Tải bản đầy đủ (.docx) (27 trang)

TƯ TƯỞNG hồ CHÍ MINH về NHÀ nước dân CHỦ KIỂU mới và xây DỰNG NHÀ nước TRONG SẠCH, VỮNG MẠNH vận DỤNG tư TƯỞNG hồ CHÍ MINH TRONG VIỆC xây DỰNG bộ máy NHÀ nước HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (206.64 KB, 27 trang )

BỘ CÔNG THƯƠNG
TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG NGHIỆP THỰC PHẨM TP.HỒ CHÍ MINH
KHOA CHÍNH TRỊ - LUẬT
-----o0o----

BÀI TẬP LỚN/ BÀI TẬP DỰ ÁN HỌC PHẦN

TÊN ĐỀ TÀI: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ NHÀ NƯỚC DÂN CHỦ
KIỂU MỚI VÀ XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC TRONG SẠCH, VỮNG MẠNH.
VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH TRONG VIỆC XÂY DỰNG BỘ
MÁY NHÀ NƯỚC HIỆN NAY

NHĨM: 13

Thành phố Hồ Chí Minh, tháng 7 năm 2021


BỘ CÔNG THƯƠNG
TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG NGHIỆP THỰC PHẨM TP.HỒ CHÍ MINH
KHOA CHÍNH TRỊ - LUẬT
-----o0o----

TÊN ĐỀ TÀI: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ NHÀ NƯỚC DÂN CHỦ
KIỂU MỚI VÀ XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC TRONG SẠCH, VỮNG MẠNH.
VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH TRONG VIỆC XÂY DỰNG BỘ
MÁY NHÀ NƯỚC HIỆN NAY

Nhóm: 13

Giảng viên hướng dẫn:


Trưởng nhóm: Nguyễn Mạnh Quốc

Ths Hoàng Ngọc Kiên

MSSV: 2002190299
Thành viên: Nguyễn Hữu Đức
MSSV: 2001190484
Thành phố Hồ Chí Minh, tháng 7 năm 2021


LỜI CAM ĐOAN
Em/ chúng em xin cam đoan đề tài: Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước dân chủ
kiểu mới và xây dựng nhà nước trong sạch, vững mạnh. Vận dụng Tư tưởng Hồ Chí
Minh trong việc xây dựng bộ máy Nhà nước hiện nay do nhóm 13 nghiên cứu và thực
hiện.
Em/ chúng em đã kiểm tra dữ liệu theo quy định hiện hành.
Kết quả bài làm của nhóm 13 là trung thực và không sao chép từ bất kỳ bài tập
của nhóm khác.
Các tài liệu được sử dụng trong tiểu luận có nguồn gốc, xuất xứ rõ ràng. Các câu
nằm trong Hiến pháp, nội dụng luật pháp khi trích xuất được ghi nguồn gốc và giữ
nguyên vẹn nhằm đảm bảo tính đúng đắng xác thực.

(Ký và ghi rõ họ tên)

Nguyễn Mạnh Quốc
Nguyễn Hữu Đức


LỜI CẢM ƠN
Em xin cảm ơn quý thầy cô ở Khoa Chính trị - Luật đã tạo điều kiện cho chúng em

làm bài tập lớn kết thúc môn học ở giai đoạn khó khăn về dịch bệnh. Cảm ơn thầy
Hồng Ngọc Kiên đã truyền đạt và chỉ dẫn tận tình trong q trình học tập để giúp
chúng em có nhiều kiến thức nhờ đó việc nắm bắt nội dung rất tốt tạo điều kiện thuận
lợi cho việc thực hiện đề tài.
Với những kiến thức trong quá trình học đã học cùng sự hướng dẫn của thầy trong
quá trình làm bài tập lớn do trình độ kiến thức kinh nghiệm cịn hạn chế nên khơng
tránh khỏi những thiếu sót, em rất mong nhận được sự đánh giá, đóng góp ý kiến của
thầy cơ và các bạn để đề tài được hồn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!


MỤC LỤC

PHẦN MỞ ĐẦU.............................................................................................................1
1. Lý do chọn đề tài...................................................................................................1
2. Mục đích và đối tượng nghiên cứu........................................................................1
2.1. Mục đích............................................................................................................1
2.2. Đối tượng nghiên cứu.........................................................................................2
3. Phạm vi nghiên cứu...............................................................................................2
4. Phương pháp nghiên cứu.......................................................................................3
4.1. Nền tảng chỉ đạo nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh là thế giới quan, phương
pháp luận Mac-Lenin................................................................................................3
4.2. Tuân thủ nguyên tắc thống nhất tính đảng với tính khoa học.............................3
4.3. Kết hợp chặt chẽ phương pháp lơ gích với phương pháp lịch sử........................4
PHẦN NỘI DUNG..........................................................................................................5
1. Tư tưởng Hồ Chi Minh về nhà nước kiểu mới.......................................................5
1.1.

Nhà nước do nhân dân là chủ, làm chủ...........................................................5


1.2.

Nhà nước pháp quyền.....................................................................................7

1.3. Xây dựng đội ngũ cán bộ, cơng chức vừa có đức vừa có tài, thực sự là công
bộc của nhân dân.......................................................................................................9
2. Xây dựng nhà nước trong sạch, vững mạnh.........................................................11
2.1.

Nhà nước đảm bảo thật sự quyền làm chủ của nhân dân...............................11

2.2.

Kiện toàn bộ máy hành chính nhà nước........................................................12

2.3.

Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước...................................12

3. Liên hệ về xây dựng nhà nước pháp quyền hiện nay...........................................13
PHẦN KẾT LUẬN.......................................................................................................16
TÀI LIỆU THAM KHẢO.............................................................................................19
PHỤ LỤC......................................................................................................................20


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Kể từ sau 30/4/1975 giải phóng hồn tồn Việt Nam thống nhất đất nước, bộ
máy Nhà nước ta luôn cố gắng xây dựng đưa đất nước tiến lên con đường chủ nghĩa
xã hội. Vấn đề xây dựng bộ máy Nhà nước luôn là vấn đề cấp bách cần thiết trong

mọi thời kì của đất nước, nhưng áp dụng như thế nào? Hướng đi làm sao là một câu
hỏi cực kì quan trọng bởi nó quyết định tương lai vận mệnh của một đất nước, vì
vậy để chọn ra chính cương sách lược là một yêu cầu khó được đặt ra. Với Việt
Nam ta một đất nước trải qua 1000 năm kháng chiến chống giặc ngoại xâm, đồng
thời là đất nước đã bỏ qua chế độ xã hội tư bản để trực tiếp tiến lên con đường xây
dựng chủ nghĩa xã hội lại còn gặp mn vàng khó khăn hơn. Dẫu vậy đất nước ta đã
sản sinh ra các vị anh hùng lãnh tụ kiệt xuất đã cùng Đảng Cộng Sản Việt Nam lãnh
đạo quần chúng nhân dân giành chiến thắng các nước đế quốc thực dân lớn mạnh
khơng ai khác là Hồ Chí Minh. Với Bác Hồ thì chắc hẳn ai cũng biết Bác là người
đã thấm nhuần trong từng giọt máu các triết lý nhân sinh, thấm nhuần các giá trị đạo
đức, thừa hưởng lòng yêu nước nồng nàn tha thiết của nhân dân ta đồng thời hiểu
được giá trị cốt lỏi của các luận cương Mac - Lenin từ đó xác định đó là hướng đi
tốt nhất cho cuộc Cách Mạng Vơ Sản của nhân dân ta. Tư tưởng Hồ Chí Minh luôn
là kim chỉ nam cho các quyết định lãnh đạo của Đảng để xây dựng một bộ máy đất
nước vững mạnh, tồn diện thì trước hết ln xây dựng ở giá trị con người. Con
đường đi lên chủ nghĩa xã hội cịn rất xa xơi nên chúng ta phải có sự kiên trì cố
gắng qua từng thời kì từng bước đi lên bởi vâỵ xây dựng nhà nước vững mạnh trong
sạch như là một nhiệm vụ tất yếu cấp bách được đặt ra.
2. Mục đích và đối tượng nghiên cứu
2.1. Mục đích
Mục đích nghiên cứu suy cho cùng cũng là tìm ra những quan điểm những lý
luận trong tư tưởng Hồ Chí Minh mà chúng ta chưa làm được từ đó tìm những điểm
thiếu sót trong bộ máy Nhà nước ta mà cải thiện ngày càng phát triển. Con đường
tiến lên chủ nghĩa xã hội còn xa vời vợi nên chúng ta cần phẩm tiến từng bước
1


chậm nhưng phải chắc cùng với đó bộ máy nhà nước luôn phải là đầu tàu dẫn lối tốt
nhất. Chỉ cần một thiếu sót trong quan điểm là có thể ảnh hưởng đến tồn cục vì vậy
cần phải chấn chỉnh những khuyết điểm đưa ra những phương án phù hợp nhằm

khắc phục cải thiện bộ máy lãnh đạo. Theo Hồ Chí Minh, bộ máy nhà nước cần
gọn nhẹ, có hiệu lực, phù hợp với từng giai đoạn thời kì để phục vụ đắc lực cho mục
tiêu của nhà nước, tất cả vì sự phát triển của nhà nước, tất cả vì lợi ích đất nước của
tồn dân. Nhưng thực thực trạng hiện nay cho thấy có nhiều thiếu sót trong bộ máy
nhà nước như tham ơ, lãng phí, làm quyền mặc mấy năm gần đây Chính phủ đã ra
sức trấn áp các tình trạng này nhưng nó vẫn diễn ra từ cấp cơ sở đến trung ương.
Vậy nguyên nhân do đâu? Và khởi nguồn do sự chặt chưa chặt chẽ hay thế nào vẫn
khiến bộ máy nhà nước ta đau đầu đặt câu hỏi đặt ra. Vì vậy mục đích nghiên cứu
của đề tài này nhằm tìm ra những thiếu sót ấy, tìm những hướng đi giải qút góp
phần cải thiện ngày càng tốt hơn cho đất nước.
2.2. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu đề tài là toàn bộ những quan điểm của Hồ Chí Minh
trong di sản của Người, những hệ thống quan điểm lý luận thực tiễn phong phú
trong và ngồi nước trong q trình hoạt động. Đối tượng nghiên cứu còn là những
luận điểm “hiện thực hóa” hệ thống quan điểm của Hồ Chí Minh về vấn đề xây
dựng bộ máy nhà nước từ cấp cơ sở đến trung ương. Những giá trị của triết học Mac
- Lenin về nhà nước vơ sản được Hồ Chí Minh tiếp thu đồng thời cộng hưởng cùng
các giá trị tinh hoa mà Người đã học hỏi trong quá trình bôn ba nhiều nơi trên thế
giới. Sự kết tinh văn hóa dân tộc Việt Nam, tư tưởng Cách Mạng Pháp, tư tưởng
Cách Mạng tự do Hoa Kì, tư tưởng văn hóa Phương Đơng lẫn Phương Tây và giá trị
phẩm chất Hồ Chí Minh đã cho ra cho ra những giá trị cốt lõi về một hướng đi duy
nhất mà Cách Mạng Việt Nam có thể hướng đến.
3. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu của đề tài xoay quanh vấn đề các giá trị tư tưởng Hồ Chí
Minh trong quá trình hình thành xây dựng bộ máy nhà nước Việt Nam Xã Hội Chủ
Nghĩa Việt Nam. Đồng thời tìm hiểu sự liên kết các chuổi sự kiện liên quan mật
thiết đến đến sự hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh. Phạm vi nghiên cứu nằm ở
2



nhiều lĩnh vực khác nhau như kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội nhưng chủ ́u tập
trung ở mơ hình chính trị xã hội và lịch sử. Các giá trị của luận điểm thế giới quan
phương pháp luận Mac - Lenin cũng sẽ được áp dụng vào nhằm giải thích chặt chẽ
bộ máy nhà nước bởi nước ta là nhà nước vơ sản của dân do dân và vì dân.
4. Phương pháp nghiên cứu
4.1. Nền tảng chỉ đạo nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh là thế giới quan,
phương pháp luận Mac-Lenin
Thế giới quan, phương pháp luận Mac - Lenin là tinh hoa trí tuệ của lồi người,
là tuyệt tác kì quan của trí tuệ là bộ mơn khoa học cốt lỏi giá trị xã hội vật chất. Tất
cả các môn khoa học, nhất là các môn khoa học xã hội trước hết muốn trở thành
mơn khoa học thì phải đứng trên lập trường tư tưởng vững vàng của mình, đó là thế
giới quan phương pháp luận Mac - Lenin, Tư tưởng Hồ Chí Minh cũng khơng nằm
ngồi vịng đó.
Trong q trình nghiên cứu mình cần vận dụng tởng hợp phương pháp luận của
chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Điều đó được đặt ra
trong q trình nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh phải quán triệt sâu sắc và đảm
bảo đầy đủ tính khách quan, tồn diện, lịch sử, cụ thể và phát triển. Trong quá trình
nghiên cứu chúng ta cần chọn lọc ra những yếu tố nhằm bổ sung đầy đủ tính tồn
diện cho đề tài về xây dựng bộ máy nhà nước. Khi nghiên cứu cần đảm bảo tính
chân thật, đúng như nó vốn có, khơng thêm, khơng bớt; nghiên cứu một cách tởng
thể tồn diện về các mặt kinh tế, văn hóa, xã hội, giáo dục, quân sự, …Trong điều
kiện cụ thể đã hình thành nên các tư tưởng đó đồng thời khi nghiên cứu kết hợp với
giá trị nhân phẩm con người đạo đức Hồ Chí Minh để làm sáng tỏ quan điểm.
4.2. Tuân thủ nguyên tắc thống nhất tính đảng với tính khoa học
Nghiên cứu về tư tưởng Hồ Chí Minh cần thống nhất về nguyên tắc thống nhất
tính Đảng Cộng Sản và khoa học. Khi nghiên cứu cần đứng vững trên lập trường
của giai cấp công nhân để đảm bảo tính chân thực khi nghiên cứu đồng thời phải
trên lập trường chủ nghĩa duy vật nhằm tránh tình trạng thần thánh hóa phê phán
huynh hướng làm hạ thấp vai trị của tư tưởng Hồ Chí Minh. Đồng thời khi nghiên
3



cứu cần tìm hiểu xác thực các loại thơng tin nhằm tránh tiếp các loại thông tin sai sự
thật, tin phản động làm lệch hướng tư tưởng. Sẵn sàng phê phán, tố giác những
thông tin bôi nhọ Đảng Cộng Sản làm chao đảo lòng dân của chủ nghĩa đế quốc và
các thế lực thù địch từ bên ngoài làm ảnh hưởng đến bên trong,củng cố niềm tin
lãnh đạo của Đảng Cộng Sản Việt Nam.
4.3. Kết hợp chặt chẽ phương pháp lơ gích với phương pháp lịch sử.
Trong q trình nghiên cứu cần kết hợp phương pháp logic và phương pháp lịch
sử. Kết hợp hai phương pháp này có vai trị vơ cùng quan trọng trong q trình
nghiên cứu về tư tưởng của Hồ Chí Minh. Bất kì đề tài nào vậy khi đã liên quan đến
tư tưởng Hồ Chí Minh thì chúng ta cần nghiên cứu khách quan đầy đủ đồng thời
liên hệ lịch sử một cách logic nhằm làm sáng tỏ các luận điểm cần đặt ra. Phương
pháp lịch sử giúp ta nhận thức về mặt lịch sử quá trình tư duy của Hồ Chí Minh,
một khi đã thấy rõ được lịch sử đã hình thành, phát triển những quan điểm tư tưởng
đã gắn liền với Người gắn liền qua từng năm tháng gắn bó hình thành và lãnh đạo
Đảng Cộng Sản Việt Nam. Phương pháp lơ gích giúp chúng ta tìm ra những nội
dung, những mối liên hệ cơ bản, cốt lõi trong tư tưởng Hồ Chí Minh từ đó liên hệ
trực tiếp tới các sự kiện lịch sử được đưa ra.
Trong quá trình nghiên cứu đề tài về tư tưởng Hồ Chí Minh mặc dù phương
pháp lịch sử và phương pháp logic là hai phương pháp khác nhau nhưng nó lại gắn
bó chặt chẽ đồng thời liên hệ mật thiết với nhau. Muốn hiểu được bản chất quy luật
trong tư tưởng Hồ Chí Minh thì phải hiểu lịch sử phát sinh và hình thành tư tưởng
đó. Đề tài về xây dựng bộ máy nhà nước yêu cầu khi nghiên cứu cần liên hệ chặt
chẽ bộ máy nhà nước Việt Nam Xã Hội Chủ Nghĩa qua các thời kì và giai đoạn lịch
sử hình thành để thấy rõ tính logic khi vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh làm kim chỉ
nam châm cho mọi hoạt động. Vì vậy cần kết hợp hai phương pháp này để nghiên
cứu các đề tài liên quan đến tư tưởng Hồ Chí Minh.

4



PHẦN NỘI DUNG
1. Tư tưởng Hồ Chi Minh về nhà nước kiểu mới
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vận dụng sáng tạo và đưa Chủ nghĩa Mac - Lênin vào
bối cảnh lịch sử hiện tại của Việt Nam. Dưới ánh sáng soi đường của chủ nghĩa Mác
- Lênin, thắng lợi của cách mạng tháng Tám 1945 đã mở ra một kỷ nguyên mới cho
lịch sử dân tộc chúng ta: kỷ nguyên độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.
Thắng lợi tiêu biểu vĩ đại này của nhân dân ta là nhờ sự lãnh đạo của Đảng, mở ra
bước ngoặt to lớn trong lịch sử dân tộc Việt Nam. Bộ máy lãnh đạo đã về tay nhân
dân, chấm dứt chế độ quân chủ phong kiến ở Việt Nam; dân tộc ta kết thúc hơn 80
năm đô hộ của bọn chủ nghĩa đế quốc. Nhân dân Việt Nam từ một kẻ nô lệ trở thành
người dân một nước độc lập, làm chủ đất nước của mình.
Sáng ngày 2-9-1945, trước sự chứng kiến của hàng triệu người dân tại Quảng
trường Ba Đình (Hà Nội), Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn Độc lập,
Nước Việt Nam Dân chủ Cộng chính thức được thành lập. Khẳng định trước các
nước, nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước kiểu mới được
xây dựng trên nền tảng của Chủ nghĩa Mác-Lênin, trong đó sự kế thừa truyền thống
lịch sử của dân tộc và tham khảo các kiểu nhà nước khác trên thế giới. Đấy là một
nhà nước kiểu mới khác biệt về chất so với các nhà nước phong kiến từng tồn tại
trong lịch sử dân tộc và kiểu nhà nước pháp quyền tư sản. Nhà nước kiểu mới theo
tư tưởng Hồ Chí Minh được thành lập dựa trên các nội dung sau:
1.1. Nhà nước do nhân dân là chủ, làm chủ
Những quan điểm của Hồ Chí Minh về nhà nước của dân, do dân, vì dân là sự
vận dụng linh hoạt, sáng tạo từ đó bở sung, phát triển về lý luận và thực tiễn của học
thuyết nhà nước vô sản C.Mác và Ph.Ănghen qua việc tổng kết, bổ sung từ tác
phẩm Công xã Pari 1871; về học thuyết nhà nước cách mạng của V.I.Lênin.
Trong nội dụng bài Đường Kách mệnh 1927, Hồ Chí Minh viết: “ làm sao kách
mệnh rồi quyền giao cho dân chúng số nhiều, chớ để trong tay một bọn ít người”.
Về sau, Người xố bỏ kiểu “nhà nước cho số đơng người” thay bằng kiểu “ nhà

5


nước cơng nơng”. Đây là một trong các hình thức nhà nước theo kiểu Xô viết. Từ
bối cảnh hiện tại của đât nước, Hồ Chí Minh đã lựa chọn và sử dụng kiểu nhà nước
“dân chủ nhân dân” - nhà nước của dân, do dân, vì dân. Điều này đã được Người
khẳng định từ Nghị quyết Hội nghị Trung ương Đảng tháng 5/1941.
Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: Nước ta là một nước dân chủ, tất cả lợi ích
đều vì dân, quyền hạn đều của dân, chính quyền từ cấp xã đến Chính phủ Trung
ương đều do dân đứng ra bầu cử, đoàn thể từ Trung ương đến cấp xã đều do người
dân tở chức nên…. Tóm lại, mọi quyền hành và lực lượng đều từ dân mà tạo nên”.
Chúng ta phải xây dựng một nhà nước do chính nhân dân lao động làm chủ, là chủ,
mọi quyền hành trong nước đều thuộc về nhân dân. Tất cả nội dung đó được thể
hiện trong Điều 1 Hiến Pháp 1946: “Tất cả quyền bính trong nước là của tồn thể
nhân dân Việt Nam, không phân biệt tôn giáo, giàu với nghèo, trai gái bình đẳng,
…”. Người cũng chỉ rõ nhà nước ta mang bản chất giai cấp công nhân, do nhân dân
làm chủ mà nịng cốt là liên minh cơng – nơng – trí thức cũng do giai cấp cơng nhân
lãnh đạo dựa trên đội tiền phong là Đảng cộng sản Việt Nam. Nhà nước hoạt động
theo nguyên tắc thống nhất, tất cả mọi quyền lực đều thuộc về nhân dân. Nhân dân
có quyền được kiểm sốt tất cả hoạt động của nhà nước, cử tri là nhân dân đứng ra
bầu đại biểu Quốc hội đồng thời có quyền theo dõi, giám sát và bãi miễn đại biểu do
mình bầu ra nếu đại biểu hoạt động không đúng với lợi ích của nhân dân. Việc bảo
vệ và tạo ra lợi ích cho nhân dân mục tiêu phải hướng đến trong bộ máy hoạt động
của nhà nước, đặt lợi ích của nhân dân lên trên lợi ích của cá nhân, tập thể qua đó
tính chất dân chủ được chỉ rõ ở nhà nước ta.
Theo nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh, người giữ vai trò quyết định trên tất cả
các lĩnh vực: kinh tế, chính trị, văn hố, xã hội, từ việc liên quan đến lợi ích cá nhân
đến những chuyện mang tính quốc gia như đặt ra các quy tắc luật pháp, bầu ra
người đứng đầu Nhà nước đó chính là nhân dân. Họ có quyền làm chủ bản thân,
nghĩa là có quyền được bảo vệ chính thân thể của mình, tự do đi lại, tự do lao động

sản xuất, tự do học tập, …nằm trong giới hạn luật pháp cho phép. Nhân dân có
quyền làm chủ các tở chức tập thể, làm chủ cơ quan hoặc địa phương nơi mình sinh

6


sống và làm việc. Người dân có quyền làm chủ khi được bầu cử và miễn nhiệm vào
các tổ chức chính trị xã hội.
Theo Hồ Chí Minh, nhân dân chỉ trở thành người làm chủ khi họ được giáo dục
và nhận thức được những cái tốt, cái xấu; đâu là nghĩa vụ họ phải nên thực hiện.
Để làm được tất cả điều này, bản thân mỗi người dân phải có ý chí để vượt qua cái
tơi của bản thân, các hoạt động tở chức đồn thể phải đứng ra giúp đỡ, động viên
khún khích họ. Một dân tộc có trình độ kém là đều tất yếu và nếu bộ phân nhân
dân không được giáo dục, được truyền đạt kiến thức để thốt khỏi sứ ́u kém đó
thì họ sẽ khơng bao giờ thực hiện được quyền làm chủ của mình.
Người dân muốn có quyền làm chủ của mình khi chỉ có cơ chế đảm bảo quyền
làm chủ của họ được cơ quan có thẩm quyền thơng qua. Đảng phải đi đầu, xung
phong tạo ra một Nhà nước của dân, do dân, vì dân; với các luật pháp hiện có, việc
đảm bảo quyển làm chủ của nhân dân là mục tiêu hàng đầu, phải xây dựng được
đội ngũ cán bộ nhân viên có tiềm năng xứng đáng với hình ảnh là người lãnh đạo,
luôn trung thành với nhân dân, với đất nước.
1.2. Nhà nước pháp quyền
Trong bản Yêu sách 8 điểm, Nguyễn Ái Quốc thay mặt những người yêu nước
Việt Nam đứng ra gửi yêu cầu đến Hội nghị Vecxay (1919), Người yêu cầu: “Vấn
đề pháp lý ở Đông Dương phải được cải cách bằng cách cho người bản xứ được
hưởng những mặt pháp lý như người phương Tây; những toà án đặc biệt cần phải
xố bỏ hồn tồn, nó là công cụ dùng để tra tấn và áp bức bộ phận trung thành nhất
trong nhân dân An Nam ”; “ thay chế độ ra các sắc lệnh bằng chế độ ra các đạo luật
mới”. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có nhận thức từ rất sớm về tầm quan trọng của pháp
luật trong quản lý xã hội. Ngày 3/9/1945, phiên họp đầu tiên của Chính phủ lâm

thời được tở chức, Người đề nghị cần phải nhanh chóng tở chức Tởng tuyển cử để
lập ra Quốc hội, qua đó bầu ra Chính phủ chính thức của nước Việt Nam Dân chủ
Cơng. Người cũng quan tâm đến việc soạn, ban hành Hiến pháp và luật pháp, đó là
cơng cụ để nhà nước quản lý.

7


Bản hiến pháp năm 1946 mang lại dấu ấn sâu sắc trong quan điểm của Người về
bản chất, thể chế và hoạt động của nhà nước của dân, do dân, vì dân. Người nhấn
mạnh việc luật pháp phải dựa vào đạo đức, nó cần thiết và quan trọng. Luật pháp để
mọi người cùng thực hiện, nếu khơng có luật pháp thì xã hội dễ dẫn đến hỗn loạn,
vơ kỉ luật, luật pháp không chỉ đứng ra bảo vệ các tổ chức nhà nước mà còn bảo vệ
quyền lợi của nhân dân. Dùng đạo đức để thuần hoá con người, ngăn chặn những
thói hư tật xấu, khún khích thực hiện cái đẹp, cái thiện vốn có trong mỗi con
người.
Quan điểm xây dựng Nhà nước pháp quyền Xã hội Chủ Nghĩa của Đảng, Điều 2
Hiến pháp năm 2013 khẳng định:
 Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam là Nhà nước pháp quyền XHCN của Nhân
dân, do Nhân dân, vì Nhân dân.
 Nước Cộng hòa XHCN Việt Nam do Nhân dân làm chủ, tất cả quyền lực Nhà
nước thuộc về Nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với
giai cấp nơng dân và đội ngũ trí thức.
 Quyền lực Nhà nước là thống nhất có sự phối hợp, phân cơng, kiểm sốt giữa
các cơ quan có thẩm quyền trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp,
tư pháp.
Từ bản chất Nhà nước của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân, Nhà nước pháp
quyền XHCN Việt Nam được xây dựng và đáp ứng các nguyên tắc sau:
- Quyền lực Nhà nước ln có sự thống nhất, sự phân cơng, phối hợp, kiểm
sốt giữa các cơ quan bộ máy Nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp,

hành pháp và tư pháp.
- Đề cao việc bảo vệ quyền con người, quyền cơng dân, tơn trọng sự bình
đẳng của mọi cá nhân, khơng có sự phân biệt đối xử, phân chia tầng lớp trong việc
tham gia vào công tác quản lý bộ máy Nhà nước.
- Đảng Cộng sản Việt Nam hoạt động trong phạm vi Hiến pháp và pháp luật.
- Bảo vệ công lý, quyền con người, quyền công dân.
8


- Nội dung luật pháp Nhà nước pháp quyền phải bảo đảm tính cơng khai, minh
bạch, chính xác và hiệu quả theo nguyên tắc bình đẳng trước pháp luật và bảo vệ
quyền con người.
Quá trình xây dựng nhà nước của dân, do dân, vì dân gắn liền với việc chỉnh
sửa và hoàn thiện hệ thống pháp luật, đưa pháp luật vào cuộc sống của mọi người
là quan điểm cơ bản của Chủ tịch Hồ Chí Minh về xây dựng nhà nước kiểu mới ở
Việt Nam.
1.3. Xây dựng đội ngũ cán bộ, cơng chức vừa có đức vừa có tài, thực sự là
công bộc của nhân dân.
Trong suốt lịch sử hoạt động cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh ln nâng cao
giá trị phẩm chất và năng lực của một người cán bộ cách mạng. Người cho rằng, để
trở thành người cán bộ cách mạng thì hai mặt đức và tài luôn song hành với nhau,
không thể thiếu bất kỳ mặt nào, cũng khơng thể coi nhẹ mặt nào. Vì vậy, từ rất sớm
Người đã đưa những phẩm chất tốt nhất của mình vun đắp, đào tạo cho đất nước
một đội ngũ cán bộ đủ tầm để có thể đưa bộ máy nhà nước đi lên và ngày càng phát
triển hơn nữa.
Về vấn đề thống nhất giữa đức và tài của người cán bộ, Chủ tịch Hồ Chí Minh
khẳng định: “Người có tài thì phải có đức". Theo Người, nếu một người vừa có đức
và tài thì phẩm chất đó phải được thể hiện trên kết quả công tác và phải ln gắn bó
với nhau trong nhân cách người cán bộ. Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng, một người
cán bộ cách mạng trước hết phải có trong mình đạo đức cách mạng, bởi vì “đạo đức

là phẩm chất của người cách mạng”. Trong mối quan hệ đó thì phẩm chất "đức"
phải được đặt lên hàng đầu: “Đức phải có trước tài", đức là “gốc”. Nếu một người
có tài mà khơng có đức thì nó vơ dụng, vì có tài khơng có đức sẽ dẫn đến các vấn đề
như tham ơ, lợi dụng quyền hạn sẽ gây hại cho đất nước.
Sau hơn 30 năm đổi mới ở nước ta, bên cạnh những thành tựu đã đạt được về
nhiều mặt thì vẫn còn những hạn chế, khuyết điểm cần phải khắc phục. Vấn đề cán
bộ và công tác cán bộ là một trong những nguyên nhân chính dẫn đến các khuyết
đểm ấy. Ở Đại hội XII chỉ rõ: “Tình trạng tư tưởng chính trị, đạo đức và lối sống
9


của một số bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên của chúng ta đang bị suy thoái và
đẩy lùi; có bộ phận cịn có những hành vi phức tạp hơn; một số rất ít cán bộ, đảng
viên bị phần tử xấu lợi dụng mua chuộc, lơi léo, kích động đã có suy nghĩ, việc làm
chống đối Đảng, Nhà nước". Thêm một vấn đề khác đó là năng lực của cán bộ, một
số bộ phận cán bộ cũng là dấu hỏi lớn về khả năng của họ mà chưa có lời giải thích
thỏa đáng. Thời gian qua, khơng ít cán bộ được phân công, bổ nhiệm làm nhiệm vụ
với vỏ bọc bên ngồi "đúng quy trình", song thực chất là biểu hiện của "ép buộc"
cho đúng quy trình chứ chưa thể phản ánh một cách khách quan, chính xác nhất
những giá trị phẩm chất, đạo đức và năng lực thực sự của cán bộ.
Trong q trình cơng nghiệp hố, hiện đại hoá đất nước kết hợp với những tác
động tiêu cực của mặt trái nền kinh tế trên thị trường; từ thực trạng đào tạo công tác
cán bộ của Đảng, nhất là việc rèn luyện, tu dưỡng đạo đức của cán bộ, đảng viên và
sự chống phá quyết liệt của các thế lực trong và ngoài Đảng. Hội nghị Trung ương 4
(khóa XII) đã nêu rõ yêu cầu cấp thiết hiện nay địi hỏi Đảng cần phải chú trọng
trong cơng tác đào tạo, rèn luyện cho đội ngũ cán bộ có đủ đức và tài, đáp ứng yêu
cầu, nhiệm vụ cách mạng đặt ra. Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về sự thống nhất
giữa đức và tài của người cán bộ cách mạng vào chính sách đởi mới và hội nhập
quốc tế, các cơ quan cấp cao có thẩm quyền cần quan tâm thực hiện một số giải
pháp sau:

Một là, phải nhận thức đúng mối quan hệ giữa đức và tài trong việc xây dựng
đội ngũ cán bộ cách mạng hiện nay theo Tư tưởng Hồ Chí Minh gắn với thực hiện
nghiêm các quan điểm của Đảng về công tác đào tạo cán bộ. Các quá trình đào tạo
cần thiết thực và hướng đến mục tiêu để có thể hình thành đội ngũ cán bộ, đảng viên
của Đảng vừa có đức, có tài. Các cơ quan cấp đảng, cấp uỷ cần phải phải nghiên
cứu và nắm vững giá trị của tư tưởng Hồ Chí Minh về đức và tài trong đào tạo, bồi
dưỡng, quy hoạch, sử dụng cán bộ cách mạng. Đề cao việc rèn luyện, tu dưỡng đạo
đức của người cán bộ, đảng viên là việc làm trọng tâm; coi trọng việc phát triển
toàn diện về đức và tài; lấy đạo đức đặt nền móng cho sự phát triển và đức ln
ln phải có trước tài.

10


Hai là, cần phát huy vai trò, trách nhiệm của cấp đảng, cấp uỷ và người đứng
đầu trong cơ quan, tổ chức trong việc rèn luyện, tu dưỡng cán bộ. Cơ quan, tổ chức
và người đứng đầu phải luôn quán triệt và thực hiện tốt việc tu dưỡng, rèn luyện cả
về đạo đức và tài năng cho đội ngũ cán bộ ở mọi lúc, mọi nơi, mọi công việc và
trong các mối quan hệ. Người đứng đầu các cấp luôn quan tâm, chăm lo nâng cao
đời sống vật chất và tinh thần cho cán bộ, công, nhân chức và đặc biệt là nhân dân.
Chú trọng rèn luyện cho cán bộ tinh thần chủ động trong mọi khó khăn, gian khở,
đề cao tính dám nghĩ, dám làm và chịu trách nhiệm, ln trong tinh thần sẵn sàng
nhận và hồn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao.
Ba là, ln nâng cao trình độ, chất lượng đào tạo và năng lực toàn diện cho đội
ngũ cán bộ, đảng viên, giúp họ vươn lên chiếm lĩnh được tri thức, làm chủ khoa học
công nghệ. Đây là vấn đề hết sức cần thiết trong xu thế tồn cầu hóa kinh tế và hội
nhập quốc tế hiện nay. Mỗi cơ quan, tổ chức đảng cần khuyến khích và động viên
cán bộ phải học tập, tu dưỡng, rèn luyện khơng ngừng về năng lực, trình độ tồn
diện, đồng thời nắm vững về chuyên môn nghiệp vụ đảm nhiệm để tiến kịp thời đại.
Mỗi một cá nhân, cán bộ Đảng cũng cần thường xuyên học hỏi nâng cao kiến thức,

khơng ngừng đởi mới, kiên trì, sáng tạo và bền bỉ trong tiếp thu, vận dụng bản chất
khoa học, cách mạng của tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ nghĩa Mac - Lênin để giải
quyết công việc.
Bốn là, đẩy mạnh học tập và làm việc theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ
Chí Minh. Tiếp tục quán triệt và thực hiện tốt Chỉ thị 05 của Bộ Chính trị về "Đẩy
mạnh học tập, làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh", nhằm xây
dựng đạo đức và tài năng cho đội ngũ cán bộ của Đảng ta hiện nay, tạo cơ sở vững
chắc để người cán bộ luôn đứng vững, giữ phẩm chất, nhân cách của mình trước
mọi cám dỗ tầm thường; tạo sự “đề kháng” tốt nhất cho họ trước sự xâm hại của thứ
vi trùng độc hại là chủ nghĩa cá nhân; giúp họ không thể gục ngã bởi sự quyến rũ
của đồng tiền, quyền lực và tham vọng. Qua đó hình thành và củng cố phương pháp,
tác phong làm việc khoa học, nâng cao chất lượng, hiệu quả công việc đảm nhiệm.
5. Xây dựng nhà nước trong sạch, vững mạnh
5.1. Nhà nước đảm bảo thật sự quyền làm chủ của nhân dân
11


Trong các quyền của công dân, quyền làm chủ thật sự của nhân dân là một nội
dung cơ bản để xây dựng Nhà nước của dân, do dân, vì dân theo tư tưởng Hồ Chí
Minh. Khi vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh vào xây dựng Nhà nước địi hỏi chúng
ta phải chú ý đến việc đảm bảo và phát huy quyền làm chủ thật sự của nhân dân đối
với tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hoá và xã hội. Đối với vấn đề này, việc
mở rộng tính dân chủ phải đi cùng với tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa.
Quyền làm chủ của nhân dân phải được thể hiện trong Hiến pháp và pháp luật, đưa
các nội dụng trong Hiến pháp và pháp luật vào cuộc sống đời thường của nhân dân.
Phải chú ý đến việc đảm bảo cho tất cả người dân được bình đẳng trước pháp luật,
xử phạt nghiêm minh với mọi hành vi sai trái, vi phạm luật pháp của một cá nhân,
tở chức nào đó gây ra. Khi đó, người dân mới thật sự tin tưởng và ủng hộ tính chất
nhân dân của Nhà nước.
Ngoài vấn đề thực thi nghiêm chỉnh pháp luật, chúng ta cần thực hiện những

quy tắc dân chủ trong công đồng dân cư, thôn bản tùy theo điều kiện, hoàn cảnh của
từng khu vực. Chỉ cần là không trái với quy định pháp luập Nhà nước ban hành, qua
đó mới thể hiện quyền làm chủ của nhân dân lao động.
5.2. Kiện tồn bộ máy hành chính nhà nước
Trong lĩnh vực này đòi hỏi phải chú trọng cải cách và xây dựng, kiện tồn bộ
máy hành chính nhà nước, bảo đảm một nền hành chính dân chủ, minh bạch, vững
mạnh theo tư tưởng Hồ Chí Minh. Để đạt được điều đó, chúng ta cần đẩy mạnh cải
cách nền hành chính có khả năng phục vụ chu đáo và đem lại hiêu quả đối với nhân
dân.
Phải nghiêm khắc xử lý các trường hợp sai phạm; đào thải những cán bộ có
năng lực kém cỏi, sa sút phẩm chất đạo đức cách mạng, có những hành vi trái với
luật pháp như: cửa quyền, sách nhiễu, tham nhũng, … Việc thực hiện tư tưởng Hồ
Chí Minh trong điều kiện xã hội hiện nay cần chú ý cải cách các thủ tục hành chính,
xố bỏ những bước khơng cần thiết gây mất thời gian; nâng cao trách nhiệm cá
nhân trong việc giải quyết những vấn đề khiếu nại, khiếu kiện của nhân dân theo
đúng những quy định của luật pháp đưa ra; sắp xếp, tiêu chuẩn hoá lại đội ngũ cán

12


bộ, công chức; xây dựng một đội ngũ cán bộ, cơng chức vừa có đức, vừa có tài, có
năng lực.
Đội ngũ cán bộ, cơng chức có năng lực ́u kém thì khơng thể có một Nhà nước
pháp quyền của dân, do dân, vì dân thực sự vững mạnh. Vì vậy, vấn đề công tác đào
tạo cán bộ phải được quan tâm, đặt lên hàng đầu và các hoạt động này phải tổ chức
thường xuyên hơn để đảm bảo việc thay thế, bổ sung cán bộ cách mạng sau này.
5.3. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước
Việc tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước gắn liền với công cuộc
đổi mới, chỉnh đốn Đảng. Với tư cách là Đảng cầm quyền, đây là trách nhiêm thiết
yếu cực kỳ quan trọng của Đảng. Phải vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh vào việc

tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước trong giai đoạn hiện nay.
Đảng không thể làm thay công việc quản lý của Nhà nước, phải thống nhất lãnh
đạo công tác cán bộ trong hệ thống chính trị trên cơ sở bảo đảm thực hiện nhiệm vụ,
chức năng, quyền hạn của Nhà nước theo pháp luật định. Cần đổi mới phương thức
lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước: lãnh đạo bằng tổ chức, đường lối, bộ máy của
Đảng trong các cơ quan nhà nước, bằng vai trò tiên phong, gương mẫu của đội ngũ
cán bộ đảng viên trong bộ máy nhà nước.
Vai trò, trách nhiệm cầm quyền được Nhà nước gắn liền với Đảng, do đó Đảng
phải được biết đến bởi sự trong sạch, vững mạnh đó là những yếu tố tất yếu giúp
việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân theo
tư tưởng Hồ Chí Minh trở nên thành cơng và được nhân dân tin tưởng hơn
6. Liên hệ về xây dựng nhà nước pháp quyền hiện nay
Trong xã hội đương đại, khi nhu cầu dân chủ hóa đời sống xã hội, nhu cầu tôn
trọng, đề cao, bảo đảm và bảo vệ quyền con người, quyền công dân ngày càng tăng
cao thì mục tiêu xây dựng một xã hội dân chủ, cơng bằng và bình đẳng.
Thứ nhất, tiếp tục hồn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam, đồng thời tổ chức
thực hiện một cách có hiệu quả. Trong thời gian qua, mặc dù đảng ủy bộ máy nhà
nước đã có nhiều cố gắng trong việc hoàn thiện hệ thống pháp luật cũng như cách
thực hiện. Song những cố gắng ấy vẫn chưa đủ bởi khoảng cách so với pháp luật
13


của nhà nước pháp quyền vẫn còn là quá lớn. Vì vậy, cần đẩy mạnh cơng cuộc xây
dựng hồn thiện hệ thống pháp luật và cách thức thực hiện một cách nhanh chóng.
Cần nhiều hơn nữa sự tham gia đóng góp của nhân dân vào xây dựng hệ thống pháp
luật bởi pháp luật ra đời nhằm phục vụ, đảm bảo quyền lợi của nhân dân đồng bào
cả nước. Pháp luật ra đời phải phù hợp với điều kiện kinh tế, văn hóa, xã hội, các
giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc ta cũng như các thông lệ của khu vực thế
giới,…
Thứ hai, đẩy mạnh và nâng cao hiệu quả giảo dục pháp luật, xây dựng lối sổng

theo pháp luật. Hiện nay mặc dù là thời kì cơng nghiệp hóa hiện đại thời đại của vũ
bảo, mọi kiến thức đều được phổ cập qua các văn bản tri thức trên internet, tri thức
người ngày càng được nâng cao nhưng dẫu vậy vẫn tồn tại đó là lối sống tùy tiện,
theo bản năng.Sự hiểu biết của người dân về pháp luật còn khá thấp, hiện tượng
người dân mù luật vẫn cịn nhiều. Bản thân tơi là một người dân đến từ vùng quê,
nhận thấy việc phổ cập các kiến thức pháp luật đến người dân rất ít gần như phần
lớn người dân chỉ biết đến vài luật cơ bản như luật an tồn giao thơng cơ bản, hay
luật về chứng từ khi cần thiết còn lại khi nào bị tác động vào quyền lợi bản thân, họ
mới bắt đầu tìm hiểu các luật, hiến pháp về quyền lợi. Rất thụ động trong việc tìm
hiểu pháp luật. Vì vậy rất mong các cơ quan chức năng, các cấp trung ương có thể
vào cuộc tìm kiếm các biện pháp để nâng cao nhận thức của người dân về pháp luật
nhất là các vùng thôn quê. Xây dựng không ngừng, củng cố lối sống pháp luật của
người dân trên toàn cả nước.
Thứ ba, đổi mới quan hệ giữa nhà nước với công dân và xã hội theo hướng chuyển dần
từ nhà nước quản lỉ, chỉ huy xã hội sang nhà nước phục vụ xã hội. Trong xu thế các
nước phát triển hàng đầu cũng như các nước đang phát triển đang từ từ chuyển dịch từ
quản lý mọi mặt xã hội sang phục vụ xã hội thì đất nước Việt Nam ta cũng nằm trong
xu hướng được xem là tất yếu đó. Mặc dù hiện na, Việt Nam còn nặng ở vấn đề quản lý
xã hội nhưng vẫn đang cố gắng hình thành tính phục vụ xã hội được mở rộng và nâng
cao hơn. Để hồn thiện nhà nước có thể đáp ứng các yêu cầu đặt ra về nhà nước pháp
quyền thì bộ máy nhà nước cần phải không ngừng cố gắng để giảm bớt tính quản lý và
tăng dần tính phục vụ xã hội của chính mình. Cần cải thiện ,cải cách các thể chế, các
14


thủ tục hành chính, nâng cao ý thức thái độ sẵn sàng phục vụ đối với người dân, các
doanh nghiệp. Tránh các thủ tục rườm rà, các giấy tờ không cần thiết làm phức tạp các
hoạt động hành chính, gây mất uy tín cơ quan nhà nước trong mắt nhân dân. Sẵn sàng
đứng lên đấu tranh mạnh mẽ đối với các hành vi vi phạm pháp luật, không chuẩn mực
thuần phong mỹ tục của nhân dân Việt Nam.

Thứ tư, tiếp tục đởi mới một cách tồn diện và đồng bộ tổ chức và hoạt động của các cơ
quan trong bộ máy nhà nước. Mặc dù từ khi công cuộc đổi mới được tiến hành bắt đầu
đến nay từ việc tổ chức bộ máy nhà nước đến việc xây dựng nên từng bộ phận nhà nước
cụ thể thì nước ta đã đạt được nhiều thành tựu nhất định. Dẫu vậy ta vẫn còn nhiều mặt
hạn chế trong việc cơ cấu xây dựng tổ chức bộ máy cơ quan nhà nước cần được khắc
phục. Tiếp tục đổi mới các hoạt động tổ chức của Quốc Hội, để đảm bảo rằng Quốc Hội
là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân và là cơ quan quyền lực nhất nhà nước. Cơ
cấu xây dựng hồn thiện lại bộ máy chính phủ xác định rõ được chức năng quyền hạn,
nhiệm vụ là cơ quan chấp hành hành của Quốc Hội, là cơ quan hành chính có quyền
hạn cao nhất, thực hiện việc hành pháp. Cải cách tư pháp một cách triệt đề nhằm nâng
cao khả năng làm việc có hiệu quả trong các hoạt động của tư pháp, cải cách tư pháp
suy cho cùng cũng vì sự phát triển của đất nước nên.
Thứ năm, đổi mới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với Nhà nước cộng hoà
xã hội chủ nghĩa Việt Nam Đảng hiện nay đang không ngừng đổi mới xây dựng hồn
thiện lãnh đạo của mình đối với nhà nước và xã hội Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt
Nam trong nhận thức lẫn thực tiễn. Tuy nhiên để đáp ứng với nhiệm vụ xây dựng nhà
nước pháp quyền, thì cần cố gắng nhiều hơn nữa để tiếp tục đổi mới sự lãnh đạo của
Đảng đối với nhà nước.

15


PHẦN KẾT LUẬN
Trên con đường xây dựng một nhà nước pháp quyền, dân chủ do dân vì dân cịn
gặp rất nhiều chông gai. Đảng ta cần xác định được mục tiêu vững bền nhằm xây
dựng một quốc hội thực quyền, một chính phủ hiệu quả bảo đảm các mối quan hệ
thống nhất, hiệu quả, hiệu lực năng động của chính quyền từ các cấp trung ương đến
địa phương. Nước ta là một nước có Đảng là độc tơn duy nhất khơng cho phép chế
độ đa ngun ,đa đảng chính trị đối lập. Đảng là lực lượng lãnh đạo và xây dựng
nhà nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam các tổ chức pháp luật, Đảng viên

làm việc hiệu quả trong khuôn khổ của Hiến Pháp nhà nước. Đảng lãnh đạo lãnh
đạo nhà nước và xã hội, điều hướng hướng đi của đất nước giữ sứ mệnh cực kì quan
trọng từ lúc sinh ra, Đảng ln phải giữ cho mình tư tưởng lãnh đạo tư tưởng làm
theo lời Bác đưa đất nước ngày càng đi lên.
Mặc dù chính quyền nhà nước đã xây dựng nhà nước kiểu mới với nhiều thay
đổi lớn, đạt được nhiều thành tựu tiến bộ vượt bậc về quyền của con người, quyền
của dân ngày càng được đảm bảo. Dẫu vậy, vẫn còn rất nhiều mặt hạn chế mà bộ
máy hành chính nước chưa làm tốt được, chưa khắc phục cải thiện. Việc cán bộ còn
xem nhẹ việc dư luận vẫn cịn xảy ra, khơng nghĩ đến dân của một số cán bộ đảng
viên. Việc chú trọng và lòng tham “quyền lực” trong một bộ phận cán bộ cơng chức
nhà nước vẫn cịn tồn tại và diễn ra. Bác Hồ đã từng cảnh báo việc việc lạm quyền,
sự tham ô về quyền lực, sẵn sàng dùng quyền lực bản thân nhằm vơ vét của dân
không khác gì bọn tham quan thời phong kiến. Tư tưởng cậy thế, tư túng, kiêu ngạo,
chia rẻ, nói một đằng làm một nẻo. Thực vậy trong những năm gần đây mặc dù
Quốc Hội đã ra sức chống tham ô, lạm quyền từ cấp trung ương rất mạnh mẽ, diễn
ra rất quyết liệt nhưng sự thật nó vẫn cịn tồn tại và âm thâm như con đỉa hút máu.
Việc tuyển chọn cán bộ có tư tưởng chính trị lập trường vững vàng, đảng viên được
bồi dưỡng tư tưởng chính trị cịn nhiều hạn chế bất cập. Các vụ việc diễn ra gần đây
như: Chủ tịch xã khơng có bằng cấp 3 nhưng vẫn được làm và giữ chức vụ nhiều
năm. Vậy nguyên nhân do đâu? Việc tuyển chọn nhân tài cho bộ máy nhà nước còn
yếu kém chưa quyết liệt từ cấp trung ương. Nhiều người sau khi lên làm chủ tịch xã,
huyện, tỉnh thì bất ngờ vài năm có nhà cửa xe hơi vậy do đâu? Việc tham ơ lãnh phí,
16


làm thất thoát ngân sách nhà nước dường như năm nào cũng diễn ra và khi nào có
sự lên tiếng của dân hay bất ngờ phát hiện thì mới tiến hành điều tra xử lý. Phải
chăng bản thân các cơ quan chức năng chưa thể nhìn thấy vấn đề hay do điều gì.
Dân có quyền xem xét các vấn đề mà nhà nước dẫu vậy, vấn đề quyền lực dường
như là một thứ gì đó vơ hình làm bản thân người dân có quyền lực tham gia thì lại

trở thành một bù nhìn chưa thể gọi là dân chủ. Khơng thể để một con sâu làm rầu
nồi canh, muốn diệt cỏ thì phải diệt tận gốc. Bước đầu tiên của vấn đề đó là tư
tưởng chính trị của cán bộ đảng viên chưa vững vàng khi tuyển chọn cần đặt ra các
mục tiêu rõ ràng, một người có lý tưởng sẵn sàng dùng mọi khả năng đưa đất nước
ngày càng đi lên và không thể làm qua loa vấn đề áp đặt vấn đề này một cách máy
móc được. Sẵn sàng xử lý khi phát hiện, luôn trong trạng thái sẵn sàng. Khơng thể
suốt ngày xem xét hình phạt được, cần ra đời các luật răn đe cảnh cáo mức độ trung
bình nặng. Bởi vì nếu cứ cảnh cáo qua loa thì vấn đề sẽ đâu lại vào đấy, miệng nói
“xin nhận lỗi” nhưng rồi từ từ tư tưởng cũng vậy. Mặc dù Đảng ta luôn xem xét các
vấn đề xử lý ơn hịa giảm nhẹ, bởi vậy nhiều đối tượng lợi dụng việc xem xét giảm
nhẹ nên mới thực hiện hành vi gian trá, không đúng đắn đối với một hình tượng của
cán bộ cơng chức nhà nước. Đảng và Nhà nước cần chú ý hơn nữa tiếng nói của
người dân, bởi tiếng nói của người dân cũng chính là tiếng nói của Việt Nam. Cần
lắng nghe dân nhiều hơn sẵn sàng xuống từng cấp huyện, xã, thị trấn, ...
Cần nhiều hơn nữa nguồn lực từ thực tế, cần phải hiểu rõ hơn nữa về các huyện,
thị trấn không thể nào mà suốt ngày họp thì có thể giải quyết được vấn đề được.
Đảng trong những lần đại hội XI, XII đã có tinh thần nhìn thẳng vấn đề, thẳng thắn
chỉ ra rõ những thiếu sót, khuất mắc và thực tế vấn đề dân chủ chưa được phát huy
hiệu quả. Cải cách hành chính cịn chậm, thiếu đồng bộ, thủ tục hành chính cịn
rườm ra phức tạp và từ đó xảy ra việc lạm quyền từ đó tạo ra nhiều vấn đề phát sinh
khơng đáng phải có. Thực vậy, ở một số nơi miền quê khi đi làm thủ tục hành chính
gặp rất nhiều thủ tục rườm rà nhưng chỉ cần “phong bì” mọi thứ dường như được
giải quyết nhanh hơn. Bởi bất cập trong vấn đề hành chính đã sản sinh ra các vi
phạm, vì vậy cần chấn chỉnh gấp các vấn đề đó rút ngắn được độ phức tạp khi làm
các quyền lợi của công dân. Việc triển khai thực hiện cải cách tư pháp còn chậm
17


vẫn chưa thỏa đáng ta có thể thấy các vụ án: oan sai, tiêu cực, bỏ sót tội phạm vẫn
cịn diễn ra. Kết quả là những công dân vô tội rơi vào vòng lao lý ngồi trong buồn

giam 30 đến 40 năm đời, gia đình của những cơng dân này rơi vào lời bàn tán của
xã hội, gia đình mất đi trụ cột gia đình. Phải chăng chỉ bồi thường và cơng khai xin
lỗi một cách máy móc là có thể giải quyết? Nhiều vụ án xảy ra tình trạng kiện tụng
ra tòa trên dưới chục lần giải quyết hơn 10 năm mới có thể giải quyết, vậy do đâu?
Đảng cần cố gắng hơn nữa về các vấn đề tư pháp, pháp lệnh cần mang tính đúng
đắn và phải cực kì ch̉n xác khơng được sai phạm vì bất cứ một lý do nào. Là cơng
dân của nước Cộng hịa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam ai cũng có quyền được sống,
được tự do, được làm những điều bản thân có khả năng mong muốn và thực hiện
trong khng khở pháp luật. Luật sinh ra là do dân, vì dân không thể để luật cướp
mất quyền mà bản thân đáng có vì sự sai sót của một cá nhân tở chức nào đó được.
Cần tăng cường sự lãnh đạo của Đảng vì một nền hành chính, một đất nước trong
sạch tươi đẹp, xây dựng một nền hành chính dân chủ. Thiếu sót khuất mắc cịn
nhiều nhưng Đảng ta vẫn tiếp tục phát huy những thành tựu đã đạt được không vì
những thiếu sót mà nhụt chí, cần lấy đó làm bàn đạp xóa bỏ khắc phục, lấy đó làm
động lực cho những thành cơng sắp tới. Khơng thể xóa bỏ các khút điểm đó trong
từng ngày tháng được vì vậy cần tìm ra những phương án đẩy nhanh tiến độ thực
hiện. Mọi đường lối chủ trương của Đảng và nhà nước đều xuất phát từ nguyện của
người dân, được người dân tham gia ý kiến. Dân chủ phải được nghiêm túc thực
hiện trên mọi mặt vấn đề xã hội nhằm đảm bảo lợi ích cao nhất cho nhân dân.
Theo chủ tịch Hồ Chí Minh "Nước lấy dân làm gốc" vậy nên Đảng cần ra sức
cống hiến hết mình vì dân phục vụ, phải luôn luôn lắng nghe ý kiến của dân, phải
ln liên hệ gắn bó chặt chẽ với dân. Tư tưởng Hồ Chí Mình về xây dựng một nhà
nước pháp quyền của dân do dân và vì dân vẫn cịn ngun giá trị, vẫn ln tiếp tục
soi sáng cho lối đi của Đảng và Nhà nước trong sự nghiệp xây dựng nhà nước pháp
quyền một nhà nước Xã hội Chủ Nghĩa tồn diện vững bền trong mọi thời kì của
đất nước.

18



19


TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. Ths. Nguyễn Bắc Phương. ( 04/09/2020). Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước kiểu
mới ở Việt Nam. Truy cập 16/7/2021, từ />[2]. Tư tưởng Hồ Chí Minh về quyền làm chủ của nhân dân, xây dựng nhà nước thực sự
của dân, do dân, vì dân. (29/02/2004). Truy cập 16/07/2021, từ
/>[3]. Bùi Sỹ Lợi. (22/05/2021). Xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của
dân, do dân, vì dân. Truy cập 16/07/2021, từ />[4]. Tạp chí xây dựng đảng. (20/01/2021). Truy cập 17/07/2021, từ
/>[5]. Bùi Thị Ánh. (22/04/2021). Phương thức xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt
Nam hiện nay. Truy cập 17/07/2021, từ />[6]. ThS. Trần Cao Hùng. (23/07/2020). Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Nhà nước
trong
sạch, hoạt
động

hiệu
quả.
Truy
cập
18/07/2021,
từ
/>[7]. Mạch Quang Thắng. (2019). Giáo trình Tư tưởng Hồ Chí Minh. Hà Nội; bộ Giáo
dục và Đào tạo.
[8]. Hồ Chí Minh tồn tập. (2011). Hà Nội; Nhà xuất bản Chính trị quốc gia.
[9]. Thiếu tá Đặng Cơng Thành. (06/06/2017). Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước
pháp quyền với việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện
nay. Truy cập 18/07/2021, từ
/>
20



×