MODULE 32: Hoạt động của giáo viên chủ nhiệm
Câu 1: Hãy nêu các nguyên tắc và phương pháp GVCN cần sử dụng trong tổ chức tập
thể lớp.
Trả lời
* Nguyên tắc:
Giáo viên chủ nhiệm (GVCN) lớp là người chịu trách nhiệm thực hiện mọi quyết
định quản lý của hiệu trưởng đối với lớp mình phụ trách. Do đó, GVCN phải biết phối hợp
với các tổ chức, đồn thể trong và chính quyền, đồn thể của địa phương để làm tốt cơng
tác dạy – học – giáo dục HS trong lớp.
Đặc biệt rất cần ở GVCN “Phải vừa là thầy, vừa là bạn của học trò”.
GVCN là cầu nối của HS: Xuất phát từ vai trò trách nhiệm và sự gắn kết với HS mà
đòi hỏi mỗi GVCN phải giàu lòng nhân ái, vị tha, kiên trì, nhiệt tình, biết tơn trọng nhân
cách HS và được các em tin yêu. GVCN cần có uy và có sức cảm hóa thuyết phục, có bản
lĩnh để xử lý kịp thời các THSP đa dạng, phải biết đối xử khéo léo, công bằng và nghiêm
minh trong nhận xét đánh giá đối với HS, là người chịu trách nhiệm về sự phát triển toàn
diện của HS lớp mình phụ trách.
GVCN phải là cầu nối giữa cán bộ quản lý (CBQL), giữa các tổ chức trong trường,
giữa các GVBM với tập thể HS trong lớp. GVCN phải là người tập hợp ý kiến, nguyện
vọng của từng HS phản ánh với CBQL, với các tổ chức trong nhà trường và với các GVBM.
Nói một cách khác, GVCN là người đại diện hai phía, một mặt đại diện cho các lực lượng
giáo dục của nhà trường, mặt khác đại diện cho tập thể HS.
Do đó, GVCN có trách nhiệm truyền đạt tới HS trong lớp tất cả yêu cầu, kế
hoạch giáo dục của nhà trường tới tập thể và từng HS không phải bằng mệnh lệnh mà bằng
sự thuyết phục, cảm hóa, bằng sự gương mẫu của mình, để mục tiêu giáo dục được HS tiếp
nhận một cách tự giác, tự nguyện. GVCN cần biến những chủ trương, kế hoạch giáo
dục của nhà trường thành chương trình hành động của tập thể lớp và của mỗi HS.
Và là bạn của HS: GVCN với tư cách là đại diện cho lớp cịn có trách nhiệm bảo vệ,
bênh vực quyền lợi mọi mặt HS của lớp.
Phải thấy được quan hệ, vị trí của GVCN là người thường xun tiếp nhận được
thơng tin từ HS để đảm bảo tính khách quan, tính trung thực của dư luận, ý kiến của một
tập thể HS. Khi tiếp nhận thông tin, người GVCN lớp xử lý kịp thời ngay thông tin với tư
cách là nhà sư phạm, điều đó có tác dụng rất lớn.
GVCN phải chịu trách nhiệm điều chỉnh, định hướng, điều khiển quá trình tự giáo
dục của từng HS và tập thể HS, phát huy vai trị chủ thể tích cực của HS trong giáo dục.
Bên cạnh đó, vai trị tư vấn đối với HS phải quán triệt được toàn diện nội dung giáo
dục, kế hoạch hoạt động của cá nhân và tập thể lớp chủ nhiệm bao gồm từ việc học tập, rèn
luyện đạo đức, sinh hoạt tập thể, diễn ra trong nhà trường và ngoài xã hội. GVCN cần tư
vấn trong quan hệ ứng xử xã hội, gia đình, cộng đồng và trong tình bạn cho HS.
* Phương pháp (PP) và hình thức tổ chức các hoạt động của cơng tác chủ nhiệm
cấp THCS:
1. Phương pháp thuyết phục: Là PP tác động vào lý trí tình cảm của HS để xây dựng
những niềm tin đạo đức, gồm các nội dung sau:
- Giảng giải về đạo đức: được tiến hành trong các giờ dạy, giờ sinh hoạt lớp, sinh hoạt
dưới cờ…
- Nêu gương người tốt, việc tốt bằng nhiều hình thức như: nói chuyện, kể chuyện, đọc
sách báo, mời những người có gương phấn đấu tốt đến nói chuyện, nêu gương tốt của GV
và HS trong trường.
- Trò chuyện với HS hoặc nhóm HS để khuyến khích động viên những hành vi cử chỉ
đạo đức tốt của các em, khuyên bảo, uốn nắn những mặt chưa tốt.
2. Phương pháp rèn luyện: Là PP tổ chức cho HS hoạt động để rèn luyện cho các em
những thói quen đạo đức, thể hiện được nhận thức và tình cảm đạo đức của các em thành
hành động thực tế.
- Rèn luyện thói quen đạo đức thông qua các hoạt động cơ bản của nhà trường: dạy
học trên lớp, lao động, hoạt động xã hội đoàn thể và sinh hoạt tập thể.
- Rèn luyện đạo đức thông qua các phong trào thi đua trong nhà trường là biện pháp
tác động tâm lý rất quan trọng nhằm thúc đẩy các động cơ kích thích bên trong của HS,
làm cho các em phấn đấu vươn lên trở thành người có đạo đức tốt, vì vậy nhà trường cần tổ
chức các phong trào thi đua và động viên HS tham gia tốt phong trào này.
- Rèn luyện bằng cách chuyển hướng các hoạt động của HS từ hoạt động có hại sang
hoạt động có ích, PP này dựa trên đặc tính ham hoạt động của trẻ và được dùng để giáo dục
HS bỏ một thói hư xấu nào đó bằng cách gây cho HS hứng thú với một hoạt mới bổ ích, lơi
kéo trẻ ra ngồi những tác động có hại.
3. Phương pháp thúc đẩy: Là PP dùng những tác động có tính chất “cưỡng bách đạo
đức bên ngồi” để điều chỉnh, khuyến khích những “động cơ kích thích bên trong” của HS
nhằm xây dựng đạo đức cho HS. Những nội quy, quy chế trong nhà trường vừa là những
yêu cầu với HS, vừa là những điều lệnh có tính chất mệnh lệnh địi hỏi HS tn theo để có
những hành vi đúng đắn theo yêu cầu của nhà trường. Khi sử dụng PP này cần chú ý 2 biện
pháp:
- Khen thưởng: tán thành, coi trọng, khích lệ những cố gắng của HS làm cho bản thân
HS đó vươn lên hơn nữa và động viên khuyến khích các em khác noi theo.
- Xử phạt: phê phán những khiếm khuyết của HS, là tác động có tính chất cưỡng bách
đến danh dự lòng tự trọng của cá nhân HS để răn đe những hành vi thiếu đạo đức và ngăn
ngừa sự tái phạm của HS đó và những HS khác. Do đó phải thận trọng và đúng mực,
khơng được lạm dụng. Khi xử phạt cần phải làm cho HS thấy rõ sai lầm, khuyết điểm, thấy
hối hận và đặc biệt sau đó phải theo dõi, giúp đỡ, động viên HS sửa chữa khuyết điểm, cần
phải tỏ rõ thái độ nghiêm khắc nhưng khơng có lời nói, cử chỉ thơ bạo đánh đập, xỉ nhục
hoặc các nhục hình xúc phạm đến thân thể HS.
4. Phương pháp vận động quần chúng
+ Để giáo dục HS cần vận động gia đình, vận động các đoàn thể... cùng tham gia
thống nhất một mục tiêu để đưa HS vào hoạt động có nề nếp, có kỉ luật với các hoạt động
phong phú tạo dư luận tốt biến tập thể HS thành môi trường giáo dục.
+ Cần có sự tham gia của các lực lượng giáo dục để thống nhất các yếu tố của quá
trình giáo dục.
5. Phương pháp tổ chức hoạt động tập thể
+ Đưa HS vào các hoạt động tập thể có tổ chức để mỗi HS tự xác định cho mình về
quyền lợi và nghĩa vụ, tu dưỡng, để phấn đấu vì mục tiêu chung.
+ Tổ chức các hoạt động cho HS dưới nhiều hình thức và nội dung phong phú (hoạt
động học, văn nghệ, tham quan…). Nội dung, hình thức hoạt động càng phong phú thì
càng hấp dẫn HS, càng mang lại giá trị giáo dục cao.
6. Phương pháp chăm sóc, giáo dục cá biệt các đối tượng HS
+ Trên cơ sở phân loại HS, GVCN có kế hoạch giáo dục HS yếu, kém, có năng
khiếu… trong học tập, tu dưỡng.
* Một người GVCN tốt sẽ góp phần xây dựng nên một tập thể lớp tốt, nhiều GVCN
tốt sẽ xây dựng nên một nhà trường vững mạnh.
Công tác tổ chức lớp học rất quan trọng, thầy (cô) đã làm công việc này ở lớp
chủ nhiệm như thế nào?
Trả lời
Trước hết cần xác định GVCN là người lãnh đạo, tổ chức, điều khiển, kiểm tra toàn
diện mọi hoạt động và các mối quan hệ ứng xử thuộc phạm vi thuộc lớp mình phụ trách dựa
trên đội ngũ tự quản là cán bộ lớp và tính tự giác của HS. GVCN là người quản lí tồn diện
lớp học và HS lớp mình. Do đó cần nắm vững :
1- Tìm hiểu, nắm vững tình hình lớp: thuận lợi - khó khăn, mặt mạnh - mặt yếu. Hoàn
cảnh và những vấn đề tác động đến từng HS lớp để có PP giáo dục phù hợp. Hiểu đặc điểm
từng HS về trình độ nhận thức, năng lực hoạt động, nguyện vọng, quan hệ bạn bè và xã
hội... Nắm được kết quả chất lượng năm học trước của từng em.
2 - Phân loại đối tượng HS, phát hiện ra HSCB để GV có biện pháp giáo dục phù hợp.
3- Hình thành đội ngũ cán bộ lớp thơng qua bỏ phiếu kín hoặc do các em bình bầu
vào đầu năm học, phân công nhiệm vụ cụ thể cho từng thành viên trong ban cán sự lớp.
4- Đề ra nội qui và những hình thức kỉ luật dựa trên nội qui của nhà trường, có thể
điều chỉnh (thích hợp) theo từng giai đoạn.
5- Theo dõi kiểm tra, giám sát thường xuyên: GVCN phải nghiêm minh đối với
những HS có khuyết điểm. Phải có tun dương - phê bình kịp thời.
6- Phối hợp với các đoàn thể và CBQL để tiếp nhận thông tin, uốn nắn kịp thời những
vi phạm.
7- Giáo dục, xử lí cơng việc khơng phải chỉ bằng mệnh lệnh mà bằng cả sự gương
mẫu, thuyết phục có PP của GVCN.
Câu 2: Hãy nêu biện pháp của GVCN trong việc hình thành thói quen tích cực tham
gia học tập của học sinh.
Trả lời
Hiện nay, Ngành giáo dục và đào tạo đang tích cực triển khai xây dựng chương trình
giáo dục phổ thơng mới. Để chương trình giáo dục phổ thông mới đạt hiệu quả, cần chú
trọng hướng đến HS, nhất là giáo dục thái độ học tập tích cực cho các em. Mục tiêu quan
trọng nhất của giáo dục khơng chỉ truyền thụ kiến thức mà cịn thắp lên ngọn lửa khát khao
học tập, rèn luyện cho từng HS. Trong quá trình học tập, khi HS khát khao trở thành người
hiểu biết hơn, tử tế hơn, các em sẽ không ngừng nỗ lực học hỏi, rèn luyện để có thói quen
học tập suốt đời; các em sẽ có động lực, sẽ tìm ra các phương pháp, hình thành, phát triển
các kỹ năng học tập, rèn luyện hiệu quả để không chỉ vượt qua các kỳ thi, mà quan trọng
hơn là để sống và cống hiến cho cộng đồng, cho xã hội.
Vì vậy, điều quan trọng nhất đối với mỗi trường học, mà trực tiếp là GVCN phải tạo
dựng, môi trường để khơi gợi, nuôi dưỡng và phát huy ngọn lửa khát khao phát triển bản
thân trong từng HS. Và để có mơi trường như thế, trước hết, cần có sự gương mẫu của
những người thầy. Bởi thầy giáo, cô giáo là những người thắp lửa, là người truyền nhiệt
huyết cho HS. Khi đam mê, nhiệt huyết truyền lửa cho học trị, các thầy giáo, cơ giáo, đặc
biệt là GVCN cũng sẽ khát khao học hỏi, nghiên cứu để tìm ra những phương pháp giáo dục
phù hợp hơn, hiệu quả hơn với từng học trị. GVCN sẽ khơng ngừng tìm cách khơi gợi,
khuyến khích từng nỗ lực nhỏ của HS và ngược lại luôn lắng nghe, trân trọng cảm xúc riêng
của mỗi học trị, để các em dám thể hiện mình và dần tỏa sáng. Mỗi hành động, việc làm
với những trăn trở, tận tình giúp HS tiến bộ của người thầy, sẽ giúp HS cảm nhận được tình
yêu thương để phấn đấu vươn lên.
Để nâng cao chất lượng giáo dục hiệu quả, cần lấy HS làm trung tâm. Đó là giúp HS
có thái độ học tập tích cực trên cơ sở tạo dựng một môi trường tốt trong mỗi trường học. Và
điều ấy, trước hết đòi hỏi sự gương mẫu, nỗ lực, trách nhiệm, sáng tạo của từng thầy giáo,
cô giáo, từng CBQL trong nhà trường, trong Ngành giáo dục. Đó cũng là địi hỏi của
chương trình giáo dục, cũng như các cơ chế, chính sách phù hợp.
Câu 3: GVCN cần phối hợp với những lực lượng giáo dục nào trong nhà trường? Nêu
ngắn gọn nội dung và phương pháp phối hợp giữa GVCN với các lực lượng giáo dục đó.
Trả lời
GVCN giữ vai trị như là chiếc cầu nối đa chiều, là mắt xích quan trọng của sự kết
hợp các mối quan hệ cụ thể gia đình – HS – nhà trường. Trong nhà trường, GVCN cần
phối hợp với những lực lượng:
- Phối hợp với CBQL:
+ GVCN là cầu nối giữa CBQL với HS.
+ GVCN phát hiện kịp thời các hành vi xấu của HS, phối kết hợp với CBQL có biện
pháp giáo dục ngăn ngừa khi HS có biểu hiện vi phạm hoặc đề nghị nhà trường xét kỷ luật
nghiêm khắc nhằm ngăn chặn hành vi xấu khác có thể xảy ra tiếp.
+ GVCN phản ánh đầy đủ thông tin về lớp chủ nhiệm, đề xuất các giải pháp giáo dục
HS, giúp CBQL đưa ra các định hướng, giải pháp quản lí, giáo dục HS hiệu quả.
- Phối hợp với GVBM: GVCN biết lắng nghe những nhận xét của GVBM thậm chí là
những phê phán cá nhân, tập thể lớp mình sau đó chọn lọc, phân tích thơng tin để phối hợp
tác động giáo dục cùng chiều, khắc phục khó khăn, vướng mắc của HS trong q trình học
tập, đề đạt nguyện vọng của HS với GVBM để nâng cao chất lượng giáo dục. Phối hợp với
các GV khác để dạy học có hiệu quả ở lớp chủ nhiệm. Đề xuất các ý kiến của tập thể HS về
cơng tác dạy và học với GV có liên quan.
- Phối hợp với Đội thiếu niên, Đoàn thanh niên: GVCN phải nắm bắt được kế hoạch
của nhà trường, Đội thiếu niên, Đoàn thanh niên để phối hợp và phổ biến kịp thời đến HS.
Thường xuyên động viên, đôn đốc nhắc nhở các em tham gia tốt các hoạt đơng đồn thể,
phong trào thi đua do đồn thể phát động.
Thầy (cơ) hãy nêu một vài kinh nghiệm đã sử dụng trong việc tổ chức các hoạt động
học tập nhằm nâng cao chất lượng dạy học ở lớp chủ nhiệm.
Trả lời:
GVCN có một vai trò rất lớn trong việc nâng cao chất lượng cũng như hình thành
nhân cách cho HS. Vai trò của GVCN khi tham gia công tác giáo dục, không chỉ là nắm
được những chỉ số của quản lý hành chính đơn thuần, như tên, tuổi, số lượng, hồn cảnh gia
đình của HS, trình độ HS về học lực, hạnh kiểm mà còn phải dự báo xu hướng tổ chức giáo
dục, dạy học phù hợp điều kiện khả năng của từng HS. Làm tốt cơng tác chủ nhiệm có ý
nghĩa rất lớn trong q trình giáo dục HS - nhất là trong giai đoạn hiện nay, khi HS có thể
tiếp cận thơng tin từ nhiều nguồn khác nhau và việc giáo dục kĩ năng sống cho HS đang trở
thành nhu cầu cấp thiết.
Trong công tác chủ nhiệm đòi hỏi người GV phải thực sự tâm huyết u nghề, u
người và có tình người coi học trị như người thân u của mình GVCN là người cha, người
mẹ, người thầy, là người anh, người chị, là một luật sư và cũng có những lúc cần là người
bạn… Như vậy có nghĩa là cùng một lúc GVCN là một diễn viên đa năng và có nhiều “vai
diễn” phải đặt mình vào rất nhiều vai và vai nào cũng địi hỏi phải hồn thành xuất sắc...
Trong những chuyến đưa đị qua sơng tơi được tiếp xúc với nhiều đối tượng HS khác nhau:
Có những HS ngoan hiền học giỏi, nhiệt tình, tự tin; cũng có những em rụt rè nhút nhát, hay
những em nghịch ngợm có ý thức kém; có những em có hồn cảnh khó khăn,... Là GVCN
chúng ta phải làm gì để những HS của chúng ta luôn là những bông hoa tươi đẹp, tỏa mãi
hương thơm của tuổi học trị, tơi ln trăn trở tìm các biện pháp có tính khả thi có hiệu quả
trong công tác chủ nhiệm để mong sao các em được phát triển toàn diện hơn.
Vài kinh nghiệm giúp người GV thực hiện hiệu quả trong việc tổ chức các hoạt
động học tập nhằm nâng cao chất lượng dạy học ở lớp chủ nhiệm:
* GVCN phải có năng lực quản lí
Năng lực quản lý, lãnh đạo của GVCN là yếu tố vô cùng quan trọng, quyết định đến
sự thành công của một lớp học.
GVCN phải có đủ hiểu biết và các kỹ năng để điều tra khảo sát, xây dựng kế hoạch
lớp chủ nhiệm, tổ chức thực hiện kế hoạch, kiểm tra đánh giá kết quả giáo dục đến từng HS.
Ngoài việc thực hiện các chỉ đạo của CBQL, của ngành thì GVCN cần phải biết xây dựng
các hoạt động độc lập riêng, mang tính đặc thù của lớp mình.
GVCN cũng cần phải có tầm nhìn, phát hiện và giải quyết sớm các vấn đề nảy sinh ở
lớp mình chủ nhiệm. Khi triển khai một hoạt động giáo dục mới cần phải có kỹ năng
“truyền lửa”, kỹ năng “đọc vị” như các nhà huấn luyện viên của các đội tuyển. Người
GVCN cũng phải là người “Cầm cân, nẩy mực” trước những điều bất hợp lí xảy ra trong
lớp. Vì thế rất cần ở GVCN lớp các phẩm chất công tâm, nhiệt tình, trách nhiệm, tâm lí u
thương HS và xây dựng một ban cán sự lớp tự quản có uy tín, có trách nhiệm, có năng lực,
bản lĩnh.
* GVCN phải gần gũi, thấu hiểu quan tâm và nắm chắc hoàn cảnh của HS trong lớp.
GVCN phải nắm bắt được thông tin cá nhân của HS; gần gũi thấu hiểu và nắm chắc
hoàn cảnh của từng HS trong lớp về những thuận lợi và khó khăn; quan tâm kỹ hơn đến HS
có hồn cảnh “đặc biệt”, gần gũi trị chuyện tiếp xúc với các em nhiều hơn, tạo cho các em
sự thân thiết, tin tưởng để có thể rễ dàng bộc lộ tâm tư tình cảm, điều mong muốn của chính
mình khi cần thiết. Điều đó sẽ giúp GVCN hiểu các em hơn và kịp thời ngăn chặn những
suy nghĩ nông cạn, sai lầm hay các hành vi không hay… hướng các em nhận thức được giá
trị bản thân, nâng cao lòng tự trọng và biết cố gắng để vượt qua những khó khăn trong học
tập cũng như trong cuộc sống.
GVCN phải bằng tấm lòng nhân ái, bao dung, đến với HS bằng tấm lòng chân thành,
cởi mở. “Đến với một nhà giáo dục điểm chủ yếu là tình người”, hoạt động sáng tạo đầy
tình người để tạo ra hạnh phúc cho con người, đó là một điều vơ cùng quan trọng. Vì khi ta
tạo ra niềm vui cho người khác, cho trẻ thơ thì ở họ sẽ có một tài sản vơ giá: “Đó là tình
người mà tập trung ở sự nhiệt tâm, thái độ ân cần, sự chu đáo, lòng vị tha”. GVCN phải
giáo dục HS cần quan tâm đến người khác bằng những việc làm cụ thể như: Tham gia các
phong trào từ thiện nhân đạo, kế hoạch nhỏ, giúp đỡ các bạn khó khăn trong lớp… Việc làm
này tuy nhỏ nhưng có tác dụng làm cho HS tự động viên nhắc nhở nhau trong học tập và
tinh thần đoàn kết tương thân tương ái.
* GVCN phải là tấm gương sáng cho HS noi theo
Người GV phải thực sự mẫu mực, phải là tấm gương sáng toàn vẹn từ nhận thức đến
hành động thực tiễn, từ lời nói cử chỉ điệu bộ đến thái độ ứng xử hằng ngày đây là cách giáo
dục dùng nhân cách tác động đến nhân cách, để trở thành tấm gương sáng cho HS noi theo.
GVCN phải rèn luyện tay nghề để vững vàng về chun mơn, giảng dạy bộ mơn tốt
góp phần quan trọng cho công tác chủ nhiệm tốt ở ngay lớp mình chủ nhiệm, góp phần tạo
nên uy tín của GV; hơn nữa tâm lí HS cũng như phụ huynh ln cảm thấy n tâm khi
GVCN có năng lực chun mơn.
Ngồi ra GVCN là người cha, người mẹ là chỗ dựa tinh thần cho các em, phải biết
lắng nghe HS nói và khơng áp đặt HS, có như thế các em mới thấy mình được tơn trọng. HS
bậc THCS ở “độ tuổi dậy thì, tuổi khó bảo” rất dễ tự ái, dễ chán nản trước những khó khăn
trong học tập, đôi khi chỉ cần một sơ suất nhỏ của GV sẽ để lại ấn tượng không tốt cho HS,
đặc biệt là các em HSCB; bản thân GVCN phải luôn ln trau dồi kiến thức để có thể giải
đáp được những băn khoăn thắc mắc của HS.
* GVCN phải làm tốt vai trò “cầu nối đa năng”, phối hợp với GVBM trong cơng tác
giảng dạy
Trong q trình giảng dạy, bên cạnh sự quán xuyến, đôn đốc, theo dõi của GVCN cịn
có GVBM. GVCN chủ động trao đổi với GVBM để nắm bắt rõ về tinh thần, thái độ học
tập, ý thức tổ chức kỷ luật, học lực…của HS lớp chủ nhiệm, điều đó giúp GVCN có sự nhìn
nhận và đánh giá khách quan về chất lượng học tập của từng HS trong lớp đồng thời có biện
pháp động viên, nhắc nhở, giáo dục phù hợp – kịp thời đối với từng HS, uốn nắn các em
học tập và rèn luyện nhân cách đạo đức tốt hơn.
GVCN cần tổ chức tốt các mơ hình “Đơi bạn cùng tiến” để các em giúp đỡ lẫn nhau.
Chính qua những hoạt động nhóm, bạn giúp bạn mà tình cảm của các em thêm bền chặt.
* GVCN phối hợp với phụ huynh của lớp.
Để làm được cơng tác chủ nhiệm tốt, khơng thể khơng nói tới sự phối hợp chặt chẽ
giữa GVCN và phụ huynh HS, đây là mối quan hệ không thể thiếu được. Trong cuộc họp
cha mẹ HS đầu năm, GVCN phải nắm bắt số điện thoại liên lạc của gia đình, đây là điều
kiện thuận lợi giúp GVCN trao đổi với cha mẹ HS khi cần thiết; giúp cha mẹ HS biết được
tình hình học tập, những dấu hiệu sa sút của các em HS kịp thời. Sự quan tâm của nhà
trường đối với HS, tạo được niềm tin đối với phụ huynh trong việc giáo dục HS. Mối quan
hệ có tác động hai chiều này nhằm hạn chế bớt mặc cảm, tự ti ở các em giảm bớt tâm lí lo
sợ khi tiếp xúc với GVCN.
Để làm tốt công tác chủ nhiệm, địi hỏi người GVCN khơng chỉ là một GV dạy tốt
văn hóa mà cịn phải quan tâm đến sự phát triển ở HS cả những giá trị đạo đức, thể chất,
thẩm mĩ…Vì vậy, hai yếu tố cốt lõi khơng thể thiếu đối với GVCN là cái tài của một nhà
tâm lí và cái tâm của một nhà giáo dục. Làm tốt hai yếu tố này thì người GV nói chung và
người GVCN nói riêng đều có thể làm tốt trách nhiệm của mình trong thời đại mới ngày
nay và ln để lại ấn tượng tốt trong lịng học trị.
Trong cơng tác chủ nhiệm, thầy (cơ) thường gặp khó khăn gì và và hãy đề xuất biện
pháp khắc phục khó khăn trên.
Trả lời:
GVCN lớp, đây là một trong những nhiệm vụ gian nan nhất của người GV bởi nhiều
lẽ…
Khó có thể nói làm cơng tác chủ nhiệm cấp học nào sẽ thoải mái hơn vì mỗi cấp học
tương ứng với một độ tuổi HS với nhiều nét tâm sinh lí đặc trưng riêng. HS trung học là
lứa tuổi vị thành niên nhạy cảm với các biến động phức tạp về thể chất, nhận thức, tính
cách.
Trong khi các GVBM chỉ tập trung thực hiện nhiệm vụ dạy học thì phần lớn trách
nhiệm giáo dục lại đổ lên vai người GVCN. Làm chủ nhiệm lớp đồng nghĩa với một ông bà
“bảo mẫu” cho tất tần tật mọi vấn đề phát sinh của lớp từ chuyện học, chuyện chơi, chuyện
giao tiếp, ứng xử, chuyện vi phạm nội qui đến cả vấn đề đạo đức, nhân cách của HS trong
các hoạt động. Khi một HS vi phạm nội qui trong giờ học, khơng ít GVCN là người đầu
tiên phải lắng nghe các GVBM trút nỗi bực dọc. Khi một HS vi phạm nội qui nhà trường,
GVCN liền bị trách cứ, nhắc nhở, phê bình…
Vấn đề giáo dục đạo đức, hạnh kiểm cho HS đâu còn đơn giản như trước đây. Hồi
trước, HS không thuộc bài là nơm nớp lo sợ, bây giờ câu trả lời “Em không thuộc” thốt ra
thật dễ dàng và chẳng ngượng miệng tí nào. Bên cạnh đó là việc “cởi trói” tối đa các hình
thức xử phạt HS khiến GV mất đi “sự ràng buộc” nhất định để khép các em vào nề nếp, nội
qui. Thử hỏi một HSCB bây giờ đang gánh các cách xử phạt nào? Chỉ là mời phụ huynh,
dọa hạ hạnh kiểm và dọa cả việc đuổi học. Tất cả đều chỉ “dọa” nên rất nhiều em lợi dụng
sự dễ dãi ấy để quậy phá, thách thức và kéo theo nhiều HS khác nhập cuộc.
GVCN ngày nay cịn có một nhiệm vụ nặng nề là làm nhà tư vấn tâm lí bắt đắc dĩ cho
chính những cơ cậu học trò gặp trục trặc trong đời sống sinh hoạt và tình cảm. Phải nhanh
nhạy phát hiện mâu thuẫn trong một tập thể lớp, tinh tế nhận ra sự mơ màng của những kẻ
bắt đầu biết yêu, kịp thời nhăn chặn mầm bạo lực và làm trung tâm hòa giải các xung đột.
Các trách nhiệm lớn lao ấy đè lên vai người GVCN kéo theo muôn vàn áp lực. Nhưng
GVCN cũng chỉ là một con người bình thường, khơng phải thần thánh để quán xuyến tất cả
mọi suy nghĩ, tâm tư, nguyện vọng của HS.
Đó là cịn chưa kể GVCN phải gánh một trọng trách lớn là bắc chiếc cầu nối giữa nhà
trường và gia đình. HS vắng học, lo gọi về cho gia đình; HS bỏ học, lo đi vận động; HS
chưa ngoan, lo mời phụ huynh làm việc… Làm việc với phụ huynh đâu phải chuyện dễ
dàng. Phải ứng xử phù hợp với từng vị phụ huynh. Vận dụng tất cả các phương châm
“Mềm nắn rắn buông”, “Tùy cơ ứng biến”... lắm lúc vẫn chưa làm thuyết phục được những
vị phụ huynh khó tính. Và thỉnh thoảng gặp một phụ huynh không hiểu chuyện, thiếu hợp
tác, gây khó khăn trong cơng tác phối hợp,…
Thế đó, cùng là GV, nhưng chắc chắn là GVCN cực hơn GVBM nhiều. Và những
người đang phải gồng gánh những trách nhiệm nặng nề ấy rất cần sự chung tay hỗ trợ của
các ban ngành đoàn thể trong và ngoài nhà trường cũng như sự đồng cảm, thấu hiểu của
phụ huynh và xã hội.
GVCN là một người làm quản lý giáo dục dưới sự chỉ đạo của Hiệu trưởng, là người
chịu trách nhiệm về sự tiến bộ của học trò về học tập và rèn luyện nhân cách, phẩm chất
đạo đức. Học trị có tiến bộ hay khơng, lớp có ngoan hay khơng? Ngồi trách nhiệm của
GVBM ra thì trách nhiệm của người GVCN có thể nói là quan trọng nhất.
Chủ nhiệm là một nghệ thuật – nghệ thuật quản lý và nghệ thuật giáo dục, mà đã là
nghệ thuật thì chẳng dễ chút nào. Vẫn cịn có những GV đã có nhiều năm kinh qua cơng
tác chủ nhiệm nhưng có lúc lại bất lực trước một cậu học trị cá biệt; có lúc lại thiếu kiềm
chế trước một học trị nhiều lần khơng thuộc bài; hay gần đây các trang mạng và báo chí
đang lên án tình trạng “Bạo lực học đường” gây nhức nhối cho toàn xã hội. Xã hội càng
hiện đại thì đơi khi dẫn đến một số giá trị cổ truyền bị mai một, nguy hiểm nhất là nó đang
làm băng hoại đi đạo đức của một bộ phận giới trẻ trong đó có những HS đang ngồi trên
ghế nhà trường. Như vậy, đâu đó vẫn cịn có những vấn đề nan giải mà không phải ai cũng
giải quyết được một cách thành cơng, trọn vẹn.
Sau q trình làm cơng tác chủ nhiệm, qua thực tế công việc và qua học tập kinh
nghiệm đồng nghiệp tôi xin nêu một số vấn đề khó khăn tham khảo thường gặp trong cơng
tác chủ nhiệm: Làm thế nào để HS nể phục, kính trọng và tin yêu vào GVCN? Làm sao
cảm hóa được HSCB, HS chưa ngoan? Tổ chức cán sự lớp thế nào là hiệu quả?... Vì chỉ
khi nể phục, kính trọng và tin yêu vào GVCN thì việc phối hợp trong các hoạt động giáo
dục mới đạt hiệu quả tốt thật sự.
Mỗi GV đều phải là một tấm gương sáng cho HS noi theo. Nhưng đối với GVCN, yêu
cầu đó được đặt ra với mức độ cao hơn, toàn diện hơn. Không những phải tạo được sự
ngưỡng mộ ở các em, GVCN còn là nơi để các em chia sẻ những buồn vui, một chỗ dựa
tinh thần vững vàng cho các em trong cuộc sống.
GVCN cần có một nhận thức đúng đắn và sâu sắc về vị trí, yêu cầu đối với chính bản
thân mình và cơng việc. Khơng chỉ trang bị cho mình những kiến thức cần thiết cho việc
giảng dạy, những vốn sống sâu sắc về con người, cuộc đời… người GVCN cịn cần phải
rèn luyện cho chính mình đạt những phẩm chất đạo đức có tính chuẩn mực để trên cơ sở
đó, mới có thể nhắc nhở, uốn nắn HS. Từ hành vi, ngôn ngữ, cách cư xử, cách suy nghĩ,
đánh giá những sự việc trong cuộc sống, những thói quen trong sinh hoạt… tất cả ln
cần được người GVCN tự xem xét, điều chỉnh để có thể khơng ngừng hồn thiện mình
trong mắt học trị. Đơn giản một sự việc là khó có thể yêu cầu các em gọn gàng, ngăn nắp,
sống đẹp nếu bản thân người GVCN chưa là một “hình mẫu” đối với các em.
Cần nhận thức rõ, giáo dục một con người là một q trình khơng có điểm cuối cùng.
Đó là cơng việc kéo dài cả một đời người chứ không phải là chuyện của ngày một, ngày
hai. Vì thế, người GVCN khơng bao giờ được chủ quan, nóng vội. Một câu nói vơ tình,
một trách phạt nơn nóng, một hành xử thiếu cân nhắc đôi khi gây tổn thương và – biết
đâu đó – các em sẽ mang theo vết thương kia thành một ám ảnh khôn nguôi!… Trước
mọi sai lầm, vi phạm của HS, GVCN cần hết sức bình tĩnh, bao dung và độ lượng để xem
xét, giải quyết, xử lý vấn đề, trên hết là phải CƠNG BẰNG, THẤU TÌNH-ĐẠT LÝ.
Một sự định hướng đúng đắn sẽ giúp các em hình thành tính cách của mình mai này,
là điều hết sức quan trọng khi các em còn ngồi trên ghế nhà trường. Không chỉ truyền đạt
kiến thức trong học tập, các em cần được trao đổi mọi điều về chính bản thân, về những gì
chân – thiện – mỹ trong cuộc sống. Muốn thành công GVCN cần có cái “Tâm”. Khơng
có một tấm lịng, mọi cơng việc sẽ chỉ là hình thức. Và như vậy, yêu thương chăm sóc các
em khơng chỉ là mệnh lệnh mà cịn là một nhu cầu không thể thiếu của trái tim người thầy.
Làm sao cảm hóa được HSCB, HS chưa ngoan?
Đối với HSCB: GVCN cần tìm hiểu từng hồn cảnh, ngun nhân để có cách giải
quyết phù hợp. Tuyệt đối khơng được nóng vội, khơng vì thành kiến dẫn đến những hậu
quả đáng tiếc. Tạo điều kiện để các em trình bày suy nghĩ của mình, giúp các em giãi bày
tâm sự, từ đó từng bước giúp các em hịa nhập cùng tập thể. Chính sự thân thiện, gần gũi,
thái độ quan tâm của GV sẽ là động lực lớn cho các em có được niềm tin.
Vừa DẠY vừa DỖ: Đừng nghĩ HSCB, bộ mặt lúc nào cũng bất cần đời là có “trái
tim sắt đá”. Nếu nhìn bằng đơi mắt yêu thương, ta sẽ thấy núp dưới vẻ mặt lạnh lùng, vơ
cảm là sự hụt hẫng tình thương. Phải là những GVCN giàu kinh nghiệm, có cách đối nhân
xử thế bao dung, vị tha, kiên nhẫn mới đem đến cho các em hơi ấm của tình người, để các
em biết sự ngỗ nghịch của mình là một sai lầm lớn. Vừa giáo dục các em nhưng lại vừa
đóng vai bậc làm cha làm mẹ, làm chị làm anh để “dỗ dành”, chắc chắn các em sẽ thay đổi,
hoặc ít ra cũng nhận thức được những sai sót của mình.
Kiên trì tạo niềm tin: Để điều hành được HSCB người GV phải sắm đủ các vai, khi
thì nhà mơ phạm nghiêm khắc, lúc lại là cái vai cho các em gục đầu vào, khi thì nhà tâm lý,
lúc lại là bác sĩ trị liệu, khi thì ơng trọng tài, lúc khác lại là người cố vấn… Cứ như thế,
kiên trì cho đến khi các em tự nhận ra tại sao mình phải thay đổi.
Biết chấp nhận và yêu thương: (Theo Vietnamnet.vn) Frank McCourt, một thầy
giáo người Mỹ (được phong tặng danh hiệu Nhà giáo của năm), trong hồi ức “Người thầy”
đã kể: Trường hướng nghiệp nơi thầy dạy được xem là “bãi rác” cho những HS khơng đủ
trình độ vào trường trung học bình thường. Ngày nhận lớp cũng là ngày thầy đứng quan sát
chúng quậy phá, la ó… đủ kiểu. Cao điểm là lấy bánh mì ném nhau và một HS lên tiếng :
“Để xem tay thầy giáo mới này sẽ làm gì”. Frank McCourt nói ơng cố nghĩ về những kiến
thức được học ở Trường ĐH Sư phạm New York để tìm cách đối phó, tiếc là chỉ có những
triết lý giáo dục, các mệnh lệnh đạo đức và ln lý, mà khơng có cách giải quyết tình
huống “ném bánh mì”. Cuối cùng, ơng quyết định… ăn chiếc bánh. Ơng viết: “Đó là hành
xử đầu tiên của tơi trong lớp. Cái miệng đầy bánh của tôi thu hút sự chú ý của cả lớp.
Chúng trố mắt nhìn tơi đầy nét thán phục… Tôi nghĩ, tôi đã nắm được chúng trong tay…”.
Trái tim nhân ái: Với HSCB, GV không nên xử phạt cứng nhắc, càng không nên
dùng những lời lẽ nặng nề, xúc phạm mà nên dùng thái độ ân cần, quan tâm, tạo cho các
em có một cảm giác an tồn, tin tưởng. Cũng đừng nói nhiều, vì nói nhiều đâm ra nhàm
chán, hãy thể hiện bằng hành động yêu thương.
Với một HS lười, một HSCB… chúng ta không nên ảo tưởng là các em sẽ tiến bộ
ngay sau vài lần nhắc nhở hay xử phạt của GVCN. Có khi, các em vẫn tiếp tục lười, tiếp
tục phạm lỗi lầm với mức độ liên tục hơn, nghiêm trọng hơn – như một cách thách thức,
một cách khẳng định mình với bạn bè, với thầy cơ, với mọi người. Chính ở những khoảnh
khắc này, người GVCN cần thể hiện rõ bản lĩnh và năng lực sư phạm – trong đó – có cả
năng lực “chịu đựng” của mình. Chịu đựng những vi phạm cố tình, những thách thức nơng
nổi và chịu đựng cả những nỗi bực bội, tức giận đang phải dồn nén trong người. Cần tạo
được ở các em, trước hết là sự tôn trọng và sau đó là một sự gần gũi, cảm thơng “Dùng tình
u thương để chinh phục học trò”, “Cho các em cơ hội tiến bộ”. Kết hợp chặt chẽ với
GVBM, với Phụ huynh HS trong quá trình giáo dục.
Chung quy lại, giáo dục HS là một cơng việc khó địi hỏi sự kiên trì và nhẫn nại.
Phương pháp chỉ là sự hỗ trợ nhỏ, vốn sống của người GV và xuất phát từ tình hình thực tế
cơng việc chính là điều làm nên sự thành cơng của người GVCN. Hãy dùng tình yêu
thương và trách nhiệm, dùng cái TÂM của mình vào cơng việc chắc chắn chúng ta sẽ
THÀNH CƠNG.
*******************