đặc sắc của sân khấu dân
gian người Việt nói riêng, Việt Nam nói chung. Chèo hàm chứa những sáng tạo,
những giá trị văn hóa, bản sắc văn hố của người nơng dân. Nó được nảy sinh
trong các điều kiện, hồn cảnh, môi trường tự nhiên, lao động xã hội, văn hố và
c̣c sống của người Việt nơi thơn dã. Chèo là mợt sản phẩm văn hố nơng nghiệp,
các sự kiện, tích, truyện, nhân vật, tình cảm, tính cách, khơng gian, thời gian, nội
dung phản ánh của Chèo đều chọn đối tượng là người nông dân nơi miền quê thôn
dã. Người nông dân Việt Nam chủ yếu làm nghề nông, cuộc sống, quan hệ, tín
ngưỡng, phong tục, tập qn, lễ hợi, tết nhất đều gắn bó chặt chẽ với nghề nơng,
đồng ṛng, làng xóm, vì vậy ta có thể hiểu Chèo có nguồn gốc từ làng xã.
Có thể nói Chèo chính là tiếng nói phản ánh đời sống tâm hồn, tình cảm
của quần chúng nhân dân, phản ánh lịch sử xã hợi và nhờ đó chúng ta lưu trữ được
vẻ đẹp phong phú về phong tục, tập quán trong các lĩnh vực sinh hoạt vật chất và
tinh thần của nhân dân lao động. Nhiều tác phẩm chèo đã đi vào phản ánh các
khía cạnh phức tạp của tâm lí xã hợi, của quan hệ người với người, đủ các thể loại
bị, hài, trữ tình, anh hùng ca và tính cách nhân vật khác nhau.
Bi như Thị Kính (Quan âm Thị Kính)
Lẳng lơ như Thị Mầu (Quan âm Thị Kính)
Hiếu thảo như Thị Phương (Trường Viên)
Tiết hạnh như Châu Long (Lưu Bình Trương Lễ)

Si tình và phụ bạc như Súy Văn (Kim Nhan)
Miền đất Bắc Bợ có nhiều nét đặc thù về văn hố dân gian, do đó khi hình
thành ở nơi đây, Chèo cũng mang trong mình những đặc trưng dân gian Bắc Bợ.
Khi tìm hiểu về chủ đề “Yếu tố dân gian trong Chèo Việt Nam” , em đã cảm nhận
được sự đợc đáo, giá trị văn hố truyền thống được truyền từ thế hệ này sang thế
hệ khác. Ờ bài tiểu luận lần này, em mong muốn đi sâu vào các giá trị văn hoá của
nghệ thuật sân khấu Chèo, qua đó giúp bản thân có thể hiểu rõ thêm về giá trị văn
hoá, nghệ thuật dân gian.
4


Tuy nhiên với điều kiện hiện tại của bản thân, em nhận thấy mình chưa đủ
kiến thức để tìm hiểu, nghiên cứu và đánh giá một cách chuyên sâu vào giá trị của
Chèo Việt Nam. Trong bài tiểu luận này, em sẽ chỉ nghiên cứu sâu vào các giá trị
văn hóa đặc sắc của nó và các yếu tố dân gian có trong Chèo.

2.

Mục đích nghiên cứu

Chèo là mợt đối tượng của văn hố học, khoa học nhân văn, mợt sản phẩm
văn hoá đặc sắc được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm. Tìm hiểu về Chèo giúp ta
nhận diện mợt cách đầy đủ các giá trị văn hóa, nghệ thuật, biết cách gìn giữ và
phát triển nghệ thuật sân khấu dân gian xưa nhằm làm nổi bật những những nét
riêng, đặc sắc của vùng đất Bắc Bộ so với các vùng miền khác.
Vận dụng nhiều kiến thức văn hóa vào việc tiếp cận các giá trị của Chèo.
Nhờ đó chúng rút ra những nguyên tắc cần thiết cho việc hiểu được các giá trị văn
hoá trong nghệ thuật biểu diễn sân khấu ngày này.

3.


Đối tượng nghiên cứu

Giá trị văn hoá, yếu tố dân gian trong Chèo Việt Nam.

4.

Phương pháp nghiên cứu

Trong bài tiểu luận, em kết hợp việc tổng hợp và phân tích dữ liệu. Đồng
thời em đã thực nghiệm xem qua các tài liệu, đoạn phim tiêu biểu thông qua
Internet để bài làm được chính xác, khách quan và rõ ràng.

II. Nội dung
1.

Cơ sở lí luận

1.1. Khái niệm về văn hóa
“Văn hố là mợt chỉnh thể phức hợp báo gồm trị thức, tín ngưỡng, nghệ
thuật, đạo đức, luật pháp, phong tục cũng như mọi khả năng và thói quen khác
được con người tạo ra với tư cách là một thành viên xã hội” E.B. Tylor.

5


Unesco lại định nghĩa rằng: “Văn hoá là tổng thể những nét riêng biệt tinh
thần và vật chất, trí tuệ và xúc cảm quyết định tính cách của mợt xã hợi hay mợt
nhóm người trong xã hợi. Văn hố bao gồm nghệ thuật và văn chương, những lối
sống, những quyền cơ bản của con người, những hệ thống các giá trị, tập tục và

tín ngưỡng,...”

1.2. Khái niệm văn hóa dân gian
Thuật ngữ văn hoá dân gian “folklore” được W. J.Thom sử dụng đầu tiên
vào năm 1846 để chỉ “phong tục, tập quán, nghi thức, mê tín, ca dao, tục ngữ...của
người thời trưóc”. Từ đó đến nay, bợ mơn văn hố dân gian học đã ra đời, phát
triển và đạt nhiều thành tích nổi bật.
Ở Việt Nam, thuật ngữ “folklore” được sử dụng từ lâu và tùy theo mỗi thời
kì được dịch ra tiếng Việt là “văn học dân gian”, “văn nghệ dân gian” và nay là
“văn hoá dân gian”.

1.3. Nghệ thuật sân khấu Chèo
Chèo (sân khấu) là loại hình nghệ thuật sân khấu dân gian Việt Nam, hình
thành từ sự tổng hợp những yếu tố dân ca, dân vũ và các loại hình nghệ thuật dân
gian khác tḥc vùng đồng bằng Bắc Bộ. Chèo là một nghệ thuật biểu diễn ngẫu
hứng dựa trên cơ sở mợt số thân trị và những mơ hình hệ thống nhân vật, mơ hình
làn điệu đã có và khơng ngừng tiếp tục được bổ sung.

2.

Cơ sở thực tiễn

Với mong muốn đưa nghệ thuật diễn xướng Chèo đến gần hơn với đối
tượng học sinh, sinh viên trong thời đại ngày nay, em đã tìm hiểu về thực trạng
của Chèo. Tuy đã xuất hiện từ rất lâu nhưng Chèo vẫn khơng bị biến mất khỏi nền
văn hố Việt Nam bởi trong nó ẩn chứa vơ vàn giá trị văn hố khơng thể mai mợt
bởi thời gian. Hằng năm Nhà nước vẫn thường có những c̣c thi về Chèo nhằm
ni dưỡng những tài năng trẻ. Chính Chèo là tâm hồn của mảnh đất Ninh Bình
xứ Bắc, là điểm sáng thu hút khách du lịch đến với nơi đây.
6



3.

Vài nét về Chèo Bắc Bộ

3.1. Lịch sử hình thành
Trong cuốn sách “ Về nghệ thuật Chèo” của tác giả Trần Việt Ngữ, Viện
nghiên cứu âm nhạc xuất bản, Hà Nội, 1996, tác giả đã đưa ra những ý kiến khác
nhau về quan niệm và dẫn giải về Chèo. Trước hết là nói về sự xuất hiện của Chèo.
“Năm Canh Tuất 1310, khi đem quan tài vua Trần Nhân Tông về Long
Hưng ăn tán, dân chúng xô nhau đến xem rất đông, xe tang không ra được. Thứ
thị hầu Trịnh Trọng Tử bèn đến sân Thiên Trì gọi quân của ông ta đứng hát khúc
Long ngâm kéo dân chúng đến xem, nhờ vậy mới có thể đem quan tài đi được”.
Về sau dân ta bắt chước làm lối hát vãn, mỗi năm cứ tới rằm tháng bảy, những
nhà tang gia cho gọi phường hát tới hát, tạo nên tục phường chèo bợi.
Có thể thấy, Chèo là lối hát đặc biệt thuần túy của dân tợc Việt Nam và phải
có từ thời thượng cổ, thời tiền sử. Chèo vốn nảy sinh và trưởng thành trên vùng
nôi của đồng bằng và trung châu miền Bắc, từng được đông đảo nông dân ở nơi
đây rất ưu cḥng, coi như loại hình nghệ thuật của mình.
Nguồn gốc của Chèo chính là mợt nền ca vũ cổ sơ của dân tộc, thường được
biểu diễn trong những dịp tang lễ thời trước, lời ca than vãn, điệu vũ, điệu vũ hình
dung những đợng tác chèo thuyền, chiếc thuyền thần thoại chở linh hồn người
chết sáng thế giới bên kia.
Về thời điểm hình thành, có ý kiến cho rằng Chèo ở nước ta có từ thời tiền
sử, thế kỉ IV trước Công nguyên đến thế kỉ I sau Cơng ngun, hoặc vào thế kỉ X
(thời kì nhà Đinh), hoặc thế kỉ XIV (thời kì cuối nhà Trần).

3.2. Chèo mang âm hưởng văn hoá dân gian Bắc Bộ
Vùng châu thổ Bắc Bộ là vùng đất lịch sử lâu đời của người Việt, nơi khai

sinh của các vương triều Đại Việt. Đây là cái nơi hình thành văn hố, văn hoá Việt
từ buổi ban đầu và hiện tại cũng là vùng văn hoá bảo lưu được nhiều giá trị truyền
thống hơn cả. Trên đường đi tới xây dựng một nền văn hoá hiện đại, vùng đất này
vẫn mang trong mình bản sắc dân tợc đậm đà.
7


Cư dân ở đồng bằng Bắc Bộ là cư dân sống với nghề trồng lúa nước, làm
nông nghiệp một cách thuần túy. Biển và rừng bao bọc quanh đồng bằng Bắc Bộ
nhưng từ trong tâm thức, người nông dân Việt Bắc Bộ là những cư dân “xa rừng
nhạt biển” – chữ dùng của PGS, PTS Ngơ Đức Thịnh- Nói khác đi là, người nông
dân Việt Bắc Bộ là người dân đồng bằng đắp đê lấn biển trồng lúa, làm muối và
đánh cá ở ven biển. Hàng ngàn năm lịch sử, người nơng dân Việt khơng có việc
đánh cá được tổ chức mợt cách quy mơ lớn, khơng có những đợi tàu thuyền lớn.
Nghề khai thác hải sản không mấy phát triển. Các làng ven biển thực ra chỉ là các
làng làm nơng nghiệp, có đánh cá và làm muối.Ngược lại, Bắc Bợ là mợt châu thổ
có nhiều sơng ngịi, mương máng, nên người dân chài trọng về việc khai thác thủy
sản. Tận dụng ao, hồ đầm để khai thác thủy sản là một phương cách được người
nông dân rất chú trọng. Đã có lúc việc khai thác ao hồ thả cá tôm được đưa lên
hàng đầu như một câu ngạn ngữ: nhất canh trì, nhì canh viên, ba canh điền.
Chính điều kiện tự nhiên, xã hội thuận lợi đã làm cho kho tàng văn hố dân
gian vùng Bắc Bợ được xem như một loại mỏ với nhiều tài nguyên quý hiếm.

4.

Nét văn hoá dân gian đặc sắc trong Chèo

4.1. Chất dân gian trong ca từ, ngơn ngữ
Chèo mang tính quần chúng và được coi là mợt loại hình sân khấu của hội
hè với đặc điểm sử dụng ngôn ngữ đa thành, đa nghĩa kết hợp với cách nói ví von

giàu tính tự sự, trữ tình. Nếu sân khấu truyền thống Trung Quốc có đại diện là
kịch Bắc Kinh và sân khấu Nhật Bản là kịch nơ thì đại diện tiêu biểu nhất của sân
khấu truyền thống Việt Nam là Chèo.
Giữa Chèo và nền văn học dân gian có mợt mối quan hệ mật thiết. Ngơn
ngữ Chèo chính là ngơn ngữ quần chúng, là khẩu ngữ hàng ngày được nâng cao
lên và trình bày theo cách cảm, cách nghĩ của người dân lao động. Chèo không
chỉ sử dụng những câu ca dao, tục ngữ, những câu chuyện cổ tích, thần thoại mà
còn tiếp thu cả những bài văn, những câu thơ bác học được lưu truyền rộng rãi
trong dân gian. Trong Chèo vận dụng tất cả khả năng phong phú của ngơn ngữ
dân gian như lối nói vần vẻ, các lối chơi chữ, các câu nói lái...
8


Để cảm nhận rõ điểu này ta có thể tìm mợt đoạn trích trong tác phẩm Chèo
nổi tiếng “Quan Âm Thị Kính”:

Thiện Sĩ: Thưa cha mẹ, hơm qua con ngồi học đã khuya
Vừa chợp mắt thấy dao kia kề cổ
Con nói đây, có quỷ thần hai vai chứng tỏ
Dầu thực hư đơi lẻ con chưa tường
Sùng ơng: Hú vía! Kề cổ màu hay kề cổ ai hả con?
Sùng bà:. Thôi đi, lại còn kề ai vào đây nữa
Cái con mặt sứa gan lim này! Mày định giết con bà à?
Úi chao! Tơi đã bảo ơng mà!
Lấy vợ cho con thì phải kén họ
Tôi đã bảo phải kiếm nới Công hầu kia mà

Giống phượng giống công
Giống nhà bà đây giống phượng giống cơng
Cịn tuồng bây mèo mả gà đồng lẳng lơ

Chứ bây giờ bây mới lòi mặt ra,
Chứ bây giờ sao chưa mở cái mồm ra?
Thị Kính:

Lạy cha, lạy mẹ! Cho con xin trình cha mẹ...

Đọc đoạn trích trên ta thấy được, cái thần, cái hồn của Chèo nằm ở những
thứ dân dã nhất, cách sử dụng ngôn ngữ vô cùng gần gũi với văn hoá kể chuyện
dân gian kết hợp với các câu ca dao, tục ngữ vô cùng tinh tế.
4.2.

Trang phục Chèo.
9


Trang phục trong sân khấu chèo không chỉ là một thành tố cấu tạo nên hình
thức của mợt vở diễn mà cịn dẫn dắt, định hình thẩm mỹ đối với người xem. Qua
trang phục trong vở diễn, khán giả đã nhận thức được lịch sử, nhìn rõ sự phân tầng
giai cấp qua các giai đoạn phát triển đất nước. Trang phục qua sân khấu chèo cịn
mang hơi thở văn hóa, đặc trưng tơn giáo, tín ngưỡng, mơi trường sống của từng
vùng miền, từng triều đại. Nhưng khơng ít người đã và đang coi trang phục trong
sân khấu chèo chỉ đóng vai trò thứ yếu. Sự đầu tư cũng như cơ chế quản lý, bảo
tồn các giá trị phục trang còn nhiều bất cập.
Trang phục sân khấu chèo thể hiện giá trị hiện thực sâu sắc. Trang phục sân
khấu là tấm gương phản chiếu trang phục đời thường nên đã mang chức năng
phản ánh hiện thực khách quan. Trang phục của mỗi vở diễn đều phản ánh không
gian, thời gian trong một giai đoạn lịch sử cụ thể.
Trang phục sân khấu chèo đã mang tính hiện thực, mơ phỏng theo trang
phục đời thường của các nhân vật trong c̣c sống. Nhìn vào trang phục của các
diễn viên trên sân khấu, khán giả phần nào nhận ra được thân phận, giai cấp, nhân

phẩm của họ. Ví dụ nhìn diễn viên với chiếc áo nâu, váy đụp sờn rách, vá víu
được may bằng vải chúc bâu, ta có thể đốn được họ là những nông dân nghèo
nơi tầng đáy xã hội, ăn không đủ no, mặc không đủ ấm, như những anh Nô, mẹ
Đốp… Các quan viên trong bộ áo dài lụa, là lượt phẳng phi, họ là những nhân vật
có chức sắc, giàu có, cao sang như: lý trưởng, chánh tổng, hương hào… Ngoài
chức năng phản ánh hiện thực, trang phục chèo cịn có chức năng thể hiện tính
cách nhân vật. Tính cách nhân vật sân khấu đa dạng, phức tạp đòi hỏi trang phục
sân khấu cũng phải làm nổi rõ tính cách. Hình ảnh chiếc yếm đỏ, áo cánh vàng,
chiếc áo tứ thân hồng thắm khiến người xem không thể không liên tưởng tới cô
Màu với nét hồn nhiên tươi tắn, sự lẳng lơ đã được nghệ thuật hóa. Trang phục
phải thể hiện được các đặc điểm tính cách, sự phát triển tâm lý nhân vật, nét đặc
trưng của từng giai cấp.
Do các nhân vật trong chèo cổ đều gần gũi với đời thường, là những mẫu
người nông dân sống ở làng quê vùng đồng bằng Bắc Bộ Việt Nam, thời phong
10


kiến nên phục trang các vai diễn trên sân khấu chèo cổ, về cơ bản, vẫn giống
những bộ áo quần thường mặc hàng ngày của những người dân quê hay những bộ
quần áo mới mặc trong các dịp hội hè, lễ tết, nhưng được tinh giản và làm đẹp
hơn để phù hợp với sân khấu.
Khi nhắc đến Xúy Vân trong vở Kim Nham, khán giả tưởng tượng ra cảnh
hất tóc rũ rượi, tà áo tứ thân bay hoảng loạn. Khi nhắc đến Thị Kính, người ta dễ
dàng liên tưởng tới thân phận kẻ tu hành kín đáo, thanh đạm trong bợ áo nâu tiểu
sịng… Hình tượng điển hình ăn sâu đến độ khi nhắc đến vở diễn, nhân vật người
xem nhớ lại như in từng cử chỉ, điệu bộ và phục trang của nhân vật.
Trang phục trên sân khấu chèo thấm đượm tính dân tợc. Nghệ thuật chèo là
sản phẩm văn hóa tinh thần của người nơng dân đồng bằng Bắc Bợ. Nó mang ý
nghĩa giáo dục đạo đức, nhân cách qua nợi dung các tích trị lấy từ kho tàng truyện
dân gian. Thông qua nghệ thuật trang phục trong biểu diễn, người ta nhìn thấy cợi

nguồn văn hóa của cả mợt dân tợc. Đó là màu sắc tươi vui của lễ hội được thể hiện
qua những trang phục rực rỡ, là đường kim ngay ngắn của người phụ nữ Việt đảm
đang, tần tảo gửi vào các bộ quần áo, là các hoa văn tinh tế được cóp nhặt từ bao
đời. Tất cả đã tạo nên một bản sắc rất riêng, rất Việt Nam.

4.3.

Chèo, từ chiếu diễn sân đình chuyển dần vào sân khấu hộp

Theo một số nghệ nhân cao tuổi, trước đây Hà Nợi khơng có phường Chèo
bản địa. Những dịp đình đám hợi hè, giỗ chạp khảo vọng, xóm phố lại cử người
ra ngoại thành mời phường Chèo quanh đấy về hát giúp dăm bảy bữa với cùng
cách biểu diễn và thưởng thức không khác mấy chèo sân đình.
Bởi vậy, trong mợt thời gian dài, hình ảnh sân khấu chèo trong tiềm thức là
những buổi họp mặt nơi sân đình, có người già gặp nhau nói chuyện, có trẻ nhỏ
cùng nhau nô đùa. Mội người như trút bỏ nhọc nhằn sau ngày dài lao động vất vả
để thư giãn với Chèo. Dưới ánh trăng sáng dịu nơi thôn quê, khủng cảnh sân khấu
Chèo đã tạo nên những kí ức đẹp không thể nào quên của biết bao thế hệ người
dân.
11


Từ năm 1890, Hoàng Cao Khải làm Kinh lược Bắc Kì, có mang theo Đợi
Tuồng giáo luyện từ miền trong, từng nhiều lần diễn trước “ngài ngự”, bạn đầu là
diễn “mua vui” cho quân lại đầu sỏ và viên chức Pháp Năm trong định hoặc trong
ấp, sau sửa sang gian nhà thành rạp hát, ra diễn bán vé lấy tiền.
Rạp hát được thị dân bấy giờ hiểu là địa điểm biểu diễn và thưởng thức
nghệ thuật có mái che, có tường vây quanh, đó tài chủ bỏ vốn xây dựng kinh
doanh. Thực tế, đấy chỉ là gian nhà khá rộng, đủ chứa bảy tám chục khán giấy,
ánh sáng là hai chiếc đèn đĩa hoặc đèn ba dây, sàn diễn đắp đất, be gạch, cao hơn

nền nhà dăm sáu tấc ta, trải chiếu, người xem vây quanh. Có vài hàng ghế hay
chõng tre giành cho người mua vé 5, 7 xu, 1 hài, ngồi đất 2, 3 xử, đứng 1 xử, xử
rưỡi...
Mặc dầu địa điểm có phần chật chợi số với sân đình ngồi trời, các phường
vẫn diễn những tích Trương Viên, Quan Âm, Lưu Bình, Tống Trân Cúc Hoa, Lý
cơng, Trần Tử Lệ...qua đó, nổi lên số nghệ nhân tài năng, người xem nay cịn nhớ.
Như phường chèo ơng Trùm Dương (Hưng Yên) năm nào cũng diễn luân lưu mấy
địa điểm nợi thành hàng tháng, có hề Qnh nổi bật trong vài Hai Móm gây được
những tràng cười ý nhị hóm hỉnh; có kép Hỷ, Nữ Lã (nam đóng giả) ra vài nào
cũng có góc cạnh khó quên.

5.

Nội dung Chèo là tiếng nói phản ánh đời sống nhân dân

Nợi dung của các vở chèo lấy từ những truyện cổ tích, truyện Nôm; được
nâng lên một mức cao bằng nghệ thuật sân khấu mang giá trị hiện thực và tư tưởng
sâu sắc. ... Các tích trị chủ yếu lấy từ truyện cổ tích, truyện Nơm; ca vũ nhạc từ
dân ca dân vũ; lời thơ chủ yếu là thơ dân gian.
Trong khá nhiều cơng trình lịch sử và lý luận, khơng ít nhà nghiên cứu đã
khẳng định: ở nghệ thuật chèo cổ có tính khuyến giáo đạo đức. Tính khuyến giáo
đạo đức đó là mợt trong những ngun tắc sáng tác của Chèo.
Dưới thời Lê Thánh Tông, nhà nước phong kiến đã đề cao Nho giáo và lấy
tư tưởng Nho giáo làm nền tảng với ý nghĩa vua thi hành nhân nghĩa, kẻ sĩ tu thân,
12


thần dân giữ đạo trung hiếu… để ổn định trật tự xã hợi, giữ nền thái bình thịnh trị
và đã đào tạo đội ngũ quan liêu phục vụ bộ máy cai trị với những chính sách
khuyến học, thơi thúc các nho sinh dùi mài kinh sử để ghi danh bảng vàng, đem

văn chương tô điểm đạo vua, giúp dân tôn chúa, ân trạch khắp cả đương thời. Cho
nên, văn học nghệ thuật thời này chủ yếu nêu cao đức giáo hóa, xây dựng con
người theo mẫu thánh nhân với quy chuẩn và lý tưởng của Nho giáo. Vì vậy,
khơng phải ngẫu nhiên, Nguyễn Trãi đã gắn văn học của mình với ngôn luận của
thánh hiền, với đức nhân nghĩa, với đạo trung hiếu:
Văn chương chép lấy đôi câu thánh
Sự nghiệp tua gìn phải đạo trung
Trừ đợc, trừ tham, trừ bạo ngược
Có nhân, có chí, có anh hùng
(Bảo kính cảnh giới)
Từ TK XVIII đến TK XIX, chèo cổ bước vào giai đoạn phát triển tồn
diện. Những vở Quan Âm Thị Kính, Kim Nham, Tơn Mạnh - Tơn Trọng, Từ
Thức, Lưu Bình - Dương Lễ, Chu Mãi Thần, Trương Viên… đã trở thành mẫu
mực của chèo cổ và thể hiện chân thực, sâu sắc hiện thực xã hội phong kiến đương
thời.
Thông qua những nhân vật trong 7 vở chèo cổ trên, ta thấy mối quan hệ vua
tôi hầu như không được các nghệ sĩ đề cao và long sàng của vua thành long cũi,
tiếng đồn không đến tai vua mà chỉ đến mũi vua, trời không to, vua cũng không
to bằng mẹ đĩ của hề... Còn mối quan hệ cha con, anh em, vợ chồng trong chèo
cổ cho ta thấy: cha không cịn là trụ cợt của gia đình, con khơng cịn là người hiếu
đễ, tuân theo cha đặt đâu con ngồi đấy nữa, vợ khơng tịng phu, anh em khơng
cịn u thương, đùm bọc, che chở cho nhau, mà ích kỷ, tham lam và ăn thịt
nhau…
Nói chung, nghệ thuật chèo cổ đã chỉ ra những điểm hạn chế của đạo Nho,
đạo Phật, đạo Lão và làm cho khán giả nhận thấy: vua không ra vua, thày không
13


ra thày, cha không ra cha, Phật không ra Phật. Đặc biệt, hình ảnh những người
phụ nữ (kể cả chín lẫn lệch) đã trở thành phương tiện phê phán đạo lý cương

thường của nền tảng xã hội phong kiến: cha không dạy được con, chồng không
bảo được vợ, các bậc quan phụ mẫu khơng nói được dân… Tất cả 5 mối quan hệ
giường cột của Nho giáo đã trở thành trị cười của nhân dân.
Chèo là mợt hình thái văn học nghệ thuật dân gian, đã mang trong mình ý
thức phản phong tích cực, nhưng cũng khơng thể dẫn dắt được khán giả tiến tới
một trật tự xã hội văn minh, công bằng hơn và chỉ dừng lại ở tiếng cười châm
biếm vui vẻ trong ngày hội làng mà thôi. Do đó, ở chèo cổ, chỉ có thể đặt nền
móng cho khuynh hướng tư tưởng tiến bộ để làm cơ sở cho giáo hóa đạo đức .

5.1. Chèo thuộc loại sân khấu khuyến giáo đạo đức (đạo đức
phong kiến đã có phần nhân dân - hóa)
Ở xã hợi ta trước đây dường như đã có sự "phân cấp" đề tài giữa Tuồng và
Chèo, mặc dầu cùng trên một nền tảng:
“Trai thời trung hiếu làm đầu
Gái thời tiết hạnh làm câu trau mình.”
Sở trường của tuồng khai thác các chuyện quân quốc đưa ra những tấm
dương quân thần mẫu mực, trong đó, tơi trung kẻ kiếm xung đợt nhau bạo liệt, để
cuối cùng dẫn tới kết thúc "chém nịnh, định đô, tơn vương tức vị". Nếu tiết mục
có đề cập tới mối quan hệ vợ chồng, bè bạn, anh em, tớ thày,...là đều nhằm tạo
thuận lợi cho các phi hậu quan tướng sáng rỡ chữ trung...Là nói loại tuồng Thày
mà khoan nói loại tuồng Ðồ (cịn gọi là tuồng hài).
Chèo lại chủ yếu đi vào các câu chuyện hàng ngày xảy ra nơi thơn dã, hoặc
trong nhà "quan", để nói những mối quan hệ tốt xấu về mẹ chồng nàng dâu, dì
ghẻ con chồng, vợ chồng bè bạn, anh em tớ thày,...Các tích chèo (cổ) thường là
những câu chuyện kể về c̣c đời hoặc mợt qng đời có tác dụng quyết định số
phận nhân vật, trong đó, nhân vật thư sinh (hoặc mợt viên khoa bảng) giữ vai trị
chủ chốt, cầm cân nẩy mực trong gia đình, lấy tam cương ngũ thường làm giường
14



mối, lấy việc học hành thi đỗ làm đường tiến thân; còn người thân của họ (số
nhiều là vợ con, cịn thì là bạn, là con, là mẹ) phải lo nuôi nấng chăm sõc chồng,
con,"sẽ phải gặp" những biến cố xã hội xẩy đến, để bộc lộ tâm trạng và cách ứng
phó hữu hiệu khả dĩ vượt qua cơn khó khăn, làm sao nổi lên những khía cạnh đạo
đức, đúng với yêu cầu đề ra cho tiết mục của tác giả. Số khía cạnh đạo đức này
cũng nằm trong phạm trù tam tòng tứ đức, cụ thể ở chèo là hiếu, nghĩa, tiết, giúp
chồng con họ gắng đạt tới tốt chữ trung quân.
Trong chèo, các thư sinh nói sử xưng danh báo tính, kể "gia thế bần bạc"
rồi hát cách nói lên chí tiến thủ:
“Quyết chí tu thân,
Cơng danh chớ vội, nợ nần chớ lo.
Khi nên Trời giúp công cho,
Làm trai năm liệu bẩy lo, mới hào!”
Họ là những "cột cái" trong gia đình, mà cái việc "quyết chí tu thân" ở đây
chỉ có nghĩa"dùi mài kinh sử" cho đến khi thi đỗ "làm quan", còn mọi việc "nợ
nần ăn ở" những là bảo dưỡng cha mẹ, nuôi chồng đi học, dạy con nên người,ở
nhà, đều"phó mặc" cho vợ tất thảy. Nói cách khác, tích trị sẽ "rơi xuống" những
người thân của họ, nhận chịu các sự biến xã hội xảy đến, làm cơ hội bộc lộ phần
đạo đức quyết định số phận mỗi người.
Như Thị Phương "lược giắt trâm cài", hát sử câu:
“...đạo cha đức mẹ,
con xem bằng non Thái thêm xuân,
Cha vun trồng, mẹ xây đắp nên nhân...”
để qua mấy đận hết than đổ sang vãn, kể về những nỗi khốn khó mà mẹ chồng
nàng dâu gặp phải trên đường "chạy giặc", sau rốt, gói ghém tất cả trong bài hát
Trần tình chứa chan tính nhân bản, làm "quan Thái Tể Trương Viên chuyển động
tâm thần", qùy xuống nhận mẹ, nhận vợ đang phải hát xẩm kiếm ăn cơ cực.

15



Như nàng Châu Long "chẳng quản công phu" "vâng lời chàng đi ni bạn
ăn học", biết kín đáo đoan tiết với chồng:
“Tâm là lớn, ý cũng là lòng
Thiếp xin trở về tiết sạch giá trong.”
nên sau khi Lưu Bình "hữu chí cánh thành', trở về với Dương Lễ vẹn tồn, nổi
tiếng người phụ nữ "dạ sắt gan vàng"...
Như chàng Kim Nhan, vừa nghe Xá Lại báo tin thi đỗ, đã ngẩng cao đầu
dõng dạc nói lối (hơi tuồng) câu nửa Hán nửa Nơm:
“Thiếu niên sơ đăng lệ
Hồng gia đắc ý hồi
Võ mơn tam cấp lãng,
Bình địa nhất thanh lơi.
Tơi, Kim Nham vừa chiếm tam khôi,
Cho bõ lúc thư trung càn khổ...”
Tới khi được vua cho đi trán nhậm một huyệt, chàng ta lại nói lối xưng danh:
“Bảng Thám hoa tay chiếm,
Chức Tri huyện quyết phong
Luật ngôn giả ngôn công,
Thỉnh tụng cầu vơ tụng...”
Và từ đấy, mọi cử chỉ lời nói của "quan", nghệ nhân phải thể hiện sao cho
chững chạc nương theo cung cách diễn tuồng, mới không bị nhà nghề kêu là
"non vốn".
Nói chung, chiếu chèo xưa được đưa ra trước bà con nông dân những
"mẫu" thư sinh lý tưởng, cố công học tập để tiến thân, thi đỗ xuất chính và khi là
"quan" thì xả thân "phục vụ đấng quân vương", cùng với những người vợ hiền
thục, người dâu hiếu nghĩa, dám hy sinh tất cả cho chồng con yên tâm mà dùi
mài kinh sử chiếm bảng khôi khoa làm rạng rỡ tông môn, cả những kẻ thất đức
bất nhân ngãng trở đường đi của họ, hoặc chịu ở vị trí "đối tỷ" cốt làm bật nổi
16



các vai chủ chốt chính diện, nhằm treo gương cho ngườpi đời, hoặc khêu gợi
kích thích ngưỡng mợ cố gắng nói theo, hoặc đem kết cục nhãn tiền chẳng ra gì
để họ răn ngừa, né tránh.
Ðiều đó nói rõ ngay ở lớp giáo đầu mỗi vở, như:
“Tiết nghĩa ai bằng nàng Thi Phương
Thờ chồng nuôi mẹ trọn đôi đường...”
(Chèo Trương Viên)
“Kim Nham có nghĩa lại có nhân
Tiết nghĩa Súy Quỳnh, Súy Vân ...”
(Chèo Kim Nham)
Vì cần đề cao những nhân vật mẫu mực về phẩm chất đạo đức đủ sức
quyết định số phận con người, các tích chèo, đúng ra các bản trị, đều có đầu có
đi, trong đó sự cố biến đưa ra phải làm sao chứng minh chân lý, rằng người
tốt, tức là người giữ đúng lễ nghĩa thánh hiền, người có đạo đức, dầu trước mắt
có chịu bao cực khổ đắng cay, rốt cuộc cũng sẽ đạt tợt đỉnh hạnh phúc (vợ chồng
con cái sống thuận hồ trong mợt gia đình quan lại khá giả ); kẻ xấu sống không
đúng hoặc trái với quy phạm tam cương ngũ thường, tam tịng tứ đức, dẫu có lúc
thoả th no đầy, sau cùng tất bị trừng phạt, sa đoạ, nghèo hèn.
Rõ ràng, trong khi loại trị tơn giáo (Ðức Chúa Ba, Quan Âm trò...) ngợi
ca những gương Phật Thánh cứu dân độ thế hiếu nghĩa với cha mẹ, khơi gợi mọi
người ngưỡng kính noi theo tu nhân tích đức; thì những trị khai thác chuyện
ngồi đời, lại đề cao và biểu dương hết mức những thư sinh lý tưởng và những
thục nữ mẫu mực lấy tam cương ngũ thường, tam tịng tứ đức, cụ thể hố
bằng(trung) hiếu tiết nghĩa, làm thước đo phẩm cách đạo đức nhân vật, làm lẽ
sống đòi hỏi khêu gợi mọi người vươn tới noi theo bắt chước. Ðấy chính là
giường mối đạo đức mà giai tầng phong kiến mong muốn"khai tâm luyện chí"
cho những người lớp giữa và lớp dưới trong cộng đồng, đồng thời cũng là mục
tiêu muốn đạt tới ở các tầng lớp xã hội. Rằng những người ăn ở ứng xử có đạo

17


đức phải được đền bù, đời họ phải đạt được hạnh phúc; từ đấy các tích truyện
khai thác cùng với những tình tiết, sự cố cả diễn xuất, phải cao hơn thực trạng
ngồi đời, những gì mà c̣c sống trước mắt chưa đem lại cho họ thì cần gắng
biến chúng thành điều có thể vươn tới, cả những kẻ sống phi đạo đức và số việc
làm xấu xa tàn độc của họ cũng phải đậm đà và sắc làm nổi rõ mặt chính, để
người xem, cả người diễn thanh thoả tin tưởng hơn vào tương lai, vào chính
c̣c đời và con người hôm nay. Không phải chỉ là chuyện nông dân chịu ảnh
hưởng của tư tưởng thống trị "vơ tình" hay "hữu ý" đưa vào "tác phẩm" của
mình, mà chính là nho sỹ được nhồi học mà tự nguyện nhận lấy "thiên chức"của
người "quân tử" sử dụng bản trò để "tải dạo thánh hiền" để"giáo hoá" những
kể"đần ngu" "dốt nát" bà con lối xóm với họ.
Cũng do đó, ở số vở, số đoạn trò, số nhân vật mà kẻ viết (nho sỹ), người
diễn (nơng dân) cùng đồng tình về mặt nhân sinh triết lý, thì hiệu quả sân khấu
của tiết mục và hình ảng nhân vật sẽ thuần nhất, dễ nổi đậm (như Quan Âm,
Trương Viên, Lưu Bình...) cịn vo số vở, số đoạn trị, số vai đóng mà đơi bên có
nhận thức và cách giải quyết khơng giống nhau, thì kết cấu vở diễn dễ lỏng lẻo,
cái hay cái dở dễ lấn át lẫn nhau làm mờ nhoà hoặc đi trệch chủ đề của tác giả
(như Từ Thức, Chu Mãi Thần,...). Ðủ thấy vai trò nho sỹ trong cấu thành mỗi
tiết mục chèo quan trọng là chừng nào, mặc dù nghệ nhân giữ vai trò trung tâm
trong việc tạo dựng hình tượng nhân vật. Chú ý là, nho sỹ (kẻ sỹ) nước ta tiếp
thu và chịu ảnh hưởng sâu đạm của cả đạo giáo, Phật giáo và Nho giáo. Ðiều đó
tốt ra khá rõ trong các bản trị (cả trong đời tư và việc công của vô số vua quan
thâm nho, như Lê Thánh Tông, Nguyễn Ðăng Cảo, Minh Mạng...)
Thì đấy, trong xã hợi ta, suốt thời phong kiến, những thầy bói, thầy cúng
...vẫn được pháp luật xếp vào hạng "kẻ sỹ". Và trên thực tế, tầng lóp nho sỹ
chưa bao giờ trở thành mợt giai cấp đích thực. Phần đơng họ là con em nơng
dân, sống chan hồ mọi mặt với họ hàng xóm giềng, song do bị hạn chế của thời

đại, họ đã lấy những giường mối nhân sinh đạo đức xã hội của phong kiến, đưa
vào các bản trị, vở diễn để "giáo hố chúng dân". Từ đấy, thông qua nghệ thuật
18


của người diễn, bà con chỉ chấp nhận những gì phù hợp với đà tiến xã hội, với
bản thân cuộc sống của họ mà tùy nghi chấp nhận hay lạnh nhạt.
Chính mục đích khuyến giáo đạo đức (đạo đức phong kiến đã nhiều ít
nhân - dân -hố) đó, là đặc điểm quan trọng, chi phối hầu khắp các mặt nghệ
thuật, từ thể loại thể tài, cấu trúc bản trò đến phương pháp sân khấu, nguyên tắc
kịch thuật, kể cả vô số khuyết nhược điểm và hạn chế nội dung và hình thức của
chèo (cổ).

5.2. Chèo xây dựng thành cơng những nhân vật đại diện cho
quan hệ xã hội bình dân.
Chúng ta đã xác định Chèo như một sân khấu giáo huấn đạo đức, đúng
hơn, như một sân khấu giầu chất đạo đức, mà trước hết là những đạo đức từ
quan niệm Nho giáo, Phật giáo. Chúng ta cũng đã xác định Chèo như một nghệ
thuật, mà cụ thể là nghệ thuật sân khấu, nơi mà nội dung giáo huấn đạo đức
được thể hiện trong các hình tượng nhân vật mà Chèo đã dày cơng xây đắp nên.
Hay nói mợt cách khác thì Chèo đã thực hiện chức năng giáo huấn đạo
đức thơng quanhững hình tượng nhân vật, bằng những hình tượng nhân vật.
Song lẽ, nếu cứ theo cái xu thế, cái cung cách lập luận như trên, thì chẳng
hố ra, tất cả các hình tượng nhân vật của Chèo cổ đều là hiện thân của quan
niệm này hay quan niệm khác, chữ này hay chữ khác của đạo đức quan Nho
giáo, Phật giáo… hay sao. Rất tiếc là, thực tế Chèo lại không như thế. Đúng là di
sản Chèo cổ đã gắn liền với đạo đức quan Nho giáo, Phật giáo, cụ thể là đã nói
tới những hình tượng người phụ nữ được diễn tả trong chữ Hiếu, chữ Tòng,
chữ Nhẫn… Nhưng khốn nỗi, những cái độc đáo, khác lạ của Chèo cổ thì lại
khơng chỉ quy vào mợt chữ Tịngcủa X Vân, hay mợt chữ Hiếu của Thị

Phương, mợt chữ Nhẫncủa Thị Kính, hay mợt chữ Nghĩa của Châu Long. Trong
vở Quan Âm Thị Kính, bên cạnh mợt Thị Kính nhẫn nhục, chịu đựng, chính
chun đến đợ chín, cịn có mợt Thị Mầu lẳng lơ, táo bạo, nổi loạn đến độ lệch.
Trong vở Kim Nham, vào vở Xuý Vân tỏ ra chín chắn khi thực hiện chữ Tịng,
nhưng sau đó, khi phụ Kim Nham mà say đắm Trần Phương, thì cơ nàng X
19


Vân nhà ta đã suy nghĩ khơng chín và hành đợng mợt cách lệch rồi. Cái chất vừa
chín vừa lệch ấy, hay đúng hơn là chín pha lệch ấy… đã làm nên thể chất riêng
biệt của Xuý Vân. Rõ ràng là, bên cạnh những đào chín như Thị Phương, Thị
Kính, Trinh Nguyên, Châu Long, những hiện thân của chữ Tòng, chữ Hiếu,
chữ Nhẫn theo đạo đức quan mà Chèo cổ tơn thờ và truyền giáo, ta cịn thấy lấp
lánh, rất khác lạ là những đào pha, đào lệch… cũng lại là sự hiện thân của mợt
đạo đức quan nào đó mà bây giờ Chèo có xu hướng ngả theo. Mợt cô Thị Mầu
lẳng lơ đến táo bạo và liều lĩnh đến nổi loạn, một cô Xuý Vân đã phá vỡ tung ra
cái bức tường lễ giáo gia đình phong kiến, nó ràng ḅc cơ, nó làm héo hon tuổi
xanh của cơ, rồi dìm chết cơ trong đau khổ, tuyệt vọng và gần như điên loạn…
Chỉ ngun hai cơ đó đã đủ làm cho vấn đề ở đây phức tạp và thú vị hơn rồi. Ta
cần tìm hiểu để xác định xem thái độ của Chèo cổ đối với những nhân vật nữ
lệch, nữ pha này thực sự là như thế nào. Đây là vấn đề mấu chốt phải làm rõ; chỉ
khi xác định được thực chất thái độ của Chèo cổ đối với các cô đào lệch kiểu
như Thị Mầu, đào pha kiểu như Xuý Vân – thì ta mới có thể hiểu được, bây giờ
Chèo cổ đã có mợt đạo đức quan như thế nào, bởi vì xét cho cùng thì cả Thị
Mầu (lệch), cả Xuý Vân (pha) cũng khơng thốt khỏi tầm chi phối của đạo đức
quan mà Chèo cổ chủ trương.
Bây giờ ta xét cô đào lệch đến độ lẳng lơ Thị Mầu. Xét về nguồn gốc xã
hợi thì Thị Mầu là con gái Phú ơng, mợt nhà giầu ở nông thôn. Nhưng giàu là
giàu thế thôi, chứ cô ta vẫn phải lao động như chăn trâu, chăn bị…
Song cái cơ con gái nhà giầu này xét về mặt lao đợng thì có vẻ lười. Cơ ta

bỏ trâu để lên chùa ghẹo trai. Đến khi tiếng đế – đại diện cho dư luận quần
chúng – lưu ý cơ, thì cơ lại nói mợt cách chỏng lỏn là “nhà tao cịn ối bị”. Cơ
lên chùa thấy Thầy Tiểu cổ kiêu ba ngấn lơng mày nét ngang thì mê liền và cái
mê ấy thể hiện ở lời khen lấy khen để của cô “người đâu mà đẹp như sao băng
ấy” để cho đám chị em dân làng phải chế và phê cô là “dơ”. Vậy là vừa mới làm
quen với Thị Mầu thơi, ta đã thấy có vẻ – em xin nhắc lại là có vẻ – các cụ ta
xưa, tức các nghệ sĩ, nghệ nhân Chèo cổ chê cơ Thị Mầu về mặt đạo đức, ít nhất
20


là về đường ăn, nết ở. Các cụ đã diễn tả cơ với cái nết lười lao đợng, ăn nói
chỏng lỏn… và đặc biệt, là cái tính lẳng lơ, như thầy các bạn sẽ thấy cụ thể dưới
đây.
Chúng ta đã biết, vừa lên chùa là cơ Thị Mầu giở trị ghẹo trai ngay lập
tức. Nhưng bây giờ, ta hãy tạm gác chuyện đó lại đã. Ta hãy tìm xem trong văn
học dân gian có dấu vết nào khả dĩ cho một sân khấu rất giầu chất dân gian, hay
đúng hơn là sân khấu dân gian có sự tham gia của các nhà Nho này không. Chắc
bạn đọc không quên câu ca dao miêu tả cảnh:
“Ba cô đội gạo lên chùa
Một cô yếm thắm bỏ bùa cho sư”
Ai cũng thấy rõ rành rành là Thị Mầu lẳng lơ và cũng rõ rành là cái lẳng
lơ ấy được trình bày bằng niềm say mê của cả người viết lẫn người diễn suốt bao
đời và với bao thế hệ càng ngày càng đồng tình hơn là phản đối. Nhìn bề ngồi
thì có vẻ các cụ ta xưa chê cô Thị Mầu ở cái nết đỏng đảnh, chỏng lỏn, ưỡn ẹo
của cô. Nhưng thực chất thì dường như các cụ lại ngầm ý đứng về phía cơ. Chả
thế mà khi thấy cơ, sau mợt trận cuồng phong ghẹo Tiểu thất bại thảm hại, các
cụ đã để cơ nói:
“(Này Thầy Tiểu ơi)
Để em đứng ở cổng chùa
Em gọi Thầy Tiểu chẳng thưa em buồn.”

Ai buồn, người khác buồn thì khơng nói làm gì, đằng này, cơ Thị Mầu
nhà ta mà buồn thì mới lạ, mới thương. Hố ra các cụ ta, ít nhất, cũng có phần
thơng cảm với cơ – Cịn bây giờ, bình tĩnh lại để suy xét, thì ta thấy rằng, mợt cơ
gái như Thị Mầu ít ra cũng có mấy điểm cho là được.
– Thứ nhất: Có mợt tình u bốc lửa.
– Thứ nhì: Dám nói ra, dám phơi bầy ṛt gan mình ra trước mọi người.

21


– Thứ ba: Dám thổ lợ tình u đó trước đối tượng, tức là chủ đợng tấn
cơng – nói như cách nói hiện nay – mà khơng cần biết thái độ của đối phương
thế nào.
– Thứ tư: Bất chấp dư luận xã hội, lễ giáo phong kiến, miễn sao đạt được
dục vọng u đương cháy bỏng đó của mình. Đương nhiên là cơ Thị Mầu cũng
có cái dở – hay đúng như vở Chèo – qua lời đế – đã bảo – cái dơ của cơ. Theo
tơi thì cái dở đó chỉ duy nhất là sự mù quáng; mà đã u đương say đắm và dữ
dợi đến như thế, thì có mù quáng cũng là dễ hiểu, do đó dễ thông cảm, và hơn
nữa, dễ thương mà thôi. Cái mù quáng của Thị Mầu là ở chỗ cô không nhận biết
– đối tượng của mình… Thầy Tiểu mà cơ mê thực ra là Thị Kính giả trai. Sự mù
quáng của Thị Mầu cùng với cơn yêu đương bốc lên dữ dợi và cung cách thể
hiện cơn thèm khát đó đã đẩy cơ đến tình thế của kẻ lao vào mợt việc, mà tất cả
đều thấy là không thể thực hiện được. Do đó, người ta buồn cười cơ Thị Mầu,
chứ khơng ai, hoặc ít ai ghét cơ. Riêng tơi thì tôi phục cô và thương cô, mặc dù
cũng rất buồn cười cho cơ.
Như vậy, xét cả trên hai khía cạnh ý đồ sáng tạo và tiếp nhận nghệ thuật,
chúng ta đều thấy hiện tượng Thị Mầu tuy có vẻ phức tạp, nhưng cũng lý giải
được: Sự nghiêng về, đứng về phía cơ, ta thấy ở cả hai khâu nói ở trên. Đã nói là
nghiêng về, đứng về… thì phải nói cái đạo đức quan nào làm cơ sở cho chỗ
đứng ấy. Ai cũng thấy rằng cô Thị Mầu không phải là hiện thân của tam tịng tứ

đức rồi. Vậy thì cô là hiện thân của đạo đức quan nào đây? Ta có thể xác định và
người ta cũng đã từng xác định cho cơ chữ lẳng. Thế thì các cụ ta xưa, thông qua
Chèo cổ, lại đứng về cái lẳng của cô, lại ca ngợi cái lẳng ấy hay sao? Một sự lý
giải thẳng đuột như thế tất nhiên sẽ phạm sai lầm. Các cụ không hoanh nghênh,
không tán dương cái lẳng ấy, mặc dù có lúc, do khơng kìm nổi bản thân, các cụ
cũng tỏ ra là thú, là thích nó. Tuy nhiên, đó chỉ là cái thích, cái thú xét từ bản
chát nghệ sĩ của các cụ. Còn với tư cách những nhà đạo đức học, các cụ có tỏ ra
ít nhiều khơng hài lịng về cơ, nhưng là sự khơng hài lịng của những người đã
khơng nghiêm khắc lắm, sự không nghiêm khắc này chứng tỏ đạo đức quan của
22


các cụ đã có phần đổi mới, ít nhất nó cũng thống hơn, khi nhìn nhận về đạo đức
người phụ nữ. Bây giờ, cái đạo đức quan dân gian đã xen vào, rất bất ngờ nó lên
ngơi chúa tể trong làng Chèo. Người ta bảo cô Thị Mầu là lẳng lơ, cơ bèn đáp
lại, theo cách nói của văn học dân gian:
“Lẳng lơ thì cũng chẳng mịn
Chính chun cũng chẳng son son để thờ.”
Có hai cách lý giải về cái quan niệm nổi loạn được tóm gọn trong hai câu
lục bát nổi tiếng ở trên và được nói qua mồm Thị Mầu một cách hết sức thuyết
phục và thú vị – Thứ nhất, đó là cách dùng gậy ơng lại đập lưng ông mà văn học
dân gian rất thiện nghệ để phê phán, hơn nữa, bóc trần cái đạo đức giả của đạo
đức quan phong kiến luôn được tuyên ngôn mợt cách rất văn chương, rất có điển
tích của những Nho gia, Đạo gia, Phật gia… đã tha hoá, những kẻ nói mợt đằng,
làm mợt nẻo… mà chúng ta thấy rất rõ ở trị Việc làng. Thứ nhì, mà đây mới là
điều đáng chú ý, nội dung giáo huấn của Chèo đã bị lấn át đi, lu mờ đi bởi nội
dung xã hội và nội dung nhân bản. Nếu chúng ta cứ cố kiết đi tìm cái chức năng
giáo huấn thơng qua hình tượng Thị Mầu, như đã trình bày ở trên thì nhiều khi
ta đã tìm buổi trưa khơng phải giờ Ngọ. Song qua Thị Mầu, ta lại có thể thấy ít
nhất là những dấu vết xã hợi in đậm trong hình tượng nhân vật.

Và điều quan trọng nhất là, một nội dung nhân bản đã tràn ùa vào Chèo,
nó khiến cho cả cái nhà chùa vốn xám ngắt tĩnh mịch, trang nghiêm bỗng sặc sỡ,
sinh động và rộn rã hẳn lên. Cuộc đời và con người đã vào Chèo với bản chất
nhân bản của nó, ở đây là sự khát khao của tình u cùng với nợi dung và ý đồ
giáo huấn đã có từ lâu.
Vậy là cái sức mạnh của nợi dung nhân bản đã có phần lấn lướt cái ý đồ
giáo huấn của Chèo. Thế thì ta hãy tạm gác cái ý đồ giáo huấn ấy sang một bên,
để dõi theo hành động rất bản năng, rất nhân bản của Thị Mầu, cô gái con nhà
phú ông thừa lẳng lơ, nhưng lại thiếu học thức ấy. Lên chùa, cô dùng mọi cách
để cầm, để nắm bằng được tay Thầy Tiểu. Sự mù quáng của cô được đấy lên cao
điểm khi cơ nắm chính tay mình, mà cứ ngỡ rằng, đó là tay người mình thích.
23


Thị Mầu như là người trong mơ (hoá ra ai cũng thế thơi, khi đã chìm vào u
đương thì cứ như người trong mơ ấy). Đến khi tỉnh ra, tức là nhận ra rằng, mình
đã bị bỏ trơ lại mợt mình… thì Thị Mầu, bẽ bàng. Nếu như ở mợt cơ gái khác,
mợt cơ gái có học, hoặc chín chắn hơn, thì sự bẽ bàng này sẽ cịn hành hạ đeo
đuổi cô ta rất lâu. Nhưng đằng này, chỉ sau mợt phút, Thị Mầu bèn nhận
biết ngay, bèn tìm ra ngay cho mình mợt lối thốt. Nếu trước kia, khi tấn cơng
Thẩy Tiểu, cơ định nhìn xa, với cao… và nâng mình lên tầm cao xa đó, cơ ăn
nói cũng có lúc văn hoa đáo để (như ở đoạn trích ngót 10 lần cơ gọi Thầy Tiểu ở
trên, các bạn đã đọc), thì bây giờ, cơ mới tỉnh địn mà quay về với gần, thấp
ngay bên mình, cạnh mình, ngang mình, hoặc đúng hơn là dưới tầm mình. Bây
giờ Thị Mầu tuôn ra một tràng những ngôn từ thấp, sát như thài lài,rau rệu, bờ
ao… cho sự khởi đầu nổi loạn của mình. Và cũng rất nhạy bén, mợt thứ nhạy
bén của mợt cơ gái đang tuổi địi hỏi xác thịt, cô phát hiện ra cái chân lý rất gần
cận với cô, hợp với nhận thức của cô: Ta về ta tắm ao ta; và lập tức Thị Mầu dụ
Nô vào c̣c ăn nằm, mà nói theo cách nói của đại thi hào Nguyễn Du là cho lăn
lóc đá, cho mê mẩn đời.

Nô: Xay lúa, giã gạo cô chọn việc nào?
Mầu: Giã gạo, ta chọn giã gạo…
Nô: Cô về giã gạo ba giăng…
Và kết quả của việc ăn nằm này là, Thị Mầu hoang thai. Và sự kiện tầy
đình hoang thai này đã dẫn tới Việc làng xử án Thị Mầu, mợt trị diễn đầy nợi
dung xã hợi, cụ thể là nội dung phê phán xã hội, chúng ta theo dõi những hành
đợng và lời nói của Thị Mầu, khi cơ đối diện với pháp luật và quan tồ xã thôn
Việt Nam, nơi cô sinh ra, lớn lên và khát khao tìm kiếm hạnh phúc cho mình,
nơi cơ loanh quanh, luẩn quẩn, bùng nhùng trong c̣c kiếm tìm đó mà chẳng hề
tìm thấy. Thử hỏi, trong đời này có gì khổ hơn là yêu mà chẳng được yêu, để
đến nỗi đẩy cô đến chỗ phá phách, nổi loạn. Sau cuộc ghẹo Thầy Tiểu không
thành, cô Thị Mầu bèn làm lung tung lên. Cô phá phách, đập chuông, đập mõ
nhà chùa, cô điên cuồng kéo Nô, một người đầy tớ vào c̣c ăn nằm cho nó bõ,
24


nó hả – y như thể là mợt sự trả đũa mơ hồ nào đó đối với Thầy Tiểu. Và khi
ra Việc làng, đối mặt với những vị tai to mặt lớn, chức sắc, có học đứng đầu
làng xã, những con người đã hư hỏng về đạo đức, lại rất bẩn trong tính nết, đặc
biệt là trên hai phương diện ăn và gái, những lão già sắp kề miệng lỗ lại còn đui
mù, điếc lác mà ra sức khai thác những gì liên quan đến chuyện ăn nằm và kết
quả của sự ăn nằm đó, khai thác những gì dính líu liên quan đến chuyện đó, lại
cịn lên giọng đạo đức giả (làng ta nay lệnh nghiêm phép cấm, cớ sao cịn giở
thói dâm phong) thì cơ bèn dùng biện pháp trâu lấm vấy càn, lấy gậy ông đập
lưng ông: Ta hãy xem một đoạn:
Thị Mầu: (Đổ cho cả làng) Tôi nằm với ông này, ông này…
Đồ Điếc, Hương Câm, Thầy Mù, Xã Trưởng khơng vị nào thốt khỏi địn
giáng của Thị Mầu, Hương Câm bị đổ vấy ú ớ vạch trời kêu oan.
Xã Trưởng: Mày chỉ láo, mày thấy ơng ấy khơng nói được thì mày đổ
liều. Con này ra trâu lấm vấy càn, ta khơng trị đi, thì nay người này chửa được,

mai người kia cũng chửa được, rồi đến cả bà ấy nhà ơng, hay bà nó nhà tơi chửa
ra thì sao.
Đó là tất cả những gì Thị Mầu có thể làm được đối với cái xã hợi làng xã
lạc hậu nó hành hạ cơ, lợi dụng cơ. Cịn đối với Thầy Tiểu thì sao? Thật tợi
nghiệp cho cả hai con người này. Thị Kính – Tiểu bị gọi ra hầu làng và bị đòn.
Nàng vẫn câm lặng, vẫn nhẫn chịu, và cái chữ oan, chữ nhẫn nó là hai chữ vận
vào suốt c̣c đời nàng, chỉ trừ khi nàng lìa bỏ c̣c đời này để bước sang thế
giới bên kia… thì nàng mới được giải thốt. Thị Mầu thì vẫn mù qng, mợt sự
mù qng do tình yêu hồn nhiên, chân thật tạo nên.
Mầu: Thầy Tiểu ơi
Sự sau bia lẽ chối được nào
Mới ăn trầu bữa nọ, lâu đâu, mà chối
Thơi, đã trót vậy thì cứ nhận đi, rồi làng cho đồn tụ, vợ chồng mình
lại được ăn ở với nhau.
25


×