Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

NHỮNG ĐẶC ĐIỂM CỦA SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN TẬP ĐOÀN KINH TẾ TẠI VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (228.51 KB, 22 trang )

NHỮNG ĐẶC ĐIỂM CỦA SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN
TẬP ĐOÀN KINH TẾ TẠI VIỆT NAM
I. ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN TẬP ĐOÀN KINH TẾ Ở VIỆT NAM
1. Sự cần thiết và tính tất yếu hình thành Tập đồn kinh tế ở Việt Nam trong giai
đoạn hiện nay
Mục tiêu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và chủ động hội nhập sâu rộng vào kinh
tế quốc tế đang được nước ta tích cực thực hiện. Với mục tiêu đó, Việt Nam cần phải nâng cao
tốc độ tăng trưởng, mở rộng kinh tế đối ngoại dựa trên việc phát huy những lợi thế so sánh
vốn có nhằm tạo ra những bước đột phá về kinh tế để không chỉ tránh việc tụt hậu mà còn
đuổi kịp các nước khác trong khu vực và trên thế giới. Trên thực tế, với mục tiêu và định
hướng như vậy, việc hình thành và phát triển các Tập đoàn kinh tế mạnh trong một số lĩnh vực
mũi nhọn của nền kinh tế là hết sức cần thiết. Sau đây là ba lý do khẳng định việc hình thành
các tập đồn kinh tế ở Việt Nam là một khẳng định cho sự phát triển của nền kinh tế thị
trường có định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam cả về mặt quốc gia lẫn sức mạnh của cộng
động doanh nghiệp.
Thứ nhất, Hội nhập và hợp tác quốc tế là một tất yếu khách quan đòi hỏi việc tổ chức, sắp
xếp lại các doanh nghiệp nhỏ bé, phân tán thành những doanh nghiệp lớn có khả năng cạnh
tranh cũng như đủ mạnh để có thể trở thành đối tác với doanh nghiệp nước ngoài là chủ
trương hết sức đúng đắn của Đảng và Nhà nước. Chỉ có những doanh nghiệp có nguồn vốn
dồi dào, trình độ quản lý hiện đại, tiềm năng mạnh… thì mới đủ khả năng cạnh tranh với
doanh nghiệp nước ngoài. Trong khi doanh nghiệp ở Việt Nam có thể đạt được những điều
kiện trên là rất ít, chỉ có các tổng cơng ty nhà nước mới có khả năng hội tụ những yếu tố này
và các tập đoàn kinh tế.
Thứ hai, Việt Nam chủ trương xây dựng một nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa, tức là chấp nhận tính cạnh tranh như là một tất yếu khách quan. Cạnh tranh giữa các
doanh nghiệp dẫn tới q trình tích tụ và tập trung vốn vào sản xuất và từ đó dẫn đến hình
thành các doanh nghiệp lớn. Hơn nữa, việc hình thành tập đồn kinh tế từ những tổng công ty
Nhà nước là một tất yếu cho xu thế phát triển các tập đoàn kinh tế hiện nay.
Thứ ba, các tổng công ty Nhà nước phần lớn hoạt động kém hiệu quả hoặc đạt hiệu quả
thấp. Phần lớn là do cơ chế hoạt động của hình thức tổng cơng ty gây ra (như quản lý bằng
mệnh lệnh hành chính, mập mờ trong chế độ sở hữu...). Với việc chuyển từ hình thức tổng


cơng ty thành tập đồn kinh tế sẽ giúp cho các tổng công ty giảm bớt và loại trừ dần dần
những yếu kém đã tồn tại trong một thời gian dài.
Từ ba yếu tố nêu trên có thể khẳng định rằng muốn xây dựng một nền kinh tế thị trường có
định hướng xã hội chủ nghĩa mang lại hiệu quả kinh tế cao thì tất yếu phải hình thành nên các
tập đồn kinh tế mạnh trong các lĩnh vực trọng yếu vì các tập đồn kinh tế chính là biểu tượng
cho sự phát triển của doanh nghiệp Việt Nam.
1


2. Quan điểm và định hướng của Chính phủ cho việc hình thành Tập đồn kinh tế
Vấn đề phát triển tập đồn từ một số tổng cơng ty lớn thành các tập đoàn kinh tế mặc dù đã
được đưa ra thảo luận từ cách đây hơn 10 năm nhưng nó chỉ chính thức trở thành chủ trương của
Đảng và Nhà nước tại Hội nghị Trung ương 3 khóa IX. Nghị quyết Hội nghị lần thứ 3 Ban Chấp
hành Trung ương Đảng khóa IX về tiếp tục sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả
doanh nghiệp nhà nước ghi rõ: “Hình thành một số tập đồn kinh doanh mạnh trên cơ sở các tổng
cơng ty nhà nước, có sự tham gia của các thành phần kinh tế, kinh doanh đa ngành, trong đó có
ngành kinh doanh chính, chun mơn hóa cao và giữ vai trị chi phối lớn trong nền kinh tế quốc
dân, có quy mơ rất lớn về vốn, hoạt động cả trong và ngồi nước, có trình độ cơng nghệ cao và
quản lý hiện đại, có sự gắn kết trực tiếp, chặt chẽ giữa khoa học công nghệ, đào tạo, nghiên cứu
triển khai với sản xuất kinh doanh. Thí điểm hình thành tập đồn kinh tế trong một số lĩnh vực có
điều kiện, có thế mạnh, có khả năng phát triển để cạnh tranh và hội nhập kinh tế quốc tế có hiệu
quả như: Dầu khí, Viễn thông, Điện lực, Xây dựng...”. Việc thành lập tập đoàn kinh tế cũng xuất
phát từ cơ chế vận hành kém hiệu quả của các tổng công ty nhà nước và bản thân nó khơng cịn
phù hợp với cơ chế thị trường (bởi những yếu kém cần phải được thay đổi như các tổng công ty
này phụ thuộc quá nhiều vào các quyết định hành chính, khơng rõ ràng trong quan hệ sở hữu, yếu
kém trong điều hành doanh nghiệp giữa tổng công ty và các đơn vị thành viên...). Tập đồn kinh
tế chính là sự thay thế cần thiết để cải thiện những yếu kém của các tổng công ty nhà nước, thể
hiện việc thực hiện chính sách kinh tế - xã hội và là sự biến đổi cơ chế quản lý sản xuất kinh
doanh cho phù hợp với tiến bộ cơng nghệ.
Đến hội nghị lần thứ 9 khóa IX, Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam đã

nhấn mạnh: Tổng kết thí điểm việc chuyển các tổng cơng ty nhà nước sang một số tập đồn
kinh tế mạnh do tổng cơng ty nhà nước làm nịng cốt, có sự tham gia rộng rãi của các thành
phần kinh tế trong nước và đầu tư của nước ngoài.
Để hình thành và phát triển các tập đồn kinh tế ở Việt Nam, cần phải quán triệt một số
quan điểm chủ yếu sau:
- Việc hình thành và phát triển các tập đoàn kinh tế ở nước ta phải gắn liền với sự nghiệp
cơng nghiệp hố, hiện đại hóa đất nước, chuyển dịch cơ cấu kinh tế và đổi mới cơ chế quản lý
nền kinh tế quốc dân.
- Trong điều kiện Việt Nam hiện nay, hình thành và phát triển các tập đoàn kinh tế cần xuất
phát từ nhu cầu nội tại của bản thân các doanh nghiệp bằng con đường kinh tế và theo nguyên
tắc tự nguyện.
- Vấn đề quản lý vốn cũng cần phải có thay đổi, bằng hình thức tập đồn vốn của doanh
nghiệp sẽ chuyển thành hình thức đa sở hữu nhằm đan xen sở hữu, phân tán rủi ro trong đầu
tư, nâng cao trách nhiệm quản lý và sử dụng vốn của doanh nghiệp. Như vậy hình thức này
mang lại nhiều lợi thế trong quản lý vốn, từ đó nó đẩy mạnh q trình tích tụ và tập trung vốn,
2


nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của tập đồn.
- Hình thành và phát triển tập đồn kinh tế phải tuân theo mục tiêu hiệu quả kinh tế - xã hội cao
hơn, nâng cao năng lực cạnh tranh cho các doanh nghiệp, phát huy được những ưu điểm và khắc
phục mặt hạn chế của các tổng công ty nhà nước.
- Hình thành và phát triển tập đồn kinh tế phải được tiến hành dần từng bước có chọn lọc,
khơng ồ ạt và phù hợp với tiến trình đổi mới chung của nền kinh tế. Phương hướng chung là
xây dựng các tổng công ty nhà nước đủ mạnh để làm nịng cốt trong những tập đồn kinh tế
lớn, có năng lực cạnh tranh trên thị trường trong nước và quốc tế như Dầu khí, Điện, Than,
Hàng khơng, Đường sắt, Viễn thơng, Hố chất, Luyện kim...
- Các tổng cơng ty Nhà nước khi đã trở thành tập đoàn kinh tế cần được hoàn toàn tự chủ
trong sản xuất kinh doanh, xác định chiến lược, quy hoạch phát triển cũng như các biện pháp
thực hiện nhằm đạt được kế hoạch đề ra phù hợp với chiến lược và kế hoạch phát triển của

nền kinh tế quốc dân. Nhà nước không can thiệp vào hoạt động sản xuất kinh doanh của tập
đoàn.
Với điều kiện kinh tế - xã hội của Việt Nam hiện nay, để sớm hình thành các tập đồn kinh
tế, cần lấy tổng cơng ty nhà nước làm nịng cốt, trên cơ sở đó thu hút rộng rãi thêm sự tham
gia của các thành phần kinh tế trong nước và các nhà đầu tư nước ngoài, mở rộng ngành nghề,
lĩnh vực kinh doanh trên cơ sở ngành chuyên môn chính của tổng cơng ty.
Trong giai đoạn hiện nay, giải pháp đưa một số tổng công ty lên thành tập đồn kinh tế là
có tính khả thi cao, bởi những lý do sau:
+ Khu vực kinh tế tư nhân tuy đã phát triển nhưng nhìn chung khu vực này vẫn còn rời rạc,
chưa đầu tư vào những ngành kinh tế mũi nhọn do chưa có tiềm lực mạnh. Ngồi ra, khả năng
liên kết trong kinh doanh của các doanh nghiệp trong khu vực này còn rất thấp. Nếu để cho quy
luật của kinh tế thị trường quyết định việc hình thành các tập đồn kinh tế thì sẽ rất chậm. Hiện
nay, khu vực tư nhân đã có một số tập đồn như Hịa Phát, Tân Hồng Minh… nhưng các tập
đồn này mới chỉ manh mún chưa đủ để trở thành tập đoàn kinh tế một cách đúng nghĩa trong
điều kiện kinh tế thị trường.
+ Hiện nay, có khơng ít các tổng cơng ty nhà nước có những tích tụ đáng kể về lượng vốn,
số lượng lao động có chun mơn và tay nghề tốt, công nghệ - kỹ thuật, và một số tổng cơng
ty có mức độ chun mơn hóa nhất định… đủ để trở thành một tập đoàn kinh tế với khá nhiều
các đơn vị thành viên hoạt động có hiệu quả.
Tuy nhiên, trong thời điểm hiện tại, các tổng cơng ty đi lên tập đồn là do định hướng của
Nhà nước chứ chưa thực sự tuân theo quy luật hình thành tập đồn kinh tế của nền kinh tế thị
trường. Do đó, sắp tới phải hình thành tập đoàn kinh tế từ khu vực tư nhân, tạo điều kiện
thuận lợi để các tập đoàn kinh tế phát triển từ khu vực kinh tế tư nhân.
3


II. MỘT SỐ NÉT CHÍNH VỀ CÁC TẬP ĐỒN KINH TẾ Ở VIỆT NAM
1. Các Tập đoàn kinh tế ở Việt Nam hiện nay
Xuất phát từ chủ trương và định hướng, hiện nay Việt Nam đã có được một số tập đoàn
kinh tế hoạt động trong các lĩnh vực quan trọng. Dưới đây là một số tập đoàn kinh tế đã và

đang hoạt động tại Việt Nam.
1.1. Tập đoàn Bưu chính viễn thơng
- Lộ trình hình thành Tập đồn Bưu chính Viễn Thơng Việt Nam:
Ngày 23/03/2005, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định 58/2005/QĐ-TTg phê duyệt
Đề án hình thành tập đồn Bưu chính Viễn thơng Việt Nam trên cơ sở sắp xếp lại tổng cơng ty
Bưu chính Viễn thơng và các đơn vị thành viên.
- Quý IV năm 2005: Chuyển Cục Bưu điện Trung ương về trực thuộc Bộ Bưu chính Viễn
thơng quản lý, chuyển các đơn vị sự nghiệp gồm Học viện cơng nghệ Bưu chính Viễn thơng và
các bệnh viện thuộc tổng cơng ty Bưu chính Viễn thông hiện nay thành đơn vị sự nghiệp độc lập
và hoạt động theo cơ chế quy định tại nghị định số 10/2002/NĐ-CP của Chính phủ.
Các cơ quan tổ chức thực hiện đề án tập đồn Bưu chính Viễn thơng Việt Nam bao gồm:
Bộ Bưu chính Viễn thơng, Bộ Tài chính, Hội đồng quản trị tổng cơng ty Bưu chính Viễn
thơng Việt Nam, cùng Bộ trưởng của các Bộ Tài chính, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Lao động
- Thương binh và Xã hội, Bộ Nội vụ. Thủ trưởng các cơ quan liên quan, Ban chỉ đạo Đổi mới
và Phát triển doanh nghiệp theo chức năng, nhiệm vụ có trách nhiệm phối hợp với Bộ Bưu
chính viễn thơng Việt Nam trong việc thực hiện các nhiệm vụ nêu trên.
- Ngày 09/01/2006, Thủ tướng Chính phủ đã có quyết định số 06/2006/QĐ-TTg về việc
chuyển tổng cơng ty Bưu chính Viễn thơng Việt Nam thành tập đồn Bưu chính Viễn thơng Việt
Nam và hoạt động theo mơ hình cơng ty mẹ - cơng ty con, và quyết định này được chính thức trao
cho Hội đồng Quản trị tập đồn Bưu chính Viễn thông Việt Nam vào ngày 26/3/2006.
Như vậy, sau hơn một năm thực hiện quyết định 58/2005/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ,
tập đồn Bưu chính Viễn thơng Việt Nam chính thức được ra đời với mơ hình cơng ty mẹ - công
ty con, trực tiếp kinh doanh một số lĩnh vực như mạng đường trục, quản lý, đầu tư, kinh doanh
vốn. Mơ hình cơng ty mẹ - cơng ty con của tập đồn Bưu chính Viễn thơng Việt Nam (xem mơ
hình) là một mơ hình được hình thành trên cơ sở tổ chức lại Tổng cơng ty Bưu chính Viễn thơng
Việt Nam (VNPT) và phát triển theo mơ hình tập đồn kinh tế Nhà nước kinh doanh đa ngành.
Mục tiêu của q trình chuyển đổi VNPT sang Tập đồn Kinh tế Nhà nước nhằm tăng cường tích
tụ về vốn, nâng cao khả năng cạnh tranh và tối đa hóa lợi nhuận, trong đó, điểm mấu chốt là tập
trung sắp xếp đổi mới quản lý, xác lập lại cơ cấu sản xuất kinh doanh, lành mạnh hóa các quan hệ
tài chính trong quá trình đổi mới quản lý, tạo điều kiện mới thuận lợi hơn cho các đơn vị thành

viên đủ sức cạnh tranh trong hội nhập kinh tế quốc tế.
4


Qua lộ trình trên có thể thấy việc chuyển đổi từ Tổng cơng ty thành Tập đồn Bưu chính
Viễn thơng Việt Nam chỉ diễn ra trong hơn một năm nhưng trên thực tế Quyết định số
06/2006/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ chỉ là hợp thức hóa những gì mà Tổng cơng ty
Bưu chính Viễn thơng Việt Nam đã làm khi có Quyết định số 91/TTg ngày 07/03/1994 của
Thủ tướng Chính phủ về việc thí điểm thành lập các Tổng cơng ty hoạt động theo mơ hình tập
đồn kinh doanh. Trong thời gian trước đó, quan hệ giữa VNPT với các đơn vị thành viên của
VNPT vẫn mang nặng tính hành chính bao cấp với cơ chế nặng về “xin-cho” chứ chưa hoàn
toàn tuân theo quy luật của kinh tế thị trường. Đó chính là ngun nhân hạn chế sự năng
động, sáng tạo, sự tự chủ của các đơn vị thành viên của VNPT. Đồng thời, Tổng công ty do
quá tải trong quản lý, điều hành, kiểm tra, kiểm soát dẫn đến hoạt động khơng hiệu quả.
Chính vì vậy, cần phải chuyển đổi mối quan hệ giữa VNPT với các đơn vị thành viên theo
hướng tuân theo các quy luật của kinh tế thị trường, để phù hợp với các mối quan hệ trong tập
đoàn kinh doanh. Tức là nâng cao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong sản xuất kinh
doanh của các đơn vị thành viên, dựa trên cơ sở liên kết về tài chính và các liên kết khác để
gắn kết thực sự giữa công ty mẹ với các cơng ty con (như đã nêu trong mơ hình trên). Với mơ
hình như vậy, cơng ty mẹ chỉ tập trung quản lý một số lĩnh vực quan trọng của tập đồn, cịn
lại để cho các cơng ty con tự quản lý theo quy định của pháp luật. Có nghĩa là với sự quản lý
tập trung vào những lĩnh vực quan trọng của tập đồn thì cơng ty mẹ khơng còn chịu nhiều
gánh nặng như trước đây mà chỉ tập trung vào việc quản lý những lĩnh vực quyết định tới sự
sống cịn của tập đồn. Cho phép các cơng ty con tự chủ, tự chịu trách nhiệm nhưng vẫn cần
có sự kiểm sốt của cơng ty mẹ. Cơ chế kiểm soát sẽ giúp cho các đơn vị thành viên của Tập
đồn thực hiện tốt cơng tác tài chính nằm trong chiến lược kinh doanh nói chung và chiến
lược tài chính nói riêng của Tập đồn.

5



6


7


Với mơ hình đó, cơng ty mẹ đầu tư vào các công ty con, các công ty liên kết và các
doanh nghiệp khác trực tiếp hoạt động kinh doanh. Các cơng ty con có quyền góp vốn đầu tư
vào các công ty thành viên khác trừ công ty mẹ. Nhà nước sẽ không giao vốn như trước đây cho
Tổng công ty mà thực hiện đầu tư vốn cho công ty mẹ. Cơng ty mẹ sẽ chuyển từ quản lý hành
chính đối với công ty con thành quản lý và kiểm sốt vốn, cơng nghệ, thị trường thơng qua việc
đầu tư cho các công ty con. Tuy nhiên, các hoạt động như mua, bán, thuê, cho thuê, vay, cho
vay… giữa công ty mẹ và công ty con phải được thực hiện bằng việc ký các hợp đồng kinh tế
(tức là giữ quan hệ bình đẳng giữa cơng ty mẹ và cơng ty con).
Tóm lại, qua phân tích trên có thể thấy việc chuyển Tổng cơng ty Bưu chính Viễn thơng
Việt Nam thành tập đồn Bưu chính Viễn thơng Việt Nam đã mang lại nhiều thuận lợi cho đơn vị
này. Tuy nhiên cũng cần phải chú ý tới vấn đề kiểm soát các hoạt động của cơng ty mẹ từ phía nhà
nước bởi: công ty mẹ vẫn nắm quyền sở hữu phần lớn cổ phần tại các công ty con tức là cơng ty
mẹ vẫn có nhiều quyền lực để chi phối công ty con và dễ dẫn đến một số tiêu cực khơng mong
muốn.
1.2. Tập đồn Dầu khí
Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng ký Quyết định số 198/2006/QĐ-TTg, ngày 29/8/2006,
chính thức phê duyệt Đề án hình thành Tập đồn Dầu khí Quốc gia Việt Nam.
Theo quyết định trên, Tập đồn Dầu khí Quốc gia Việt Nam được thành lập với hình
thức đa sở hữu, trong đó Nhà nước sở hữu chi phối về vốn. Tập đồn này được hình thành
trên cơ sở sắp xếp, tổ chức lại Tổng cơng ty Dầu khí Việt Nam và các đơn vị thành viên.
Cơ cấu Tập đồn Dầu khí Quốc gia Việt Nam bao gồm cơng ty mẹ (Tập đồn Dầu khí)
Việt Nam là cơng ty nhà nước; có chức năng ký kết và giám sát việc thực hiện các hợp đồng
dầu khí với nước ngồi; thực hiện các dự án trọng điểm quốc gia về dầu khí; đầu tư tài chính

vào các doanh nghiệp khác; giữ quyền chi phối các công ty con thông qua vốn, tài sản được
Nhà nước giao quản lý, công nghệ, thương hiệu và thị trường.
Các tổng công ty hoạt động theo mơ hình cơng ty mẹ - cơng ty con, trong đó cơng ty
mẹ thường do chính tổng cơng ty đảm nhiệm và thường nắm giữ 100% vốn điều lệ. Với tập
đồn Dầu khí Việt Nam cũng vậy, cơng ty mẹ nắm giữ 100% vốn điều lệ.
Trong cơ cấu tập đồn cịn có 4 cơng ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên do Tập
đồn Dầu khí Việt Nam sở hữu 100% vốn điều lệ, 14 công ty do Tập đồn Dầu khí Việt Nam
nắm giữ trên 50% vốn điều lệ, 2 cơng ty Tập đồn nắm giữ dưới 50% vốn điều lệ và 2 cơ sở
đào tạo khác…
Quyết định số 198/2006/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ nêu rõ Tập đồn Dầu khí
Quốc gia Việt Nam sẽ làm nịng cốt để ngành cơng nghiệp dầu khí Việt Nam phát triển bền
vững, có khả năng cạnh tranh, hội nhập kinh tế quốc tế có hiệu quả và bảo đảm an ninh năng
lượng cho sự phát triển của đất nước.
Cơ chế vốn của tập đồn dầu khí:
Một trong những yếu tố quan trọng, quyết định sự thành bại của quá trình xây dựng và
phát triển mơ hình tập đồn Dầu khí là xây dựng mơ hình tài chính phù hợp.
Trước hết, vốn của Tập đồn bao gồm vốn của cơng ty mẹ và vốn của các công ty con.
Vốn của công ty mẹ hình thành từ nguồn vốn của Nhà nước bao gồm: tồn bộ phần vốn của
Nhà nước tại cơng ty mẹ được xác định tại thời điểm thành lập tập đoàn (phần này sẽ được xác
định như phần vốn đầu tư của Nhà nước vào tập đoàn) và phần vốn đầu tư bổ sung của Nhà
8


nước trong q trình hoạt động sau này.
Ngồi phần vốn của Nhà nước, vốn của tập đồn phải được hình thành chủ yếu từ
phần vốn tự bổ sung trong quá trình sản xuất kinh doanh, vốn vay và các nguồn vốn huy động
đa dạng khác thông qua liên doanh, hợp tác đầu tư, trong đó, đặc biệt chú ý đến vai trị của
nguồn phát hành trái phiếu. Vốn của cơng ty con được hình thành chủ yếu từ nguồn vốn đầu
tư của cơng ty mẹ.
Trong q trình hoạt động, các cơng ty con có thể bổ sung nguồn vốn thơng qua các

kênh đầu tư bổ sung của công ty mẹ, vay vốn, tự bổ sung từ kết quả sản xuất kinh doanh và
các nguồn vốn huy động khác.
Cơ chế quản lý và sử dụng vốn của công ty mẹ:
Về quản lý vốn, có 2 vấn đề quan trọng cho cơng ty mẹ là: tỷ lệ đầu tư vốn của công ty
mẹ tại các công ty con như thế nào để phát huy hiệu quả cao nhất công tác quản lý vốn; sử
dụng các cơng cụ, hình thức quản lý vốn nào cho phù hợp với từng đối tượng đầu tư.
Những quyết định nói trên của cơng ty mẹ được căn cứ vào một số nội dung cần lưu ý là
quyền quản lý vốn của công ty mẹ đối với phần vốn đầu tư tương ứng tại công ty con, công ty
mẹ được quyền đầu tư bổ sung, rút vốn đầu tư, chuyển nhượng phần vốn của mình đối với các
cơng ty con theo quy định của pháp luật, điều lệ hoạt động của các cơng ty con đó.
Cơng ty mẹ được quyền sử dụng nguồn vốn của mình (sau khi đã thực hiện nghĩa vụ
với ngân sách Nhà nước) để lập các quỹ, phù hợp với các quy định của pháp luật như Quỹ đầu
tư phát triển; Quỹ dự phòng tài chính; Quỹ nghiên cứu khoa học và đào tạo; Quỹ tìm kiếm
thăm dị dầu khí; Quỹ khen thưởng; Quỹ phúc lợi…
Phần vốn đầu tư của Nhà nước vào công ty mẹ sẽ được Nhà nước quản lý thông qua
hệ thống pháp luật. Công ty mẹ sử dụng vốn của mình để đầu tư trực tiếp vào các hoạt động
sản xuất kinh doanh của công ty mẹ; đầu tư bổ sung trực tiếp vào các công ty con và đầu tư ra
bên ngồi các đơn vị thành viên hiện có của tập đoàn.
Cơ chế phân chia kết quả kinh doanh:
Về nguyên tắc, kết quả kinh doanh và tài chính sau khi hoàn thành các nghĩa vụ với
Nhà nước và các nghĩa vụ tài chính khác theo quy định sẽ được phân chia giữa công ty mẹ và
công ty con theo tỷ lệ vốn góp của các bên. Phần nghĩa vụ với ngân sách Nhà nước do công ty
mẹ và các công ty con trực tiếp thực hiện đối với các hoạt động sản xuất kinh doanh của
mình.
Cơng ty mẹ và các công ty con được sử dụng lợi nhuận sau thuế để trích lập các quỹ
theo quy định hiện hành và theo điều lệ hoạt động của công ty mẹ và các công ty con (trước
khi chia cho các bên góp vốn). Cơng ty mẹ được trích một phần lợi nhuận sau thuế từ kết quả
hoạt động khai thác dầu khí, để lập quỹ tìm kiếm thăm dị dầu khí như một quỹ tài chính đặc
biệt, có quy chế sử dụng riêng để đáp ứng nhu cầu tài chính cho hoạt động tìm kiến thăm dị
dầu khí (ngồi các quỹ đã nêu trên).

Hàng năm Nhà nước hoặc công ty mẹ căn cứ vào nhu cầu đầu tư của công ty mẹ và
các cơng ty con có thể xem xét để lại phần lợi nhuận được chia của mình nhằm mục đích tái
đầu tư theo cơ chế đầu tư vốn bổ sung.
Mỗi cơng ty con đều có báo cáo kế tốn tài chính riêng, chịu trách nhiệm về tính đúng
đắn báo cáo của đơn vị mình trước pháp luật và các bên góp vốn. Cơng ty mẹ có báo cáo kế
tốn tài chính riêng về hoạt động của mình, đồng thời lập báo cáo tài chính hợp nhất tồn Tập
9


đồn trên cơ sở báo cáo của cơng ty mẹ, các công ty con, các liên doanh, hợp tác mà cơng ty
mẹ có tham gia góp vốn trực tiếp trên 50% và chịu trách nhiệm về nhiệm vụ báo cáo tài chính
hợp nhất của Tập đồn trước pháp luật.
Cơng ty mẹ thực hiện chế độ kiểm toán báo cáo kế tốn tài chính tại các cơng ty con
theo quy định của pháp luật.
Mối quan hệ tài chính với Nhà nước được công ty mẹ và các công ty con trực tiếp thực
hiện theo quy định của pháp luật. công ty mẹ là pháp nhân duy nhất của tập đoàn trực tiếp
nhận vốn đầu tư của Nhà nước.
Vốn của Nhà nước tại tập đoàn được coi như phần vốn đầu tư của Nhà nước vào tập
đoàn. Quyền lợi nghĩa vụ tài chính của Nhà nước tương đương với tỷ lệ vốn đầu tư tại tập
đồn, quyền và nghĩa vụ của cơng ty mẹ trước Nhà nước liên quan đến phần vốn đầu tư của
Nhà nước được quy định bởi quy chế tài chính của cơng ty mẹ do Chính phủ ban hành phù
hợp với các quy định của pháp luật.
1.3. Tập đồn Than – Khống sản
Tập đồn Than Việt Nam là tập đồn kinh tế đa ngành và chính thức hoạt động theo hình
thức tập đồn từ 01/01/2005 theo quyết định thành lập của Thủ tướng Chính phủ. Hầu hết những
gì tập đoàn Than Việt Nam đã thực hiện trước đây và đang triển khai hiện nay là theo tinh thần
của Quyết định số 199/2005/QĐ-TTg ngày 08/08/2005 của Thủ tướng Chính phủ.
Với nền tảng là 10 năm hoạt động tính cho đến cuối năm 2004 tổng công ty Than Việt
Nam được nhận định là đủ mạnh để chuyển đổi từ hình thức tổng cơng ty sang hình thức tập
đồn kinh tế với những kết quả đạt được như sau:

- Sản lượng than nguyên khai đạt 27,330 triệu tấn
+

Than sạch đạt 25,177 triệu tấn

+

Bán ra 24,667 triệu tấn (trong đó xuất khẩu 10,516 triệu tấn)

- Lợi nhuận trước thuế khoảng 1.000 tỷ đồng
+ Nộp ngân sách nhà nước 609 tỷ đồng
+ Thu nhập bình quân đạt 2.628.000 đồng/người/tháng.
Một trong những thành tựu quan trọng Tổng công ty Than Việt Nam đạt được đó là đã
hình thành rõ nét cơ cấu kinh doanh đa ngành bao gồm công nghiệp than - điện lực - cơ khí - vật
liệu nổ cơng nghiệp - xây dựng, vật liệu xây dựng - thương mại dịch vụ, trong đó cơng nghiệp
than chiếm 64,8%, các ngành khác chiếm 35,2% trong tổng doanh thu 15.178 tỷ đồng.
Ngồi cơng nghiệp than, nhiệt điện đốt than là một thế mạnh của Tổng công ty Than
Việt Nam với nhà máy tiêu biểu như:
- Nhà máy Nhiệt điện Na Dương 100MW.
- Nhà máy Nhiệt điện Cao Ngạn 100MW (đã và đang chuẩn bị vận hành thương mại
trong năm nay)
- Một loạt các nhà máy nhiệt điện khác đã và đang chuẩn bị khởi công như: Cẩm Phả
300MW, Sơn Động 200MW, Nông Sơn 30MW, Mạo Khê 200MW.
Ngồi ra, Tổng cơng ty Than Việt Nam còn tham gia cổ phần trong Nhà máy Nhiệt
điện Hải Phòng 600MW (10%) và Nhà máy Nhiệt điện Quảng Ninh 1.200 MW (15%).

10


Cơ khí là ngành truyền thống, gắn bó lâu đời với ngành Than đã có sự phát triển vượt

bậc, theo hướng hiện đại: năm 2004 đã xuất xưởng 300 xe tải 13 - 16 tấn; hạ thuỷ tàu Huyền
Trang có trọng tải 4.000 DWT; đặc biệt đã tự chế tạo được biến thế phòng nổ và đầu tàu điện
ắc quy dùng cho các mỏ than hầm lò.
Ngành vật liệu nổ công nghiệp của Tổng công ty Than Việt Nam là cơ sở dân sự duy
nhất của cả nước sản xuất và cung ứng thuốc nổ: năm 2004 sản xuất 24.200 tấn, cung ứng
50.700 tấn, chiếm trên 60% thị phần trên thị trường trong nước; đã hình thành dịch vụ khoan,
nổ mìn ở nhiều địa phương trong cả nước; cuối năm 2004 khởi công xây dựng nhà máy sản
xuất thuốc nổ nhũ tương an tồn hầm lị - cơng trình có ý nghĩa chiến lược đối với phát triển
các mỏ than hầm lị.
Sản xuất xi măng, vật liệu xây dựng ln là ngành có bước tăng trưởng khá: Nhà
máy Xi măng La Hiên với công suất 142.000 tấn/năm, năm 2004 đã bán ra 201.000 tấn xi
măng và clinke; sản xuất gạch ngói và thi cơng xây lắp xây dựng đều tăng trưởng đáp ứng
nhu cầu trong nội bộ ngành Than.
Ngoài ra, các hoạt động kinh doanh trong cung ứng vật tư, thương mại, khách sạn, du
lịch, các dịch vụ địa chất, tư vấn đầu tư, khoa học, công nghệ, y tế, đào tạo, môi trường của
tổng công ty Than Việt Nam đều tăng trưởng và đóng góp tích cực vào việc khai thác thị
trường nội bộ, tạo thêm việc làm cũng như sinh động trong kinh doanh.
Sắp xếp tổ chức và đổi mới cơ chế quản lý của tập đoàn Than Việt Nam:
Về sắp xếp tổ chức, trong giai đoạn từ 2001 đến 2005, Tổng cơng ty Than Việt Nam
đã có những hoạt động sau:
- Cổ phần hóa 11/57 doanh nghiệp thành viên(Đặc biệt, ngày 29-12-2005 Tổng công
ty đã tổ chức bán 12 tỷ đồng cổ phiếu của công ty than Núi Béo tại Trung tâm giao dịch
chứng khoán Hà Nội. Đợt bán cổ phiếu đã thu hút 204 nhà đầu tư trong nước và nước ngoài
đăng ký mua với giá bình quân mỗi cổ phiếu đạt 29.200 đồng/cổ phiếu, tăng gấp 2,29 lần so
với mệnh giá).
- Chuyển sang mơ hình trách nhiệm hữu hạn 1 thành viên 6 doanh nghiệp
- Tiếp nhận 1 tổng công ty và 3 công ty từ Quảng Ninh và Thái Nguyên về làm doanh
nghiệp thành viên hoặc trực thuộc doanh nghiệp thành viên.
Đến cuối năm 2005, trong Tổng cơng ty than đã có 45 cơng ty con, trong đó có 11
cơng ty cổ phần, 6 công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên. Hai cơng ty than Nội địa và

ng Bí hoạt động theo mơ hình cơng ty mẹ - cơng ty con. Và Tổng công ty Than Việt Nam
đã vinh dự được trở thành tập đoàn kinh tế đầu tiên của cả nước.
Từ khi chuyển sang hình thức tập đồn kinh tế, Tập đoàn Than Việt Nam đã chuyển
sang cơ chế hợp đồng giao nhận thầu khai thác, sàng tuyển than với các cơng ty thành viên,
thanh tốn nhanh tiền bán than nhanh hơn trước (từ 5 đến 7 ngày 1 lần thanh tốn); chuyển
hẳn mối quan hệ giữa Tổng cơng ty và các công ty thành viên sang hợp đồng kinh tế.
Trong quá trình hoạt động cùng với việc sắp xếp lại và đổi mới tổ chức, tập đoàn Than
Việt Nam đã từng bước xóa bỏ các cơng ty vùng bằng cách đưa tất cả các mỏ than lớn, xí
nghiệp tuyển than, doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh khác có quy mơ và các đơn vị hành
chính sự nghiệp ra khỏi các công ty vùng và trở thành đơn vị thành viên của Tập đoàn.
Cùng với việc sắp xếp lại, thành lập và kiện toàn tổ chức các đơn vị trong lĩnh vực
thương mại, dịch vụ, du lịch, tư vấn, thăm dò khảo sát, sản xuất điện cho phù hợp với yêu cầu
11


phát triển; chuyển một số đơn vị sự nghiệp về Bộ hoặc địa phương quản lý để thực hiện mục
tiêu xã hội hóa cơng tác giáo dục, y tế của Nhà nước như các trung tâm y tế khu vực, Bảo
hiểm xã hội ngành Than, nhà trẻ, mẫu giáo... Tập đoàn chỉ trực tiếp nắm giữ các trường đào
tạo nghề chuyên ngành khai thác than; đồng thời tiếp nhận một số doanh nghiệp địa phương
có liên quan đến sản xuất, kinh doanh của ngành, từng bước thực hiện cổ phần hóa và đa dạng
hóa sở hữu đơn vị thành viên (đến nay đã cổ phần hóa được 18 đơn vị, trong đó có 6 đơn vị
thành viên và 12 bộ phận doanh nghiệp; bán cho tập thể người lao động 1 doanh nghiệp và 1
bộ phận doanh nghiệp; chuyển đổi 3 doanh nghiệp thành công ty trách nhiệm hữu hạn một
thành viên).
Qua quá trình sắp xếp lại và đổi mới đến nay, tập đồn Than Việt Nam đã có 5 đầu
mối trực thuộc, trong đó có 46 doanh nghiệp thành viên (26 thành viên hạch toán độc lập, 7
thành viên hạch tốn phụ thuộc, 3 thành viên là cơng ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên
và 10 thành viên là cơng ty cổ phần do tập đồn Than Việt Nam giữ cổ phần chi phối); 6 đơn
vị sự nghiệp có thu (2 Viện Nghiên cứu, 3 trường đào tạo và 1 Trung tâm y tế lao động); 3 đơn
vị trực thuộc, hạch tốn báo sổ.

1.4. Tập đồn Dệt may
Ngày 8/12/2005, Tổng công ty Dệt May Việt Nam đã tổ chức công bố Quyết định
314/2005/QĐ-TTg ngày 02/12/2005 về việc phê duyệt đề án thí điểm thành lập Tập đồn Dệt
May Việt Nam và quyết định 316/2005/QĐ-TTg ngày 02/12/2005 của Thủ tướng Chính phủ
về việc thành lập Tập đồn Dệt may Việt Nam (VINATEX). Với quyết định này, từ một tổng
công ty có trên 60 đơn vị thành viên và cơng ty liên kết, VINATEX trở thành một tập đồn có
trên 10 công ty mẹ - công ty con, công ty 100% vốn nhà nước, công ty trách nhiệm hữu hạn
nhà nước một thành viên và cơng ty cổ phần.
Q trình đổi mới
Một số tổng công ty được chuyển đổi theo mơ hình cơng ty mẹ-con và một số chuyển
đổi sang tập đồn. Điểm giống nhau giữa hai mơ hình là cùng hoạt động trên nguyên tắc công
ty mẹ đầu tư vốn vào các công ty con. Tuy nhiên, điểm khác biệt lớn nhất giữa hai mơ hình là
quy mơ hoạt động. Thực tế tại tổng công ty Dệt May Việt Nam, hầu hết các đơn vị thành viên
đã được cổ phần hóa, trong đó nhiều đơn vị đã tự phát hoạt động theo mơ hình mẹ - con.
Chẳng hạn, cơng ty May Việt Tiến có khoảng 30 cơng ty con khơng thành lập theo kiểu hành
chính, mà hình thành trên cơ sở đầu tư vốn hoặc cùng góp vốn kinh doanh. Tương tự, trong
tổng cơng ty hiện có khoảng 15 cơng ty đang hoạt động theo mơ hình cơng ty mẹ - con như:
công ty May Nhà Bè, Dệt Phong Phú, Dệt May Hà Nội, Dệt Nam Định, May 10, May Đức
Giang, May Phương Đơng, Dệt May Hịa Thọ, Dệt Thành Cơng… Việc Chính phủ ra quyết
định thành lập tập đồn Dệt May thể hiện tính quy mơ của tập đoàn và tạo cơ sở pháp lý vững
chắc để VINATEX hoạt động, tăng cường sức mạnh liên kết trong toàn hệ thống và phát huy
vai trò nòng cốt hạt nhân vào sự phát triển của toàn ngành.
Thực tế cho thấy việc chuyển sang hoạt động theo mơ hình tập đồn mẹ - con của tổng
công ty Dệt May Việt Nam mang tính tất yếu, đáp ứng yêu cầu khách quan của sự phát triển.
Theo mơ hình tập đồn mẹ - con được phê duyệt, cơ quan tổng công ty trước đây nay chuyển
thành Tập đồn Dệt May và là cơng ty mẹ đại diện sở hữu trực tiếp vốn Nhà nước tại tập
đồn. Quan hệ mệnh lệnh hành chính trước kia trong mơ hình tổng cơng ty 91 được thay bằng
quan hệ của chủ sở hữu đầu tư. Hiện nay, tập đoàn Dệt May Việt Nam đã trực tiếp đầu tư vào
04 công ty con là công ty trách nhiệm hữu hạn nhà nước 1 thành viên, 23 công ty cổ phần có
vốn chi phối và 19 cơng ty cổ phần và công ty liên doanh khác. Mục tiêu của Tập đoàn Dệt

May Việt Nam là trở thành một tập đồn đa sở hữu hàng đầu cả về quy mơ sản xuất kinh
12


doanh lẫn sức cạnh tranh sản phẩm trong khu vực Châu Á với kim ngạch xuất khẩu đạt 2,5 tỷ
USD vào năm 2010 và 3,5 tỷ USD vào năm 2015.
Theo cơ chế tổ chức cán bộ của Tập đoàn Dệt May, Hội đồng Quản trị bổ nhiệm
tổng giám đốc tập đoàn sau khi đã xin ý kiến chủ sở hữu nhà nước là Thủ tướng Chính phủ;
Tổng Giám đốc được quyền chọn và đề nghị Hội đồng quản trị bổ nhiệm Phó tổng giám
đốc, giám đốc điều hành và kế tốn trưởng tập đồn. Các trưởng ban thì do tổng giám đốc
bổ nhiệm sau khi thông qua Hội đồng quản trị còn các cấp khác là do tổng giám đốc lựa
chọn và quyết định bổ nhiệm.
Tầm nhìn của tập đồn sẽ là hình thức đa sở hữu và khơng cịn là đơn vị 100% vốn
Nhà nước. Năm 2010, tập đoàn sẽ trở thành thương hiệu mạnh, lấy thị trường nội địa làm
địa bàn hoạt động và thị trường xuất khẩu làm động lực phát triển.
Để quản lý, tập đoàn cũng chia ra thành 4 khối là quản lý chức năng, quản lý chun
mơn hố, quản lý kinh doanh phụ trợ và quản lý theo mơ hình sự nghiệp.
Về các lĩnh vực hoạt động, có 5 lĩnh vực mà tập đồn hướng tới. Thứ nhất là, sản
xuất và kinh doanh sản phẩm dệt may. Các sản phẩm sẽ phải mang giá trị cao, có tính
năng và sự khác biệt sẽ ra đời theo hình thức FOB. Thứ hai là, hoạt động thương mại,
trong đó chú trọng xây dựng hệ thống bán lẻ. Đây là hoạt động chủ đạo trong kinh doanh
nhằm xây dựng thị trường trong và ngoài nước, tạo điều kiện cho sản xuất phát triển, đặt
nền móng trong bối cảnh hội nhập. Thứ ba là, hoạt động tài chính, tín dụng và kinh
doanh tài chính với thiên hướng về hoạt động của một công ty đầu tư. Thứ tư là, kinh
doanh hạ tầng cơ sở, đồng thời 3 khu cơng nghiệp của tập đồn sẽ tiếp tục được mở rộng.
Lĩnh vực này sẽ tạo điều kiện để thu hút đầu tư nước ngoài. Thứ năm là, dịch vụ tư vấn,
thương mại, sẽ đẩy mạnh hoạt động của các viện nghiên cứu, trường đào tạo...
Tính đến năm 2004 ngành dệt may, trên cả nước có gần 2000 doanh nghiệp, kim
ngạch xuất khẩu đạt 4,4 tỷ USD, chiếm 16,5% kim ngạch xuất khẩu cả nước. Kim ngạch xuất
khẩu dệt may hiện đứng thứ hai trong các ngành có kim ngạch xuất khẩu mạnh ở Việt Nam và

xếp thứ 16 trong số các nước có kim ngạch xuất khẩu dệt may lớn nhất thế giới. Kim ngạch
xuất khẩu dệt may năm 2005 dự kiến sẽ đạt trên 4,8 tỷ USD, tăng khoảng 10% so với năm
2004.
Việt Nam hiện nay đã chính thức trở thành thành viên của tổ chức WTO thì việc xuất
khẩu khơng cịn quota sẽ làm cho tính cạnh tranh của ngành dệt may Việt Nam tăng lên một
cách mạnh mẽ.
Thực tế, có nhiều nhà nhập khẩu lớn của EU và Hoa Kỳ đã nhận định: Việt Nam sẽ là
một trong những trung tâm cung ứng hàng dệt may lớn nhất của thế giới trong những năm tới.
Cụ thể, Việt Nam sẽ có thể liệt vào tốp 10 nước có hàng dệt may xuất khẩu lớn nhất thế giới
nếu Việt Nam biết tận dụng khai thác tốt năng lực của mình. Kim ngạch xuất khẩu hàng dệt
may Việt Nam có thể đạt khoảng 8 tỉ USD vào năm 2010.
Tổng công ty Dệt may Việt Nam được thành lập từ năm 1995, sau 10 năm hoạt động
đã có sự đóng góp đáng kể vào sự tăng trưởng của ngành dệt may Việt Nam. Mặc dù với số
lao động 105.000 người, chỉ chiếm 10% so với lao động cơng nghiệp của tồn ngành nhưng
năm 2004 đã tạo ra giá trị sản xuất công nghiệp gần 9.500 tỷ đồng, chiếm 32% giá trị sản xuất
cơng nghiệp của tồn ngành.
Đặc biệt, kim ngạch xuất khẩu của Vinatex đạt trên 1.035 triệu USD, chiếm 23,6% của
tồn ngành. Năng lực sản xuất bơng của Vinatex hiện chiếm 95% năng lực của toàn ngành,
13


tương tự sợi chiếm 45%, vải chiếm 26,4%, may công nghiệp chiếm 20%. Lợi nhuận lũy kế 10
năm của Vinatex đạt 510 tỷ đồng và nộp ngân sách 1768 tỷ đồng... Thực ra, hiện nay Vinatex
đã hoạt động một phần theo mơ hình cơng ty mẹ - con. Cho đến thời điểm này, Vinatex đã cổ
phần hóa được 40 trên tổng số 52 đơn vị, trong đó Vinatex đã giữ cổ phần chi phối và thực sự
đã là công ty mẹ của 28 đơn vị cổ phần trong nhóm 40 cơng ty đã cổ phần hóa.
Ngồi ra, Vinatex đã thực hiện việc chuyển đổi 9 đơn vị là doanh nghiệp Nhà nước
thành công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên hoạt động theo Luật doanh nghiệp. Trong
cơ cấu các doanh nghiệp thành viên của Vinatex, đã có trên 15 doanh nghiệp do cơ chế thị
trường đã tự phát hoạt động theo mơ hình mẹ - con từ nhiều năm nay như: Công ty may Việt

Tiến, May Nhà Bè, May 10, Hanosimex, Dệt Phong Phú, Dệt Thành Công, Dệt Nam Định,
May Đức Giang, May Phương Đơng, Dệt may Hịa Thái, Dệt Việt Thắng, Cty bông Việt
Nam... Các công ty này đang là những công ty mẹ đầu tư vốn vào các công ty con và cả công
ty “cháu” ở bên dưới. Như vậy việc Chính phủ ra quyết định thành lập Tập đoàn đã tạo cơ sở
pháp lý vững chắc để Vinatex nói riêng và tập đồn Dệt may Việt Nam nói chung hoạt động
và đóng góp lớn hơn vào sự phát triển của toàn ngành dệt may.
1.5. Tập đoàn Điện lực
Trong Quyết định số 147/2006/QĐ-TTg ngày 22/6/2006 của Thủ tướng Chính phủ về
việc phê duyệt Đề án thí điểm hình thành Tập đồn Điện lực Việt Nam, đã nêu rõ nhiệm vụ
của Tập đoàn là “...kinh doanh đa ngành, trong đó sản xuất và kinh doanh điện năng, viễn
thơng cơng cộng, cơ khí điện lực là ngành kinh doanh chính; làm nịng cốt để ngành cơng
nghiệp điện lực Việt Nam phát triển nhanh và bền vững, cạnh tranh và hội nhập kinh tế quốc
tế có hiệu quả”.
Ngồi ra, Tập đoàn Điện lực Việt Nam cũng sẽ hoạt động các ngành nghề kinh doanh
cụ thể như công nghiệp điện năng, khảo sát thiết kế, tư vấn xây dựng, xây lắp, bảo dưỡng các
cơng trình điện, cơng trình cơng nghiệp, dân dụng, cơng trình viễn thơng cơng nghệ thơng tin;
sản xuất, sửa chữa, thí nghiệm thiết bị điện và phụ kiện điện, cấu kiện thép bê tông và cung
ứng vật tư thiết bị ngành điện; xuất nhập khẩu điện năng, vật tư thiết bị phục vụ ngành điện.
Tập đoàn được phép kinh doanh vận tải thủy bộ phục vụ sản xuất, kinh doanh; khai thác
nguyên liệu phi quặng; kinh doanh các dịch vụ cơng nghệ thơng tin; hoạt động tài chính,
chứng khốn, ngân hàng, bảo hiểm...
Tập đồn Điện lực Việt Nam sẽ nắm giữ 100% vốn điều lệ và có 6 công ty trách
nhiệm hữu hạn một thành viên, 5 công ty chuyển thành công ty trách nhiệm hữu hạn một
thành viên trong năm 2006 - 2007 và 2 công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên mới lập.
Công ty mẹ sẽ nắm giữ trên 50% vốn điều lệ của 26 cơng ty đồng thời có thêm 6 cơng ty liên
kết và 5 đơn vị sự nghiệp khác
Tập đoàn Điện lực Việt Nam được hình thành trên cơ sở đa sở hữu, trong đó sở hữu
nhà nước là chi phối, bao gồm các doanh nghiệp 100% vốn nhà nước, các doanh nghiệp đa sở
hữu, được sắp xếp, tổ chức lại từ tổng công ty Điện lực Việt Nam và các đơn vị thành viên.
Tập đồn có trình độ cơng nghệ, quản lý hiện đại và có chun mơn hóa cao; kinh doanh đa

ngành, trong đó sản xuất và kinh doanh điện năng, viễn thơng cơng cộng, cơ khí điện lực là
ngành kinh doanh chính; gắn kết chặt chẽ giữa sản xuất, kinh doanh với khoa học, công nghệ,
nghiên cứu, triển khai, đào tạo và làm nịng cốt để ngành cơng nghiệp điện lực Việt Nam phát
triển nhanh và bền vững, cạnh tranh và hội nhập kinh tế quốc tế có hiệu quả.
Mối quan hệ giữa công ty mẹ trong tập đoàn Điện lực Việt Nam với chủ sở hữu nhà
nước và các công ty con, công ty liên kết được thực hiện theo pháp luật và quy định trong
14


Điều lệ tổ chức và hoạt động của công ty mẹ. Chính phủ thống nhất quản lý và tổ chức thực
hiện các quyền, nghĩa vụ của chủ sở hữu nhà nước đối với Tập đồn Điện lực Việt Nam.
Cơng ty mẹ - Tập đồn Điện lực Việt Nam là cơng ty nhà nước, có chức năng trực tiếp
sản xuất, kinh doanh và đầu tư tài chính vào các doanh nghiệp khác.
Mặc dù vẫn được viết tắt là (EVN) nhưng tập đoàn Điện lực Việt Nam với đầy đủ
những yếu tố chuẩn bị chín muồi, đã được hình thành với một dáng dấp và nguồn lực hoàn
toàn đổi mới. Đây là bước phát triển tất yếu của tổng công ty Điện lực Việt Nam nhằm đáp
ứng những đòi hỏi về nâng cao hiệu quả sản xuất, kinh doanh, thu hút vốn đầu tư, xác lập,
vận hành thị trường điện, hội nhập kinh tế quốc tế.
Sự ra đời của Tập đoàn Điện lực Việt Nam là cần thiết và tất yếu
Hơn 10 năm qua, với 59 đơn vị thành viên, Tổng công ty Điện lực Việt Nam (TCT) đã
vượt qua nhiều khó khăn, thách thức, hồn thành tốt vai trị: Chịu trách nhiệm đầu tư để phát
triển ngành công nghiệp điện, tổ chức sản xuất và tiêu thụ điện, đảm bảo nhu cầu điện năng
cho sản xuất và sinh hoạt, phù hợp với yêu cầu và định hướng chiến lược phát triển kinh tế xã
hội của đất nước và theo nhiệm vụ được Thủ tướng Chính phủ giao cho từng thời kỳ.
Nhờ cơ chế chỉ huy điều hành tập trung, tổng công ty có điều kiện thuận lợi trong
khai thác, điều hành kinh tế hệ thống điện, quản lý kỹ thuật, phối hợp tốt các hoạt động về
khai thác vận hành và đầu tư. Cơ chế tập trung khấu hao giúp tổng công ty xây dựng được
hệ thống các nhà máy điện đa dạng về loại hình, trong đó có những nhà máy điện lớn và
phát triển một hệ thống lưới điện truyền tải đồng bộ, đồng thời có điều kiện thuận lợi trong
việc thực hiện công tác điện nông thôn...Dù tổng cơng ty đã tích cực chủ động trong việc

phân cấp mạnh cho các đơn vị song mặt trái của cơ chế chỉ huy điều hành tập trung là tính
chủ động, sáng tạo và tự chịu trách nhiệm của các đơn vị cịn thấp. Cơng tác chỉ đạo điều
hành bằng mệnh lệnh hành chính chưa gắn chặt với hiệu quả sản xuất kinh doanh, việc
chậm ban hành nhiều văn bản quy phạm pháp luật chưa tạo điều kiện cho đa dạng hố,
khuyến khích các thành phần kinh tế tham gia đầu tư, quản lý ngành Điện và thúc đẩy cạnh
tranh đã dẫn tới một số bất cập như: Số lượng lao động lớn, năng suất chưa cao, vẫn còn
nhiều nhà máy có thiết bị cơng nghệ cũ, lạc hậu so với các nước trong khu vực và mức trung
bình của thế giới,...
Trước những tồn tại nêu trên, “cần thiết cải cách theo hướng tập đoàn Điện lực Việt
Nam trên cơ sở mơ hình cơng ty mẹ - cơng ty con để phát huy tối đa sức mạnh tổng hợp của
các đơn vị thành viên, tạo điều kiện thực hiện triệt để tiến trình đổi mới sắp xếp các doanh
nghiệp nhà nước thuộc Tổng cơng ty” (trích Đề án thành lập tập đồn Điện lực Việt Nam đã
được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt). Hình thành cơng ty mẹ và các cơng ty con là các pháp
nhân độc lập và tự chịu trách nhiệm về hoạt động của mình; chuyển phương thức điều hành
chủ yếu bằng mệnh lệnh hành chính sang điều hành bằng quan hệ hợp đồng kinh tế, đảm bảo
sự minh bạch về tài chính giữa cơng ty mẹ và các công ty con, thu hút vốn đầu tư và tiếp thu
kinh nghiệm quản trị doanh nghiệp từ bên ngoài; chuẩn bị điều kiện để tham gia và thực hiện
thị trường điện cạnh tranh.
Có thể nói, việc chuyển sang hoạt động theo mơ hình Tập đồn kinh tế là một bước
thay đổi sâu rộng và cơ bản trong quá trình phát triển và đổi mới tổ chức quản lý các hoạt
động của ngành Điện lực Việt Nam. Đứng trước những cơ hội và thách thức đan xen, với
quan điểm thành lập Tập đoàn kinh tế đa ngành nghề, từng bước khẳng định vị thế trong nước
và mở rộng thị trường ra nước ngoài, chiến lược phát triển của Tập đoàn Điện lực Việt Nam
đã được xác định. Trong đó: Về sản xuất kinh doanh điện năng, sẽ ưu tiên đầu tư xây dựng
15


những cơng trình nguồn điện có hiệu quả kinh tế cao, phát triển các nhà máy điện với tỉ lệ
thích hợp, phù hợp với khả năng cung cấp và phân bố của các nguồn nguyên liệu. Với lĩnh
vực viễn thông, điện lực, sẽ nỗ lực đáp ứng tối đa nhu cầu thông tin liên lạc phục vụ công tác

quản lý, vận hành kinh doanh trong Tập đoàn, phát triển các loại hình dịch vụ nhằm mục tiêu
chiếm lĩnh khơng dưới 15% thị phần các dịch vụ viễn thông công cộng vào năm 2010. Trong
lĩnh vực tài chính, hướng tới mục tiêu hoạt động sản xuất kinh doanh có lãi với tỉ suất lợi
nhuận trên vốn kinh doanh lớn hơn hoặc bằng 12%, đảm bảo tỉ lệ tự đầu tư trên 30%, xây
dựng nguyên tắc xác định giá mua bán điện trên cơ sở tách bạch từng khâu sản xuất, truyền
tải, phân phối, thành lập Cơng ty Tài chính Điện lực, phát hành trái phiếu trong và ngoài
nước. Về lĩnh vực cơ khí điện lực, phấn đấu đến năm 2010, tự chủ phần lớn thiết bị điện đến
110 kV, có thể đáp ứng một phần nhu cầu thiết bị và máy biến áp 220 kV, đồng thời cung cấp
trọn bộ cơ khí thuỷ cơng, các kết cấu thép của các nhà máy thuỷ điện, nhiệt điện được chế tạo
trong nước...
1.6. Tập đoàn Vinashin
Qua hơn 10 năm ra đời (từ ngày 31/1/1996) và phát triển, Vinashin đã tạo được một
bước tiến dài cho ngành đóng tàu Việt Nam. Từ số vốn ban đầu vẻn vẹn 150 tỷ đồng, đến nay
Vinashin đã vươn lên trở thành doanh nghiệp đóng tàu hàng đầu của Việt Nam với tổng số
vốn 15.000 tỷ đồng.
Vinashin có kế hoạch phấn đấu đến năm 2015 sẽ đưa Việt Nam trở thành cường quốc
đứng thứ 4 trên thế giới về đóng tàu.
Thủ tướng Chính phủ vừa ký quyết định Số: 104/2006/QĐ-TTg ngày 15 tháng 5 năm
2006 phê duyệt đề án thí điểm hình thành Tập đồn Vinashin, trên cơ sở sắp xếp, tổ chức lại
Tổng công ty Công nghiệp tàu thuỷ Việt Nam.
Theo quyết định này, Tập đoàn Vinashin sẽ hoạt động theo hướng đa sở hữu, trong đó
sở hữu Nhà nước là chủ đạo, bao gồm các doanh nghiệp 100% vốn nhà nước, các doanh
nghiệp đa sở hữu.
Tập đoàn Vinashin sẽ kinh doanh đa ngành, ngành cơng nghiệp đóng mới, sửa chữa
tàu thủy và vận tải biển là chủ đạo, gắn kết giữa sản xuất, kinh doanh với khoa học, cơng
nghệ, nghiên cứu triển khai, đào tạo. Tập đồn sẽ là nịng cốt để ngành cơng nghiệp tàu thuỷ
Việt Nam phát triển nhanh và bền vững, cạnh tranh và hội nhập kinh tế quốc tế.
Mối quan hệ giữa công ty mẹ trong tập đoàn Vinashin với chủ sở hữu nhà nước và các
công ty con, công ty liên kết được thực hiện theo pháp luật và quy định trong điều lệ tổ chức
và hoạt động của công ty mẹ.

Thành lập từ năm 1996, đến nay Vinashin đã có 93 đơn vị thành viên với mức tăng
trưởng bình quân liên tục đạt 35 - 45%/năm. Hiện nay, nhiều tập đoàn lớn đến từ các quốc gia
có nền cơng nghiệp đóng tàu tiên tiến trên thế giới đã đến đặt hàng với Vinashin. Tính đến
tháng 6/2006, tổng giá trị các hợp đồng đóng tàu đã ký giữa Vinashin và các đối tác trong,
ngồi nước đạt gần 5,7 tỷ USD (trong đó, hợp đồng trong nước đạt trên 1,8 tỷ USD, hợp đồng
ngoài nước đạt 3,8 tỷ USD).
Bốn cơ sở đào tạo cơng nhân đóng tàu thực hành được thành lập mới mỗi năm sẽ
cho ra lị 3.000 cơng nhân để đáp ứng nhu cầu 30.000 cơng nhân đóng tàu trong những năm
tới. Các cơ sở này chủ trương thuê chuyên gia Hàn Quốc, Trung Quốc, Ba Lan, Na Uy đào
tạo thực hành và cho các công nhân tiếp tục tu nghiệp tại Nhật Bản, Đài Loan và Hàn Quốc.
Trái phiếu của Vinashin đã phát hành 500 tỉ đồng trong nước và sẽ phát hành ra nước
16


ngồi để tạo vốn đóng tàu. Vinashin đang nỗ lực cao nhất để tự vượt lên chính mình, nhanh chóng
trở thành tập đoàn kinh tế hàng đầu của Việt Nam.
Tập đồn Vinashin sẽ sử dụng cơng cụ tài chính, thương hiệu, thị trường, khoa học
công nghệ để điều hành thay cho mệnh lệnh hành chính trước đây. Cụ thể là cơng ty mẹ với
tiềm lực tài chính lớn lên tới vài chục ngàn tỷ đồng sẽ nắm giữ 100% vốn hoặc cổ phần khống
chế và quyết định về mơ hình tổ chức quản lý, nhân sự chủ chốt của công ty con. Công ty mẹ
sẽ tiến hành chức năng thương mại chung, trực tiếp ký những hợp đồng xuất khẩu lớn, dài
hạn, đảm bảo thống nhất thị trường.
Mục tiêu của tập đoàn Vinashin đến năm 2010 sẽ trở thành quốc gia đóng tàu mạnh
thứ tư trên thế giới, nâng tỷ lệ nội địa hoá từ 15% hiện nay lên 60%, tạo việc làm, cải thiện
đời sống người lao động, đưa mức sản lượng lên 3 triệu tấn tàu/năm, phấn đấu đạt 10% thị
trường đóng tàu thế giới trong một tương lai gần... Trước mắt, ngành công nghiệp tàu thuỷ
đang nỗ lực hoàn thành những mục tiêu đề ra trong đề án phát triển công nghiệp tàu thuỷ
Việt Nam đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt: đóng mới tàu chở hàng 80.000 DWT,
tàu chở dầu thô từ 100.000-300.000 tấn, tàu container 3.000 TEU... và sửa chữa các loại tàu
có trọng tải 400.000 DWT.

Tập đồn Vinashin đã có những thành cơng nhất định và đáng ghi nhận đối với sự
phát triển chung của cả nước sau 10 năm hoạt động về kinh doanh, quản lý, tổ chức sản xuất,
đào tạo con người, mở rộng, thâu tóm thị trường quốc tế, nắm được thế chủ động trong những
cơ hội thuận lợi. Chính vì vậy, tập đồn Vinashin sẽ ngày càng phát triển và sẽ đi lên trở thành
một trong những tập đoàn kinh tế lớn mạnh của Việt Nam.
1.7. Tập đoàn Tài chính – Bảo hiểm Bảo Việt
Để phát huy được lợi thế cạnh tranh trong bối cảnh hội nhập. Bảo Việt đã chuyển đổi
từ mơ hình tổng cơng ty quốc doanh sang mơ mình tập đồn Tài chính - Bảo hiểm kinh doanh
đa ngành gồm bảo hiểm nhân thọ, chứng khoán, ngân hàng, đầu tư tài chính, bất động sản…
Theo Quyết định số 310/2005/QĐ-TTg ngày 28/11/2005 của Thủ tướng Chính phủ. Việc
chuyển đổi mơ hình tổ chức và hoạt động này đối với Bảo Việt cũng có nhiều thuận lợi và thách
thức trong bối cảnh phải hoàn thành sứ mạng là tập đồn Tài chính - Bảo Hiểm hàng đầu trên thị
trường Việt Nam.
Một số lợi thế của Bảo Việt khi chuyển sang hình thức tập đồn tài chính – bảo hiểm:
Bảo Việt là doanh nghiệp bảo hiểm được thành lập đầu tiên trên thị trường từ năm
1964, đến nay đã tích lũy được nhiều kinh nghiệm về tổ chức hoạt động, ngành nghề kinh
doanh, xây dựng đội ngũ cán bộ và mạng lưới khách hàng.
Về mơ hình tổ chức, Bảo Việt đã có thời gian dài vận hành theo mơ hình tổng cơng ty
có phân cấp giữa Tổng cơng ty với các công ty thành viên trong lĩnh vực nhân thọ và phi nhân
thọ rộng khắp các tỉnh thành trên cả nước. Đồng thời, Bảo Việt đã thành lập công ty chứng
khốn, tham gia đầu tư chiến lược thơng qua góp vốn cổ phần, liên doanh chiến lược với các
đối tác trong và ngoài nước trong lĩnh vực bảo hiểm, đầu tư, sản xuất và dịch vụ khác…
Về ngành nghề kinh doanh, Bảo Việt đã có hơn 40 năm kinh nghiệm hoạt động trong
lĩnh vực bảo hiểm phi nhân thọ, hơn 10 năm kinh nghiệm hoạt động trong lĩnh vực bảo hiểm
nhân thọ, đầu tư tài chính, kinh doanh bất động sản…
Về nguồn nhân lực, Bảo Việt là doanh nghiệp hàng đầu thị trường về đội ngũ cán bộ
có năng lực, trình độ và giàu kinh nghiệm. Bên cạnh đó, Bảo Việt đã xây dựng và phát triển
tốt mối quan hệ hợp tác với các doanh nghiệp bảo hiểm nước ngồi, các nhà mơi giới bảo
17



hiểm và tái bảo hiểm hàng đầu thế giới. Năng lực quản trị điều hành và hệ thống công nghệ
thông tin đã bắt đầu được đầu tư theo chiều sâu.
Bộ máy quản lý, điều hành tập đoàn Bảo Việt bao gồm: Hội đồng quản trị và Ban
Kiểm soát; Tổng giám đốc, các Phó Tổng giám đốc, Kế tốn trưởng và bộ máy giúp việc. Tập
đoàn Bảo Việt kế thừa các quyền và nghĩa vụ pháp lý của Tổng công ty Bảo hiểm Việt Nam
theo quy định của pháp luật.
Tập đoàn Bảo Việt thực hiện đầu tư chiến lược và đầu tư tài chính cho các cơng ty con
độc lập như: Bảo Việt Nhân Thọ, Bảo Việt Việt Nam kinh doanh bảo hiểm phi nhân thọ, Công
ty quản lý quỹ đầu tư Bảo Việt, cơng ty Chứng khốn Bảo Việt, các công ty liên doanh và
liên kết khác kinh doanh bảo hiểm, tài chính và nhiều ngành nghề khác. Ngồi ra cịn có 6
cơng ty con do tập đồn Bảo Việt giữ trên 50% vốn điều lệ; 20 công ty liên kết do tập đoàn
Bảo Việt giữ dưới 50% vốn điều lệ. Trong số các cơng ty con do tập đồn Bảo Việt giữ trên
50% vốn điều lệ, ngồi cơng ty cổ phần Chứng khốn Bảo Việt, Cơng ty liên doanh Bảo hiểm
quốc tế Việt Nam và công ty cổ phần Khách sạn và Du lịch Bảo Việt, sẽ có 3 công ty được
thành lập mới là Ngân hàng cổ phần Bảo Việt, cơng ty cho th tài chính Bảo Việt và công ty
Bất động sản Bảo Việt. Như vậy, tập đồn Bảo Việt đã chính thức được phép kinh doanh các
nghiệp vụ ngân hàng và bất động sản. Cũng theo Quyết định của Thủ tướng Chính phủ, Bộ
Tài chính sẽ quyết định phương án cụ thể cổ phần hoá tổng cơng ty Bảo hiểm Việt Nam;
thành lập tập đồn Bảo Việt và các công ty con theo các quy định hiện hành; Quyết định chọn
cơng ty tư vấn nước ngồi để tư vấn cổ phần hoá và Phê duyệt Quy chế tài chính của Tập
đồn Bảo Việt.

18


19


Trong năm 2006, nhiệm vụ trọng tâm của Bảo Việt là thực hiện quyết định

310/2005/QĐ/TTg của Thủ tướng Chính phủ, hồn thiện mơ hình phân cấp quản lý giữa tập
đồn và các đơn vị thành viên; mở rộng hoạt động bảo hiểm và các lĩnh vực dịch vụ tài chính
khác như thành lập mới Ngân hàng cổ phần Bảo Việt, cơng ty cho th tài chính Bảo Việt,
cơng ty bất động sản Bảo Việt, công ty bảo hiểm Y tế cộng động Bảo Việt...
Hiện nay, Bảo Việt là một nhà kinh doanh bảo hiểm lớn trên thị trường Việt Nam. Bảo
Việt có mạng lưới 128 cơng ty phụ thuộc, 400 phòng phục vụ khách hàng trên cả nước...
Doanh thu năm 2005 đạt 6.100 tỷ đồng trong đó có 3.100 tỷ đồng từ kinh doanh bảo hiểm
nhân thọ, chiếm 39% thị phần bảo hiểm và đang dẫn dầu thị trường.
Bên cạnh đó, tính đến năm 2005, Bảo Việt đã đầu tư trở lại trên 9.700 tỷ đồng cho nền
kinh tế, trong đó có đến 60% đầu tư cho các chương trình phát triển kinh tế - xã hội của Chính
Phủ.
Việc chuyển đổi và vận hành theo mơ hình tập đồn Tài chính – Bảo hiểm của Bảo Việt sẽ
tạo điều kiện cho Bảo việt phát huy được lợi thế về quy mơ kinh doanh, đa dạng hóa ngành nghề
và liên minh chiến lược, bảo đảm duy trì được lợi thế cạnh tranh trong bối cảnh hội nhập về tất cả
các mặt hiệu quả, chất lượng, đổi mới và đáp ứng kỳ vọng của khách hàng.
2. Một số khó khăn và vướng mắc trong hình thành và phát triển Tập đồn kinh
tế tại Việt Nam
Qua thực trạng một số tập đoàn kinh tế đã được nêu ở phần trên có thể thấy tập đồn
kinh tế là mơ hình mang lại nhiều lợi ích trong cơ chế thị trường. Tuy nhiên, vẫn có những
khó khăn và vướng mắc cần khắc phục để có thể tiếp tục xây dựng phát triển các tập đoàn
kinh tế khác ngày một vững mạnh trong tương lai. Dưới đây là một số khó khăn và vướng
mắc đối với việc hình thành và phát triển tập đồn kinh tế tại Việt Nam hiện nay.
2.1. Khó khăn về mặt quản lý Nhà nước
- Việc thành lập và phát triển của các tập đoàn kinh tế hiện nay đang gặp nhiều khó
khăn và vướng mắc về văn bản pháp luật trong việc hướng dẫn thành lập các tập đoàn kinh tế.
Các mơ hình tập đồn kinh tế khơng giống mơ hình tổng công ty (sự độc lập thực sự của các
pháp nhân, quan hệ bình đẳng trước pháp luật của tổng công ty và các đơn vị thành viên
"pháp nhân nằm trong pháp nhân"). Chính cơ cấu tổ chức đó của tổng công ty đã tạo ra sự
không rõ ràng trong nghĩa vụ và trách nhiệm, tạo ra sự kém chủ động của các đơn vị thành
viên cũng như tạo ra mối quan hệ chỉ đạo nặng về hành chính, mệnh lệnh... Mơ hình tập đồn

cơ bản sẽ khắc phục được những bất cập của mơ hình tổng cơng ty vì việc xây dựng mơ hình
tập đồn kinh tế hiện tại chỉ dựa vào Luật Doanh nghiệp và Nghị định 153 của Chính phủ về
việc quản lý tổng cơng ty Nhà nước. Tuy nhiên, vẫn còn nhiều hạn chế trở ngại cho việc xây
dựng các tập đoàn lớn ở Việt Nam như thiếu chính sách khuyến khích cạnh tranh và hạn chế
độc quyền; hạn chế trong chính sách đầu tư ra nước ngồi vì Luật Doanh nghiệp nhà nước
hiện hành mới chỉ quy định về chi nhánh, văn phòng đại diện. Các quy định khác về thành lập
Doanh nghiệp ở nước ngồi cịn hạn chế về quy mơ và chưa rõ ràng về pháp lý. Ngồi ra,
chính sách về khoa học cơng nghệ, hạn chế về đầu tư, tài chính... cũng đang là những trở ngại
trong việc thành lập tập đoàn kinh tế.
- Lúng túng trong giải quyết các vấn đề cụ thể khi xây dựng đề án thí điểm mơ hình tập
đồn kinh tế hiện nay là mối quan hệ và liên kết giữa các đơn vị trong tập đoàn, cơ chế thực
hiện liên kết; cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý (thành phần, quyền, trách nhiệm và mối quan hệ
giữa các bộ phận quản lý trong bộ máy quản lý tập đoàn; thương hiệu của tập đoàn; quy mô
20


vốn điều lệ và các tiêu chí khác để xác lập tập đồn; cơ chế chính sách đối với tập đồn kinh
tế.
- Việc điều hành tài chính ở các tổng cơng ty như hiện nay bằng quyền lực hành chính
là chủ yếu, điều hành mang tính chất là đơn vị quản lý cấp trên, trong khi thẩm quyền lại
không đầy đủ (có việc tổng cơng ty giải quyết được, nhưng có việc phải cơ quan cấp Bộ mới
xử lý được) và nhiều tổng cơng ty có tiềm lực tài chính quá nhỏ bé.
- Thiếu chính sách khuyến khích cạnh tranh và hạn chế độc quyền; chính sách đầu tư
ra nước ngoài cũng đang là những hạn chế đáng kể trong việc xây dựng các tập đoàn kinh tế
(hiện tại Luật doanh nghiệp mới chỉ quy định về chi nhánh, văn phịng đại diện. Các chính
sách về khoa học cơng nghệ, hạn chế về đầu tư, tài chính; quy định khác về thành lập doanh
nghiệp ở nước ngồi cịn hạn chế về quy mô và chưa rõ ràng về pháp lý).
- Nhà nước khơng nên áp đặt một mơ hình mẫu duy nhất, mơ hình cụ thể do các tổng
cơng ty và doanh nghiệp tự quyết định, lựa chọn căn cứ vào đặc thù của mình (ví dụ như theo
mơ hình một Ủy ban điều hành dưới đó là các doanh nghiệp khối sản xuất kinh doanh, các

doanh nghiệp khối bán hàng, các doanh nghiệp khối tài chính…)
2.2. Khó khăn về vận hành và quản lý trong nội tại các Tập đoàn kinh tế hiện nay
- Trong việc quản lý và điều hành các tập đoàn kinh tế lớn như hiện nay thì năng lực
của lãnh đạo và các nhà quản lý còn thiếu nhiều cả về số lượng và chất lượng. Yếu tố con
người trong việc quản lý và điều hành quyết định sự thành công lớn mạnh của mỗi một tập
đồn kinh tế.
- Khả năng liên kết giữa cơng ty mẹ với các công ty con và giữa các cơng ty con với
nhau cịn yếu kém, do đó chưa tạo ra sức mạnh tập trung, việc cạnh tranh lẫn nhau vẫn cịn
tồn tại. Các yếu tố đó sẽ tạo ra hiệu qủa sản xuất kinh doanh thấp, sức cạnh tranh yếu là điều
tất yếu xảy ra. Cho nên việc tăng cường liên kết cứng là nòng cốt, điều tiết và liên kết mềm
theo xu hướng nâng cao hiệu quả, tăng sức cạnh tranh của tập đoàn giữa các đơn vị để nâng
cao chất lượng, giảm chi phí, tích tụ vốn đầu tư để tăng sức cạnh tranh trong tập đoàn và
tăng hiệu quả hoạt động của cả tập đoàn kinh tế.
- Việc các tổng công ty khi thành lập tập đoàn kinh tế chưa chú ý đến chiến lược phát
triển, thương hiệu, có thị trường tiêu thụ hoặc thị phần lớn, các đơn vị thành viên hoạt động
có hiệu quả, mức lao động dơi dư vừa phải... thì các yếu tố trên nếu không được đáp ứng đầy
đủ và các vướng mắc khơng được giải quyết thì sẽ dẫn đến các doanh nghiệp kinh doanh cùng
một loại sản phẩm, cùng ngành nghề, lĩnh vực và đối tượng khách hàng. Do khơng đa dạng
hố các ngành nghề, sản phẩm dịch vụ khi thành lập tập đoàn sẽ dễ xảy ra những xung đột lợi
ích trong nội bộ là điều tất yếu.
- Tình trạng vốn của các tổng cơng ty cịn hạn chế và phụ thuộc nhiều vào vốn ngân
sách nhà nước, còn yếu kém trong khả năng huy động nguồn vốn nhàn rỗi trong xã hội do cơ
cấu đơn sở hữu là chủ yếu. Số Tổng cơng ty có phân cơng chun mơn hố, hợp tác hố mạnh
mẽ cịn q ít. Nhiều Tổng công ty mang tính tập hợp các Doanh nghiệp thành viên cùng
ngành nghề, lĩnh vực, sản phẩm, đối tượng khách hàng và thị trường nên dẫn đến xung đột về
lợi ích.
- Mối liên kết giữa các doanh nghiệp trong tổng cơng ty có tính chặt chẽ của liên kết
hành chính nhưng lỏng lẻo về quan hệ kinh tế và phân chia lợi ích. Về cơ bản đó là liên kết
của các đơn vị thành viên thuộc một sở hữu duy nhất (Nhà nước), trong khi các tập đồn kinh
tế trên thế giới có đan xen và đa dạng về sở hữu. Bên cạnh đó, tổ chức quản lý cũng rất khó

21


khăn vì vai trị mờ nhạt của Hội đồng quản trị và đặc biệt là vướng mắc trong quan hệ quản lý
giữa Hội đồng quản trị và điều hành của Tổng giám đốc.
Sự hình thành và phát triển các tập đoàn kinh tế ở Việt Nam hiện nay mới chỉ là bước
đầu, do đó khó tránh khỏi có những khó khăn và vướng mắc cho phía quản lý nhà nước, cũng
như phía nội tại của tập đồn kinh tế.
Trên đây là những khó khăn và tồn tại hiện nay đối với việc hình thành và phát triển
tập đồn kinh tế Việt Nam. Cần phải có những biện pháp cụ thể và phải triển khai nhanh
chóng các biện pháp trên nhằm tháo gỡ những khó khăn và khắc phục những tồn tại trên để
tạo được những điều kiện thuận lợi cho việc phát triển các tập đoàn kinh tế trong thời gian tới.

Trung tâm Thông tin và Dự báo Kinh tế - xã hội Quốc gia

22



×