Tải bản đầy đủ (.doc) (34 trang)

Tài liệu Lý thuyết trò chơi và ứng dụng trong kinh doanh_ Phần 3 ppt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (335.22 KB, 34 trang )





Thành phố Hồ Chí Minh, tháng năm …
Thành phố Hồ Chí Minh, tháng năm …
 !"#
$%&&'()*++,-.$/0112
&&3&45(678
Vào những tháng đầu năm 2006, người Việt nam đã chứng kiến một cuộc đấu gay cấn,
không kém bất cứ một cuộc đấu loại nào giữa các đội bóng để vào vòng chung kết. Đó là
cuộc đấu thầu giữa các công ty truyền hình, các nhà quảng cáo, và công ty tin học FPT
trong việc giành bản quyền truyền hình World cup 06. Theo các nguồn thạo tin, các đấu
thủ nặng ký như VTC đã bị “bỏ quên” ngay tù những vòng đấu loại ban đầu. VTV đã đặt
giá cao hơn nhiều so với World Cup 02; nhưng cuối cùng cũng để mất quyền truyền hình
vào tay FPT, công ty duy nhất có thể chịu đượccái giá mà Kick Media (thay mặt cho
Infront) đòi là 3 triệu USD. Nếu chỉ tính riêng tiền mua bản quyền là 2,2 triệu USD, thì
FPT đã trả cao gấp hai lần số tiền VTV mua bản quyền World Cup 02, và gấp 55 lần số
tiền mua bản quyền World Cup 78. Liệu sự tăng vọt giá mua bản quyền này là hợp lý -
hay như lời ông Hoàng Minh Châu, phó tổng giám đốc FPT, nói là “chúng tôi đă mua với
giá rất rẻ?”
Cần phải nói ngay rằng, việc mua bản quyền đắt hay rẻ, không phụ thuộc vào tiền trả bản
quyền so với số dân; cũng không phụ thuộc vào việc mua rẻ hơn quốc gia khác tại
ASEAN, có cùng điều kiện tương tự như Việt nam. Chẳng hạn, nếu so sánh tiền mua bản
quyền truyền hình cho Olimpic mùa đông ở Calgary (1998), tổng khoản tiền trả bởi các
quốc gia Tây Âu cho quyền phát truyền hình chỉ bằng 2% so với Mỹ. Một trong các
nguyên nhân của sự khác biệt lớn đó là ở châu Âu, các đài truyền hình quốc gia chiếm ưu
thế, còn ở Mỹ thì ngược lại, các kênh truyền hình thương mại , kiếm lời chủ yếu bằng
quảng cáo chiếm ưu thế. Thêm vào đó, khác với Mỹ, châu Âu kiềm chế sự cạnh tranh
giữa các đài truyền hình bằng cách lập ra một tổ chức duy nhất, Liên hiệp truyền hình
châu Âu (European Broadcast Union), để đàm phán với các nhà tổ chức Olimpic. Điều đó


gợi ý rằng, việc tăng quy mô thương mại qua truyền hình, và việc bên bán khai thác sự
cạnh tranh giữa các bên mua bản quyền truyền hình là hai yếu tố quan trọng nhất đẩy
mức giá thầu lên cao.
Cú nhẩy của giá mua bản quyền World Cup 06 là ngoài sự chờ đợi của hầu hết người
Việt nam. Liệu đấy có phải là do công ty Kick Media đã thành công trong việc khai thác
tính cạnh tranh giữa các nhà tham dự thầu hay không? Hay là do cái gì khác? Cuộc đấu
thầu đã bắt đầu từ năm 2003. Đến tháng 8, 2005, về phía Việt nam, chỉ còn lại 3 tập đoàn
lọt vào vòng trung kết là Công ty quảng cáo Đất Việt, VTV, và công ty FPT. Như ông
Hoàng Minh Châu đã nêu, tham dự chung kết còn có một công ty nước ngoài, mà FPT đã
trả cao hơn một chút để giành quyền thắng cuộc. Cần phải nói ngay rằng, việc một công
ty nước ngoài tham dự đấu thầu đáng ra là không có ý nghĩa gì hết. Cứ cho rằng, phía
Việt Nam để cho công ty nước ngoài nọ, thay vì FPT, thắng cuộc với giá mua trọn gói là
3 triệu USD, thì điều gì sẽ xảy ra? Điều có thể thấy ngay là công ty này sẽ gặp rủi ro lớn.
Nó không có chân rết ở Việt nam; không có đội ngũ kỹ thuật viên và bộ máy hỗ trợ,
không nắm được thị trường quảng cáo, và trên hết là không thông hiểu luật lệ và văn hoá
Việt Nam để trực tiếp tiến hành khai thác lợi nhuận phát sóng. Khi đó, công ty này sẽ
buộc phải tổ chức một cuộc đấu thầu khác với các đài truyền hình trong nước để nhượng
quyền phát sóng. Nhưng khác với Kick Media, nó chỉ có thể may mắn nhất là hoà vốn,
nếu không nói là cầm chắc bị thua lỗ nặng, vì nó đã trả mức giá cao nhất mà Kick Media
yêu cầu là 3 triệu USD. Nhưng ta hăy tạm gác vấn đề này sang một bên và cứ xem như
công ty nước ngoài đã ép FPT phải trả giá cao. Vậy thì xem ra Kick Media đã chẳng có
chiến lược gì đặc biệt trong việc thúc đẩy sự cạnh tranh quyết liệt giữa các nhà tham dự
thầu. Cùng lắm nó chỉ có thể mở liên tiếp nhiều vòng đấu thầu kín và thông báo cho các
bên tham dự giá mà đối thủ của họ đã đưa ra nhằm kích thích việc nâng giá bỏ thầu. Điều
đáng ngạc nhiên duy nhất ở đây là diễn biến của cuộc chơi bị dẫn dắt bởi một cò mồi
không có thực lực. Nói khác đi, giá mua bản quyền truyền hình World Cup 06 có thể là
quá cao. Nhưng liệu là cao đến mức độ nào?
Khi các công ty truyền hình lớn quyết định mức giá bỏ thầu cao bao nhiêu, họ phải đánh
bạc vào kỳ vọng lợi nhuận trong tương lai. Kể từ lúc bắt đầu tham dự thầu là năm 2003,
họ phải dự đoán thu nhập và chi phí vào 3 năm sau đó. Họ phải dự đoán nguồn thu nhập

từ quảng cáo. Khoản tiền đó lại phụ thuộc vào số người xem truyền hình, mức độ người
xem hâm mộ từng trận đấu cụ thể so với các trận đấu khác diễn ra đồng thời; và vào sự
khác biệt về múi giờ. Chẳng hạn, World Cup 06 có đến 25 trận đấu phát vào lúc 8 giờ,
10 giờ, và 11 giờ tối. Đấy là yếu tố thuận lợi cho việc thu hút quảng cáo. Tuy nhiên
những trận của các vòng đấu loại sau cùng lại diễn ra chủ yếu vào ban đêm, nên việc thu
hút quảng cáo sẽ rất khó khăn. Để so sánh, hãy xét World Cup lần trước diễn ra tại Nhật
Bản và Hàn Quốc. Lúc đó, thời điểm diễn ra các trận đấu là rất đẹp: từ trận đầu tiên đến
trận cuối cùng đều là giờ châu Á. Vậy mà theo ông Trần Đăng Tuấn, phó tổng giám đốc
VTV, chưa có công ty nào tận dụng đuợc hết giờ quảng cáo mà họ đuợc phép. Ông Tuấn
dự báo thêm rằng,số lượng quảng cáo lần này sẽ không khác so với lần trước. Nếu tính
đến việc những trận đấu quan trọng nhất diễn ra vào đêm, thì rủi ro mà nhà thắng thầu
FPT gặp phải sẽ là không nhỏ. Dĩ nhiên, ngoài nguồn thu nhập quảng cáo, FPT có thể
tăng thu nhờ vào các nguồn khác. Chẳng hạn như việc bán lại quyền phát sóng cho các
kênh truyền hình cáp. Những người xem các kênh truyền hình này phải trả một khoản phí
cho những chương trình đặc biệt. Nếu số hộ gia đình đăng ký truyền hình cáp đủ đông,
thì hợp đồng bán nêu trên sẽ làm giảm đáng kể gánh nặng rủi ro cho FPT. Ai cũng biết
rằng VTC là một “ứng cử viên” sáng giá trong lĩnh vực này. Nó còn có một lợi thế quan
trọng nữa là những người hâm mộ bóng đá muốn được xem các chương trình truyền hình
do 2 bình luận viên nổi tiếng của nó là Vũ Quang Huy và Đức Hùng thực hiện. Tuy
nhiên, như ông Hoàng Minh Châu đã nói, VTC đã chối từ lời chào mời của FPT. Và hợp
đồng bán lại bản quyền truyền hình của FPT cho VTV và HTV, xem ra là lỏng, nhưng
dường như rất khó cho FPT và VTC quay lại bàn đàm phán [Thannien 24/2].
&&309,. .%:8;6'
Những yếu tố trên đây khiến cho nhiều người có thể vội vã dự đoán rằng FPT đã trả giá
quá cao cho việc giành quyền truyền hình trực tiếp World Cup 06. Nhưng mức độ rủi ro
thực sự mà FPT phải gánh chịu lại tùy thuộc vào độ chênh lệch giữa giá nó thực sự trả
cho Kick Media [mà ai cũng biết là được giữ kín] so với giá nó đã bán lại quyền truyền
hình cho VTV và HTV là 3 triệu USD. Nếu FPT không quá lầm lẫn về thực lực của nhà
thầu nước ngoài, thì sự tồn tại của mức chênh lệch này là có thật. Mức chênh lệch càng
lớn, thì có nghĩa là rủi ro của việc thu lợi nhuận thấp từ quảng cáo sẽ được chuyển nhiều

hơn từ vai FPT sang cho VTV và HTV gánh chịu. Ngược lại, nếu khoảng cách này càng
co hẹp, tức là nếu giá FPT trả cho Kick Media càng gần mức 3 triệu USD (kể cả thuê bao
vệ tinh), thì rủi ro mà FPT phải tự gánh vác càng lớn hơn. Có một điều cần nói rằng, FPT
là một nhà khổng lồ trên thương trường và đã từng tham dự nhiều cuộc đấu thầu, mặc dù
là diễn ra chủ yếu trên sân nhà. FPT hiểu là nó phải làm cái mà các nhà tham dự thầu
World Cup 06 khác đều làm: họ cố dự đoán cùng một con số. Đó là giá trị của việc trúng
thầu là bao nhiêu. Dĩ nhiên, những tay lọc lõi trong nghề như VTV hoặc VTC có thể có
những đánh giá xác thực hơn FPT, chẳng hạn là về khả năng kiếm lời qua quảng cáo.
Nhưng FPT có thể học được những con số đánh giá của họ qua việc xem ai còn lại ở
trong cuộc sau mỗi vòng đấu thầu, và họ bỏ thầu là bao nhiêu [ như đã nêu, Kick Media,
vì quyền lợi của nó, sẽ ngầm thông báo cho các bên giá mà các đấu thủ khác đã bỏ thầu].
Điều đáng nói ở đây là, các nhà tham dự thầu khác có thể đã nhìn thấy sức mạnh tài chính
của FPT, và trên hết là tham vọng của nó muốn gia nhập ngành công nghiệp truyền hình -
tự nó cũng là một dạng sức mạnh. Nếu khả năng tài chính và tham vọng của FPT là đủ
lớn, thì việc nó thắng thầu là chuyện đương nhiên, mọi đấu thủ khác đều thấy. Nhưng mặt
khác, FPT cũng tự nhận thấy rằng chỉ có các đài truyền hình mới có nguồn lực và kỹ
năng để trình bày các màn đấu bóng thật hấp dẫn để thu hút nhiều người xem, dù là về
đêm. Vì vậy quyền phát truyền hình nhất định sẽ phải được nhượng lại từ tay FPT cho
một kênh truyền hình, mà nó có thể làm sinh lời lớn nhất từ việc sử dụng quyền phát sóng
World Cup 06. Có thể một cách khách quan, VTV và HTV cộng sức lại sẽ trội hơn VTC
đứng một mình. Vậy nên, việc FPT giành được quyền truyền hình World Cup, và việc
VTV quyết đứng về quyền của các khán giả truyền hình để mua lại bản quyền của FPT,
là một kết cục không phải là không tự nhiên. Và gánh nặng rủi ro của việc thu lợi nhuận
thấp từ quảng cáo là cái giá FPT trả để vào học nghề dưới sự dẫn dắt của VTV - đối tác
mà FPT đã chọn.
Như đã gợi ý, kết cục trên đây dựa trên một sự kiện mang tính pháp lý khá tinh tế: đó là
việc VTC chối từ không tham gia cuộc chơi. Theo tin mới nhất, VTC nói rằng nó chưa
bao giờ nhận được lời chào mời chính thức nào của FPT và đòi phải được trả lời ngay lập
tức nguyện vọng nó được tham dự hợp đồng mua lại quyền phát hình World Cup. VTV
mới đây nhất cũng đã phải chấp nhận chia sẻ quyền đó với VTC. Và thế là cái đối tác tay

ba đó bước vào một cuộc thương lượng mới về giá chuyển nhượng khi chỉ còn có 3 tháng
nữa là trái bóng đầu tiên được lăn trên sân cỏ. Khó mà biết được thỏa thuận mới sẽ là
như thế nào? Và gánh nặng rủi ro của người thắng thầu FPT sẽ được “san sẻ” ra sao trong
thỏa ước mới. Nhưng rõ ràng rằng, các bên sẽ có lợi hơn nhiều nếu họ biết hợp tác ngay
từ đầu. Cho dù bây giờ là muộn mằn, có thể sự hợp tác tay ba trong kỳ World Cup tới sẽ
cho thấy cái giá 3 triệu USD bỏ ra là xứng đáng. Trong hoàn cảnh ngược lại, các nhà thầu
Việt Nam đã trả quá nhiều cho việc mua bản quyền phát truyền hình World Cup 06 -
điều mà trong lý thuyết đấu thầu ngưòi ta gọi là winner’s curse.
Chương 12: Vấn đề về quyền sở hữu
Theo quan điểm kinh tế học, giá trị sản phẩm tạo ra được trả cho vốn, lao động, và phần
còn lại là lợi nhuận được giữ lại bởi người chủ sở hữu phương tiện sản xuất. Marx chỉ ra
rằng giá trị thặng dư được tạo ra từ sức lao động, nhưng người công nhân lại không được
hưởng. Tức là, họ bị bóc lột. Vấn đề đó nẩy sinh là do quan hệ kinh tế luôn có tính hợp
đồng. Giữa một bên là người, hay một tổ chức nắm giữ phương tiện sản xuất chủ yếu,
khó thay thế; và bên kia, là người hay tổ chức nắm các yếu tố sản xuất không thiết yếu,
dễ bị thay thế. Họ dễ bị chèn ép hay bị bóc lột. Điều đó đặt ra ba câu hỏi: (1) Ý nghĩa của
quyền sỏ hữu là gì? (2) Tại sao có vấn đề chèn ép và bóc lột; nó có quan hệ thế nào với
quyền sở hữu các phương tiện sản xuất chủ yếu. (3) Cấu trúc sở hữu phải như thế nào để
đạt được lợi ích xã hội cao nhất. Câu hỏi cuối cùng này dẫn đến yêu cầu về thể chế tài
chính và pháp lý nhằm giúp cho việc chuyển đổi cơ cấu sở hữu theo hướng tối ứu nhất về
ích lợi xã hội. Thực chất đó là vấn đề xây dựng thể chế cho phát triển kinh tế. Nhưng nó
vượt quá phạm vi bài viết. Ở đây, chúng ta chỉ tập trung vào ba câu hỏi đầu tiên.
&03&<=6*+>?@
Lý thuyết kinh tế nói rất nhiều về quyền sở hữu, đặc biệt là tại sao có sự khác biệt cơ
bản giữa quyền sở hữu tư nhân và sở hữu công cộng đối với phương tiện sản xuất. Nhưng
các lý thuyết này ít thành công hơn trong việc diễn giải ý nghĩa của quyền sở hữu: ai nên
sở hữu cái gì. Để hình dung, ta hãy sử dụng ví dụ nêu lên bởi Hart (ĐH Harvard): Nếu
bạn muốn sử dụng một máy móc nào đó thuộc quyền sở hữu của cá nhân khác. Khi đó
bạn có hai sự lựa chọn. Hoặc là mua lại của anh ta cái máy đó; hoặc là thuê của anh ta.
Đối với sự lựa chọn thứ hai, bạn và anh ta có thể thảo một hợp đồng, quy định rõ bạn

đuợc phép làm gì với cái máy; khi nào bạn có thể được sử dụng nó; và điều gì xẩy ra nêu
cái máy bị hư hỏng, vân vân. Nếu hợp đồng là đầy đủ và rõ ràng, thì thực sự là chẳng có
gì quan trọng ai sẽ là người sở hữu cái máy. Vì mọi quyền sở hữu có thể được chuyển
giao một cách dễ dàng và đầy đủ thông qua hợp đồng cho thuê. Nói khác đi, chẳng có gì
khác biệt cho lắm giữa thuê hay sở hữu cái máy.
Trên thực tế, hợp đồng không bao giờ là đầy đủ. Nó không thể quy định rõ ai sẽ có trách
nhiệm gì trong mọi tình huống có thể xẩy ra trong tương lai. Do vậy, một quan điểm thực
tiễn hơn là người chủ sở hữu cái máy sẽ có quyền quyết định trong mọi tình huống xẩy ra
ngoài quy định của hợp đồng. Nếu như cái máy bị hỏng và hợp đồng không nói gì về
điều đó, thì người chủ sở hữu, chứ không phải người đi thuê, có quyền quyết định xem
cái máy sẽ đuợc sửa chữa như thế nào.
Bây giờ, rõ ràng rằng có sự khác biệt giữa việc bạn là người chủ sở hữu cái máy hay là
người đi thuê. Nếu bạn là chủ sở hữu, còn đối tác của bạn là người đi thuê, thì bạn có
quyền lực tuyệt đối trong những tình huống không được ghi trong hợp đồng. Bạn sẽ quan
tâm hơn đối với việc săn sóc cái máy đó; đến việc sử dụng nó một cách hiệu quả hơn; đến
việc gặt hái lợi ích sau khi đã bù đắp mọi chi phí ghi trong hợp đồng. Bạn muốn nó sinh
lãi lớn hơn, nhiều giá trị thặng dư hơn.
&030A+>?@;8+(B.7
Hãy áp dụng quan điểm nêu trên vào một quan hệ cụ thể, khi một tổ chức hay một cá
nhân thuê người làm cho công ty của họ. Vì doanh nghiệp không có khả năng giám sát
người làm trong mọi thời điểm; hoặc không thể đánh giá trực tiếp nỗ lực của anh ta; nên
kích thích phải được tạo ra bằng cách buộc thu nhập của người làm phụ thuộc một phần
vào kết quả cuối cùng. Ví dụ như tiền hoa hồng trả cho người bán hàng. Nếu phần người
làm được hưởng từ thành quả cuối cùng là đủ kích thích, thì sẽ không còn có sự khác biệt
đáng kể về lợi ích giữa doanh nghiệp và người làm. Tức là, bóc lột không còn là vấn đề
đáng quan tâm.
Tuy nhiên, thực tế không đơn giản đến như vậy. Vấn đề là ở chỗ, nếu thu nhập trả cho
người làm được gắn trực tiếp vào hiệu suất công việc, thì việc đánh giá hiệu suất phải
đuợc xác định một cách hợp lý. Nhưng điều này không phải bao giờ cũng thực hiện được.
Chẳng hạn, nếu chỉ đơn thuần buộc tiền trả cho người quản lý phụ thuộc trực tiếp vào lợi

nhuận, thì điều đó sẽ kích thích anh ta lái nguồn lực khỏi nỗ lực cải tiến kỹ thuật hoặc bảo
trì. Thêm vào đó, rất nhiều các đánh giá về hiệu suất công việc không thể đưa được vào
hợp đồng, bởi vì khó mà hình dung được trước, hoặc quá khó để liệt kê chúng một cách
đủ chi tiết. Chẳng hạn như mức độ cẩn trọng trong việc sử dụng và giữ gìn máy móc;
mức độ sáng tạo trong thiết kế sản phẩm mới; hay mức độ linh hoạt trong việc phản ứng
đối với những tình huống bất trắc xẩy ra. Do đó, trên thực tế, hợp đồng hầu như không
bao giờ là đầy đủ. Mỗi bên sẽ có một số quyền được ghi trong hợp đồng hay bản giao
kèo. Nhưng tính không đầy đủ của nó bao hàm rằng còn có những quyền dư (residual
rights of control) không được cụ thể hoá bởi hợp đồng. Khi các quyền đó gắn liền với
việc sử dụng tài sản, thì cơ chế phân bổ quyền dư chính là quyền sở hữu. Tất cả mọi
quyền chưa được ghi cụ thể trong hợp đồng đều thuộc vào một cá nhân được gọi là chủ
sở hữu tài sản. Chẳng hạn, nếu cái ô tô bị rò rỉ xăng, và hợp đồng không nói gì về tình
huống này, thì như đã nói, chỉ người chủ xe mới có quyền quyết định xem cái xe đó nên
được sửa thế nào. Người chủ sở hữu có quyền lực đáng kể trong quan hệ kinh tế với đối
tác. Anh ta có quyền chiếm đoạt ít ra là một phần giá trị thặng dư sau khi đã trả mọi chi
phí theo quy định của hợp đồng. Ngược lại, người không nắm giữ phương tiện sản xuất
chủ yếu phải chịu rủi ro không được trả lương cho những nỗ lực không ghi trong hợp
đồng. Anh ta có thể bị bóc lột.
Trong công nghiệp du lịch, đôi khi các tour du lịch phải thay đổi tuỳ thuộc vào lượng
khách, khí hậu, và điều kiện giao thông. Giả sử tuyến đường bị ách tắc do sạt lở hoặc
mưa bão. Khi đó, hướng dẫn viên có thể phải làm việc cật lực hơn với trung tâm để chọn
một phương án tour khác sao cho khách du lịch vẫn cảm thấy hài lòng. Người lái xe có
thể phải lái nhiều chặng hơn, hoặc phải đi xuyên đêm, nếu không muốn lần sau bị cắt hợp
đồng. Mặc dù làm việc cật lực hơn, nhưng anh ta vẫn phải dựa vào những giao ước đã ghi
trong hợp đồng, hoặc “lòng tốt” của những người quản lý công ty để được chia sẻ lợi ích
sinh ra từ kinh doanh. Nhưng chủ sở hữu của công ty đó lại không bị những rủi ro như
vậy. Họ luôn có thể bác bỏ mọi sự phân chia thu nhập đi ngược lại ý nguyện của mình.
Quyền sở hữu và giá trị thặng dư, do vậy, luôn đi kèm với nhau.
Điều đáng nói là những người không nắm giữ phương tiện sản xuất chủ yếu sẽ sợ bị bóc
lột [sợ không được trả tiền cho những nỗ lực không ghi trong hợp đồng]. Họ sẽ làm việc

ở dưới mức chăm chỉ hoặc tận tâm. Trên các tuyến tour du lịch Hạ long cho “tây ba lô”,
khách du lịch thấy hướng dẫn viên chiếm bàn của khách để ngồi đánh bài, hút thuốc. Một
vài hướng dẫn viên tự ý thay đổi thỏa thuận với khách về thuê phòng ngủ trên thuyền, do
có một khách vãng lai khác mới xuất hiện, trả tiền cao hơn để được phép ở một mình
trong phòng ngủ đó. Một số hướng dẫn viên khác lại thông đồng với chủ thuyền Kayak
trên vịnh, gắn mái chèo vào cọc chèo bằng một thứ keo có độ bám dính yếu. Khách du
lịch lúc ra đi hồ hởi vì được bơi thuyền trên vịnh, trở về với nỗi thất vọng vì một bên mái
chèo đã mất. Nhưng chưa hết. Họ bị tấn công một cách khá thô bạo bởi người hướng dẫn
viên, bắt họ phải trả tiền đền bù cho lỗi lầm không phải của họ. Khách du lịch khác đứng
quan sát một cách âm thầm; nhưng họ sẽ không quay lại nữa; và sẽ không khuyên bạn bè
họ đến tour Hạ long nữa. Đối với công ty, đó là sự mất mát lớn về lợi nhuận do không
giữ được chữ tín. Đối với một quốc gia có tiềm năng về du lịch, đó là một sự mất mát lớn
về cơ hội tạo việc làm và thu nhập.
&03$;C>?@D%
Điều đáng tiếc xẩy ra ở trên vì công ty du lịch không nhận thức được rằng họ có quyền
sở hữu về tài sản vật chất. Nhưng người hướng dẫn viên du lịch lại kiểm soát việc sử
dụng tài sản đó như thế nào. Dĩ nhiên, nếu công ty có thông tin đầy đủ về nỗ lực của anh
ta, thì những hệ quả bất lợi như trên sẽ được hạn chế. Công ty du lịch Handspan cung cấp
một ví dụ. Họ sử dụng một giải pháp rất đơn giản là ghi trên vé du lịch địa chỉ email và
hotline của công ty. Mọi phàn nàn của khách hàng có thể được chuyển trực tiếp về công
ty; và đến lượt nó, công ty có thể tiến hành những giải pháp cần thiết. Handspan cũng
giảm bớt sự tách biệt giữa quyền sở hữu danh nghĩa và việc sử dụng quyền đó trên thực
tế bằng cách chia cổ phần với chủ tầu mà nó thuê. Vì lợi ích của mình, chủ tầu phải quan
tâm đến việc làm hài lòng nhất khách du lịch đi trên tầu. Và do vậy, chủ tầu đòi hỏi
hướng dẫn viên phải thể hiện phẩm giá nghề nghiệp. Hiện nay, Handspan đã trở thành
một trong những công ty thành đạt nhất trên tuyến du lịch Hạ long. Nhưng kinh nghiệm
của nó mang tính tổng quát cho nhiều loại hình giao dịch.
Vấn đề là Handspan đã nhận thức được tính bổ trợ giữa quyền sở hữu tài sản vật chất
(physical assets) của công ty với quyền sở hữu tài sản tri thức (information assets) của
người hướng dẫn viên du lịch, như kỹ năng giao tiếp, sự cẩn trọng, mức độ sáng tạo.

Không một hoạt động du lịch nào có thể thiếu sự phối hợp của cả hai dạng tài sản này.
Trong ví dụ nêu ở phần trên, vì công ty du lịch nắm giữ quyền sở hữu tài sản vật chất có
tính thiết yếu; họ có thể chèn ép người hướng dẫn viên với nghiệp vụ nghèo nàn, dễ bị
thay thế. Nếu anh ta làm việc cật lực và tạo thêm lợi nhuận, thì anh ta có cơ sẽ không
được hưởng gì cả. Anh ta bị bóc lột. Do vậy, anh ta chỉ cố gắng ở mức trung bình. Thêm
vào đó, công ty không có cách gì đánh giá trực tiếp hiệu suất công việc. Anh ta có thể lợi
dụng sự thiếu thông tin của công ty mà làm tiền trên lưng khách du lịch; để mặc cho công
ty gánh chịu tiếng xấu. Handspan, ngược lại, đã dùng sự phản hồi của khách hàng để
đánh giá trực tiếp nỗ lực của nhân viên; buộc thu nhập của họ gắn liền với kết quả cuối
cùng. Nếu họ trau dồi nghiệp vụ, họ sẽ được hưởng phần lớn hơn từ thành quả lao động.
Nói khác đi họ sẽ ít ngại bị bóc lột hơn. Thêm vào đó, Handspan đã chuyển một phần
quyền sở hữu tài sản vật chất vào tay đối tác. Cụ thể là chia cổ phần với chủ tầu mà nó
thuê. Khi đó, Handspan không thể chèn ép chủ tầu vì anh ta đã kiểm soát một phần tài
sản vật chất của công ty, cũng như tài sản tri thức cần thiết cho dịch vụ của mình thông
qua việc giám sát trực tiếp các hướng dẫn viên trên tầu. Trong khi nỗ lực của cả chủ tầu
lẫn nhân viên hướng dẫn được tăng lên, thì nỗ lực quản lý từ trên công ty cũng không
giảm. Vẫn như trước đây, các nhà quản lý hay chủ công ty vẫn được hưởng lợi nhuận
thông qua kiểm soát đa số cổ phần. Nhờ vào cấu trúc sở hữu như vậy, rủi ro sợ bị bóc lột
đươc giảm thiểu; nỗ lực chung được tăng lên. Điều đó giải thích cho sự thành công của
Handspan.
Kết luận quan trọng nêu lên ở đây là phải chuyển giao ít ra là một phần quyền sở hữu tài
sản vật chất của công ty vào tay cá nhân, nếu như anh ta kiểm soát những thông tin có
tính thiết yếu đối với hiệu quả sử dụng tài sản đó.
Ở Mỹ, công nhân lái xe taxi thường là người làm thuê, trong khi tài xế lái xe vận tải
đường dài lại thường là chủ sở hữu của chiếc xe. Vấn đề là ở chỗ, người lái xe đường dài
cần phải có kích thích đủ lớn để tăng nỗ lực bảo trì dọc đường, tiết kiệm xăng, bảo quản
hàng hoá, và giao hàng đúng thời điểm quy định. Ngược lại, hiệu suất công việc của
người lái xe taxi lại có thể đánh giá dễ dàng qua đồng hồ cây số. Giao quyền sở hữu cho
người lái xe đường dài là cần thiết; nhưng với lái xe taxi, ký hợp đồng trả lương theo sản
phẩm là đủ.

Cuối cùng, việc xuất hiện các bênh viện tư tại Hà nội, cung cấp một ví dụ khác về sự
chuyển đổi cấu trúc sở hữu theo hướng tối ưu. Bệnh viện truyền thống dựa trên sở hữu
công về tài sản vật chất. Và là nơi tập trung của nhiều bác sĩ có kỹ năng chuyên môn khác
nhau; mỗi người chỉ cần sử dụng một phần phương tiện vật chất của bệnh viện để hành
nghề. Về mặt tối ưu, mỗi bác sĩ đầu ngành nên là chủ sở hữu phần tài sản vật chất, mà tri
thức của ông ta là thiết yếu cho việc sử dụng hiệu quả phương tiện đó. Điều khó khăn ở
đây là có một số máy móc, ví dụ như thiết bị y tế soi hình, CT-scan chẳng hạn, đòi hỏi
tính hiệu quả về quy mô. Tương tự, nhiều phương tiện hóa nghiệm có thể sử dụng cho
nhiều chuyên khoa. Nếu chỉ một cá nhân sở hữu những tài sản như vậy, và số còn lại phải
đi thuê, thì điều đó sẽ gây mất mát về hiệu quả. Vấn đề là những người đi thuê sẽ ngại bị
chủ sở hữu chèn ép. Tuy nhiên, nếu một nhóm các bác sĩ hùn vốn cổ phần để lập ra
những trung tâm thiết bị y tế soi hình hoặc hoá nghiệm, thì rủi ro chèn ép bị loại bỏ. Điều
đó mở ra khả năng lập ra những cụm bệnh viện tư với quy mô nhỏ; kết nối với nhau qua
việc phối hợp quyền sử dụng các thiết bị y tế chung. Trong quá trình tư nhân hoá này,
công nghệ tin học cũng đóng vai trò quan trọng. Máy tính hóa cho phép giám sát dễ dàng
việc sử dụng thiết bị y tế và lập chứng từ hoá đơn đối với từng bác sĩ. Điều đó mở ra khả
năng sử dụng hợp đồng trên quy mô rộng giữa nhiều bệnh viện tư, thay vì phải tập trung
nguời và phương tiện ở một trung tâm lớn với bộ máy hành chính cồng kềnh như trước
đây. Có thể nói, công nghệ tin học đang làm tăng khả năng tiếp cận của từng cá nhân tới
tài sản mà vốn tri thức của họ là cần thiết cho việc sử dụng tài sản đó. Tin học đang làm
dễ dàng hóa cho sự chuyển đổi cấu trúc sở hữu theo hướng có lợi về mặt xã hội.
$%&!6%E*).
&3&$F*8#
Trong trào lưu cải cách vào đầu thập kỷ 80, những quan niệm mới về vai trò quản lý kinh
tế của nhà nước được đưa ra ở Việt nam. Mặc dù được đặt dưới một cái tên chung là “nền
kinh tế thị trường, có sự định hướng XHCN,” nhưng về mặt lý luận, có hai quan điểm
chính nổi lên: thứ nhất, phi tập trung hóa theo hướng thị trường (market-friendly view) và
thứ hai, nhà nước quản lý vĩ mô đối với sự phát triển kinh tế - xã hội (developmental-
state view). Cả hai quan điểm này đều xem nhà nước và thị trường như là hai cơ chế
phân phối nguồn lực thay thế lẫn nhau. Quan điểm “phi tập trung hóa theo hướng thị

trường” cho rằng, mọi vấn đề phân phối trao đổi chỉ có thể thực hiện một cách hiệu quả
nhất thông qua thị trường. Do vậy, vai trò của nhà nước chỉ nên dừng lại ở việc cung cấp
khung khổ pháp lý cho trao đổi, cung cấp cơ sở hạ tầng, hoặc hàng hóa xã hội (public
goods), như việc giữ gìn môi trường, vân vân. Dĩ nhiên, đây là một sự trả lời tất yếu cho
tính kém hiệu quả của kế hoạch hóa tập trung. Ngược lại, quan điểm “nhà nước quản lý
sự phát triển kinh tế - xã hội” lại nhấn mạnh đến sự yếu kém của thị trường ở các nước
đang phát triển. Chẳng hạn như sự không hoàn hảo của thông tin về khả năng sinh lãi
hoặc khả năng thu hồi vốn trên thị trường tín dụng; hoặc tình trạng mất cân đối trên thị
trường lao động như là hệ quả của việc thiếu thông tin tìm việc làm với tiền lương kích
thích. Do vậy nhà nước, cụ thể là các bộ, uỷ ban, vẫn phải nắm quyền kiểm soát việc
phân phối các nhập lượng chủ chốt, chẳng hạn như vốn đầu tư. Điều đáng nói là cả hai
quan điểm này đều diễn ra song song trong hoạt động quản lý và kinh doanh ở Việt nam
hiện nay. Nhưng chúng ít tương tác lẫn nhau. Các ngành chủ quản vẫn tiếp tục nắm và
phân bổ các nguồn lực chủ chốt. Nhưng việc thiếu sự kiểm soát của các thể chế pháp lý
lại dẫn đến tình trạng lãng phí hoặc tham nhũng. Ngược lại, việc nhập khẩu và phát triển
các thể chế pháp lý chung diễn ra mạnh mẽ ở các cơ quan nghiên cứu tại khắp các bộ
ngành. Nhưng việc đưa hệ thống luật pháp đó vào thực tế còn rất hạn chế [báo kinh tế
SG, số 45, 2005]. Một trong những nguyên nhân cơ bản là cả hai quan điểm nêu trên về
vai trò của nhà nước và thị trường đều xem chúng là những cơ chế thay thế nhau, cạnh
tranh nhau trong việc phân phối nguồn lực và giải quyết các vấn đề yếu kém của cả nhà
nước lẫn thị trường.
&30$G>FH:I%J
Tại một vài địa phương ở Việt nam, trong quá trình chuyển đổi, người ta thấy xuất hiện
một xu thế thứ ba. Theo đó, các chính sách nhà nước dựa trên các nhân tố thị trường,
được xen lồng vào các thể chế thị trường và hướng tới việc hỗ trợ cho sự phát triển thị
trường (market-enhancing view). Nhà nước không đứng lên trên hoặc tách biệt ra, mà là
một “người chơi”, tương tác với các tác nhân thị trường, các doanh nghiệp hoặc người
tiêu dùng, nhằm giải quyết các bài toán phối hợp. Để hình dung rõ hơn xu thế mới này,
chúng ta hăy xét đến sự tương tác giữa nhà nước và tác nhân thị trường trong việc giải
quyết các vấn đề phát triển tại thành phố Đà nẵng.

Những người đi xa nước lâu ngày, khi có dịp ghé qua Đà nẵng phải thấy sững sờ trước
sự thay đổi mau lẹ của thành phố. Câu trả lời cho sự chuyển mình đầy ngoạn mục đó xem
ra quá ngắn gọn: chính quyền có một ý nguyện thôi thúc muốn phát triển thành phố để
thu hút đầu tư tư nhân trong và ngoài nước. Nó sử dụng một chính sách rất giản đơn và
hiệu quả để đạt mục đích: gây vốn đầu tư phát triển hạ tầng thông qua chính sách “đổi đất
lấy công trình”. Nếu nhìn kỹ hơn, đây không phải là một bài toán phối hợp đơn giản. Vấn
đề là mọi người dân đều được lợi trong việc phát triển đường xá, hệ thống cầu bắc qua
sông Hàn. Nhưng ít ai tự nguyện muốn đóng góp vào việc xây dựng cầu đường. Chính
quyền thì không thể bổ đều chi phí và buộc từng người dân đóng góp cho công trình. Và
vì đó là những công trình công cộng, từng người có xu hướng để mặc cho ai khác quan
tâm hơn, đóng góp trước, rồi mình hưởng. Nhưng nếu ai cũng nghĩ như vậy, thì chẳng có
cái cầu nào được xây và không một ai được lợi.
Bây giờ, giả sử chính quyền địa phương đặt mình vào vị trí của các tác nhân thị trường.
Nó sẽ thấy rằng, nếu con đường hoặc cây cầu đã được xây, thì các doanh nhân sẽ sẵn
sàng trả giá cao nhất cho việc mua lô đất xây cơ sở kinh doanh bên mặt đường. Nhóm
dân cư khác, không kinh doanh và chỉ muốn đi lại tiện lợi hoặc ở gần các trung tâm
thương mại, thì sẽ trả giá thấp hơn để mua những lô đất xa mặt đường hơn. Và cuối cùng,
những người có thu nhập thấp nhất, ít có hy vọng ở gần các trung tâm đô thị mới; tức là ít
được hưởng lợi từ con đường hay cái cầu, sẽ không muốn trả một đồng tiền nào cả. Đổi
đất lấy công trình, do vậy, chỉ đơn thuần là lập một thị trường tương lai (future market).
Ý tưởng chính là giao dịch mua bán bây giờ những lô đất sẽ được chuyển nhượng quyền
sở hữu trong tương lai. Nhưng quan trọng hơn, nó khuyến khích các tác nhân thị trường
tự bộc lộ ý nguyện muốn đóng góp cho việc xây dựng các công trình công cộng, tương
ứng với ích lợi cá nhân mà họ sẽ được hưởng. Chính quyền khi đó ở vào vị trí có quyền
lực thị trường và thông tin cần thiết để đặt mức giá đất, mà tổng gộp lại, đủ để trả cho phí
tổn xây dựng cầu đường.
Nhìn kỹ hơn, cơ chế đổi đất lấy công trình bao hàm hai khía cạnh quan trọng: Thứ nhất,
nó thực hiện việc phân tích chi phí- lợi ích (cost – benefit analysis) qua cơ chế thị trường.
Nếu tổng gộp nguyện vọng trả tiền để mua đất chuyển nhượng trong tương lai của các tác
nhân thị trường không đủ bù cho chi phí, thì điều đó chứng tỏ dự án là không có ích lợi

kinh tế - xã hội, và nên bỏ. Ngược lại, nếu tổng số nguyện vọng trả tiền cao hơn chi phí
thực hiện dự án thì nên tiến hành. Điều đó cho phép tránh tình trạng lăng phí quan liêu
trong xây dựng cơ bản. Thứ hai, nó hướng quyền lực cưỡng chế hành chính vào việc
phục vụ lợi ích xã hội. Ai cũng biết là luôn có khó khăn trong việc giải tỏa đất cho xây
dựng cơ bản. Những người đang sống trên miếng đất sắp xây cầu đường sẽ kỳ vọng giá
trị đất của họ tăng lên sau khi công trình hoàn thành. Vì vậy, họ có thể đòi chính quyền
phải trả giá đền bù cao qua việc trì hoãn giải tỏa. Cứ xem việc mở rộng đường Nam kỳ
khởi nghĩa ở TP HCM hay hoàn thành đường Liễu giai Hà nội bị đình lại chỉ vì còn một
vài chủ hộ nhất quyết không chịu rời nhà là đủ hiểu. Để tránh việc đàm phán phức tạp,
chính quyền nên đi trước một bước nữa và lập ra một thị trường tương lai khác, không
phải với những người mua đất sau khi hoàn thành công trình, mà với những người bán
đất trước khi thi công. Nói rõ ra, thoả thuận đền bù với dân cư ở khu quy hoạch phải
được tiến hành trước khi có một kỳ vọng rõ ràng rằng công trình ở đó sẽ được đưa vào
thực hiện. Trong tương lai, họ phải có trách nhiệm pháp lý giải tỏa đất cho thi công. Để
cho chính sách mua trước giao đất sau này có hiệu quả, chính sách quy hoạch đô thị phải
nhất quán và ổn định trong triển vọng ít ra là 5 đến 10 năm. Theo đó, mọi xây dựng mới
trong khu quy hoạch phải bị hạn chế; và mọi sự chuyển nhượng quyền sử dụng đất phải
chịu sự kiểm soát pháp lý để tránh đầu cơ. Bài học đó của Đà nẵng nói lên là sức mạnh
công quyền, khi được sử dụng đúng, sẽ mang lại ích lợi cho mọi tác nhân thị trường cũng
như chính quyền sở tại.
Chính sách đổi đất lấy công trình ở Đà nẵng đáp ứng nhu cầu của mọi đối tác. Bằng cách
lập ra các thị trường tương lai, các khoản vốn tư nhân và công cộng có thể được huy động
trước cho sự phát triển hạ tầng, để rồi phục vụ trở lại lợi ích cá nhân và xã hội. Cùng với
việc tổ chức những thị trường tương lai, giao dịch bán và mua đất cũng được chuẩn hóa.
Hợp đồng được cụ thể hóa theo vị trí lô đất, chất lượng hạ tầng đi kèm, và ngày chuyển
nhượng. Cơ quan hành chính và pháp luật được chuyên môn hóa để bảo đảm lợi ích của
bên mua sau khi công trình hoàn thành và để cưỡng chế bên bán trước khi thi công. Có cả
những hệ thống ngân hàng, các sở giao dịch, đấu thầu dần hình thành lên để phục vụ nhu
cầu vay vốn và mua bán đất. Vấn đề không chỉ là xây một cái cầu hay con đường, mà cả
một thể chế tài chính và pháp lý cho kinh doanh tư nhân nở rộ.



$%&K#LD#L
Theo quan điểm chung, tham nhũng là việc quan chức chính phủ sử dụng quyền lực công
cho lợi ích tư. Chẳng hạn như việc quan chức ở nhiều quốc gia đòi phí cho việc cung cấp
giấy phép kinh doanh hoặc chứng chỉ hành nghề, cho việc chuyển hàng qua cửa khẩu,
hoặc ban hành điều lệ ngăn cản tự do cạnh tranh. Tham nhũng khá phổ biến trên thế giới,
đặc biệt là tại các nền kinh tế đang chuyển đổi. Nơi mà thể chế pháp lý chưa kịp phát
triển lên theo sự mở rộng của thị trường, trong khi những thiết chế truyền thống, chẳng
hạn như giá trị đạo đức của người làm công hay của người trí thức, lại bị suy đồi quá
nhanh chóng. Điều đó đặt ra 3 vấn đề cần xem xét: (1). Tham nhũng lan tỏa theo cơ chế
nào? (2) Nó tác động gì tới tăng trưởng kinh tế? và (3) Giải pháp chống lại sự lây lan của
tham nhũng là gì? Chúng ta học được gì từ các kinh nghiệm thành công hay thất bại trên
thế giới?
&K3&$.+6 #L
Hãy xét trường hợp đơn giản nhất, khi viên chức chính phủ kiểm soát việc cung cấp chỉ
một dịch vụ công, như quota xuất nhập khẩu, hay giấy phép mở trường học hay bệnh viện
tư. Trên thực tế, ngừơi viên chức có quyền trì hoãn hoặc chối từ việc cung cấp những loại
giấy phép đó. Vì vậy, họ có thể đòi hỏi cá nhân hay tổ chức kinh doanh trả một khoản phí
“bôi trơn” nhằm đẩy nhanh những thủ tục cấp giấy phép. Theo Shleifer (Harvard), ta có
thể chia hoạt động thu phí thành hai loại: không chiếm dụng và chiếm dụng. Ở loại hình
thứ nhất, viên chức thu một khoản phí chính thức cho việc cung cấp giấy phép, và đem
nộp khoản đó vào công quỹ; và chỉ giữ lại cho mình khoản phí bôi trơn. Trong trường
hợp thứ hai, viên chức chẳng nộp cái gì vào công quỹ hết, và chỉ đơn giản là ém luôn
khoản giao dịch. Vì vậy, về thực chất khoản tiền mà cá nhân trả cho viên chức chỉ còn là
phí bôi trơn. Nó có thể thấp hơn phí chính thức quy định bởi luật lệ. Và thủ tục cũng trở
nên ít nhiêu khê hơn. Chính vì vậy, dạng hình tham nhũng này rất hấp dẫn đối với cá
nhân hay tổ chức kinh doanh.
Cần phải nói rằng, việc viên chức cho phép mình thu phí bôi trơn là do có sự nhập nhằng
giữa quyền được ủy thác với việc sử dụng quyền đó trên thực tế. Chính vì vậy, ở các nền

kinh tế chuyển đổi, khi tiền lương không tương xứng với trách nhiệm; và trách nhiệm
không được quy định rõ ràng bởi luật lệ, thì tham nhũng có cơ lan tràn. Việc trừng phạt
viên chức tham nhũng có thể làm thay đổi mức họ đòi hối lộ, nhưng về cơ bản sẽ không
làm thay đổi tình hình. Hơn nữa, nếu việc trừng phạt kẻ tham nhũng chỉ có tính thí điểm,
thì rủi ro bị trừng phạt sẽ rơi nhiều nhất vào những kẻ quá lộ liễu. Vì vậy, nó sẽ thúc đẩy
hoạt động tham nhũng trở nên tinh vi hơn, ẩn ngầm hơn. Nhưng tuyệt nhiên, sự trừng
phạt làm gương đó sẽ không loại trừ được nạn tham nhũng.
Nếu sự nhập nhằng giữa quyền được ủy thác với việc sử dụng quyền đó trên thực tế cho
phép người giữ quyền có thể kiếm lời từ phí bôi trơn, thì trên thực tế, sẽ có một cuộc
cạnh tranh giữa các viên chức nhằm được bổ nhiệm vào các vị trí đó. Dĩ nhiên là người
mà chỉ biết sống bằng tiền lương thì sẽ không thể lấy được công việc như vậy. Ngược lại,
người đã nhận hối lộ sẽ có khả năng trả cao hơn để đuợc bổ nhiệm vào vị trí đó. Sự cạnh
tranh giữa các viên chức, do vậy,có xu hướng đẩy nạn tham nhũng gia tăng. Vì thế, một
trong các cách chống tham nhũng là làm rõ các chỉ tiêu khách quan, minh bạch, nhằm
đánh giá đúng chất lượng công chức. Và ràng buộc sự thăng tiến của cá nhân viên chức
với những thành tích cụ thể mà anh ta đã đạt được.
Trên thực tế, cơ chế thúc đẩy sự lan truyền của tham nhũng không chỉ xuất phát từ sự
cạnh tranh giữa các viên chức vào những vị trí béo bở. Quan trọng hơn, nó đến từ sự cạnh
tranh giữa các cá nhân hay tổ chức kinh doanh. Chẳng hạn, nếu một nhà nhập khẩu có
khả năng hối lộ hải quan để có thể nhập hàng nhanh hơn, với giá rẻ hơn, thì nó có thể
đánh bật các đối thủ cạnh tranh trên thị trường hàng hóa. Nếu hầu hết các doanh nghiệp
phải trốn thuế, thì ai không làm như vậy sẽ không thể tồn tại trên thương trường. Chính ở
điểm này, có sự khác biệt giữa tham nhũng không chiếm dụng và dạng có chiếm dụng.
Dạng hình thứ hai dễ lan truyền hơn vì có sự phù hợp về lợi ích giữa người trao và người
nhận phí bôi trơn. Ví dụ, ở một số địa phương tại Việt Nam, người ta quan sát thấy xe
chở khách thường hay vi phạm quy định về vệ sinh và an toàn giao thông. Chẳng hạn như
chở súc vật cùng người, hoặc chở hàng lậu, hoặc chở quá số lượng khách cho phép. Thay
vì phải nộp toàn bộ tiền phạt theo luật, cảnh sát giao thông có thể “cưa đôi” với lái xe
khoản phí đó. Tài xế chỉ phải trả có 50% tiền phạt; còn người cảnh sát địa phương ém
khoản giao dịch, không nộp vào quỹ công. Rõ ràng là dạng hình tham nhũng có chiếm

dụng này khó loại trừ hơn dạng hình không chiếm dụng. Vấn đề là dạng sau đặt lợi ích
của người trao và người nhận hối lộ đối nghịch nhau. Hơn thế nữa, ở dạng không chiếm
dụng, giao dịch được ghi lại trong sổ sách, nên nó sẽ làm dễ dàng cho việc thẩm tra lại,
nếu có sự tố cáo với cơ quan luật pháp về tệ tham nhũng. Điều này gợi ý rằng, tạo lập các
cơ chế kiểm toán đơn giản, hữu hiệu nhằm giảm bớt việc chiếm dụng các khoản nộp vào
quỹ công sẽ cho phép làm giảm tham nhũng.
Gợi ý nêu trên càng có ý nghĩa, khi tham nhũng có chiếm dụng còn thể hiện dưới dạng
bòn rút nguồn quỹ công đưa vào tài khoản tư. Marcos ở Philippines là trường hợp điển
hình với việc lấy trộm hàng tỷ dollars từ tiền viện trợ và xuất khẩu để xây lâu đài, vườn
thú cá nhân. Nhưng vụ PMU18 ở Việt Nam, với việc quan chức Bộ giao thông sử dụng
hàng triệu dollars tiền vay ODA để đánh bạc cho thấy tham nhũng đã ảnh hưởng thế nào
tới việc phát triển hạ tầng cho nền kinh tế, và làm tăng gánh nặng nợ nần cho thế hệ
tương lai. Hiện tại, mỗi năm nền kinh tế Việt Nam phải trả nợ nước ngoài khoảng 2 tỷ
dollars (theo báo Tuổi trẻ).
&K30 F876#LE/F
Những phân tích trên đây gợi ý rằng, tham nhũng có tác động trực tiếp làm tăng phí tổn
sản xuất do các doanh nghiệp phải trả phí bôi trơn. Ở nước Nga sau cải cách, người ta
đánh giá rằng, số tiền chi vào việc hối lộ vượt tổng chi tiêu ngân sách cho giáo dục, khoa
học, và chăm sóc sức khoẻ. Tham nhũng làm chi phí sản xuất hàng hóa và dịch vụ ở Nga
bị đội lên từ 5 đến 15%. Mỗi năm ở đó có khoảng 3000 vụ tham nhũng bị lôi ra ánh sáng;
nhưng đó mới chỉ là cái chóp của tảng băng ngầm khổng lồ. Hầu hết các doanh nghiệp ở
Nga khi được hỏi đều trả lời rằng họ phải trả tiền hối lộ cho đăng ký kinh doanh, cho
kiểm dịch vệ sinh, và thanh tra thuế. Ở Balan, Rumani, và Slovakia, con số này là vào
khoảng từ 20 đến 40%.
Một trong những nguyên lý cơ bản nhất trong kinh tế học là doanh nghiệp sẽ không đầu
tư nếu họ không giữ lại được thành quả từ nỗ lực của mình. Sử dụng dữ liệu điều tra
doanh nghiệp năm 2000 ở Nga, Balan, Rumani, và Slovakia, Mcmillan (Stanford) đã chỉ
ra rằng, ý nguyện đầu tư từ lợi nhuận để lại của doanh nghiệp có mối liên hệ rõ ràng tới
sự nhạy cảm của họ đối với tham nhũng. Những doanh nghiệp chịu rủi ro bị đòi tiền mãi
lộ cao nhất có mức đầu tư thấp hơn nơi ít rủi ro nhất tới 40%. Ở Trung Quốc vào những

năm 1980, người ta cũng nhận thấy tình hình tương tự. Quan chức các cấp thường “thăm
viếng” các doanh nghiệp tư nhân và đòi phí phụ trội. Một điều tra vào năm 1988 tại tỉnh
Liaoning cho thấy, chỉ riêng thuế và phí phụ trội đã chiếm tới 63% lợi nhuận của doanh
nghiệp. Gánh nặng thuế khóa đó làm doanh nghiệp tư nhân khó mà tồn tại, trừ phi là trốn
thuế hoặc che dấu hoạt động kinh doanh và thu nhập của họ (China Economic Almanac,
1989, p. 107).
Sử dụng dữ liệu liên quốc gia, Barro (Harvard) đã chỉ ra rằng tham nhũng càng nhiều, thì
đầu tư càng ít, tăng trưởng càng thấp. Nhưng cũng có một vài ngoại lệ. Indonesia dưới
thời Suharto đã tăng trưởng rất nhanh trong 3 thập kỷ liên tục, cho dù tham nhũng lan
tràn. Và Việt Nam hiện nay, mức tăng trưởng cao trên 8% đã kéo dài cả thập kỷ và không
có dấu hiệu gì cho thấy xu hướng này sẽ bị chậm lại, cho dù tham nhũng đã trở thành vấn
đề nổi cộm. Liệu sự phát triển thị trường và tăng trưởng có thể cùng tồn tại với tham
nhũng hay không? Hãy nhìn lại bài học từ Indonesia.
Vào cuối thập kỷ 1960, Indonesia là một trong các quốc gia nghèo nhất thế giới, hơn cả
Bangladesh, Nigeria, và Ghana. Dưới thời Suharto, ổn định vĩ mô được duy trì, lạm phát
được kiểm soát. Cải cách nông nghiệp thúc đẩy sản xuất lương thực, và xuất khẩu dầu thô
đưa lại ngoại tệ. Tăng trưởng bền vững tiếp sau đã đưa Indonesia trở thành một nước có
thu nhập trung bình trên thế giới. Vào đầu năm 1992, thu nhập đầu người tăng gấp 3 lần
so với năm 1960. Tỷ lệ người sống dưới mức nghèo khổ giảm từ 60% vào các năm 1970
xuống còn 11% vào năm 1996, chỉ một năm trước khi nổ ra khủng hoảng tài chính Châu
Á.
Trong thời gian đó, gia đình Suharto và nhóm lợi ích của nó trở nên giàu có vô biên; và
bị coi là đã bơm hàng chục tỷ dollars vào các tài khoản của họ ở nước ngoài. Theo nghiên
cứu của Mcmillan, ảnh hưởng của gia đình Suharto rất sâu và rộng. Họ có cổ phần ở hơn
1200 công ty, bao gồm ngân hàng, hàng không, hàng hải, khách sạn, viễn thông, siêu thị,
truyền hình, và báo chí. Thành viên gia đình nhận được sự miễn thuế hoặc trợ cấp hào
phóng, và kiếm được những hợp đồng chính phủ không thông qua đấu thầu cạnh tranh.
Các công ty nước ngoài muốn làm kinh doanh ở Indonesia thường phải lấy con em của
gia đình Suharto như là đối tác hoặc người quản lý. Một số đánh giá chỉ ra rằng, Suharto
“lạm dụng quyền hành một cách tùy tiện để lập nên những công ty độc quyền, thao túng

các hợp đồng chính phủ, và sử dụng doanh nghiệp nhà nước cho lợi ích của riêng mình.”
Nếu so sánh các chỉ số tham nhũng, thì Indonesia vào thời Suharto còn tồi tệ hơn nhiều
so với nước Nga dưới thời Einsin. Vậy sao ở Indonesia thị trường vẫn mở rộng nhanh
chóng, trong khi ở Nga, thị trường lại bị bóp nghẹt?
Vấn đề là ở Nga, sau tự do hóa, mỗi cơ quan trong bộ máy công quyền trở thành một ốc
đảo. Nhân viên thuế vụ, cán bộ hải quan, nhân viên ngân hàng nhà nước, người cấp
chứng chỉ kinh doanh, tất cả đều có quyền lực riêng biệt trong việc đòi doanh nghiệp phải
nộp phí bôi trơn. Mỗi một trong số họ đều tìm cách đòi càng nhiều càng tốt tiền hối lộ; vì
ai cũng biết rằng nếu không cố “vắt” nốt khoản tiền còn đọng lại ở doanh nghiệp, thì ai
đó sẽ lấy mất. Tình hình còn tồi tệ hơn vì nhiều điều lệ bổ sung, những quy định dưới luật
được ban hành, mỗi nơi một khác. Khiến cho sau khi trả xong hối lộ, cá nhân doanh
nghiệp vẫn thấy tiếp tục bị nhũng nhiễu. Khi mà quan chức các cấp đều tìm cách vắt kiệt
hầu bao của nó, doanh nghiệp bị mất đi ý nguyện đầu tư. Logic của cuộc chơi này cũng
tương tự như việc cạnh tranh săn bắt cá. Ai cũng tìm cách săn bắt cá càng nhiều càng tốt,
vì nếu không ai đấy sẽ bắt mất. Kết quả là vùng cá bị cạn kiệt vì cá mất khả năng tái sinh
sản. Dĩ nhiên, nếu chỉ có một chủ độc quyền khai thác cả vùng cá, thì anh ta sẽ quan tâm
hơn đến việc khai thác cá lâu dài, hơn là làm cạn kiệt nó một cách nhanh chóng. Đó là
trường hợp của Suharto.

Indonesia lúc đó giống như một vương quốc với một ông vua mà quyền lực không bao
giờ bị đặt thành vấn đề. Suharto tự mình chỉ định và cất nhắc các chức vụ trong chính
phủ. Là người lính trước khi trở thành tổng thống sau vụ đảo chính 1967, ông ta biến bộ
máy quân đội thành công cụ phục vụ cho mục đích chính trị của mình. Ông ta đưa sĩ quan
vào bộ máy hành chính. Các doanh nghiệp lớn mua sự bảo hộ bằng việc thuê những sĩ
quan về hưu vào làm, mà họ có thể tố cáo những quan chức quá nhũng nhiễu. Hối lộ nhỏ
ở các cấp thấp trong bộ máy chính quyền là vô vàn. Nhưng ở cấp cao, Suharto thường
xuyên cách chức những quan chức mà tham nhũng của họ đã trở nên quá tai tiếng. Một
dẫn chứng điển hình là ông ta sa thải toàn bộ bộ máy hải quan vào năm 1985 do sự tham
nhũng quá mức của nó. Như đã gợi ý, việc làm của Suharto không thể và không nhằm
loại trừ tham nhũng. Ông ta chỉ tìm cách độc quyền kiểm soát nó.

Mục đích tối hậu của Suharto là làm nguồn tiền đổ vào gia đình và thuộc hạ của ông ta là
lớn nhất. Trong cái vương quốc đó, luôn rõ ràng ai cần phải hối lộ và bao nhiêu. Tiền hối
lộ sau đó được chia một cách tương xứng cho các quan chức có liên quan, mà họ đồng ý
không đòi hỏi gì thêm nữa từ doanh nghiệp. Tham nhũng được kiểm soát chặt chẽ, do
vậy, không cản trở đầu tư. Khi giới kinh doanh được bảo đảm rằng không ai có quyền
chiếm đoạt thêm nữa lợi nhuận của mình, thì họ đầu tư và nền kinh tế phát triển. Những
người ở trên đỉnh cao của quyền lực trở nên giàu có vô biên, vì tiền hối lộ tăng cùng với
lợi nhuận.
Hệ thống của Indonesia dựa vào quyền lực của chỉ một cá nhân, và sụp đổ cùng với nó.
Sự ra đi của Suharto một phần là do khủng hoảng tài chính châu Á, phần khác là do
người dân đã hết chịu nổi đế chế của ông ta. Suharto phải từ chức sau khi đàn áp vụ bạo
động năm 1997 của sinh viên và dân thường, nổ ra ngay sau cuộc khủng hoảng tài chính,
làm hơn ngàn người chết. Bài học từ Indonesia là, không thể có một sự phát triển bền
vững dựa trên nền tảng chính trị bị chi phối bởi tham nhũng. Quyền lợi của các doanh
nghiệp phải dần được đảm bảo bởi luật pháp. Doanh nghiệp không thể dựa vĩnh viễn vào
việc mua sự bảo hộ từ quyền lực của một cá nhân hay nhóm lợi ích cấu kết với nó. Nói
khác đi, quan hệ vương triều phải dần được thay thế bởi các thể chế kinh tế và chính trị
tích cực, như là nền tảng cơ bản cho hoạt động kinh tế.
&K3  .M/N*+/F
Trung Quốc là một trường hợp khác về việc củng cố và phát triển hệ thống hành chính và
chính trị. Trong tiến trình cải cách và tăng trưởng đầy ngoạn mục của nó từ cuối những
năm 1970, viên chức chính quyền địa phương ở Trung Quốc ngày càng đóng vai trò tích
cực trong việc xây dựng cơ sở hạ tầng, thúc đẩy kinh doanh địa phương, và thu hút đầu tư
nước ngoài. Vai trò đó của họ đối ngược lại với tệ tham nhũng của quan chức ở các nền
kinh tế chuyển đổi và đang phát triển. Điều gì đã xảy ra ở Trung Quốc?
Trung Quốc là một quốc gia tập quyền, với Trung ương Đảng cộng sản là đầu não của hệ
thống chính trị nhiều cấp, mà nó có quyền lực tối cao trong việc bổ nhiệm và bãi miễn
các viên chức thuộc hệ thống đó. Cấu trúc tập trung cao về kiểm soát nhân sự đó vẫn còn
tồn tại y nguyên cho đến tận bây giờ.
Tỉnh thành là đơn vị hành chính cấp hai trong hệ thống thứ bậc chính trị ở Trung Quốc.

Ngoại trừ Đài loan, Hong Kong, và Macau, Trung Quốc có 31 đơn vị cấp tỉnh – 4 trung
tâm hành chính và kinh tế là Bắc kinh, Thượng hải, Thẩm quyến (Tianjing), và
Chongqing, 22 tỉnh và 5 khu tự trị. Cấp tỉnh được xếp ngang hàng với cấp bộ ở chính phủ
Trung ương. Vị trí đứng đầu ở tỉnh là bí thư tỉnh ủy, tiếp sau là chủ tịch tỉnh. Điều đó thể
hiện tính song trùng giữa đảng cộng sản và tổ chức chính phủ ở mỗi bậc trong hệ thống
đẳng cấp chính trị ở Trung Quốc.
Trung Quốc bắt đầu công cuộc đổi mới rộng khắp của nó từ năm 1978. Như ở hầu hết
các nền kinh tế chuyển đổi, cải cách đặt ra một mâu thuẫn cơ bản giữa một bên là các đơn
vị hành chính và kinh tế đòi hỏi quyền tự chủ cao hơn, với bên kia là nhà nước trung
ương, bị mất quyền kiểm soát, và muốn hạn chế nhịp độ tự do hóa. Cụ thể là, quyền lực
của cơ quan trung ương giám sát có hiệu quả hoạt động của các đơn vị trực thuộc tại các
tỉnh bị suy giảm mạnh. Trong hoàn cảnh như vậy, việc đẩy quá nhanh nhịp độ tự do hóa
tất yếu sẽ dẫn đến nạn cướp bóc tài sản công trên mức độ rộng khắp như ở nước Nga, hay
việc quan chức địa phương tùy tiện ức hiếp doanh nghiệp tư nhân như ở tỉnh Liaoning,
Trung Quốc.
Thách thức trên đây đã đưa cải cách ở Trung Quốc đi theo một hướng khá đặc thù. Phi
tập trung hóa cho phép cấp tỉnh ngày càng đóng vai trò quan trọng hơn trong quản lý kinh
tế so với cấp bộ ở trung ương, thể hiện tầm quan trọng chiến lược của lãnh đạo cấp tỉnh
trong cải cách. Theo Qian (giám đốc trung tâm nghiên cứu Trung Quốc, đại học Berkely),
cán bộ cấp tỉnh được trao quyền tự chủ ngày càng cao trong việc điều tiết nguồn lực kinh
tế ở địa phương của họ. Những quyết định chính trị và kinh tế của họ ảnh hưởng quan
trọng đến thành tựu kinh tế của những địa phương đó. Bởi vậy, họ cũng chịu hoàn toàn
trách nhiệm cho hệ quả của những quyết định của mình. Ở mức độ nào đó, cán bộ cấp
tỉnh cũng giống như người quản lý các cấp ở tập đoàn hay công ty lớn với nhiều bộ phận.
Họ phải chịu trách nhiệm cho kết quả hoạt động của đơn vị mình.
Đặc thù cơ bản của cải cách của Trung Quốc, do vậy, là việc trao quyền tự chủ cao trong
quản lý, gắn kết với việc kiểm tra chặt chẽ và đánh giá nhân sự sát sao. Nhìn kỹ hơn, sự
gắn kết đó đòi hỏi phải có cải cách hệ thống quản lý nhân sự đi kèm với cải cách kinh tế,
ngay từ khi khởi đầu quá trình chuyển đổi. Bước ngoặt quan trọng nhất trong quản lý
nhân sự là sự thay đổi toàn diện chỉ tiêu đánh giá viên chức nhà nước. Sự trung thành

chính trị, mà nó là chỉ tiêu duy nhất trước cải cách cho sự thăng tiến, nhường bước cho
năng lực quản lý kinh tế và các chỉ tiêu đo lường khác về nghiệp vụ. Mặc dù rằng sự
trung thành chính trị vẫn hết sức quan trọng, ba yếu tố mới được đưa vào quá trình đánh
giá: Viên chức phải trẻ về độ tuổi, có trình độ học vấn đích thực, và thể hiện được sự
thành thạo trong quản lý hành chính. Trên tất cả, thành tựu kinh tế địa phương trở thành
chỉ tiêu quan trọng bậc nhất cho việc cán bộ cấp cao đánh giá nhân viên cấp dưới. Việc
nhân viên các cấp lúc nào cũng quan tâm xem mình được đánh giá thế nào về thành tựu
quản lý so với đồng nghiệp thể hiện thực tiễn đó. Báo cáo chính phủ hoặc sách niên giám
thống kê thường xuyên chứa đựng những thông tin chi tiết về việc xếp hạng đánh giá các
tỉnh, bằt đầu từ mức tăng trưởng GDP, cho tới sản lượng thép, cây số đường được xây
dựng, số vốn đầu tư thu hút được, và khả năng tạo công ăn việc làm.
Vào năm 1980, lần đầu tiên trong lịch sử, ban chấp hành trung ương chính thức phế bỏ
việc giữ trọng trách suốt đời của cán bộ đảng và nhà nước và yêu cầu cán bộ phải về hưu
truớc tuổi 65 nếu họ không được đề cử vào những chức vụ cao hơn. Theo chính sách
mới, nhiều cán bộ có thâm niên cao ở tỉnh được thuyết phục rời bỏ vị trí để nhường bước
cho lớp trẻ. Trên thực tế, việc về hưu bắt buộc, cũng như nhiều chính sách khác, không
phải lúc nào cũng được chấp hành nghiêm chỉnh.
Mặc dù vậy, cải cách kinh tế và chính trị đã buộc lãnh đạo cấp tỉnh phải làm việc trong
một khung khổ về chuẩn mực nghề nghiệp, được xác định một cách rõ ràng trong lòng
cấu trúc chính trị nhiều cấp ở Trung Quốc. Cơ hội thăng tiến được đặt ra trước cho bí thư
tỉnh ủy, thành viên của hội đồng tỉnh, và ủy ban hành chính tỉnh. Tỉnh trưởng, ở cấp dưới
ngay sau bí thư đảng ủy, cũng có thể được bổ nhiệm vào chức bí thư tỉnh, hoặc vị trí
tương đương ở cấp bộ hay ủy ban ở trung ương.
Bên cạnh việc thăng tiến, cho thôi việc, bao hàm cả việc cho về hưu hoặc giáng chức,
cũng được sử dụng như một nhân tố kích thích. Cũng cần phải nêu thêm rằng, khác với
các nước phương tây, nếu một viên chức ở Trung Quốc bị cho thôi việc, thì gần như
chẳng còn đường để anh ta kiếm việc ở nơi khác nữa. Điều đó gợi ý rằng, đe doạ bị thôi
việc có ảnh hưởng mạnh đến hành vi của viên chức, buộc họ phải thận trọng khi ra các
quyết định quản lý.
Sử dụng dữ liệu thống kê, một nghiên cứu gần đây của khoa kinh tế, đại học Stanford,

kết hợp với trường quản trị Thanh Hoa (Guanghua school of management), đại học Bắc
Kinh, đã chỉ ra rằng, cơ hội thăng tiến của lãnh đạo cấp tỉnh ở Trung Quốc tăng cùng với
thành tựu kinh tế của địa phương họ; và khả năng bị thôi việc giảm đi cùng với thành tựu
kinh tế đó. Điều này có phần trùng hợp với nghiên cứu của Besley và Case, theo đó,
thành tựu kinh tế của từng tiểu bang so với các bang kế cận ở Mỹ có ảnh hưởng tích cực
tới triển vọng được bầu lại của thống đốc bang.
Mối quan hệ giữa sự thăng tiến của các cấp lãnh đạo với thành tựu kinh tế của địa
phương đã được nêu lên sớm nhất bởi Tiebout (Northwestern) từ năm 1956. Nếu sự thăng
tiến chính trị được ràng buộc với thành tựu kinh tế, thì có nghĩa là sẽ có sự cạnh tranh
giữa các bang hoặc tỉnh thành, nhằm thu hút nguồn lực cho phát sự phát triển kinh tế của
địa phương mình. Ở Mỹ, học thuyết đó được biết đến với cái tên là “người dân bầu bằng
bước chân của mình!” (people vote by feet!) Tại mỗi bang, để cực đại nguồn thu thuế,
chính quyền bang phải cung cấp các dịch vụ công, từ hệ thống giao thông thuận lợi, cho
đến các luật lệ bảo đảm quyền sở hữu trên thực tế của người kinh doanh. Khi đó, nếu viên
chức địa phương của một bang tìm cách nhũng nhiễu đòi hối lộ, thì cá nhân nhà kinh
doanh sẽ tìm đến bang khác, mà quyền sở hữu của họ được bảo vệ hữu hiệu hơn bởi luật
pháp tiểu bang. Ngược lại, khi sự phát triển của một tiểu bang thu hút mạnh nguồn lao
động và tài chính tới nó, thì các tiêu chuẩn sàng lọc cũng được đặt ra chặt chẽ hơn, cho
phép tuyển chọn những nguồn lực hiệu quả nhất chảy vào địa phương. Kết quả là kinh
doanh phát triển lên theo cùng nhịp với sự tiến bộ về thể chế. Và nguồn thu thuế cũng
tăng lên cùng với lợi nhuận. Sức mạnh kinh tế đem lại sức mạnh chính trị cho lãnh đạo
địa phương.
Ở Trung Quốc, sự thi đua giữa các cá nhân và tổ chức nhà nước bao hàm rằng, nếu một
viên chức tìm cách đòi hối lộ, thì viên chức hay tổ chức khác, hoặc địa phương khác, có
thể sẽ cung cấp cùng một dịch vụ tốt hơn, nhằm thu hút nhiều “người mua” hơn đến với
mình. Vì rằng, những thành tựu quản lý đó sẽ được ghi lại rất tỉ mỉ, và có tác động trực
tiếp tới cơ hội thăng quan, hay khả năng bị giáng chức của họ. Qian (Berkely) và Maskin
(Princeton) còn chỉ ra rằng, Trung Quốc cho đến bây giờ vẫn kiểm soát khá chặt thị
trường vốn và ngoại hối. Vốn đầu tư có thể tự do chảy vào Trung Quốc, nhưng không dễ
dàng chảy ra. Một khi đã nằm trong nền kinh tế, nguồn vốn đó có thể tự do chảy tới nơi,

mà nhà đầu tư cho là có triển vọng lợi nhuận tốt nhất. Cũng hệt như vậy, lao động ở
Trung Quốc có thể dịch chuyển khá năng động tùy thuộc vào khả năng của cá nhân đáp
ứng cơ hội về việc làm. Như vậy, ở địa phương mà tham nhũng hoành hành, thì vốn và
lao động năng suất cao có xu hướng bị “đuổi” khỏi đó, và chảy về nơi, mà cơ sở hạ tầng
và pháp lý cho kinh doanh phát triển hơn. Điều này cũng lý giải tại sao những cơ chế
hạch toán rõ ràng, minh bạch, cho phép xếp hạng môi trường kinh doanh giữa các tỉnh
thành lại được hoàn thiện và làm cho phổ biến nhanh tới như vậy ở Trung Quốc. Vai trò
chính của những thể chế đó là định hướng các dòng chảy của vốn, lao động, và phối hợp
nỗ lực quản lý giữa các khu vực.
&K3K O.M

Như North đã nói: Sự phát triển và giàu có của một quốc gia không phải chủ yếu là do
nó có tài nguyên giàu có như dầu mỏ. Cũng không phải chỉ do sự cần cù của số đông
người lao động. Mà chủ yếu là do những yếu tố kích thích, gắn kết bên trong những thể
chế về quản lý và tổ chức, cho phép thúc đẩy đầu tư và phát triển. Một sự phát triển lâu
bền không thể dựa trên một thể chế quản lý bị lũng đoạn bởi tham nhũng. Và một nền
kinh tế lạc hậu không phải là không bao giờ có thể đuổi kịp các nước tiên tiến. Vấn đề là
phải tạo lập cho được hệ thống công quyền tích cực, nhằm bảo đảm quyền sở hữu của các
cá nhân, và thúc đẩy sự tiến bộ của xã hội.

$%&PFNJ7M/
&P3& 9QD6.:G%# 
Thật khó mà đặt lại câu hỏi ngồn gốc của ích lợi từ hội nhập là gì, khi các phương tiện
đại chúng đã nói quá nhiều về điều đó. Nhưng mâu thuẫn thay, vẫn rất ít ai hiểu rõ bản
chất của điều đó để vận dụng có hiệu quả trong chiến lược cạnh tranh và phát triển của
công ty hay công ty.
Theo cách hiểu nôm na, hội nhập là tự do trao đổi thương mại quốc tế, mà các quốc gia
với trình độ phát triển khác nhau, vẫn có thể cùng có lợi. Vậy nguồn gốc cơ bản của ích
lợi từ hội nhập là gì? Điều gì đảm bảo cho việc đôi bên cùng có lợi có thể xẩy ra?
Theo thuật ngữ kinh tế, nguồn gốc cơ bản của ích lợi thương mại là lợi thế so sánh

(comparative advantage). Chẳng hạn như trong một giao dịch rất giản đơn giữa hai người
mua và bán. Sở dĩ có sự trao đổi đó là vì người bán có khả năng sản xuất ra một sản
phẩm hay dịch vụ nào đó mà người mua cần, nhưng với năng suất lao động, hay hiệu quả
cao hơn. Nói khác đi, người bán có lợi thế lớn hơn so với người mua trong việc cung cấp
sản phẩm hay dịch vụ đó. Anh ta có lợi thế so sánh.
Tất cả chúng ta, ai cũng muốn chuyên môn hóa ở lĩnh vực mà chúng ta làm có hiệu quả
nhất. Thử hình dung xem, nếu mỗi cá nhân phải tự cung cấp cho mình quần áo, thức ăn,
và mọi thứ cần thiết khác, thì mức sống của chúng ta sẽ tồi đi đến mức nào? Sẽ là có lợi,
nếu như bạn chuyên môn hóa vào việc cung ứng dịch vụ mà bạn sản xuất có hiệu quả
nhất, và dùng thu nhập có được từ việc cung cấp dịch vụ đó để mua hàng hóa mà bạn cần.
Theo cùng một logic, lợi thế so sánh là cơ sở của tự do hóa thương mại giữa các quốc
gia. Các nước có tiền lương lao động thấp, sẽ có lợi hơn trong việc chuyên môn hóa, sản
xuất ra những hàng hóa, dịch vụ sử dụng nhiều lao động. Và xuất khẩu chúng sang các
quốc gia có tiền lương lao động, thu nhập cao để đổi lấy những hàng hóa, mà việc sản
xuất ra chúng đòi hỏi nhiều vốn và công nghệ tiên tiến. Và cả hai bên đều có lợi.
Trên thực tế, việc khai thác lợi thế so sánh trong trao đổi thương mại không diễn ra đơn
giản đến như vậy. Còn có những yếu tố khác nữa, tham dự vào quá trình này, gây trở ngại
cho tự do hóa. Do đó, ích lợi tiền tàng từ thương mại có thể bị mất đi. Vì vậy, sự hiện
diện của tổ chức WTO là cần thiết để thúc đẩy tiến trình hợp tác. Trong bài này, ta sẽ bàn
kỹ hơn đến một khía cạnh khác của các mâu thuẫn lợi ích trong trao đổi ngoại thương,
khi đề cập đến chiến lược cạnh tranh và hợp tác của các công ty xuyên quốc gia.
Bây giờ, hãy nói đến nguồn gốc thứ hai của ích lợi thương mại. Đó là tính hiệu quả về
quy mô (economies of scale).
Giả sử sự trao đổi thương mại giữa hai quốc gia khác biệt về tiền lương và năng suất lao
động tạo ra một quá trình catch up. Tức là có sự đuổi kịp các nước phát triển hơn, như
người ta đang tin vào xu thế trao đổi thương mại giữa Trung Quốc và Mỹ hiện nay. Hay
như trước đây là trường hợp giữa Nhật Bản và Mỹ vào những năm 1960 -1970. Khi đó,
các nước khác nhau sẽ ngày càng trở nên tương đồng nhau hơn về quy mô nền kinh tế, về
trình độ công nghệ, và mức sống. Vì vậy, lợi thế so sánh giữa các quốc gia này sẽ dần bị
biến mất, chẳng hạn như quan hệ giữa Mỹ, Nhật, và Tây Âu hiện nay. Liệu trao đổi mậu

dịch giữa các quốc gia này sẽ giảm, hoặc thậm chí ngừng hẳn? Thực tế câu trả lời rõ ràng
là không! Hơn 80% giá trị trao đổi thương mại quốc tế là giữa các nước phát triển hoặc
đang phát triển tăng vọt, như các quốc gia ở Đông Á và Trung quốc. Và nền tảng của ích
lợi trao đổi thương mại giữa các quốc gia này không còn chủ yếu là dựa trên lợi thế so
sánh một cách đơn thuần. Trao đổi hai chiều giữa các quốc gia này không phải mang tính
bổ trợ nhau, mà chủ yếu là những hàng hóa tương tự nhau.
Điều đó diễn ra mạnh mẽ vì nguồn lợi thứ hai của trao đổi thương mại. Đó là lợi thế về
quy mô của sản công nghiệp lớn (mass production). Ví dụ như trong công nghiệp xe hơi,
hãng Toyota của Nhật tập trung vào ngách thị trường xe dã ngoại, như Land cruse, trong
khi hãng Ford của Mỹ lại chuyên sản xuất xe gia đình đi đường trường, như Escape. Vấn
đề là ở chỗ, cả hai sẽ có lợi hơn, nếu từng bên tập trung vào chỉ một ngách hẹp (niche),
mà nó đạt được hiệu quả cao nhất về quy mô. Và cùng bán ra những sản phẩm tương tự
nhau, nhưng đáp ứng thị hiếu của những lớp người tiêu dùng khác nhau (differentiating
products).
Lợi thế về quy mô thể hiện cụ thể nhất trong tổ chức sản xuất theo mạng lưới toàn cầu
của các công ty lớn như Toyota. Các công ty con của Toyota được tổ chức theo chuyên
môn hóa sản xuất. Mỗi đơn vị tập trung vào sản xuất chỉ một vài linh kiện, mà nó làm
hiệu quả nhất. Ví dụ như vỏ xe ô tô có thể được sản xuất bởi Toyota Motor Malaysia; lốp
xe được cung cấp bởi Toyota Motor Thailand, vân vân, tuân theo cùng một tiêu chuẩn
quốc tế của công ty Toyota. Và những thiết bị này được xuất khẩu tới các công ty con
khác, để rồi được ghép gộp lại thành sản phẩm của những dòng xe Toyota bán đi trên
khắp các thị trường thế giới. Sự phối hợp như vậy rõ ràng là có hiệu quả hơn so với việc
mỗi đơn vị của Toyota tự sản xuất ra mọi thiết bị mà nó cần.
Như có thể dự đoán, lợi thế quy mô của tổ chức sản xuất lao động toàn cầu này đã thúc
đẩy mạnh mẽ các dòng FDI và trao đổi thương mại quốc tế, mà chúng có khi còn diễn ra
rất sớm trước khi có bất cứ thỏa thuận chính thức nào về tự do mậu dịch trong khuôn khổ
của WTO.
&P30 ? 6:/FI*D
Động cơ chính của tự do hóa thương mại là tình thế win – win. Tức là, cả hai phía đều có
lợi, nếu có trao đổi thương mại hơn là không có điều đó. Nhưng liệu có phải lúc nào việc

trao đổi cũng đều diễn ra xuông sẽ hay không? Chúng ta hãy xem xét ví dụ sau:
Hãy nghĩ đến một tình huống mà nó có mối lợi tiềm tàng cho cả hai bên tham dự vào hợp
đồng thương mại quốc tế. Chẳng hạn, giữa một bên là nhà sản xuất máy tính, ví dụ như là
ACE với một nhà cung cấp linh kiện bán dẫn, China Semiconductors (CS) ở Trung Quốc.
ACE có thể quan tâm nhiều hơn đến chất lượng sản phẩm và khả năng giao nộp sản phẩm
đúng hạn của nhà cung cấp. Vấn đề là dây truyền sản xuất máy tính của ACE phụ thuộc
vào khả năng giao nộp đúng hạn, đúng yêu cầu về chất lượng của nhà cung cấp. Bên phía
công ty Trung quốc lại quan tâm hơn tính ổn định của quan hệ hợp đồng với big client
như ACE.
Như vậy, một hợp đồng có lợi, đáp ứng đòi hỏi của cả đôi bên có thể được vạch ra, theo
đó nhà cung cấp hứa sẽ bảo đảm chất lượng và thời hạn giao nộp để đổi lấy việc ACE sẵn
lòng ký một thỏa thuận dài hạn.
Bây giờ, hãy làm phức tạp cuộc chơi lên một chút cho gần thực tế hơn. Gỉa sử để công ty
CS của Trung Quốc có thể thực hiện hợp đồng của mình với ACE nó cần phải làm một số
đầu tư đặc biệt về máy móc, công nghệ, và đào tạo lại tay nghề cho công nhân. Gỉa sử giá
cả mua bán trong hợp đồng được thỏa thuận ở mức đủ cao, đủ để bù đắp cho những phí
tổn đầu tư mà CS sẽ bỏ ra. Xem ra, đây là một thỏa thuận hết sức có lợi và phía CS chỉ
còn tập trung vào việc bảo đảm thỏa thuận về chất lượng và thời hạn giao nộp.
Nhưng thực tế không đơn giản như vậy. Giả sử công ty CS của Trung Quốc đã ký hợp
đồng và đã bỏ vốn vào đầu tư đặc biệt để sản xuất theo đơn đặt hàng của ACE. Khi đó,
nó ở vào thế hết sức bất lợi. Vấn đề là ở chỗ ACE biết rằng, máy móc của công ty China
Seniconductors đã được chuyên dụng hóa, và không thể dùng để sản xuất ra cái gì khác,
ngoài sản phẩm phục vụ theo đơn đặt hàng cho ACE. Khi đó, ACE có thể ở vào thế mạnh
để đòi điều đình lại giá mua theo hướng thấp xuống, vẫn đủ để trả cho chí phí vận hành.
Nhưng giá đó không nhất thiết là đủ cao để bù cho phí tổn đầu tư đặc biệt mà công ty CS
đã bỏ ra.
Mặc dù vậy, chính vì lợi ích của mình mà công ty CS Trung Quốc vẫn phải chấp nhận
mức giá thấp, hơn là để máy móc và công nhân ngồi chơi. Nhưng nếu công ty CS dự
đoán trước được tình huống như vậy, thì nó có thể sẽ không dám ký thỏa thuận, mà nếu
như thực hiện được, sẽ đem lại ích lợi cho cả CS lẫn ACE.


Rõ ràng là công ty China Semiconductors có thể ký một hợp đồng khác, theo đó, ACE
hứa sẽ không được đàm phán lại về giá. Tuy nhiên, hợp đồng không bao giờ là đầy đủ.
Nó không thể xác định rõ ai sẽ có quyền gì trong tất cả mọi tình huống xảy ra trong tương
lai. Và ACE có thể dựa vào những tình huống chưa được ghi trong hợp đồng để làm cái
cớ, đòi đàm phán lại về giá. Trong bối cảnh đó, kết cục win – win khó mà có thể được
thực hiện.
Dĩ nhiên là việc chèn ép như vậy (holdup problem) không chỉ xẩy ra trong giao dịch quốc
tế. Và trở ngại cho hợp tác thương mại không chỉ dừng lại ở đó. Nhưng việc xem xét kỹ
hơn tình huống này sẽ cho ta thấy một số khía cạnh khá quan trọng trong tổ chức mạng
lưới sản xuất toàn cầu của các công ty lớn. Cụ thể là những chiến lược mà họ có thể sử
dụng để làm tăng sức cạnh tranh của mình, và thúc đẩy tính hợp tác của đối phương,
nhằm thực hiện ích lợi tiềm tàng từ tự do thương mại.
&P3 R>)S;T*#N6FN8*D
Hãy phức tạp cuộc chơi hơn nữa, bằng cách nhìn vào quan hệ giữa một bên là công ty
Toyota Motor Vietnam (TMV) với Toyota Motor Thailand (TMT). Và bên kia là giữa
TMV với các đối tác khác của nó tại Việt nam. Mục đích của cả TMV và TMT là tìm
kiếm các cơ hội đầu tư mà mỗi bên có thể tận dụng được thế mạnh của mình. Và tiếp đó
là làm thế nào để thực thi các cơ hội đó mà không để rủi ro bị chèn ép làm mất đi ích lợi
tiềm tàng từ trao đổi thương mại.
Lựa chọn cơ hội đầu tư
Để cụ thể, giả sử nhu cầu về các dòng xe mới của Toyota trên thị trường Đông Nam Á
làm xuất hiện đòi hỏi về việc sản xuất ra hai loại nhập lượng: thứ nhất là van tuần hoàn
xả khí, với tổng giá trị 20 triệu USD. Và thứ hai là hệ thống giảm xóc,với tổng giá trị 70
triệu USD. Ở đây ta giả thiết rằng việc sản xuất bộ giảm xóc đòi hỏi trình độ công nghệ
cao hơn. Vì vậy, có giá trị thị trường lớn hơn.
Hai công ty có tiềm năng sản xuất cả hai thiết bị này tại thị trường khu vực là TMV và
TMT. Nhưng do ràng buộc về về quy mô thiết bị và lao động, họ chỉ có thể chọn đầu tư
sản xuất cho một trong hai đơn đặt hàng nói trên.
Đối với TMV, nếu nó có khả năng gọi vốn đầu tư nhằm tăng tỷ lệ nội địa hóa, thay cho

việc chỉ đơn thuần nhập khẩu và lắp ráp, thì nó có thể sản xuất cả hai thiết bị nêu trên
theo đúng chuẩn mực quốc tế, nhưng với giá rẻ hơn( do lao động Việt Nam rẻ hơn). Đối
với TMT tại Thái lan, nó có khả nắng sản xuất cả hai thiết bị trên với chất lượng đáng tin
cậy hơn, và thời hạn giao nộp chính xác hơn. Đó là vì nó có tuổi đời dài hơn và đã quen
cung cấp cho một thị trường xe hơi địa phương lớn hơn.
Có khoản 80% đơn đặt hàng đòi hỏi hết sức nghiêm ngặt về chất lượng và thời hạn giao
nộp, chẳng hạn như Toyota đặt tại Singapor hay Thượng hải. Họ muốn ký hợp đồng với
TMT. Khoảng 20% đơn đặt hàng còn lại thuộc các thị trường mới nổi lên. Những công ty
Toyota ở đó đang phải nổ lực giảm giá thành lắp ráp cho phù hợp với sức mua còn thấp
của thị trường nội địa. Vì vậy, họ có thể ưa thích thiết bị do TMV chào mời.
Như vậy, nếu cả hai cùng đầu tư sản xuất van tuần hoàn xả khí, thì TMT sẽ chiếm 80%
tổng giá trị hợp đồng 20 triệu tức là 16 triệu, còn TMV sẽ có 4 triệu thị phần. Tương tư
như vậy, nếu cả hai cùng nhảy vào sản xuất hệ thống giảm xóc với tổng giá trị hợp đồng
là 70 triệu thì TMT sẽ được 56 triệu và TMV sẽ được 14 triệu. Trong hoàn cảnh ngược
lại, mỗi bên sẽ chiếm toàn bộ phân khúc thị trường mà nó đã chọn. Tình huống cuộc chơi
được tóm tắt như sau:

U! Van tuần hoàn Bộ giảm xóc
U
Van tuần hoàn V&2WKXV01WY1X
Bộ giảm xóc VY1W01XVP2W&KX

(Lưu ý là số bên trái trong ngoặc là thị phần của TMT, và số bên phải là của TMV, ứng
với từng cặp chiến lược đã lựa chọn của mỗi bên).
Theo quan điểm TMT, nếu TMV nhẩy vào phân khúc van tuần hoàn, thì TMT sẽ được
lợi hơn nếu nó nhẩy vào phân khúc bộ giảm xóc, và hưởng trọn tổng hợp đồng 70 triệu
USD, hơn là chỉ lấy được thị phần 16 triệu, nếu cũng nhấy vào van tuần hoàn (xem dọc
theo cột đầu). Ngược lại, nếu TMV nhẩy vào bộ giảm xóc, thì việc chấp nhận chạm trán
với đối phương trên phân khúc này sẽ cho TMT hưởng thị phần 56 triệu, hơn là né tránh
và chọn việc cung cấp van tuần hoàn với tổng hợp đồng 20 triệu. Như vậy, TMT sẽ có lợi

hơn, nếu chỉ chuyên môn hóavàosản xuất bộ giảm xóc, hơn là sản xuất van tuần hoàn.
Về phía TMV, tình thế có phức tạp hơn, nếu nó dự đoán được rằng TMT sản xuất bộ
giảm xóc, thì nó chỉ nên cung ứng van tuần hoàn và thu 20 triệu. Ngược lại nếu TMT sản
xuấtvan tuần hoànWthì nó nên sản xuất bộ giảm xóc, và thu trọn 70 triệu. Do không có
lợi thế so sánh, TMV rõ ràng là luôn tìm cách né tránh nơi mà TMT muốn đặt chân vào.
Do vậy, để biết mình nên làm gì, TMV phải đặt nó vào địa vị của TMT. Và nó nhận thức
được rằng, TMT sẽ luôn chọn phân khúc bộ giảm xóc. Vì vậy, TMV sẽ chọn cho mình
phân khúc van điều hòa. Sự phân công lao động quốc tế giữa TMT và TMV đã được đề
ra, và cả hai bên đều có lợi. Tình thế win- win được tạo lập một cách tự nhiên, dựa trên
việc lựa chọn chiến lược đầu tư một cách có suy xét của cả hai phía tham dự cuộc chơi.
Trong quan hệ như vậy, mạnh không có nghĩa là luôn tìm cách chèn ép yếu.
Thực hiện cơ hội đầu tư
Khi phát hiện ra cơ hội đầu tư này, Tổng giám đốc Toyota Việt Nam, Nobuniko
Murakami quyết định đề nghị công ty Toyota tổ chức hội thảo ở Tokyo, Nhật bản, để
thuyết phục các nhà đầu tư bỏ vốn vào sản xuất linh kiện van tuần hoàn xả khí tại Việt
Nam. Điều đáng nói là sau đúng hai năm kể từ ngày tổ chức cuộc hội thảo, TMV đã nâng
mức xuất khẩu van tuần hoàn xả khí lên 20 triệu USD. Đó rõ ràng là một tín hiệu tốt lành,
làm tăng số lượng đơn đặt hàng cho TMV trong tương lai. Một điều mà ít quan chức Việt
Nam nào có thể tin được khi tham dự lễ khởi công dự án cách đây hai năm.
Lý do tại sao mà trong thời gian hai năm TMV lại đạt được kết quả như vậy? TMV đã có
chiến lược tổ chức hợp tác như thế nào?
Hãy đơn giản hoá thực tiễn và chỉ tập trung vào những tình tiết quan trọng nhất. Như đã
nói, cách đây hai năm, TMV có hai sự lựa chọn ở Việt nam: hoặc là kêu gọi đầu tư nhằm
sản xuất van tuần hoàn xả khí với chất lượng đáp ứng được chuẩn mực, áp dụng trong hệ
thống của công ty Toyota trên toàn cầu. Hoặc chỉ vẫn dừng lại ở mức nhập khẩu linh kiện
lắp ráp và sửa chữa xe Toyota tại thị trường nội địa tại Việt nam. Thị trường này còn hết
sức nhỏ bé, chỉ vào khoảng 40.000 xe / năm (tức là bằng 1/20 so với Thái lan). Và sự lựa
chọn thứ hai sẽ không thể cho phép TMV đạt đến mức hiệu quả về quy mô, điều mà
phương án gọi đầu tư vào Việt nam và xuất khẩu linh kiện ra bên ngoài có thể đem lại.
Nhưng phương án gọi đầu tư tự nó lại chứa chấp quá nhiều rủi ro.

Để dễ hình dung, giả sử Toyota đã thành công trong việc thuyết phục các nhà đầu tư bỏ
vốn vào Việt nam. Và giả định rằng các nhà đầu tư đã lên kế hoạch, chuyển giao công
nghệ, máy móc, và đào tạo nhân lực cho các cơ sở sản xuất – gia công Việt nam. Khi đó,
phía các nhà gia công Việt nam sẽ có hai lựa chọn khác. Hoặc phải hết sức nỗ lực kiện
toàn quản lý và kiểm tra chất lượng. Hoặc ngược lại, chọn mức nỗ lực phải chăng, và chờ
đợi sự hỗ trợ từ chính hãng, nếu có sự khiếm khuyết về chất lượng hay thời hạn giao nộp
xẩy ra. Vấn đề là, đằng nào thì các nhà đầu tư đã bỏ vốn rồi. Không dễ gì mà họ có thể
chấm dứt quan hệ hợp đồng với các tổ chức làm gia công. Tuy nhiên, nếu các nhà đầu tư
nhìn thấy trước triển vọng bất lợi đó, họ có thể không đầu tư vào Việt nam, cho dù rằng
nếu dự án mà thành công, thì sẽ mang lại lợi ích cho tất cả các bên. Một kết cục hoàn
toàn tương tự như giữa ACE và CS.
Bây giờ, giả sử như TMV không chỉ ký hợp đồng thầu phụ với một, mà một vài đối tác.
Cái mất là phí tổn đầu tư ban đầu về máy móc thiết bị và đào tạo tay nghề cho công nhân
sẽ tăng lên gấp đôi. Nhưng cái được cho TMV là tạo ra sự thi đua giữa các nhà nhận thầu
phụ phía Việt nam. Theo đó, nỗ lực về tăng chất lượng và giảm chi phí của một nhà thầu
phụ sẽ là áp lực kiểm tra với nỗ lực làm việc của các nhà thầu khác, và ngược lại. Dĩ
nhiên, việc tạo ra sự thi đua giữa những nhà thầu phụ Việt nam đã được TMV tiến hành
kể từ nhiều năm nay. Qua từng giai đoạn, TMV đã sàng lọc ra những đối tác tin cậy hơn.
Và hợp đồng mới ký kết với họ trở nên có giá trị hơn, lâu bền hơn. Dưới quan điểm đó,
sự thành công trong việc xuất khẩu 20 triệu USD van tuần hoàn xả khí đã đánh dấu một
nấc mới trong quá trình sàng lọc và hợp tác đôi bên cùng có lợi đó. Như đã nói, nó nâng
tầm cỡ của TMV lên một mức mới trong hệ thống sản xuất toàn cầu của Toyota. Nhưng
điều đó cũng nói lên rằng, quá trình hội nhập của Việt nam có thể sẽ diễn ra ổn định và
sáng sủa hơn nếu đòi hỏi về sự hợp tác có ý thức của tất cả các bên trong cuộc chơi trở
thành một chuẩn mực trong giao dịch.
$Z[\9]&2^9]_[`9]9Za9Z
ZabZc_d9e9fg9Z
Việt nam đón chào năm 2008 với những cảm xúc pha trộn. Hội nhập và tăng trưởng kinh
tế vẫn diễn ra ở nhịp độ rất ngoạn mục. Hàng chục tỷ dollars đầu tư nước ngoài đang
chẩy vào nền kinh tế; xuất khẩu dầu thô và dệt may mang lại ngoại tệ; và tự do hóa kinh

tế vẫn đang tạo ra sức sống năng động cho nền kinh tế. Nhưng những bất cập của tăng
trưởng nhanh đã ngày một lộ ra trong cuộc sống thường nhật. Bên cạnh những siêu thị,
cửa hiệu tràn ngập hàng hóa là sự quá tải và nạn tắc đường trầm trọng ở hai trung tâm lớn
là TP Hồ chí Minh và Hà nội. Nạn ô nhiễm, khí thải độc hại và môi trường sống bị xuống
cấp đã đạt tới ngưỡng báo động. Và cuối cùng là nạn lạm phát, dấy lên tới 12%, theo
đánh giá của các tổ chức quốc tế, cướp đi thành quả tăng trưởng 8%, thể hiện ở sự phân
cách giầu nghèo nghiêm trọng hơn giữa các tầng lớp dân cư và giữa các khu vực kinh tế.
Câu hỏi lớn được đặt ra: Tăng trưởng cao đang đem lại sự phát triển xã hội? Hay đang
phải trả giá bởi những vấn đề xã hội?
Trả lời câu hỏi trên hoàn toàn không đơn giản. Bài viết này chỉ tập trung vào một số
phân tích ban đầu về vấn đề nổi cộm nhất là lạm phát. Từ đó, gợi ý nhũng giải pháp trước
mắt tạo sự ổn định. Bài viết cũng chỉ ra một số lĩnh vực mà một chiến lược phát triển dài
hạn hơn cần quan tâm.
&23& 9,M. ;8+. #/F
Báo chí Việt nam lần đầu tiên soi rọi vào những nan giải của việc hoạch định chính sách
thiếu tư duy kinh tế, mang nặng tính duy ý chí với các chỉ tiêu kế hoạch cứng. Trong khi
Bộ tài chính đang phải đẩy nhanh tốc độ giải ngân để duy trì nhịp độ tăng trưởng cao, thì
Ngân hàng Trung ương gặp khó khăn lớn trong việc hạn chế cung tiền tệ để kiềm chế lạm
phát. Đến lượt nó, Bộ ngoại thương lại đòi hỏi một chính sách hạ thấp giá trị của đồng
tiền Việt so với đồng dollars để bù lại lạm phát, kích thích xuất khẩu. Nhưng hàng chục
tỷ dollars từ đầu tư nước ngoài và từ chính nguồn thu xuất khẩu dầu thô đang ào ạt tràn
vào nền kinh tế, tạo sức ép đẩy giá trị đồng tiền Việt tăng lên. Vậy đâu là một chính sách
đúng, phù hợp với thực tế? Hãy bắt đầu bằng việc phân tích hệ thống tài chính – tiền tệ.
Theo giáo sư McKinnon, đại học Stanford, hệ thống tài chính – tín dụng của các nước
đang phát triển có thể được xem như là một sự kết hợp tay ba giữa Bộ tài chính, Ngân
hàng Trung ương, và các ngân hàng chuyên dụng, như ngân hàng phát triển nông nghiệp,
ngân hàng công thương, vân vân, để rót vốn tài trợ cho các dự án phát triển và kích thích
xuất khẩu của nhà nước.
Vai trò chính của Ngân hàng Trung ương trong lĩnh vực này là tạo ra nguồn thu thuế dựa
trên việc phát hành tiền tệ (seignorage), nhằm đáp ứng đòi hỏi giải ngân của Bộ tài chính.

Đòi hỏi này, đến lượt nó, lại phụ thuộc vào kế hoạch và các dự án phát triển do Bộ kế
hoạch và đầu tư, và văn phòng phủ thủ tướng đề ra.
Kế hoạch tăng trưởng càng cao, thì nhịp độ giải ngân càng cao. Hệ quả là tốc độ phát
hành tiền tệ để đáp ứng nhu cầu giải ngân cũng phải nâng lên tương xứng. Về mặt tính
toán, tốc độ tăng cung tiền tệ thực tế do yêu cầu giải ngân sẽ được đo bằng tỷ lệ giữa mức
tăng cung tiền tệ so với chỉ số giá, ký hiệu là
PM/

. Hay cũng vậy, nó bằng
)./)(/( PMMM

Thành phần thứ nhất được gọi là nhịp độ tăng phát hành tiền:

×