Tải bản đầy đủ (.docx) (14 trang)

Ý thức pháp luật, khái niệm, cơ cấu (các cấp độ) của ý thức pháp luật, tư tưởng pháp luật và tâm lý pháp luật.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (76.22 KB, 14 trang )

MỤC LỤC


Đề tài : Ý thức pháp luật, khái niệm, cơ cấu (các cấp độ) của ý thức pháp luật,
tư tưởng pháp luật và tâm lý pháp luật.
PHẦN MỞ ĐẦU
Trong đời sống xã hội, khơng có yếu tố nào của q trình điều chỉnh pháp
luật lại khơng có mối liên hệ hoặc thiếu đi sự ảnh hưởng, chi phối của ý thức pháp
luật. Thực tế trong sự tồn tại, phát huy vai trị của mỗi yếu tố với mức độ ít hoặc
nhiều, trực tiếp hoặc gián tiếp đều có dấu ấn của ý thức pháp luật. Do đó, cùng với
các ngành khoa học khác, ý thức pháp luật là một phạm trù thuộc đối tượng nghiên
cứu quan trọng của khoa học pháp lí. Việc nghiên cứu ý thức pháp luật khơng đơn
thuần chỉ để nhận thức lí luận mà có giá trị thực tiễn trên các mặt của đời sống xã
hội. Đặc biệt, với yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền, xã hội cơng dân coi
trọng tính thượng tơn pháp luật thì việc kiến giải đó càng có ý nghĩa thiết thực. Tuy
nhiên, việc tiếp cận, xem xét ý thức pháp luật nếu bỏ qua việc làm sáng tỏ đặc tính,
cơ sở nguồn cội và bản chất của hiện tượng này thì thiếu đi tính tồn diện, sự thấu
đáo về phương diện nhận thức. Hơn nữa, điều đó cũng sẽ đem lại những khó khăn
nhất định khi xem xét ý thức pháp luật trong mối quan hệ đa chiều với các yếu tố
khác ở các hình thái kinh tế xã hội khác nhau.
Theo đó, dưới góc độ triết học phạm trù ý thức nói chung thuộc lĩnh vực đời sống
tinh thần và ý thức pháp luật là một hình thái của ý thức xã hội. Như vậy, ý thức
pháp luật là hiện tượng có đời sống thực tế gắn kết chặt chẽ với đời sống của nhà
nước và sự cộng sinh của pháp luật. Tương tự như các hình thái ý thức xã hội khác,
ý thức pháp luật là phạm trù chủ quan, vơ hình, do đó, việc nhận diện nó chủ yếu
cảm quan qua các yếu tố khác của đời sống pháp lí.


PHẦN NỘI DUNG
I . Khái niệm, cơ cấu (các cấp độ) của ý thức pháp luật.
1.Khái niệm, vai trò của ý thức pháp luật.


a)Khái niệm.
Ý thức pháp luật là tổng thể những học thuyết, tư tưởng, quan điểm, quan
niệm, thái độ, tình cảm của con người đối với pháp luật và các hiện tượng pháp lí
khác, thể hiện mối quan hệ giữa con người đối với pháp luật (pháp luật đã qua,
pháp luật hiện hành và pháp luật cần phải có) và sự đánh giả về mức độ cơng bằng,
bình đẳng; tính hợp pháp hay khơng hợp pháp... đổi với các hành vi, lợi ích hoặc
quan hệ từ thực tiễn đời sống pháp lí và xã hội.
Ý thức pháp luật luôn chịu sự tác động đa chiều của nhiều yếu tố như nền
tảng kinh tế, kết cấu xã hội, tương quan so sánh lực lượng, quan điểm, tư tưởng của
lực lượng cầm quyền, xu thế thời đại... Trong đời sống pháp lí, ý thức pháp luật là
nhân tố đóng vai trị quyết định chi phối trực tiếp đến tính chất, hiệu quả thực tế
của các hoạt động pháp lí.
Có nhiều tiêu chí phân loại ý thức pháp luật như: Dựa theo chủ thế có ý thức pháp
luật của cá nhân, ý thức pháp luật nhóm, ý thức pháp luật xã hội.
b)Vai trò.
Vai trò của ý thức pháp luật đối với hoạt động xây dựng, hồn thiện hệ thống pháp
luật.
Vai trị của ý thức pháp luật đối với xây dựng pháp luật thể hiện ở các góc độ:
Góp phần nhận thức thấu đáo, đầy đủ đối với chính sách pháp luật và các yêu
cầu của việc điều chỉnh pháp luật.
Nâng cao khả năng thực hiện việc quy phạm hoá các nội dung điều chỉnh
pháp luật và xác định các chuẩn mực pháp lí phù hợp với điều kiện, hồn cảnh thực
tế.
Bảo đảm cho việc xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật đúng quy trình kĩ
thuật pháp lí, hạn chế được tình trạng chồng chéo, mâu thuẫn, phủ định lẫn nhau
trên thực tế.


Bảo đảm hiệu quả, chất lượng hoạt động hệ thống hoá pháp luật đặc biệt hoạt
động pháp điển quy phạm pháp luật trên thực tế.

Vai trò của ý thức pháp luật đối với việc thực hiện pháp luật, xây dựng lối sống
theo pháp luật chỉ có thể được hình thành trên một nền tảng ý thức, nhận thức cao
về các yêu cầu của pháp luật và một thái độ tôn trọng thực thi pháp luật của mọi
chủ thể trong xã hội. Hình thành một lối sống theo pháp luật trước hết và quan
trọng nhất là ý thức pháp luật của mỗi người. Vai trò của ý thức pháp luật trong
việc xây dựng lối sống theo pháp luật thể hiện thông qua việc:
Tiếp nhận chọn lọc lối sống công nghiệp, hiện đại phù hợp với bản sắc dân
tộc; hiểu biết, tôn trọng và sử dụng pháp luật làm thước đo khi tham gia quan hệ và
các hoạt động pháp lí.
Loại trừ lối sống theo đạo đức, phong tục tập quán... Hạn chế, xoá bỏ các
quan niệm, phong tục, tập quán lạc hậu cản trở, làm giảm thiểu hiệu quả thực thi
pháp luật, phủ nhận các giá trị pháp lí tích cực.
Khơng khoan nhượng đối với hiện tượng vi phạm pháp luật; tích cực đấu
tranh chống vi phạm pháp luật dựa trên ngun tắc pháp chế thống nhất và sự cơng
bằng, bình đẳng về trách nhiệm đối với xã hội...
Vai trò của ý thức pháp luật đối với sự phát triển nền kinh tế thị trường, hội nhập và
tồn cầu hố
Ngày nay, kinh tế thị trường là mơ hình mà mọi quốc gia lựa chọn để cùng
hội nhập và phát triển với nền kinh tế thế giới. Nhìn chung, vai trị của ý thức pháp
luật đối với sự phát triển nền kinh tế thị trường, hội nhập và tồn cầu hố thể hiện
trên ba góc độ cơ bản:
Ý thức pháp luật là nền tảng để xây dựng pháp luật, tạo lập khung pháp lí
thiết yếu đối với nền kinh tế thị trường, hội nhập và tồn cầu hố; pháp lí hố các
ngun tắc, giá trị, yêu cầu, mục đích căn bản của kinh tế thị trường.


Ý thức pháp luật là tiền đề cho việc thúc đẩy sự vận động, phát triển của các
quan hệ kinh tế được lành mạnh, hợp pháp, giảm thiểu các rủi ro, phòng tránh các
căn bệnh của kinh tế thị trường, bảo vệ sự an toàn của đời sống kinh tế.
Ý thức pháp luật là cơ sở nhận thức cho việc tiếp nhận các kinh nghiệm, thực

tiễn pháp lí điều chỉnh quan hệ với yêu cầu đa dạng hoá, đa phương hoá, thị trường
hoá nền kinh tế thế giới.
2 . Phân loại cơ cấu (các cấp độ) của ý thức pháp luật.
Dựa theo tính chất, mức độ nhận thức có ý thức pháp luật thơng thường, ý
thức pháp luật mang tính lí luận, ý thức pháp luật nghề nghiệp (cịn gọi là ý thức
pháp luật chuyên ngành).
Ý thức pháp luật thông thường (hay còn gọi là ý thức pháp luật phổ thông) là
những quan niệm, sự hiểu biết và thái độ, tình cảm của con người được hình thành
từ mức độ nhận thức cơ bản đối với các quy định pháp luật cũng như các hiện
tượng pháp lí thường nhật xảy ra trong đời sống xã hội. Ý thức pháp luật thơng
thường có tính sinh động, cụ thể phản ánh tư duy, cảm quan trực tiếp đối với các
hiện tượng thực tiễn. Nó khơng phản ánh tính hệ thống, chiều sâu của nhận thức và
khơng hình thành nên cơ sở lí luận chuyên biệt về đối tượng và sự tác động điều
chỉnh.
Ý thức pháp luật mang tính lí luận là phạm trù, cấp độ ý thức bậc cao trong
nền tảng ý thức xã hội, được thể hiện dưới dạng các học thuyết, quan điểm, trường
phái về pháp luật, điều chỉnh pháp luật. Đó là hệ thống lí luận mang tính khái quát
hóa, khoa học và được trải nghiệm từ thực tiễn đời sống xã hội. Ý thức pháp luật
mang tính lí luận là cơ sở, nền tảng nhận thức chỉ đạo quá trình xây dựng pháp luật,
điều chỉnh pháp luật, giáo dục và đào tạo pháp luật, tổ chức thực hiện và bảo vệ các
giá trị của pháp luật trên thực tế.


Ý thức pháp luật nghề nghiệp (còn gọi là ý thức pháp luật chuyên ngành) là
phạm trù ý thức chuyên sâu gắn với thực tiễn nghề nghiệp liên quan đến việc sử
dụng cơng cụ pháp luật. Xuất phát từ tính đa dạng về đối tượng điều chỉnh của
pháp luật và thực tiễn hoạt động pháp lí trên nhiều lĩnh vực đã hình thành nên
những mặt ý thức pháp luật có tính chuyên biệt, đặc thù gắn với từng lĩnh vực cụ
thể. Theo đó, nhiều loại chủ thể có ý thức pháp luật chuyên nghiệp bảo đảm việc
thực thi các hoạt động pháp luật trên thực tế như xây dựng pháp luật, tổ chức thực

hiện pháp luật, đào tạo, nghiên cứu pháp luật hoặc hành nghề dịch vụ trực tiếp bào
chữa, trợ giúp pháp lí, tư vấn pháp luật như luật sư, luật gia, công chứng viên, tư
vấn... Đặc biệt, đội ngũ các chức danh nghề luật hoạt động trong các cơ quan bảo
vệ pháp luật như thẩm phán, công tố viên, điều tra viên, thanh tra viên, thẩm định
viên, giám định viên... đòi hỏi và phải thể hiện năng lực và ý thức pháp luật chuyên
nghiệp rất cao ưong quá trình thực thi cơng vụ. Theo đỏ, trong lĩnh vực ý thức pháp
luật nghề nghiệp có một số chủ thể là chuyên gia với ý thức pháp luật chuyên môn
sâu đã đóng góp vai trị quan trọng trong giải quyết những vấn đề đặc thù, phức tạp
của thực tiễn pháp lí.


Ý thức pháp luật cá nhân

Ý thức pháp luật cá nhân là quan niệm, sự hiểu biết và tình cảm, thái độ của cá
nhân con người đối với pháp luật và các hoạt động thực tiễn pháp lí. Ý thức pháp
luật cá nhân phản ánh đặc điểm nhân cách cá nhân và điều kiện tồn tại của mỗi
người do đó thường mang tính chủ quan, phiến diện. Điều này cũng có nghĩa là
khoảng cách và sự khác biệt nhất định về ý thức pháp luật giữa các cá nhân công
dân trong xã hội ln tồn tại và rất khó đem lại sự tương đồng. Tuy nhiên, ý thức
pháp luật của cá nhân là cơ sở tạo lập ý thức pháp luật xã hội. Việc giáo dục pháp
luật, nâng cao ý thức pháp luật nói chung chỉ có hiệu quả thực sự khi giải quyết
được một cách căn bản những vấn đề thuộc về điều kiện tồn tại và ý thức của mỗi
cá nhân.




Ý thức pháp luật nhóm (nhóm người)

Tập hợp những cá nhân với sự liên kết theo những mục đích cụ thể tạo nên nhóm

người có sự đồng điệu về lối sống, sự hiểu biết và phương thức ứng xử. Chẳng hạn,
những nhóm người được hình thành từ sở thích, độ tuổi, chính kiến, quan niệm, lối
sống... Chính vì vậy, nhóm người cũng có các quan niệm, cách tiếp cận, thái độ tình
cảm, sự đánh giá đối với pháp luật và thực tiễn pháp lí khá tương đồng. Tuy nhiên,
do tổ chức, cấu trúc nhóm nhìn chung khá lỏng lẻo và nhất thời nên việc nhận diện
ý thóc pháp luật theo nhóm ít phục vụ cho việc giải quyết vấn đề của thực tiễn điều
chỉnh pháp luật.


Ý thức pháp luật xã hội

Xã hội là một thiết chế mang tính cộng đồng của con người. Phạm trù ý thức pháp
luật xã hội được hiểu với nghĩa rộng là tổng thể những quan điểm, quan niệm, hệ
thống tri thức về pháp luật và thái độ, tình cảm, sự đánh giá của cộng đồng các
thành viên trong xã hội đối với các lĩnh vực của đời sống pháp lí. Ý thức pháp luật
xã hội là yếu tố phản ánh điều kiện tồn tại xã hội, các đảm bảo của nhà nước,
khuynh hướng định chế, điều chỉnh pháp luật cũng như trạng thái, trình độ văn hóa
pháp lí của một quốc gia, dân tộc. Mặt khác, ý thức pháp luật xã hội cũng mang
tính phản biện, lên án đối với những khuynh hướng pháp luật không phù hợp, thái
độ thờ ơ, coi thường pháp luật hoặc những hoạt động pháp lí làm phương hại
quyền, lợi ích con người, xã hội. Trong xã hội hiện đại, bảo vệ những giá trị nhân
quyền, bảo đảm chủ quyền nhân dân, tôn trọng thực thi pháp luật là những yếu tố
cốt lõi luôn hàm chứa trong nội dung của ý thức phảp luật.
3 . Đặc điểm của ý thức pháp luật.
Dưới góc độ tổng quan, việc nghiên cứu ý thức pháp luật có thể rút ra những điểm
cơ bản sau:


Cũng như mọi hình thái ý thức xã hội khác, ý thức pháp luật do tồn tại xã hội
quy định. Mặc dù vậy, ý thức pháp luật có tính độc lập tương đối với tồn tại xã hội.

Nó phản ánh điều kiện tồn tại xã hội và là cơ sở nhận thức để cải tạo, phục Vụ xã
hội của con người. Gắn liền với sự vận động và phát triển của xã hội, ý thức pháp
luật tác động trở lại đối với tồn tại xã hội theo những chiều hướng khác nhau.
Ý thức pháp luật mang tính giai cấp. Khơng có ý thức pháp luật thuần túy,
ngồi giai cấp, phi giai cấp. Suy cho cùng, ý thức pháp luật chính là sản phẩm từng
giai cấp trong sự phát triển của lịch sử xã hội. Nó là tiền đề để xây dựng các giá trị,
chuẩn mực pháp lí của từng giai cấp đối với xã hội, là cơ sở để hình thành thế giới
quan pháp lí chính thống trong xã hội. Trong xã hội có giai cấp, sự khác nhau về
điều kiện sinh hoạt vật chất, tinh thần của mỗi giai cấp, tầng lớp xã hội đã đem lại
sự khác nhau nhất định về ý thức pháp luật giữa các giai cấp và các lực lượng cầm
quyền.
Ý thức pháp luật được coi là tiền đề thiết yếu cho quá trình để tạo lập hay
làm ra pháp luật bằng những con đường, cách thức cụ thể khác nhau thông qua nhà
nước. Nhu cầu, khuynh hướng điều chỉnh và phương thức thể hiện nhà nước bảo
đảm cho q trình pháp luật hóa quan hệ xã hội một cách phù hợp, sát thực trên
thực tế được thực hiện qua phạm trù ý thức pháp luật.
Trong quá trình vận động và phát triển, ý thức pháp luật có tính kế thừa trên
cơ sở chọn lọc đối với một số nhân tố của ý thức pháp luật trước đó, chẳng hạn như
các ngun lí, học thuyết của pháp luật hoặc các tư tưởng, giá trị pháp lí ghi nhận
về quyền con người...
Trong ý thức pháp luật có bộ phận tư tưởng khoa học về pháp luật có thể
vượt lên trước tồn tại xã hội. Đối với hệ tư tưởng pháp luật thì tri thức khoa học là
yếu tố cơ bản bởi nó có thể đem lại sự nhìn nhận khách quan đối với tồn tại xã hội.
'Trong những điều kiện nhất định, tư tưởng khoa học có tính dẫn đường, đi trước
đối với tồn tại xã hội. Điều này không đơn thuần khẳng định sự độc lập tương đối
của ý thức pháp luật so với tồn tại xã hội mà nó là tiền đề tư tưởng - pháp lí trực


tiếp góp phần phục vụ cho q trình điều chỉnh pháp luật và công cuộc cải tạo xã
hội trên thực tế.

Ý thức pháp luật có quan hệ và sự tác động qua lại với các hình thái ý thức
xã hội khác cũng như các hiện tượng khác của thượng tầng pháp lí. Nhìn chung, sự
tác động của ý thức pháp luật với ý thức chính trị, ý thức đạo đức, ý thức tôn giáo...
luôn thể hiện ở sự đan xen, tương hỗ lẫn nhau trong quá trình tồn tại và vận động.
Sẽ là sự tác động tích cực nếu có sự phù hợp giữa ý thức pháp luật với các loại hình
ý thức đó và ngược lại, đó sẽ là nhân tố cản trở lẫn nhau nếu giữa các phạm trù ý
thức đó thiếu đi sự tương đồng cần thiết.
Có thể nói, ý thức chính trị và ý thức pháp luật không chỉ cùng xuất hiện và
đồng hành tồn tại trong mơi trường xã hội có giai cấp mà giữa nó có sự gắn bó,
tương tác với nhau. Thực tiễn nhận thức cũng đã từng có quan niệm sai lầm dẫn
đến mặc nhiên nhất thể hoá hai hiện tượng ý thức này, coi ý thức pháp luật là một
phần của ý thức chính trị và giáo dục chính trị đồng nghĩa vớì giáo dục pháp luật. Ý
thức pháp luật và ý thức chính trị đều coi trọng, sử dụng cơng cụ pháp luật để thể
hiện các yêu cầu, nội dung của mình trong đời sống thực tiễn, đời sống chính trị pháp lí. Nếu như ý thức chính trị là quan niệm, học thuyết, quan điểm về chính trị
của giai cấp cầm quyền có vai trị định hướng cho ý thức pháp luật trong xây dựng
và tổ chức thực thi pháp luật thì ý thức pháp luật sẽ làm sâu sắc hơn việc chuyển
tải, thể hiện các nội dung phạm trù của ý thức chính trị thơng qua chế định pháp
luật.
Ý thức đạo đức là loại hình ý thức xuất hiện sớm nhất cùng với xã hội con
người. Đó là những phạm trù, ngun lí cho việc hình thành hệ thống chuẩn mực
đạo đức được lưu truyền, phổ biến để quản lí xã hội. Ý thức pháp luật xuất hiện
muộn hơn nhưng có quan hệ chặt chẽ với ý thức đạo đức bởi cả hai phạm trù ý thức
này đều có vai trị tiền đề nhận thức cho việc hình thành các cơng cụ quản lí xã hội
thiết yếu là đạo đức và pháp luật. Trên- thực tế, sự hài hoà và tác động qua lại lẫn
nhau giữa đạo đức và pháp luật toong quá trình điều chỉnh các quan hệ xã hội chỉ


có thể được đặt ra trên nền tảng sự thống nhất tương đối giữa ý thức đạo đức và ý
thức pháp luật.
Thực tiễn lịch sử cho thấy, các quan niệm về tơn giáo xuất hiện từ thời kì xã

hội ngun thủy. Đó là ý thức sơ khai về niềm tin có một sự chở che của thần linh
với con người. Cùng với sự phát triển, ý thức tôn giáo cũng có đổi thay ít nhiều về
khuynh hướng, nội dung nhưng nhìn chung xét về bản chất nó phục thiện, vị nhân.
Giữa ý thức pháp luật và ý thức tôn giáo đều hướng tới sự hoàn thiện nhân cách con
người, điều chỉnh hành vi con người và đều thể hiện nội dung, ý chí của mình bằng
hệ thống quy tắc, chuẩn mực trên thực tế. Như vậy, ý thức pháp luật là nền tảng cho
hệ thống pháp luật thực định thì ý thức tôn giáo là nền tảng cho các quy tắc của các
tôn giáo.
4. Cấu trúc của ý thức pháp luật.
Ý thức pháp luật, xét về cấu trúc, bao gồm hai bộ phận:
Tư tưởng pháp luật, đó là tổng thể những quan điểm, quan niệm, học thuyết,
sự hiểu biết về pháp luật;
Tâm lí pháp luật, đó là thái độ, tình cảm của con người đối với pháp luật.
Tình cảm đó có thể là sự đồng tình, sự vui mừng phấn khởi, sự tôn trọng pháp luật
hoặc là sự phản đối, sự thờ ơ, thiếu tôn trọng pháp luật. Ý thức pháp luật có thể
hiểu trên nhiều cấp độ khác nhau, vì vậy có thể phân chia ý thức pháp luật thành
các loại: ý thức pháp luật cá nhân, ý thức pháp luật giai cấp, ý thức pháp luật xã
hội. Trong các nhà nước bóc lột, ý thức pháp luật của giai cấp thống trị và giai cấp
bị thống trị hoàn toàn khác nhau. Do nhiều quy định của pháp luật chỉ thể hiện ý
chí và bảo vệ quyền lợi của giai cấp thống trị mà không bảo vệ quyền lợi của giai
cấp bị thống trị nên một đạo luật được giai cấp thống trị ủng hộ lại gặp phải sự
phản đối quyết liệt từ phía giai cấp bị thống trị. Trong các nhà nước dân chủ, tiến
bộ khi pháp luật thể hiện ý chí chung của nhân dân thì ý thức pháp luật trong xã hội
sẽ thống nhất, việc nâng cao ý thức pháp luật cho các tầng lớp nhân dân sẽ thuận
lợi hơn. Ý thức pháp luật là một hình thái ý thức xã hội, chịu sự chỉ phối của tổn tại


xã hội. Vì vậy, muốn nâng cao ý thức pháp luật cho nhân dân, trước hết phải chăm
lo đến đời sống của nhân dân, làm cho đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân
ngày một nâng cao. Xây dựng một xã hội dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng

dân chủ, văn minh là tạo ra một nền tảng kinh tế-xã hội để xây dựng một xã hội có
ý thức pháp luật và văn hố pháp lí cao. Mặt khác, ý thức pháp luật có tính độc lập
tương đối, nó có thể đi trước làm tiền để cho kinh tế-xã hội phát triển. Vì vậy, việc
tuyên truyền giáo dục pháp luật cho các tầng lớp nhân dân trong xã hội, nâng cao ý
thức pháp luật cho nhân dân có vai trị quan trọng trong q trình cơng nghiệp hoá,
hiện đại hoá đất nước, thúc đẩy nền kinh tế - xã hội phát triển.
II. Phân tích tác động của ý thức pháp luật đối với tư tưởng pháp luật và tâm
lí pháp luật.
Pháp luật trong sự hình thành, tồn tại và phát huy giá trị của mình ln chịu
sự tác động của ý thức pháp luật. Ngược lại, pháp luật cũng tác động đến sự vận
động, phát triển của ý thức pháp luật. Khi điều kiện kinh tế, xã hội thay đổi, trong
xã hội xuất hiện các quan hệ xã hội mới, tương đối đa dạng, phức tạp mà các quy
tắc đạo đức, phong tục tập quán... không điều chỉnh hết hoặc điều chỉnh khơng có
hiệu quả hoặc khơng thể điều chỉnh được. Trong điều kiện đó, nhà nước xuất hiện,
để tổ chức, quản lí đời sống xã hội phức tạp đó, nhà nước từng bước làm xuất hiện
một loại quy tắc ứng xử mới, đó chính là pháp luật. Thơng qua nhà nước, pháp luật
hình thành bằng các con đường, một là, nhà nước thừa nhận các quy tắc xử sự có
sẵn trong xã hội nhưng phù họp với ý chí của nhà nước, nâng chúng lên thành pháp
luật; hai là, nhà nước thừa nhận cách giải quyết các vụ việc cụ thể trong thực tế, sử
dụng làm khn mẫu để giải quyết các vụ việc khác có tính tương tự; ba là, nhà
nước đặt ra các quy tắc xử sự mới
Xét từ góc độ chung, sự tồn tại của hệ thống pháp luật bằng nhiều cách sẽ tác
động trực tiếp hoặc gián tiếp lên nhận thức của các chủ thể, do đó nó trở thành nhân
tố, phương tiện thúc đẩy sự phát triển của ý thức pháp luật trên thực tế. Điều này
cũng có thể lí giải thêm bởi chính pháp luật là “nguồn”, bộ phận cơ bản để tạo nên


nội dung của hệ tư tưởng pháp luật cũng như định hướng tâm lí pháp luật đối với
các chủ thể. Như vậy, hệ thống pháp luật hoàn chỉnh, khách quan sẽ là điều kiện
thiết yếu cho việc nâng cao ý thức pháp luật trên thực tế.

Xét từ góc độ thực tế, cụ thể, pháp luật hồn tồn khơng có khả năng tự tác
động vào ý thức của con người mà nó được chuyển hố thơng qua chính q trình
nhận thức của con người. Như vậy, khi cá nhân con người có năng lực nhận thức, ý
thức và sự hiểu biết pháp luật tốt thì sự tác động của các quy định pháp luật lên ý
thức của họ diễn ra theo chiều hướng thuận lợi và khả năng đem lại hiệu quả cao.
Ngược lại, đối với người năng lực nhận thức và ý thức pháp luật thấp kém thì sự tác
động của pháp luật lại diễn ra hạn chế, kém hiệu quả.


PHẦN KẾT LUẬN
Sự tác động qua lại giữa ý thức pháp luật đối với các bộ phận khác của kiến
trúc thượng tầng pháp lí như nhà nước, pháp luật ln là sự tương tác cơ bản và có
ý nghĩa quan trọng nhất. Ý thức pháp luật chi phối trực tiếp việc hình thành hệ
thống cơ quan nhà nước và quá trình thực thi quyền lực nhà nước. Ý thức pháp luật
là nhân tố tiền đề cho việc xây dựng pháp luật, tổ chức thực hiện pháp luật và bảo
vệ pháp luật. Ngồi những đặc điểm chung nói trên, ý thức pháp luật xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam có những nét đặc thù riêng như xã hội Việt Nam không trải qua
giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa nên phải tích cực, tìm hiểu, nghiên cứu và có
thái độ cầu thị để có thể tiếp thu những tinh hoa của pháp luật và hạn chế được mặt
trái của nền kinh tế thị trường. Đồng thời, Việt Nam là một đất nước có nền văn
hiến từ lâu đời, đó là nền văn hiến của một xã hội coi trọng các quy tắc đạo đức và
học vấn, coi trọng phẩm hạnh con người. Nhân, lễ, nghĩa, trí, tín đó là bản sắc văn
hố được tơi luyện hàng nghìn năm của người Việt Nam. Nhờ bản sắc này trong
thời đại mới, với sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, với chủ nghĩa Mác - Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh và sự tiếp thu những tỉnh hoa văn hoá của nhân loại, chúng
ta có thể xây dựng một xã hội có ý thức pháp luật cao.


TÀI LIỆU THAM KHẢO



Đảng Cộng Sản Việt Nam (1994), Văn kiện Hội nghị đại biểu tồn quốc giữa



nhiệm kì khố VII, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
Bộ Giáo dục & Đào tạo (2006), Giáo dục công dân 10,11,12, Nhà xuất bản Giáo



dục, Hà Nội.
Đảng Cộng Sản Việt Nam (2003), Chỉ thị về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng
trong công tác phổ biến, giáo dục pháp luật, nâng cao ý thức chấp hành pháp luật




của cán bộ và nhân dân, Hà Nội
C.Mác Ph.Ăngghen, Toàn tập,T.1 (1995), Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
C.Mác Ph.Ăngghen, Tồn tập,T.1 (1995), Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội.



×