Tải bản đầy đủ (.docx) (29 trang)

TIỂU LUẬN NHÓM CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC ĐẢNG LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG VÀ ĐỔI MỚI HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 20062016

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (235.97 KB, 29 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
=====000=====

TIỂU LUẬN NHÓM
CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC

ĐẢNG LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG VÀ ĐỔI MỚI HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ VIỆT NAM
GIAI ĐOẠN 2006-2016

Hà Nội

MỤC LỤC


LỜI MỞ ĐẦU

4

CHƯƠNG I. KHÁI QUÁT HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ VIỆT NAM
1.1 Các quan niệm của chủ nghĩa Mác – Lênin về chính trị
1.2 Đặc điểm hệ thống chính trị Việt Nam
1.3 Kết cấu tổ chức hệ thống chính trị Việt Nam

5
5
6
8

CHƯƠNG II. QUÁ TRÌNH ĐCS LÃNH ĐẠO ĐỔI MỚI HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ
2006-2016


2.1 Bối cảnh tác động đến quá trình đổi mới hệ thống chính trị giai đoạn 2006-2016
2.1.1 Bối cảnh đất nước Việt Nam
a, Giai đoạn 2006-2010
b, Giai đoạn 2010-2016
2.1.2. Bối cảnh thế giới:
2.2. Chủ trương Đảng Cộng sản về đổi mới nội dung, phương thức hoạt động (20062016)
2.3. Đảng chỉ đạo đổi mới hệ thống chính trị từ năm 2006 - 2016

10
10
10
10
12
13
14
16

CHƯƠNG III. ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ CỦA QUÁ TRÌNH ĐỔI MỚI VÀ BÀI HỌC
KINH NGHIỆM TRONG CƠNG CUỘC XÂY DỰNG HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ THỜI
KỲ 2006-2016
19
3.1. Kết quả
19
3.1.1. Thành tựu
19
3.1.2. Hạn chế
21
3.2. Phương hướng và giải pháp cho thời kỳ sau
23
KẾT LUẬN


27

TÀI LIỆU THAM KHẢO

28



LỜI MỞ ĐẦU
1. Lý do lựa chọn đề tài
Với thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945, Đảng Cộng sản Việt Nam đã trở
thành đảng cầm quyền. Từ đó đến nay, Đảng Cộng sản Việt Nam là đảng duy nhất cầm
quyền, lãnh đạo Nhà nước, các thành viên trong hệ thống chính trị và tồn xã hội. Sự lãnh
đạo của Đảng là nhân tố quyết định mọi thắng lợi của sự nghiệp cách mạng Việt Nam.
Trên cơ sở vận dụng các nguyên lý về đảng chính trị và lý luận xây dựng Đảng của
chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, từ thực tiễn, kinh nghiệm thế giới và thực tiễn
cách mạng Việt Nam, Đảng Cộng sản Việt Nam đã xác định được các phương thức lãnh đạo,
phương thức cầm quyền đúng đắn, phù hợp. Đó là hệ thống các phương pháp, cách thức mà
Đảng xác lập để tác động, định hướng, điều khiển, kiểm soát việc tổ chức và hoạt động của
các thành viên trong hệ thống chính trị, đặc biệt là bộ máy nhà nước để cụ thể hóa, thể chế
hóa và tổ chức thực hiện mục tiêu, lý tưởng, các chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng
qua mỗi giai đoạn, mỗi thời kỳ. Quá trình đổi mới và lãnh đạo của Đảng với hệ thống chính
trị giai đoạn 2006-2016 để lại rất nhiều bài học kinh nghiệm cho sự phát triển của đất nước
các giai đoạn sau. Vì lý do này, nhóm chúng em quyết định lựa chọn đề tài “ Đảng lãnh đạo
xây dựng và đổi mới hệ thống chính trị Việt Nam giai đoạn 2006-2016”.
2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích: Phân tích và tìm hiểu rõ hơn về sự phát triển của đất nước giai đoạn 20062016. Tìm hiểu rõ hơn vai trị của Đảng lãnh đạo hệ thống chính trị cũng như rút ra những bài
học kinh nghiệm, phương hướng, giải pháp xây dựng giai đoạn sau.
Nhiệm vụ: Tìm hiểu tổng quan về các quan niệm về hệ thống chính trị, khái quát hệ

thống chính trị Việt Nam, chỉ ra tiền đề bối cảnh, thay đổi trong điều kiện kinh tế - xã hội giai
đoạn 2006-2016, nêu ra thành tựu và tồn tại của công cuộc đổi mới hệ thống chính trị giai
đoạn này, bước đầu đưa ra phương hướng, giải pháp nhằm xây dựng và phát triển hệ thống
chính trị trong tương lai.
3. Đối tượng nghiên cứu:
Tiểu luận tập trung nghiên cứu quá trình lãnh đạo của Đảng với hệ thống chính trị giai
đoạn 2006-2016 cũng như phân tích đổi mới tích cực, bài học kinh nghiệm từ giai đoạn này.
4. Phương pháp nghiên cứu:
Tiểu luận vận dụng các phương pháp thống nhất phân tích - tổng hợp, diễn dịch - quy
nạp, khái quát hoá, trừu tượng hoá, phương pháp đọc hiểu tài liệu, văn bản,...
5. Kết cấu của tiểu luận:


Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục các tài liệu tham khảo, tiểu luận được chia làm
3 chương, 7 đề mục.


CHƯƠNG I. KHÁI QUÁT HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ VIỆT NAM
1.1 Các quan niệm của chủ nghĩa Mác – Lênin về chính trị
Những quan điểm của Lênin về chính trị trong chủ nghĩa xã hội là một phần quan
trọng trong học thuyết của ông về Đảng và về chủ nghĩa xã hội. Đường lối, quan điểm chính
trị của Đảng Cộng sản đúng hay sai sẽ quyết định sự thành công hoặc có thể làm sai lệch chủ
nghĩa xã hội. Tại các nước xã hội chủ nghĩa và đặc biệt là Việt Nam, công cuộc đổi mới và
đổi mới đang diễn ra hết sức khó khăn, phức tạp. Do vậy, việc kế thừa và phát triển những tư
tưởng lý luận của Lênin, trong đó có những quan niệm của Người về chính trị trong thực tế
lịch sử hiện nay là một vấn đề cần thiết.
Nhắc đến quan điểm của Lênin về chính trị trong chủ nghĩa xã hội là nhắc đến quan
niệm về bản chất giai cấp của chính trị. Ơng cho rằng, thực chất của vấn đề chính trị là vấn đề
quyền lực, biểu hiện ở chỗ quyền lực của nhà nước, giai cấp hay lực lượng xã hội nào nắm
giữ quyền lực đó để thực hiện lợi ích và quyền lực của mình trong xã hội. Chủ nghĩa xã hội là

chế độ xã hội phải đạt trình độ phát triển cao và thực chất về dân chủ, trước hết là dân chủ về
chính trị, làm cho chính trị trở thành sức mạnh của quần chúng nhân dân trong hoạt động
quản lý nhà nước. Vì vậy, để thực hiện lợi ích thực sự của mình, nhân dân phải có những
người đại diện thực sự trung thành với lợi ích của mình và đấu tranh cho lợi ích đó. Người đại
diện cao nhất đại diện cho quần chúng nhân dân - Đảng Cộng sản - cần có địa vị chủ đạo .
Tiếp đó, chính trị là sự biểu hiện tập trung của kinh tế, không thể không giữ địa vị ưu
tiên so với kinh tế. Luận điểm này đã khái quát được nguồn gốc và bản chất của chính trị và
mấu chốt của những mục đích, nhiệm vụ của chính trị. Suy cho cùng thì lợi ích kinh tế chính
là ngun nhân xã hội của những hành động chính trị và lý do tồn tại của toàn bộ hệ thống
các tổ chức chính trị của xã hội là bảo vệ lợi ích kinh tế của giai cấp thống trị. Giai cấp vô sản
từ chỗ giành chính quyền đến việc sử dụng chính quyền để quản lý xã hội và xây dựng một
xã hội mới đã có thay đổi về mục tiêu chính trị. Trọng tâm của chính trị cũng chuyển từ
nhiệm vụ giành chính quyền sang nhiệm vụ xây dựng kinh tế, theo sự xác định của Lênin, đó
là thứ chính trị cần thiết nhất, quan trọng nhất, có cơ sở xã hội sâu xa nhất. Khi nói về sự thay
đổi trọng tâm của cơng tác kinh tế và chính trị, xác định nhiệm vụ chủ yếu lúc này là quản lý,
Lênin cho rằng: "Muốn quản lý được tốt thì ngồi cái tài biết thuyết phục, biết chiến thắng
trong cuộc nội chiến còn phải biết tổ chức trong lĩnh vực thực tiễn. Đó là nhiệm vụ khó khăn
nhất, vì vấn đề là phải có tổ chức theo phương thức mới những cơ sở sâu xa nhất, những cơ
sở kinh tế của đời sống của hàng chục, hàng chục triệu con người". Như vậy, để có thể hồn
thành được những nhiệm vụ kinh tế, khơng chỉ cần tới kinh nghiệm mà cịn tri thức, kỹ thuật,
phương pháp quản lý, tổ chức, cần các chuyên gia có tài. Người nêu lên những yêu cầu thực
tế: một mặt cần phải biết nghiên cứu cẩn thận, học hỏi những kinh nghiệm, tri thức của các
chuyên gia tư sản tài giỏi; mặt khác, phải nhanh chóng đào tạo và sử dụng hợp lý các cán bộ
của chế độ mới.
Một quan điểm phổ biến nữa là “chính trị là một khoa học và một nghệ thuật”. Khoa
học và nghệ thuật trong chính trị chính là tính thống nhất hữu cơ của lý luận và phương pháp,
của hệ thống các quan điểm, nguyên tắc chi phối hành động chính trị với những cách thức,
phương pháp, thủ đoạn của chính trị. Lênin nói rằng điều đó khơng phải tự nhiên mà có, địi



hỏi phải có một sự cố gắng, giai cấp vơ sản muốn thắng giai cấp tư sản thì phải đào tạo được
những chính trị gia khơng thua kém các chính trị gia của giai cấp tư sản. Tính khoa học và
nghệ thuật của chính trị biểu hiện nhà chính trị phải biết tơn trọng tính khách quan, phát hiện
đúng quy luật khách quan và vận dụng sáng tạo các quy luật đó vào thực tiễn các hành động
chính trị kết hợp sự nhạy cảm, với tính khơn khéo, nhanh trí của mình đối với các phản ứng
chính trị kịp thời mà tình thế địi hỏi. Điều đó địi hỏi nhà chính trị phải có sự tinh tế và nhạy
bén về chính trị, phải có sáng kiến và khả năng tìm tịi những quyết định chính trị vốn khơng
dễ dàng. Lênin đã có sự chỉ dẫn quý giá về mặt triết học, vũ trang cho các nhà chính trị những
tri thức, phương pháp luận cần thiết khi tiến hành các hoạt động chính trị, Người thường
xuyên lưu ý rằng "Muốn đặt vấn đề một cách đúng đắn nhất thì phải chuyển từ những khái
niệm trừu tượng trống rỗng sang cái cụ thể". Để giải quyết thành công những vấn đề cụ thể
trong những tình huống riêng biệt mà khơng phạm sai lầm chính trị trong lý luận và thực tiễn,
nhà chính trị không được phép xem thường những vấn đề chung, những lý luận cơ bản. Sự
hời hợt trong nhận thức lý luận có nguy cơ dẫn tới những sai lầm trong hành động thực tiễn
như: chủ quan, duy ý chí, máy móc một cách mù qng...
Vai trị của con người dưới chủ nghĩa xã hội không chỉ thể hiện trong lĩnh vực chính
trị mà trong tồn bộ mọi lĩnh vực, mọi vấn đề của chủ nghĩa xã hội. Chiến lược phát triển xã
hội theo các mục tiêu và giá trị của chủ nghĩa xã hội thật ra quy tụ lại ở chiến lược con người.
Đó là thực chất của vấn đề phương diện con người trong chính trị với ý nghĩa: nền chính trị
thấm nhuần sâu xa nhất tính nhân dân, tinh thần dân chủ và chủ nghĩa nhân đạo phải là chính
trị phục vụ con người, vì con người.
1.2 Đặc điểm hệ thống chính trị Việt Nam
Hệ thống chính trị Việt Nam cũng được tổ chức theo những mô hình phổ biến của hệ
thống chính trị các nước trên thế giới. Mặt khác hệ thống chính trị Việt Nam cũng có những
đặc điểm riêng.
Thứ nhất, hệ thống chính trị Việt Nam được xây dựng trên cơ sở lý luận của chủ
nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, có tham khảo kinh nghiệm của thế giới.
Tồn bộ hệ thống chính trị đều được tổ chức và hoạt động trên nền tảng tư tưởng là
chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Đảng ta xác định “Chủ nghĩa Mác - Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động cách mạng”.

Thứ hai, hệ thống chính trị Việt Nam có 1 chính đảng duy nhất lãnh đạo và cầm
quyền là Đảng cộng sản Việt Nam.
Chế độ chính trị ở Việt Nam là thể chế chính trị một đảng duy nhất cầm quyền. Trong
những giai đoạn lịch sử nhất định, ngồi Đảng Cộng sản Việt Nam, cịn có Đảng Dân chủ và
Đảng Xã hội. Tuy nhiên, hai đảng này được tổ chức và hoạt động như những đồng minh
chiến lược của Đảng Cộng sản Việt Nam, thừa nhận vai trò lãnh đạo và vị trí cầm quyền duy
nhất của Đảng Cộng sản Việt Nam. Hệ thống chính trị ở Việt Nam khơng tồn tại các đảng
chính trị đối lập.
Hệ thống chính trị gắn liền với vai trị tổ chức và lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt
Nam. Mỗi tổ chức thành viên của hệ thống chính trị đều do Đảng Cộng sản Việt Nam sáng
lập vừa đóng vai trị là hình thức tổ chức quyền lực của nhân dân (Nhà nước), tổ chức tập


hợp, đồn kết quần chúng, đại diện cho ý chí và nguyện vọng của quần chúng (Mặt trận Tổ
quốc và các tổ chức chính trị – xã hội), vừa là tổ chức mà qua đó Đảng Cộng sản thực hiện sự
lãnh đạo chính trị đối với xã hội.
Đảng lãnh đạo xã hội chủ yếu thông qua Nhà nước và các đoàn thể quần chúng.
Đường lối, chủ trương, quan điểm của Đảng được Nhà nước tiếp nhận, thể chế hóa cụ thể
bằng pháp luật và những chủ trương, chính sách, kế hoạch, chương trình cụ thể. Vì vậy, Đảng
ln quan tâm đến việc xây dựng Nhà nước và bộ máy của Nhà nước, đồng thời kiểm tra việc
Nhà nước thực hiện các Nghị quyết của Đảng.
Đảng lãnh đạo xã hội thông qua hệ thống tổ chức Đảng các cấp và đội ngũ cán bộ,
đảng viên của Đảng. Đảng lãnh đạo công tác cán bộ bằng việc xác định đường lối, chính sách
cán bộ, lựa chọn, bố trí, giới thiệu cán bộ có đủ tiêu chuẩn vào các cơ quan lãnh đạo của Nhà
nước và các đoàn thể quần chúng và các tổ chức chính trị – xã hội.
Ngồi ra, Đảng lãnh đạo bằng phương pháp giáo dục, thuyết phục và nêu gương, làm
công tác vận động quần chúng, lãnh đạo thực hiện tốt quy chế dân chủ…
Thứ ba, hệ thống chính trị Việt Nam là một hệ thống mang tính thống nhất và tập
trung quyền lực.
Tính thống nhất của hệ thống chính trị xuất phát từ nguồn gốc quyền lực của nhân

nhân ủy quyền cho Đảng, Nhà nước để thực hiện mục đích chung. Mục đích chính trị của
tồn bộ hệ thống là: xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản ở Việt Nam
và mục tiêu cụ thể được xác định là dân giàu, nước mạnh, dân chủ, cơng bằng, văn minh.
Hệ thống chính trị ở Việt Nam bao gồm nhiều tổ chức có tính chất, vị trí, vai trị, chức
năng khác nhau nhưng có quan hệ chặt chẽ, gắn bó với nhau, tạo thành một thể thống nhất.
Sự thống nhất của các thành viên đa dạng, phong phú về tổ chức, phương thức hoạt động
trong hệ thống chính trị đã tạo điều kiện để phát huy sức mạnh tổng hợp và tạo ra sự cộng
hưởng sức mạnh trong tồn bộ hệ thống.
Tính thống nhất của hệ thống chính trị ở nước ta được xác định bởi các yếu tố sau:
▪ Sự lãnh đạo thống nhất của một đảng duy nhất cầm quyền
▪ Sự thống nhất về mục tiêu chính trị của tồn bộ hệ thống là xây dựng chủ nghĩa xã hội
ở Việt Nam với nội dung: Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
▪ Sự thống nhất ở nguyên tắc cơ bản trong tổ chức và hoạt động là tập trung dân chủ.
▪ Sự thống nhất của hệ thống tổ chức ở từng cấp, từ Trung ương đến địa phương
Thứ tư, hệ thống chính trị Việt Nam mang bản chất dân chủ nhân dân, gắn bó mật
thiết với nhân dân, chịu sự kiểm tra, giám sát của nhân dân.
Đây là đặc điểm có tính ngun tắc của hệ thống chính trị ở Việt Nam. Đặc điểm này
khẳng định hệ thống chính trị Việt Nam khơng chỉ gắn với chính trị, quyền lực chính trị, mà
cịn gắn với xã hội. Trong hệ thống chính trị, có các tổ chức chính trị (như Đảng, Nhà nước),
các tổ chức vừa có tính chính trị, vừa có tính xã hội (như Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức
chính trị – xã hội khác). Do vậy, hệ thống chính trị khơng đứng trên xã hội, tách khỏi xã hội,
mà là một bộ phận của xã hội, gắn bó với xã hội. Cầu nối quan trọng giữa hệ thống chính trị
với xã hội chính là Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội.


Sự gắn bó mật thiết giữa hệ thống chính trị với nhân dân được thể hiện trên các yếu
tố:
▪ Đây là quy luật tồn tại của Đảng, là nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Đảng cầm
quyền.
▪ Nhà nước là nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.

▪ Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị – xã hội là hình thức tập hợp, tổ chức của
chính các tầng lớp nhân dân.
▪ Hệ thống chính trị là trường học dân chủ của nhân dân. Mỗi tổ chức trong hệ thống
chính trị là phương thức thực hiện quyền làm chủ của nhân dân.
Thứ năm, hệ thống chính trị Việt Nam có sự kết hợp giữa tính giai cấp và tính dân
tộc
Đặc điểm nổi bật của hệ thống chính trị ở Việt Nam là hệ thống chính trị đại diện cho
nhiều giai cấp, tầng lớp nhân dân. Các giai cấp, tầng lớp nhân dân được đại diện bởi các tổ
chức thành viên trong hệ thống chính trị, đều thừa nhận vai trò lãnh đạo của giai cấp cơng
nhân. Do vậy, hệ thống chính trị ở nước ta mang bản chất giai cấp cơng nhân và tính dân tộc
sâu sắc.
Lịch sử nền chính trị Việt Nam là cuộc đấu tranh giải phóng giai cấp gắn liền và bắt
đầu từ mục tiêu giải phóng dân tộc, bảo vệ nền độc lập dân tộc. Các giai cấp, dân tộc đoàn kết
trong đấu tranh giành và bảo vệ nền độc lập dân tộc, hợp tác để cùng phát triển. Sự tồn tại của
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam với tư cách là thành viên quan trọng của hệ thống chính trị là yếu
tố quan trọng tăng cường sự kết hợp giữa giai cấp và dân tộc.
Sự kết hợp giữa tính giai cấp và tính dân tộc được khẳng định trong bản chất của từng
tổ chức thuộc hệ thống chính trị. Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp
công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam. Nhà
nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân
dân. Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội đã gắn kết vấn đề dân tộc với vấn đề giai
cấp, tạo nên sức mạnh tổng hợp của toàn bộ hệ thống chính trị. Sự phân biệt giữa dân tộc và
giai cấp mang tính tương đối và khơng có ranh giới rõ ràng.
1.3 Kết cấu tổ chức hệ thống chính trị Việt Nam
Hệ thống chính trị nước ta bao gồm Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam và các đoàn thể nhân dân như Tổng liên đoàn lao động Việt Nam, Đoàn
Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội nơng dân Việt Nam, Hội Liên hiệp phụ nữ Việt
Nam, Hội cựu chiến binh Việt Nam.
Trong hệ thống chính trị nước ta Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo nhà nước và xã
hội, là hạt nhân của hệ thống chính trị. Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai

cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam;
đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của dân tộc. Đảng
lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho
hành động, lấy tập trung dân chủ làm nguyên tắc tổ chức cơ bản. Đảng lãnh đạo hệ thống
chính trị, đồng thời là bộ phận của hệ thống ấy. Đảng gắn bó mật thiết với nhân dân, tôn trọng


và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng, chịu sự giám
sát của nhân dân, hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật.
Nhà nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam là trụ cột của hệ thống chính trị - bao
gồm Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ, hệ thống tư pháp (Tòa án và Viện Kiểm sát nhân
dân) và chính quyền các địa phương.
Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực Nhà nước cao
nhất của nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Quốc hội nước ta có chức năng: Lập
pháp; quyết định những vấn đề xã hội, quốc phòng an ninh của đất nước, những nguyên tắc
chủ yếu về tổ chức và hoạt động của bộ máy Nhà nước, về quan hệ xã hội và hoạt động của
công dân. Quốc hội thực hiện quyền giám sát tối cao đối với hoạt động của Nhà nước.
Chủ tịch nước là người đứng đầu Nhà nước, thay mặt nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam về đối nội và đối ngoại. Do Quốc hội bầu trong số đại biểu Quốc hội, phải
chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Quốc hội.
Chính phủ là cơ quan chấp hành của Quốc hội, cơ quan hành chính Nhà nước cao
nhất của nước Cộng hịa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Chính phủ thống nhất quản lý việc thực
hiện các nhiệm vụ chính trị kinh tế, văn hóa, xã hội quốc phịng, an ninh và đối ngoại của
Nhà nước. Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ chịu trách nhiệm trước Quốc hội, Uỷ ban
thường vụ Quốc hội và Chủ tịch nước; phải báo cáo công tác trước Quốc hội, Uỷ ban Thường
vụ Quốc hội và Chủ tịch nước.
Nhân dân các địa phương bầu ra Hội đồng nhân dân cấp mình. Hội đồng nhân dân là
cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương. Hội đồng nhân dân bầu ra Uỷ ban nhân dân, Uỷ
ban nhân dân là cơ quan chấp hành của Hội đồng nhân dân, là cơ quan hành chính Nhà nước
ở địa phương, chịu trách nhiệm chấp hành Hiến pháp, luật, các văn bản của các cơ quan Nhà

nước cấp trên và nghị quyết của Hội đồng nhân dân.
Tòa án nhân dân và Viện Kiểm sát nhân dân
Chức năng nhiệm vụ của Tòa án nhân dân và Viện Kiểm sát nhân dân là bảo vệ Hiến
pháp, pháp luật của Nhà nước ta. Để thực hiện nhiệm vụ đó thì các cơ quan này phải thực
hiện một số nhiệm vụ như điều tra, tố tụng, xét xử, thi hành án...
Hệ thống tòa án ở nước ta bao gồm: Tòa án nhân dân tối cao, các tòa án nhân dân địa
phương, các tòa án quân sự và các tòa án khác do luật định. Đó là những cơ quan xét xử của
nước Cộng hịa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Trong tình hình đặc biệt, Quốc hội có thể quy định thành lập tịa án đặc biệt. Tịa án
xét xử cơng khai. Các thẩm phán và Hội thẩm khi xét xử chỉ tuân theo pháp luật.


Viện Kiểm sát nhân dân tối cao thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư
pháp, các Viện Kiểm sát nhân dân địa phương, các Viện Kiểm sát quân sự, thực hành quyền
công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp trong phạm vi trách nhiệm do luật định.
Ở nước ta, quyền lực nhà nước tập trung vào Quốc hội (cơ quan đại biểu cao nhất, cơ
quan quyền lực nhà nước cao nhất). Các cơ quan khác như Chủ tịch nước, Chính phủ, Tịa án
nhân dân và Viện Kiểm sát đều được Quốc hội cử ra, chịu trách nhiệm trước Quốc hội và báo
cáo công tác trước Quốc hội. Chính phủ, Cịn là cơ quan chấp hành của Quốc hội.
Mặc dù quyền lực Nhà nước là thống nhất khơng thể phân chia, nhưng có phân cơng,
phân nhiệm rõ ràng, tạo cho các chủ thể quyền lực chủ động sáng tạo trong thực thi quyền lực
Nhà nước.
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và một số thành viên của Mặt trận là một bộ phận của hệ
thống chính trị; Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là tổ chức liên minh chính trị, liên hiệp tự nguyện
của tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội và các cá nhân tiêu biểu trong
các giai cấp, tầng lớp xã hội, các dân tộc, tôn giáo và người Việt Nam định cư ở nước ngoài.
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là một bộ phận của hệ thống chính trị, là cơ sở chính trị của chính
quyền nhân dân. Đảng Cộng sản Việt Nam vừa là thành viên vừa là người lãnh đạo Mặt trận.
Mặt trận hoạt động theo nguyên tắc tự nguyện, hiệp thương dân chủ, phối hợp và thống nhất
hành động giữa các thành viên.

Các đồn thể chính trị-xã hội của nhân dân lao động: Tổng liên đồn lao động Việt
Nam; Hội nơng dân Việt Nam; Hội phụ nữ; Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh; Hội cựu
chiến binh. Tùy theo tính chất, tơn chỉ và mục đích đã được xác định, vận động, giáo dục
đoàn viên, hội viên chấp hành luật pháp, chính sách; chăm lo, bảo vệ các quyền và lợi ích hợp
pháp, chính đáng của đoàn viên, hội viên; giúp đồn viên, hội viên nâng cao trình độ về mọi
mặt và xây dựng cuộc sống mới; tham gia quản lý nhà nước, quản lý xã hội. Đảng tơn trọng
tính tự chủ, ủng hộ mọi hoạt động tự nguyện, tích cực, sáng tạo và chân thành lắng nghe ý
kiến đóng góp của Mặt trận và các đoàn thể. Đảng, Nhà nước có cơ chế, chính sách, tạo điều
kiện để Mặt trận và các đồn thể nhân dân hoạt động có hiệu quả, thực hiện vai trò giám sát
và phản biện xã hội.
CHƯƠNG II. QUÁ TRÌNH ĐCS LÃNH ĐẠO ĐỔI MỚI HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ
2006-2016
2.1 Bối cảnh tác động đến q trình đổi mới hệ thống chính trị giai đoạn 2006-2016
2.1.1 Bối cảnh đất nước Việt Nam
a, Giai đoạn 2006-2010
Giai đoạn 2006-2010 tiếp tục chứng kiến động lực tăng trưởng, nhưng sau đó nền
kinh tế phải chịu tác động từ cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu năm 2008 và lạm phát tăng
cao. Tốc độ giảm nghèo chậm lại trong khi bất bình đẳng về mức sống giữa các nhóm xã hội
và khu vực địa lý gia tăng. Tuy nhiên, việc Việt Nam gia nhập WTO đã hỗ trợ quá trình phục


hồi của nền kinh tế. Đến năm 2010, Việt Nam đã chính thức thốt khỏi nhóm các quốc gia
nghèo nhất trên thế giới và gia nhập nhóm các quốc gia có thu nhập trung bình thấp.
* Kinh tế
Do tác động của cuộc khủng hoảng tài chính thế giới, nền kinh tế phát triển chậm lại
đáng kể trong năm sau đó và duy trì tốc độ tăng trưởng khiêm tốn này đến cuối giai đoạn.
Tình hình kinh tế trở nên phức tạp do cuộc khủng hoảng tài chính tồn cầu xảy ra vào năm
2008.
Việt Nam gia nhập WTO vào năm 2007: Giai đoạn 2006-2010 ghi nhận một biến
chuyển mang tính lịch sử khi Việt Nam chính thức trở thành thành viên thứ 150 của Tổ chức

thương mại thế giới vào ngày 1 tháng 11 năm 2007. Sự kiện này đánh dấu những nỗ lực
không ngừng của quốc gia trong việc mở rộng chính sách kinh tế đối ngoại, tăng cường và
hồn thiện thể chế, luật pháp và nhiều cam kết khác trong việc theo đuổi một nền kinh tế định
hướng thị trường. Với dấu mốc này, Việt Nam đã có thể hội nhập sâu hơn vào nền kinh tế
toàn cầu và tạo ra một môi trường kinh doanh hấp dẫn, chuẩn bị cho một làn sóng đầu tư vốn
nước ngồi, và gia tăng hoạt động thương mại. Giai đoạn 2006 - 2010 là giai đoạn thứ hai
triển khai thực hiện quy hoạch tổng thể cải cách hành chính (2001-2010). Để củng cố việc
thực hiện cải cách, Nghị quyết số 17-NQ/ TW của Ban chấp hành Trung ương Đảng đã vạch
ra 9 hướng giải pháp nhằm đạt được hiệu quả cao hơn trong việc cải cách hành chính. Để
triển khai Nghị quyết này, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 53/NQ-CP, trong đó nhấn
mạnh hơn vào việc đơn giản hóa thủ tục hành chính và tái cơ cấu tổ chức cùng với phân cấp
quản lý.
*Văn hoá - Xã hội
Văn hoá - xã hội có tiến bộ trên nhiều mặt, việc gắn kết giữa phát triển kinh tế với giải
quyết các vấn đề xã hội có chuyển biến tích cực, chỉ số phát triển con người được nâng lên.
Trong 5 năm, đã tạo việc làm cho 7,5 triệu lao động; các thành phần kinh tế ngoài nhà nước
thu hút gần 91% lực lượng lao động xã hội và tạo 90% việc làm mới. Xuất khẩu lao động và
chuyên gia bằng 2,3 lần so với 5 năm trước. Năm 2005, thất nghiệp ở thành thị giảm xuống
còn 5,3%; thời gian sử dụng lao động ở nơng thơn đạt 80,65%. Thu nhập bình qn đầu
người tăng từ 5,7 triệu đồng (năm 2000) lên trên 10 triệu đồng (năm 2005), tăng 12,1%/năm
và chỉ số phát triển con người được nâng lên.
*Chính trị:
Chính trị - xã hội ổn định, quốc phòng, an ninh được tăng cường, quan hệ đối ngoại
được mở rộng, tạo môi trường thuận lợi để phát triển kinh tế - xã hội.
Cải cách hành chính có bước tiến mới, hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước được tăng
cường một bước; dân chủ trong xã hội tiếp tục được phát huy; an ninh chính trị, trật tự an
tồn xã hội được bảo đảm, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ được giữ vững.


Tiềm lực quốc phòng, an ninh được tăng cường; đời sống vật chất, tinh thần và trang

bị kỹ thuật của lực lượng vũ trang được cải thiện. Các tuyến phòng thủ, thế trận quốc phịng
tồn dân và an ninh nhân dân được củng cố. Việc kết hợp giữa phát triển kinh tế - xã hội với
bảo đảm quốc phòng, an ninh được thực hiện tốt hơn. Công tác bảo vệ an ninh chính trị và
giữ gìn trật tự an tồn xã hội đạt được thành tựu quan trọng; đã phát hiện, ngăn chặn nhiều
âm mưu phá hoại của các thế lực thù địch; kiềm chế được tội phạm hình sự; xử lý nghiêm
tội tham nhũng.
Hoạt động chính trị đối ngoại không ngừng được mở rộng cả trong quan hệ nhà nước
và quan hệ nhân dân; đạt được kết quả quan trọng trong việc thực hiện đường lối đối ngoại
của Đảng và Nhà nước, nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế. Cơng tác quốc
phịng, an ninh và đối ngoại đã góp phần giữ vững ổn định chính trị, xã hội, tạo mơi trường
hịa bình, ổn định và điều kiện thuận lợi cho việc thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã
hội của đất nước.
b, Giai đoạn 2010-2016
Trong giai đoạn 2011-2015, kinh tế vĩ mô dần được ổn định, tăng trưởng kinh tế duy
trì ở mức hợp lý và có dấu hiệu phục hồi bắt đầu từ năm 2013. Giai đoạn này cũng chứng
kiến quá trình tái cơ cấu sâu rộng, đặc biệt về đầu tư công, các doanh nghiệp nhà nước và hệ
thống ngân hàng. Tình trạng nghèo kinh niên ở các khu vực miền núi và vùng sâu vùng xa,
trong các cộng đồng dân tộc thiếu số được coi là trọng tâm của chiến lược giảm nghèo bền
vững. Giai đoạn này cũng ghi nhận sự tăng trưởng nhanh chóng của Cơng nghệ thơng tin và
truyền thông, là một trong những phương tiện quan trọng giúp nâng cao tính cạnh tranh của
nền kinh tế.
● Kinh tế
Hậu quả của sự tăng trưởng kinh tế nhanh của thời kỳ trước đó cùng với chính sách
tiền tệ và tài khóa nới lỏng trong 2009 - 2010 khiến nền kinh tế Việt Nam phải gánh chịu lạm
phát cao từ cuối năm 2010 và đạt đỉnh điểm vào năm 2011. Tỷ lệ lạm phát tăng từ 11,75%
đến 18,13% trong khi tốc độ tăng trưởng kinh tế đã giảm từ 6,78% xuống 5,89%.
Bước vào năm 2012, tình hình kinh tế-xã hội tiếp tục bị ảnh hưởng bởi suy giảm kinh
tế toàn cầu cũng như các chính sách thắt chặt nhằm ổn định nền kinh tế từ nửa sau năm 2011.
Năm 2013, mặc dù hoạt động kinh tế tồn cầu có một số dấu hiệu phục hồi tích cực nhưng
triển vọng cho nền kinh tế quốc tế vẫn không ổn định, đặc biệt đối với các nền kinh tế đang

phát triển. Những biến đổi tiêu cực toàn cầu đã ảnh hưởng đến nền kinh tế trong nước do thị
trường và nhu cầu hàng hóa và dịch vụ bị thu hẹp. Năm 2014, sản xuất và kinh doanh tiếp tục
chịu những bất ổn kinh tế và chính trị thế giới (phục hồi chậm sau suy giảm, giá dầu giảm)
cùng với những khó khăn cố hữu vốn chưa được giải quyết trong những năm trước đây như
khả năng hấp thụ vốn thấp, áp lực về các khoản nợ xấu cao, cầu trong nước thấp,... Chính phủ
đã thực hiện một số biện pháp quan trọng trong năm 2014 để cải thiện điều kiện kinh doanh.
Mặc dù nền kinh tế vẫn chưa hồi phục về mức như năm 2008, hiệu quả tổng thể của nền kinh
tế trong năm 2014 đã tốt hơn so với mục tiêu và dự báo của Chính phủ..


● Văn hố - Xã hội
Văn hóa, xã hội có bước phát triển, an sinh xã hội cơ bản được bảo đảm, đời sống
nhân dân tiếp tục được cải thiện. Phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ, cơng bằng xã hội đạt
được những kết quả tích cực. Chính sách an sinh xã hội được tiếp tục bổ sung, hoàn thiện trên
các lĩnh vực lao động, việc làm, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, người có cơng và bảo trợ xã
hội. An sinh xã hội cơ bản được bảo đảm, phúc lợi xã hội và đời sống nhân dân tiếp tục được
cải thiện. Nhận thức của người dân về tự bảo đảm an sinh xã hội có tiến bộ, huy động nguồn
lực xã hội cho chính sách xã hội tốt hơn. Đã hoàn thành trước thời hạn nhiều mục tiêu Phát
triển Thiên niên kỷ. Giảm nghèo chậm hơn, nghèo kinh niên và bất bình đẳng vẫn tồn tại: Sau
năm 2010, Việt Nam tiếp tục duy trì những tiến bộ trong công tác giảm nghèo, đưa tỷ lệ hộ
nghèo giảm xuống còn 17,2% theo chuẩn quốc tế năm 2012, tương đương với 9,8% theo
chuẩn quốc gia năm 2013. Tuy nhiên, chênh lệch trong giảm nghèo vẫn tồn tại như một thách
thức lớn cho cơng tác giảm nghèo.
● Chính trị
Quốc phòng, an ninh được tăng cường, chủ quyền quốc gia được giữ vững. Tiềm lực
quốc phòng, an ninh được tăng lên. Kiên quyết, kiên trì đấu tranh bằng các giải pháp phù hợp
để bảo vệ chủ quyền quốc gia và giữ vững mơi trường hịa bình, ổn định cho phát triển kinh
tế - xã hội. Thế trận quốc phịng tồn dân, an ninh nhân dân được củng cố và gắn kết chặt chẽ
hơn. Sức mạnh tổng hợp và khả năng sẵn sàng chiến đấu của Quân đội nhân dân, Công an
nhân dân được nâng lên. Công tác nghiên cứu khoa học về lĩnh vực quốc phòng đạt được một

số kết quả, đáp ứng tốt hơn yêu cầu phát triển kỹ thuật quốc phòng. Kết hợp hiệu quả hơn
giữa phát triển kinh tế với bảo đảm quốc phịng, an ninh. Chính trị, xã hội ổn định; an ninh
quốc gia và trật tự, an tồn xã hội được bảo đảm, khơng để bị động, bất ngờ. Ứng phó kịp
thời với các mối đe dọa an ninh phi truyền thống. Cơng tác phịng, chống tội phạm và bảo
đảm trật tự, an toàn giao thơng, phịng, chống cháy nổ và an tồn lao động được tập trung chỉ
đạo, đạt được một số kết quả tích cực.
2.1.2. Bối cảnh thế giới:
Cuộc khủng hoảng tài chính bắt đầu từ nửa cuối năm 2008 kéo dài sang năm 2009 lan
rộng trên toàn thế giới đã khiến GDP toàn cầu năm 2009 giảm 5.826 tỷ USD so với năm
2008, kéo tốc độ phát triển trung bình của tồn giai đoạn đi xuống, từ 4,04%/năm cho giai
đoạn 2001 đến 2007, xuống còn 3,2% cho cả giai đoạn 2001-2010. Trong năm 2010, ước tính
kinh tế thế giới đã bước đầu phục hồi với tốc độ tăng trưởng là 4,8% tuy nhiên tốc độ tăng
trưởng này được dự báo sẽ giảm xuống 4,2% trong năm 2011 và tăng trở lại vào năm 2012
(IMF).
Xu hướng tồn cầu hóa: Trong mười năm đầu của thế kỷ 21, kinh tế thế giới đã chứng
kiến tốc độ tồn cầu hóa sâu rộng và nhanh chóng. Sự hình thành các tổ chức kinh tế thế giới
và khu vực, các khu vực mậu dịch tự do, các hiệp định song phương và đa phương đã xóa bỏ
các rào cản thương mại, rào cản sản xuất và rào cản về vốn, tăng khả năng tiếp cận dễ dàng
với các nguồn lực trên thế giới và gia tăng dòng chảy quốc tế về vốn, hàng hóa và dịch vụ.


Tuy nhiên, q trình tồn cầu hóa cũng kéo theo mặt trái của nó. Sự gắn kết giữa các
nền kinh tế càng mạnh thì sự tương tác hay phản ứng dây chuyền càng lan nhanh và rộng.
Một sự thay đổi nhỏ trên các nền kinh tế chủ đạo của thế giới như Hòa Kỳ, Châu Âu, Trung
Quốc,… ngay lập tức có thể gây ra sự xáo trộn mạnh mẽ đối với kinh tế thế giới. Tiêu biểu
như cuộc khủng hoảng tài chính xuất phát từ Hịa Kỳ vào cuối năm 2007. Những tác động
tiêu cực của cuộc khủng hoảng đang khiến cho tồn cầu hóa có xu hướng đảo chiều. G7
(nhóm các nước cơng nghiệp phát triển) và G20 (nhóm các bộ trưởng tài chính và các thống
đốc ngân hàng trung ương của 20 nền kinh tế lớn nhất thế giới) theo đánh giá của một số
chuyên gia kinh tế, đã khơng thể đưa ra biện pháp đối phó một cách hiệu quả đối với cuộc

khủng hoảng tài chính 2008-2009, ngoài việc mở rộng Quỹ tiền tệ quốc tế. Bên cạnh đó, cuộc
khủng hoảng cũng đã phơi bày những điểm yếu trong Liên minh Châu Âu. Sự bất đồng về
kinh tế đang gia tăng khi ba quốc gia mạnh nhất EU là Pháp, Đức và Anh không đạt được
thỏa thuận trong việc đối phó với cuộc khủng hoảng và đã khước từ những lời kêu gọi giúp
đỡ khẩn cấp của các nước Đơng Âu. Tự do hóa thị trường là cơ sở cơ bản của tồn cầu hóa đã
tỏ ra là một cơ chế khơng đủ mạnh để có thể duy trì sự phát triển lành mạnh của nền kinh tế,
can thiệp của chính phủ là sự cần thiết. Sau những sự kiện có tính liên hồn lan rộng giữa các
nước trong cuộc khủng hoảng vừa qua, chính phủ các nước đang dần nhìn lại tầm quan trọng
của lý thuyết Keynes cũng như vai trị của bàn tay hữu hình, có thể sẽ tiến hành cơ cấu lại các
lĩnh vực kinh tế và cơ chế quản lý giám sát từ Nhà nước nhằm đảm bảo sự hội nhập hợp lý,
duy trì mức độ độc lập tương đối như một rào cản ứng phó với các tình huống xấu từ thị
trường thế giới.
2.2. Chủ trương Đảng Cộng sản về đổi mới nội dung, phương thức hoạt động (20062016)
Ðất nước ta bước vào năm 2006 với một sự kiện chính trị trọng đại: Ðại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ X của Ðảng Cộng sản Việt Nam. Ðại hội chính thức họp trong 8 ngày tại
Hà Nội, từ ngày 18 đến ngày 25-4-2006, vào thời điểm đất nước đã trải qua 20 năm đổi mới,
đạt những thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử. Những thành tựu đó chứng tỏ đường lối đổi
mới của Ðảng ta là đúng đắn, sáng tạo, phù hợp với thực tiễn Việt Nam.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X là một cột mốc quan trọng, khi nhận thức về chủ
nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ngày càng sáng tỏ hơn; hệ thống quan
điểm lý luận về công cuộc đổi mới, về xã hội xã hội chủ nghĩa và con đường đi lên chủ nghĩa
xã hội ở Việt Nam đã hình thành trên những nét cơ bản.
Trên cơ sở đó, đại hội đã đề ra những chủ trương về đổi mới nội dung, phương thức
hoạt động trong hệ thống chính trị của nước ta như sau:
Một là, phải kiên trì thực hiện đường lối và mục tiêu đổi mới, kiên định và vận dụng
sáng tạo, phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kiên định mục tiêu độc lập
dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Tích cực, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế phải gắn với chú
trọng xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, giữ vững truyền thống và bản sắc văn hoá dân
tộc.
Hai là, đặc biệt chăm lo củng cố, xây dựng Đảng cả về chính trị, tư tưởng và tổ chức.

Cơng cuộc đổi mới ln là một địi hỏi khách quan của Đảng cầm quyền lãnh đạo phải không
ngừng thích nghi, phù hợp với điều kiện hồn cảnh mới, mà ở đây là Đảng Cộng sản lãnh đạo


xã hội. Mọi thành tựu và khuyết điểm của công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
đều gắn liền với trách nhiệm lãnh đạo và hoạt động của Đảng. Lịch sử phát triển của Đảng ta
luôn gắn với công cuộc xây dựng và chỉnh đốn Đảng để ngang tầm với nhiệm vụ, đủ sức lãnh
đạo cách mạng Việt Nam. Muốn vậy Đảng phải nâng cao năng lực hoạch định đường lối,
chính sách; năng lực tổ chức chỉ đạo thực hiện, tổng kết lý luận thực tiễn, phải tạo thống nhất
nhận thức và hành động trong Đảng; lãnh đạo mặt trận và các đoàn thể quần chúng, tăng
cường mối quan hệ mật thiết với nhân dân.Phải xây dựng, chỉnh đốn Đảng đồng bộ, thường
xuyên, toàn diện, hiệu quả về chính trị, tư tưởng, tổ chức, từ đội ngũ cán bộ đến phương thức
lãnh đạo của Đảng.
Ba là, phát huy hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước, tính tích cực, chủ động,
sáng tạo của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân. Các thành viên phát huy được sức
mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị, góp phần vào việc vận hành tốt cơ chế “Đảng lãnh
đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ”.
Nếu Đại hội X (năm 2006) tập trung vào “Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến
đấu của Đảng” thì Đại hội XI (năm 2011) lấy “Tiếp tục nâng cao năng lực lãnh đạo và sức
chiến đấu của Đảng” làm một trong những thành tố quan trọng của chủ đề Đại hội. Tại Đại
hội XI (2011), Đảng đưa ra quan điểm “Đổi mới chính trị phải đồng bộ với đổi mới kinh tế
theo lộ trình thích hợp, trọng tâm là hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa,
đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa,
mở rộng dân chủ trong Đảng và trong xã hội gắn với tăng cường kỷ luật, kỷ cương”. Như
vậy, về đổi mới chính trị, Đảng tập trung ba lĩnh vực cơ bản, trọng yếu bao gồm:
Một là, đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng.
Hai là, xây dựng và nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.
Ba là, mở rộng dân chủ trong Đảng và trong xã hội gắn với tăng cường kỷ luật, kỷ
cương. Trong đó, đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng là cấp thiết và hàng đầu. Đặc biệt,

bắt đầu từ Đại hội XI, Đảng ta xác định quan hệ “giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị” là
một trong các quan hệ lớn cần giải quyết tốt trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội.
Tổng kết việc thực hiện Nghị quyết Đại hội XI về đổi mới chính trị, Đại hội XII
(2016) đã rút ra kết luận “Đổi mới chính trị chưa đồng bộ với đổi mới kinh tế, năng lực và
hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị chưa ngang tầm nhiệm vụ”. Từ thực trạng này, Đại
hội XII đề ra mục tiêu chung: “Đổi mới mạnh mẽ, toàn diện và đồng bộ, có bước đi phù hợp
trên các lĩnh vực, nhất là giữa kinh tế và chính trị”, đồng thời nhấn mạnh: “Tăng cường xây
dựng Đảng trong sạch, vững mạnh” ngay trong tiêu đề của Báo cáo chính trị.
Đại hội XII của Đảng tiếp tục chủ trương:
Một là, xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt, liên quan đến sự tồn vong của Đảng và
sự sống còn của chế độ. Đại hội đã nêu bật những kết quả quan trọng trong cơng tác xây dựng
Đảng cả về chính trị, tư tưởng và tổ chức. Hơn thế, trong 6 nhiệm vụ trọng tâm của cả nhiệm
kỳ Đại hội XII, thì 2 nhiệm vụ đầu tiên là về công tác xây dựng Đảng như sau: Thứ nhất, tăng
cường công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, nhất là xây dựng Đảng về đạo đức; ngăn chặn,
đẩy lùi sự suy thối về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”,
“tự chuyển hóa” trong nội bộ. Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là đội ngũ cán bộ cấp
chiến lược, đủ năng lực, phẩm chất và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ. Thứ hai, xây dựng tổ chức


bộ máy của tồn hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả; đẩy mạnh đấu
tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, quan liêu. Đổi mới, kiện toàn tổ chức bộ máy phải
gắn với hoàn thiện chức năng, nhiệm vụ, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, cơng chức.
Hai là, tiếp tục xây dựng, hồn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa do Đảng
lãnh đạo là nhiệm vụ trọng tâm của đổi mới hệ thống chính trị. Xây dựng Nhà nước phải tiến
hành đồng bộ cả lập pháp, hành pháp, tư pháp và được tiến hành đồng bộ với đổi mới hệ
thống chính trị theo hướng tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả; gắn với đổi mới kinh tế, văn hóa, xã
hội.
Ba là, bảo đảm tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. Dân chủ phải được thực
hiện đầy đủ, nghiêm túc trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Tăng cường, củng cố tổ
chức, đổi mới phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân để phát

huy hiệu quả quyền làm chủ của nhân dân. Điều chỉnh chức năng, nhiệm vụ Hội đồng nhân
dân, Ủy ban nhân dân các cấp phù hợp với tình hình thực tiễn và yêu cầu, nhiệm vụ mới.
Đại hội XII tiếp tục coi quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị là một trong
các quan hệ lớn cần giải quyết trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
2.3. Đảng chỉ đạo đổi mới hệ thống chính trị từ năm 2006 - 2016
Ðất nước ta bước vào năm 2006 với một sự kiện chính trị trọng đại: Ðại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ X của Ðảng Cộng sản Việt Nam. Ðại hội chính thức họp trong 8 ngày, từ
ngày 18 đến ngày 25-4-2006, nhưng những công việc chuẩn bị cho Ðại hội thì đã bắt đầu từ
gần hai năm về trước, một thời gian cần thiết cho thấy sự cẩn thận để xây dựng chu đáo các
văn kiện và phương án nhân sự, đồng thời tiến hành đại hội đảng các cấp. Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ X của Đảng (tháng 4-2006) đã xác định quan điểm và giải pháp xây dựng
hệ thống chính trị ở nước ta như sau:
Quan điểm đổi mới và xây dựng hệ thống chính trị được thống nhất tại đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ X của Đảng gồm:
Một là, kết hợp chặt chẽ ngay từ đầu đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị.
Xét trên tổng thể, Đảng ta bắt đầu công cuộc đổi mới từ đổi mới về tư duy chính trị thể hiện
trong việc hoạch định đường lối và các chính sách đối nội, đối ngoại. Trong những năm đầu,
Đảng tập trung trước hết vào việc thực hiện thắng lợi nhiệm vụ đổi mới kinh tế, khắc phục
khủng hoảng kinh tế - xã hội, tạo điều kiện để giữ vững ổn định chính trị, xây dựng, củng cố
niềm tin của nhân dân, tạo thuận lợi để đổi mới các mặt khác của đời sống xã hội, đồng thời
từng bước đổi mới chính trị. Đến Đại hội X, Đảng đã xác định đổi mới toàn diện, bao gồm
đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị theo những nguyên tắc xác định.
Hai là, đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động của hệ thống chính trị nhằm tăng
cường vai trò lãnh đạo của Đảng, hiệu lực quản lý của Nhà nước, phát huy quyền làm chủ của
nhân dân.
Đó là q trình làm cho hệ thống chính trị hoạt động năng động, có hiệu quả hơn, phù hợp
với đường lối đổi mới toàn diện, đồng bộ đất nước. Đặc biệt trong giai đoạn hiện nay là để
phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đẩy mạnh sự nghiệp cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với kinh tế tri thức, chủ động, tích cực hội nhập kinh tế quốc
tế…



Ba là, đổi mới hệ thống chính trị một cách tồn diện, đồng bộ, có kế thừa, có bước đi,
hình thức và cách làm phù hợp. Đảng xác định rõ ràng bài học kinh nghiệm từ giai đoạn
trước nhằm kế thừa thành tựu cũng như các bài học kinh nghiệm để đổi mới.
Bốn là, đổi mới mối quan hệ giữa các bộ phận cấu thành của hệ thống chính trị với
nhau và với xã hội, tạo ra sự vận động cùng chiều theo hướng tác động, thúc đẩy xã hội phát
triển; phát huy quyền làm chủ của nhân dân.
Chủ trương, giải pháp đổi mới và xây dựng hệ thống chính trị được thống nhất tại đại
hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng gồm:
Một là, xây dựng Đảng trong hệ thống chính trị.
Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động của hệ thống chính trị phải được
đặt trong tổng thể nhiệm vụ đổi mới và chỉnh đốn Đảng, tiến hành đồng bộ với đổi mới các
mặt của công tác xây dựng Đảng; kiên định các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Đảng,
thực hiện đúng nguyên tắc tập trung dân chủ; thực hiện dân chủ rộng rãi trong Đảng và trong
xã hội, đẩy nhanh phân cấp, tăng cường chế độ trách nhiệm cá nhân, nhất là cá nhân người
đứng đầu.
Hai là, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Chủ trương xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là sự khẳng định và thừa nhận
Nhà nước pháp quyền là một tất yếu lịch sử. Nó khơng phải là sản phẩm riêng của xã hội tư
bản chủ nghĩa mà là sản phẩm trí tuệ của xã hội lồi người của nền văn minh nhân loại.
Để xây dựng Nhà nước pháp quyền cần hồn thiện hệ thống pháp luật, tăng tính cụ thể, khả
thi của các quy định trong văn bản pháp luật. Xây dựng, hoàn thiện cơ chế kiểm tra, giám sát
tính hợp hiến, hợp pháp trong các hoạt động và quyết định của các cơ quan công quyền.
Ba là, xây dựng Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội trong hệ
thống chính trị.
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội có vai trị quan trọng trong việc
tập hợp, vận động đoàn kết rộng rãi các tầng lớp nhân dân; đại diện cho quyền và lợi ích hợp
pháp của nhân dân, đề xuất các chủ trương, chính sách về kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh,
quốc phòng… Nhà nước ban hành cơ chế để Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã

hội thực hiện tốt vai trò giám sát và phản biện xã hội.
Những quan điểm cơ bản của Đại hội XII về xây dựng hệ thống chính trị gồm:
Một là, với tư cách là hạt nhân lãnh đạo của hệ thống chính trị, Đảng phải thật sự
trong sạch, vững mạnh. Đại hội XII xác định sáu nhiệm vụ trong nhiệm kỳ (2016-2020),
trong đó nhiệm vụ trọng tâm đầu tiên là “Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn,
đẩy lùi sự suy thối về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện “tự diễn biến”, “tự
chuyển hóa” trong nội bộ. Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là đội ngũ cán bộ cấp
chiến lược, đủ năng lực, phẩm chất và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ” Với tư cách là một Đảng
“đạo đức và văn minh”, để thuyết phục quần chúng nhân dân ủng hộ, hưởng ứng thực hiện
Cương lĩnh, đường lối, nghị quyết của Đảng, Đại hội XII chủ trương đổi mới, nâng cao hiệu
quả công tác dân vận, tăng cường quan hệ máu thịt giữa Đảng với nhân dân. Củng cố vững
chắc niềm tin của nhân dân đối với Đảng; đội ngũ cán bộ, đảng viên phải thật sự tin dân,
trọng dân, gần dân, hiểu dân, học dân, dựa vào dân, có trách nhiệm với dân. Quy định rõ hơn
Đảng phục vụ nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân, chịu trách nhiệm trước nhân dân về


những quyết định của mình. Xuất phát từ nhận thức tham nhũng, lãng phí là một trong những
nguyên nhân căn bản làm giảm lòng tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước, ảnh hưởng
đến sự phát triển của đất nước, Đại hội XII đề ra quyết tâm:Kiên quyết phịng, chống tham
nhũng, lãng phí. Xây dựng cơ chế phịng ngừa, ngăn chặn quan hệ “lợi ích nhóm”; chống đặc
quyền, đặc lợi.
Hai là, nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của bộ máy nhà nước. Đại hội XII
nêu các phương hướng, nhiệm vụ nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của bộ máy
nhà nước. Cần tiếp tục xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền Xã hội chủ nghĩa do Đảng
lãnh đạo là nhiệm vụ trọng tâm của đổi mới hệ thống chính trị. Đại hội XII đề ra yêu cầu chú
trọng công tác xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, thông qua các biện pháp, như: đẩy mạnh
dân chủ hóa cơng tác cán bộ, quy định rõ trách nhiệm, thẩm quyền của mỗi tổ chức, mỗi cấp
trong xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức có phẩm chất chính trị vững vàng, có trình độ,
năng lực chuyên môn phù hợp, đáp ứng yêu cầu của giai đoạn mới. Thực hiện thí điểm dân
trực tiếp bầu một số chức danh ở cơ sở và ở cấp huyện; mở rộng đối tượng thi tuyển chức

danh cán bộ quản lý. Hồn thiện tiêu chí đánh giá và cơ chế kiểm tra, giám sát, kiểm sốt việc
thực thi cơng vụ; xác định rõ quyền hạn, trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan hành
chính.
Ba là, củng cố tổ chức, đổi mới nội dung, phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ
quốc và các đoàn thể nhân dân. Hệ thống chính trị nước ta là một hình thức tổ chức thực hiện
quyền lực chính trị của nhân dân, là phương thức quan trọng để nhân dân thực hiện quyền
làm chủ của mình. Để thực hiện tốt chức năng và nhiệm vụ quan trọng đó, ngồi việc xây
dựng Đảng trong sạch, vững mạnh và nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của bộ máy
nhà nước, cần phải tập trung xây dựng Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân.
Một số giải pháp xây dựng hệ thống chính trị theo quan điểm Đại hội XII của Đảng:
Một là, công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ của Đảng trong hệ thống chính trị
cần phải thể hiện đúng quan điểm “ý Đảng, lòng dân”, nghĩa là phải tạo cơ chế để nhân dân
được trực tiếp tham gia quy trình bầu, chọn cán bộ của Đảng, nhất là cán bộ cao cấp đứng
đầu Nhà nước, Chính phủ và các tổ chức chính trị - xã hội.
Hai là, Đảng phải gắn bó mật thiết với nhân dân, phải dựa vào dân để chống quan
liêu, tham nhũng một cách hiệu quả. Để phát huy được vai trò của nhân dân chống quan liêu,
tham nhũng, Đảng, Nhà nước cần xây dựng cơ chế, môi trường thuận lợi để nhân dân tham
gia. Đó là cơ chế cơng khai, minh bạch các hoạt động của Đảng, Nhà nước trên các lĩnh vực
tổ chức, nhân sự, kinh tế, tài chính...; là cơ chế để những phản ánh của người dân được tiếp
nhận thuận lợi, và giải quyết kịp thời; là cơ chế để báo chí, truyền thơng tham gia chống quan
liêu, tham nhũng; là cơ chế bảo vệ người dân chống quan liêu, tham nhũng...
Ba là, củng cố tổ chức, đổi mới nội dung, phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ
quốc phải bảo đảm Mặt trận Tổ quốc là một liên minh chính trị, liên hiệp tự nguyện, phải bảo
đảm tính độc lập tương đối của Mặt trận Tổ quốc trong quan hệ với các thành tố khác của hệ
thống chính trị. Do đặc thù q trình hình thành quyền lực chính trị của Đảng gắn liền với
quá trình giành độc lập dân tộc, thống nhất Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội thuộc Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam ngày nay đều do Đảng xây dựng và đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Đây là một sự thuận lợi rất lớn cho thực hiện các nhiệm vụ chính trị của Đảng. Tuy nhiên,



bên cạnh đó cũng có vấn đề đặt ra là các tổ chức này dễ trở thành “cánh tay nối dài của
Đảng” - trở thành cơ quan Đảng, cơ quan nhà nước, hành chính hóa chức năng, nhiệm vụ cơ
bản trong q trình hoạt động, xa rời tính tự nguyện, dân chủ, hiệp thương, phối hợp hành
động, cùng có lợi trong một mục tiêu chung của các tổ chức chính trị - xã hội đúng nghĩa.
Đây là một nguyên nhân lớn làm giảm sức mạnh và hiệu quả hoạt động của Mặt trận Tổ
quốc.
CHƯƠNG III. ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ CỦA Q TRÌNH ĐỔI MỚI VÀ BÀI HỌC
KINH NGHIỆM TRONG CƠNG CUỘC XÂY DỰNG HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ THỜI
KỲ 2006-2016
3.1. Kết quả
3.1.1. Thành tựu
● Về kinh tế
Đất nước ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội và tình trạng kém phát triển, trở thành nước
đang phát triển có thu nhập trung bình, đang đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội
nhập quốc tế. Kinh tế tăng trưởng khá, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
từng bước hình thành, phát triển. Chính trị - xã hội ổn định; quốc phòng, an ninh được tăng
cường. Văn hóa - xã hội có bước phát triển; bộ mặt đất nước và đời sống của nhân dân có
nhiều thay đổi. Dân chủ xã hội chủ nghĩa được phát huy và ngày càng mở rộng. Đại đoàn kết
toàn dân tộc được củng cố và tăng cường. Công tác xây dựng Đảng, xây dựng Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa và hệ thống chính trị được đẩy mạnh. Sức mạnh về mọi mặt của đất
nước được nâng lên. Kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền,
thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ và chế độ xã hội chủ nghĩa. Quan hệ đối ngoại ngày càng mở
rộng và đi vào chiều sâu; vị thế và uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế được nâng cao.
Hoạt động khoa học và cơng nghệ gắn bó hơn với nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội, thích
nghi dần với cơ chế thị trường.
Quan hệ sản xuất được điều chỉnh phù hợp hơn với yêu cầu phát triển của lực lượng sản xuất.
Nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của
Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa tiếp tục được xây dựng.
● Tạo được một số chuyển biến tích cực về mặt xã hội.
Đời sống vật chất của phần lớn nhân dân được cải thiện. Số hộ có thu nhập trung bình

và số hộ giàu tăng lên, số hộ nghèo giảm. Mỗi năm thêm hơn 1 triệu lao động có việc làm.
Nhiều nhà ở và đường giao thông được nâng cấp và xây dựng mới ở cả nơng thơn và thành
thị.
Trình độ dân trí và mức hưởng thụ văn hóa của nhân dân được nâng lên. Sự nghiệp
giáo dục, đào tạo, chăm sóc sức khỏe, các hoạt động văn hóa, nghệ thuật, thể dục thể thao,
thơng tin đại chúng, cơng tác kế hoạch hóa gia đình và nhiều hoạt động xã hội khác có những
mặt phát triển và tiến bộ.


Người lao động được giải phóng khỏi ràng buộc của nhiều cơ chế không hợp lý, phát
huy được quyền làm chủ và tính năng động sáng tạo, chủ động hơn trong tìm việc làm, tăng
thu nhập, tham gia các sinh hoạt chung của cộng đồng xã hội.
Chủ trương đền ơn đáp nghĩa đối với người có cơng với nước được tồn dân hưởng
ứng, phong trào xóa đói, giảm nghèo và các hoạt động từ thiện ngày càng mở rộng, đang trở
thành một nét đẹp mới trong xã hội ta.
Lòng tin của nhân dân vào chế độ và tiền đồ của đất nước, vào Đảng và Nhà nước được nâng
cao. Nhân dân tin tưởng, tuân thủ theo sự chỉ đạo của Đảng và Nhà nước.
● Giữ vững ổn định chính trị, củng cố quốc phòng, an ninh.
Chúng ta đã giữ vững ổn định chính trị, độc lập chủ quyền và mơi trường hịa bình
của đất nước, tạo điều kiện thuận lợi cơ bản cho công cuộc đổi mới.
Đảng đã định rõ phương hướng, nhiệm vụ và quan điểm chỉ đạo sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc
trong tình hình mới, tiếp tục thực hiện có kết quả việc điều chỉnh chiến lược quốc phòng, an
ninh. Các nhu cầu củng cố quốc phòng, an ninh, cải thiện đời sống lực lượng vũ trang được
đáp ứng tốt hơn. Chất lượng và sức chiến đấu của quân đội và công an được nâng lên. Thế
trận quốc phịng tồn dân và an ninh nhân dân được củng cố. Cơng tác bảo vệ an ninh chính
trị và trật tự an toàn xã hội được tăng cường.
● Thực hiện có kết quả một số đổi mới quan trọng về hệ thống chính trị.
Trên cơ sở Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội,
chúng ta đã từng bước cụ thể hóa đường lối đổi mới trên các lĩnh vực, củng cố Đảng và chính
trị, tư tưởng, tổ chức, tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng trong xã hội; đã ban hành Hiến

pháp mới năm 1992, sửa đổi, bổ sung và ban hành mới nhiều văn bản pháp luật quan trọng,
tiến hành cải cách một bước nền hành chính Nhà những, tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà
nước pháp quyền Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Mặt trận Tổ quốc, các đồn thể chính
trị, xã hội từng bước đổi mới nội dung và phương thức hoạt động, đạt hiệu quả thiết thực hơn.
Quyền làm chủ của nhân dân trên các lĩnh vực kinh tế, xã hội, chính trị, tư tưởng, văn hóa
được phát huy. Các tầng lớp nhân dân, đồng bào các dân tộc đồn kết, gắn bó trong sự nghiệp
dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh. Đồng bào ta ở nước ngoài cũng ngày càng
hướng về quê hương vì đại nghĩa ấy.
● Phát triển mạnh mẽ quan hệ đối ngoại
Công tác ngoại giao đa phương của Việt Nam đã thu được nhiều thắng lợi, nổi bật
nhất là chúng ta đã tổ chức thành công Năm APEC 2006, đặc biệt là Tuần lễ Cấp cao APEC.
Việt Nam cịn là Uỷ viên khơng thường trực của Hội đồng Bảo an (HĐBA) Liên hợp
quốc (LHQ) khóa 2008-2009.
Bước vào thập niên thứ hai của thế kỷ XXI, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế lớn,
tuy nhiên đứng trước nhiều thách thức từ cạnh tranh nước lớn gia tăng, kinh tế thế giới khủng
hoảng và phục hồi chưa bền vững. Sự phát triển mạnh mẽ của khoa học công nghệ, Cách
mạng công nghiệp 4.0 một mặt tạo ra động lực mới cho tăng trưởng sáng tạo, chuyển đổi số,


mặt khác gia tăng nguy cơ tụt hậu nếu không bước được lên “con thuyền” của kỷ nguyên số.
Thế và lực của đất nước được nâng lên đáng kể sau hơn hai thập kỷ đổi mới. Vị thế địa chiến
lược của Việt Nam tiếp tục gia tăng trong chính sách của các nước lớn với khu vực.
Trong bối cảnh đó, Đại hội XI (2011) đã nâng tầm từ hội nhập kinh tế sang “chủ động
và tích cực hội nhập quốc tế” một cách toàn diện. Nghị quyết số 22 của Bộ Chính trị năm
2013 đã thống nhất nhận thức trong toàn Đảng, toàn dân về hội nhập quốc tế trong tình hình
mới.
Đại hội XII (2016) có quyết sách chính trị quan trọng về tiếp tục mở rộng phạm vi,
lĩnh vực và mức độ hội nhập. Các nội dung này đã được cụ thể hóa và kế hoạch hóa trong
Chiến lược tổng thể hội nhập quốc tế đến 2020, tầm nhìn 2030. Tư duy đối ngoại đa phương
có bước chuyển quan trọng với Chỉ thị 25 của Ban Bí thư năm 2018 chuyển mạnh từ “tham

dự” sang “chủ động tham gia” và phát huy vai trò “nòng cốt”, dẫn dắt của Việt Nam.
Đảng ta tiếp tục phát triển quan hệ đoàn kết, hữu nghị với các đảng cộng sản và công
nhân, các phong trào độc lập dân tộc, các tổ chức và phong trào tiến bộ trên thế giới; thiết lập
quan hệ với các đảng cầm quyền ở một số nước. Mở rộng hoạt động đối ngoại của các đoàn
thể nhân dân, tổ chức xã hội. Phát triển quan hệ với các tổ chức phi chính phủ trên thế giới
3.1.2. Hạn chế


Kinh tế phát triển chưa tương xứng với tiềm năng:

Nước ta vẫn đang trong tình trạng phát triển. Kinh tế còn lạc hậu so với nhiều nước
trong khu vực và trên thế giới. Các lĩnh vực văn hóa, xã hội, xây dựng hệ thống chính trị, cịn
nhiều yếu kém. Lý luận chưa giải đáp được một số vấn đề của thực tiễn đổi mới và xây dựng
chủ nghĩa xã hội ở nước ta, đặc biệt là trong việc giải quyết các mối quan hệ giữa tốc độ tăng
trưởng và chất lượng phát triển; giữa tăng trưởng kinh tế và thực hiện công bằng xã hội; giữa
đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị; giữa đổi mới với ổn định và phát triển; giữa độc lập tự
chủ và chủ động, tích cực hội nhập kinh tế quốc tế...
Kinh tế phát triển chưa bền vững, chưa tương xứng với tiềm năng, yêu cầu và thực tế
nguồn lực được huy động. 10 năm gần đây, kinh tế vĩ mô cơ bản ổn định nhưng chưa vững
chắc, tốc độ tăng trưởng kinh tế suy giảm, phục hồi chậm. Chất lượng, hiệu quả, năng suất
lao động xã hội và năng lực cạnh tranh của nền kinh tế còn thấp. Phát triển thiếu bền vững cả
về kinh tế, văn hóa, xã hội và mơi trường. Phát triển kinh tế nhưng chất lượng môi trường
sống không được đảm bảo những tình trạng ơ nhiễm khơng khí, ô nhiễm nguồn nước gia tăng
gây cản trở phát triển bền vững. Nhiều vấn đề bức xúc nảy sinh, nhất là các vấn đề xã hội và
quản lý xã hội chưa được nhận thức đầy đủ và giải quyết có hiệu quả; còn tiềm ẩn những
nhân tố và nguy cơ mất ổn định xã hội. Trên một số mặt, một số lĩnh vực, một bộ phận nhân
dân chưa được thụ hưởng đầy đủ, công bằng thành quả của công cuộc đổi mới. Năng lực và
hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị chưa ngang tầm nhiệm vụ.
Nhiều chỉ tiêu, tiêu chí trong mục tiêu phấn đấu đến năm 2020, nước ta cơ bản trở
thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại không đạt.



● Vấn đề đạo đức:
Vấn đề đạo đức càng trở nên bức thiết khi một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên
suy thối về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” như Nghị
quyết Hội nghị Trung ương 4 khóa XI (tháng 1-2012) và Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4
khóa XII (tháng 10-2016) đã thẳng thắn đánh giá. Đại hội XII của Đảng (tháng 1-2016) đặt
nhiệm vụ xây dựng Đảng về đạo đức ngang với xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng và tổ
chức. Đại hội XII của Đảng nhấn mạnh: “Tăng cường rèn luyện phẩm chất, đạo đức cách
mạng, chống chủ nghĩa cá nhân, cơ hội, thực dụng”, “Kiên quyết đấu tranh chống quan liêu,
tham nhũng, lãng phí, chủ nghĩa cá nhân, lối sống cơ hội, thực dụng, bè phái, “lợi ích nhóm”,
nói khơng đi đơi với làm”.
● Cơng tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận:
Công tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận còn bất cập, chưa làm rõ một số vấn
đề đặt ra trong quá trình đổi mới để định hướng trong thực tiễn, cung cấp cơ sở khoa học cho
hoạch định đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước. Lý luận về chủ nghĩa
xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội cịn có một số vấn đề phải qua tổng kết thực tiễn
để tiếp tục làm rõ.
Lý luận chưa giải đáp được một số vấn đề của thực tiễn đổi mới và xây dựng chủ
nghĩa xã hội ở nước ta, đặc biệt là trong việc giải quyết các mối quan hệ giữa tốc độ tăng
trưởng và chất lượng phát triển; giữa tăng trưởng kinh tế và thực hiện công bằng xã hội; giữa
đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị; giữa đổi mới với ổn định và phát triển; giữa độc lập tự
chủ và chủ động, tích cực hội nhập kinh tế quốc tế…
● Cách thức lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức, giáo dục, lựa chọn cán bộ còn nhiều bất
cập:
Nhận thức, phương pháp và cách thức lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức thực hiện chủ trương,
đường lối, nghị quyết của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước còn nhiều hạn chế.
Quyền hạn và chế độ trách nhiệm, nhất là quyền hạn và trách nhiệm của người đứng đầu
không được quy định rõ ràng; thiếu cơ chế để kiểm soát quyền lực. Nhiều chủ trương, nghị
quyết đúng khơng được tích cực triển khai thực hiện, kết quả đạt thấp. Một số chính sách

khơng phù hợp thực tiễn, chậm được sửa đổi, bổ sung.
Việc quản lý, giáo dục, rèn luyện cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý
chủ chốt các cấp về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống chưa được coi trọng thường xuyên,
đúng mức, hiệu quả thấp, chưa đáp ứng được yêu cầu, chưa tạo được sự thống nhất cao về
nhận thức tư tưởng, ý chí và hành động trong Đảng trước những diễn biến phức tạp của tình
hình. Đánh giá, sử dụng, bố trí cán bộ cịn nể nang, cục bộ; chưa quan tâm việc xây dựng cơ
chế, chính sách để trọng dụng người có đức, có tài.


Sự chống phá từ bên ngoài, mất niềm tin từ bên trong:


Bốn nguy cơ mà Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII của Đảng (năm
1994) nêu lên vẫn tồn tại, có mặt diễn biến phức tạp, như nguy cơ "diễn biến hịa bình" của
các thế lực thù địch với những thủ đoạn mới tinh vi và thâm độc chống phá nước ta và những
biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hóa". Niềm tin của cán bộ, đảng viên và nhân dân vào
Đảng, chế độ có mặt bị giảm sút.
3.2. Phương hướng và giải pháp cho thời kỳ sau

Bài học kinh nghiệm cho giai đoạn sau
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng Cộng sản Việt Nam được tổ chức từ
ngày 21 đến ngày 28 tháng 6 năm 2016 trong bối cảnh tình hình thế giới và khu vực thay đổi
nhanh chóng và phức tạp. Đất nước đã trải qua 30 năm đổi mới và mở cửa, thế và lực được
nâng cao rõ rệt, thuận lợi và thời cơ đan xen, khó khăn thách thức cũng đan xen. Đại hội XII
đã kiểm điểm, đánh giá những thành tựu, hạn chế, yếu kém quan trọng đó; tổng kết 30 năm
đổi mới và mở cửa (1985-2016), đề ra mục tiêu, nhiệm vụ phát triển tổng thể đất nước giai
đoạn 5 năm 2016-2021. Qua 5 năm thực hiện các nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ XI của Đảng, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng đã đúc kết những kinh
nghiệm sau:
- Bài học thứ nhất về xây dựng Đảng, Nhà nước, hệ thống chính trị và cán bộ: Cơng tác xây

dựng, chỉnh đốn Đảng phải được triển khai quyết liệt, toàn diện, đồng bộ, thường xuyên cả về
chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ; kiên định, vận dụng và phát triển sáng tạo
Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền và sức
chiến đấu của Đảng; thường xuyên củng cố, tăng cường đồn kết trong Đảng và hệ thống
chính trị; thực hiện nghiêm các nguyên tắc trong công tác xây dựng Đảng, thường xuyên đổi
mới phương thức lãnh đạo của Đảng. Xây dựng Nhà nước và hệ thống chính trị trong sạch,
vững mạnh, toàn diện; hoàn thiện cơ chế kiểm sốt chặt chẽ quyền lực; kiên quyết, kiên trì
đấu tranh phịng, chống suy thối, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ; đẩy mạnh
đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí. Cơng tác cán bộ phải thực sự là “then chốt của
then chốt”, tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là cán bộ cấp chiến lược đủ phẩm chất,
năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ; phát huy trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng
viên theo phương châm chức vụ càng cao càng phải gương mẫu, nhất là Ủy viên Bộ Chính
trị, Ủy viên Ban Bí thư, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương.
Điểm mới của bài học này so với các đại hội trước là xác định xây dựng, chỉnh đốn
Đảng tồn diện: Chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ; nhấn mạnh xây dựng Nhà
nước và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh, toàn diện; nhấn mạnh hoàn thiện cơ chế
kiểm soát chặt chẽ quyền lực; nhấn mạnh yêu cầu xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là cán bộ
cấp chiến lược.
- Bài học thứ hai về dân: Trong mọi công việc của Đảng và Nhà nước, phải luôn quán triệt
sâu sắc, thực hiện nghiêm túc quan điểm “dân là gốc”; thật sự tin tưởng, tôn trọng và phát
huy quyền làm chủ của nhân dân, kiên trì thực hiện nguyên tắc “dân biết, dân bàn, dân làm,
dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”. Nhân dân là trung tâm, là chủ thể của công cuộc
đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; mọi chủ trương, chính sách phải thực sự xuất phát từ
nguyện vọng, quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân; thắt chặt mối quan hệ mật thiết với


nhân dân, dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng; lấy hạnh phúc, ấm no của nhân dân làm mục
tiêu phấn đấu, củng cố và tăng cường niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước, chế độ
xã hội chủ nghĩa.
Điểm mới của bài học này là phải thực hiện nghiêm túc quan điểm “dân là gốc”, “dân

biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”; nhấn mạnh lấy hạnh
phúc, ấm no của nhân dân làm mục tiêu phấn đấu.
Bài học thứ ba về lãnh đạo, điều hành, tổ chức thực hiện: Trong lãnh đạo, điều hành,
tổ chức thực hiện phải có quyết tâm chính trị cao, nỗ lực lớn, hành động quyết liệt, năng
động, sáng tạo, tích cực, có bước đi phù hợp, phát huy mọi nguồn lực, động lực và tính ưu
việt của chế độ xã hội; kịp thời tháo gỡ các điểm nghẽn; đề cao trách nhiệm người đứng đầu
gắn liền với phát huy sức mạnh đồng bộ của hệ thống chính trị, giữ vững kỷ cương; coi trọng
tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận; thực hiện tốt sự phối, kết hợp trong lãnh đạo, quản lý,
điều hành; coi trọng chất lượng và hiệu quả thực tế; tạo đột phá để phát triển.
Điểm mới của bài học này là trong lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện phải có quyết tâm
chính trị cao, nỗ lực lớn, hành động quyết liệt, năng động, sáng tạo, có bước đi phù hợp; coi
trọng chất lượng và hiệu quả thực tế.
Bài học thứ tư về thể chế và giải quyết các mối quan hệ: Tập trung ưu tiên xây dựng
đồng bộ thể chế phát triển, bảo đảm hài hòa giữa kế thừa và đổi mới, ổn định và phát triển;
giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị, văn hóa, xã hội; giữa tuân theo các quy luật thị
trường và bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa; giữa tăng trưởng kinh tế với phát triển văn
hóa, con người, giải quyết các vấn đề xã hội, bảo vệ tài nguyên, môi trường; giữa phát triển
kinh tế-xã hội với bảo đảm quốc phòng, an ninh; giữa độc lập, tự chủ với tăng cường đối
ngoại, hội nhập quốc tế; thực sự coi trọng, phát huy hiệu quả vai trò của giáo dục và đào tạo,
khoa học và công nghệ trong phát triển đất nước.
Điểm mới của bài học này là nhấn mạnh tập trung ưu tiên xây dựng đồng bộ thể chế phát
triển (cả kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, quốc phịng, an ninh, đối ngoại).
Bài học thứ năm về quốc phòng, an ninh, đối ngoại: Chủ động nghiên cứu, nắm bắt,
dự báo đúng tình hình, khơng để bị động, bất ngờ; kiên quyết, kiên trì bảo vệ độc lập, chủ
quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc đi đơi giữ vững mơi trường hịa bình, ổn
định để phát triển đất nước; chủ động, tích cực hội nhập quốc tế toàn diện và sâu rộng trên cơ
sở giữ vững độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường; xử lý đúng đắn, hiệu quả mối quan hệ với các
nước lớn và các nước láng giềng, đánh giá đúng xu thế, nắm bắt trúng thời cơ; phát huy hiệu
quả sức mạnh tổng hợp của đất nước kết hợp với sức mạnh của thời đại; khai thác, sử dụng
có hiệu quả mọi nguồn lực để đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng, phát triển đất nước

và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.
Điểm mới của bài học này là nhấn mạnh chủ động nghiên cứu, nắm bắt, dự báo đúng tình
hình, khơng để bị động, bất ngờ; chủ động, tích cực hội nhập quốc tế tồn diện và sâu rộng.


×