TIỂU LUẬN
MƠN: TỒN CẦU HĨA VỚI CHỦ NGHĨA XÃ HỘI
BẢN CHẤT CỦA TỒN CẦU HĨA HIỆN NAY VÀ Ý NGHĨA
CỦA VIỆC NGHIÊN CỨU ĐỐI VỚI QUÁ TRÌNH NHẬN
THỨC VÀ THỰC HIỆN HỘI NHẬP QUỐC TẾ CỦA VIỆT
NAM HIỆN NAY
MỞ ĐẦU
Tồn cầu hóa đang là xu thế lớn tác động một cách trực tiếp sâu rộng
tới các lĩnh vực đời sống xã hội của các quốc gia, dân tộc trong đó có lĩnh vực
văn hóa. Xét về bản chất, tồn cầu hóa là q trình tăng lên mạnh mẽ những
mối liên hệ, sự ảnh hưởng, tác động lẫn nhau, phụ thuộc lẫn nhau của tất cả
các khu vực, các quốc gia, các dân tộc trên toàn thế giới. Xu thế của tồn cầu
hóa bắt nguồn từ sự phát triển của các lực lượng sản xuất từ tính chất xã hội
của lực lượng sản xuất trên phạm vi quốc tế. Trong các xã hội xa xưa, các
quốc gia dân tộc tồn tại tương đối biệt lập, ít có quan hệ với nhau. Nhưng
cùng với sự phát triển của lực lượng sản xuất, sự tăng tiến của sản xuất và trao
dổi hàng hóa, sự mở rộng thị trường, thì các mối quan hệ cũng dần vượt ra
khỏi ranh giới quốc gia, hình thành các mối quan hệ quốc tế và cũng từ đó,
q trình quốc tế hóa được bắt đầu. Q trình quốc tế hóa được đẩy mạnh đặc
biệt với sự ra đời của Chủ nghĩa Tư bản từ thế kỷ 16. Những phát kiến về địa
lý, những cuộc chiến tranh xâm chiếm thuộc địa, sự phát triển đại công
nghiệp, sự phát triển sản xuất nhờ áp dụng các thành tựu khoa học công nghệ,
sự mở rộng thị trường quốc tế, mở rộng giao lưu quốc tế đã phá vỡ tính chất
cát cứ, biệt lập trong phạm vi quốc gia, mở rộng phạm vi hoạt động kinh tế.
Q trình tồn cầu hóa đã được dự báo từ khi Chủ nghĩa Tư bản ra đời, lúc
bấy giờ được gọi là quá trình quốc tế hóa. Hơn 150 năm trước đây, Mác và
Ăng-ghen đã viết trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản: “Đại công nghiệp đã
tạo ra thị trường thế giới, thay cho tình trạng cơ lập trước kia của cá địa
phương và dân tộc vẫn tự cung tự cấp, ta thấy phát triển những mối quan hệ
phổ biến, sự phụ thuộc phổ biến của các dân tộc”.
Theo xu hướng chung của thế giới, Việt Nam đã và đang từng bước cố
gắng chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. Đây không phải là mục tiêu nhiệm vụ
nhất thời mà còn là vấn đề mang tính chất sống cịn đối với sự phát triển của
cả dân tộc, hay ảnh hưởng trực tiếp đến sự hưng thịnh của một quốc gia. Tuy
1
nhiên để thực hiện hiệu quả và đạt được những thành cơng trong q trình
tồn cầu hóa cần phải có sự nghiên cứu cụ thể để hiểu hơn về quá trình tồn
cầu hóa và bản chất của tồn cầu hóa.
Do vậy, với tư cách là sinh viên chuyên ngành chủ nghĩa xã hội em xin
chọn đề tài “Bản chất của tồn cầu hóa hiện nay và ý nghĩa của việc
nghiên cứu đối với quá trình nhận thức và thực hiện hội nhập quốc tế của
Việt Nam hiện nay” làm tiểu luận kết thúc mơn học của mình.
2
NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ
TỒN CẦU HĨA HIỆN NAY
1.1. Khai niệm tồn cầu hóa
Theo nghĩa rộng, tồn cầu hố là một hiện tượng, một quá trình, một xu
thế liên kết trong quan hệ quốc tế làm tăng sự phụ thuộc lẫn nhau về nhiều
mặt của đời sống xã hội (từ kinh tế, chính trị, an ninh, văn hố đến mơi
trường, v.v…) giữa các quốc gia. Nói một cách khác,“Tồn cầu hố là q
trình tăng lên mạnh mẽ những mối liên hệ, ảnh hưởng, tác động lẫn nhau, phụ
thuộc lẫn nhau của tất cả các khu vực, các quốc gia, các dân tộc trên thế giới,
làm nổi bật hàng loạt biến đổi có quan hệ lẫn nhau mà từ đó chúng có thể phát
sinh một loạt điều kiện mới.”.
Theo nghĩa hẹp, tồn cầu hố là một khái niệm kinh tế chỉ quá trình
hình thành thị trường toàn cầu làm tăng sự tương tác và phụ thuộc lẫn nhau
giữa các nền kinh tế quốc gia. Biểu hiện của tồn cầu hố có thể dưới dạng
khu vực hoá – việc liên kết khu vực và các định chế, các tổ chức khu vực, hay
cụ thể, toàn cầu hố là “q trình hình thành và phát triển các thị trường toàn
cầu và khu vực, làm tăng sự tương tác và tuỳ thuộc lẫn nhau, trước hết về
kinh tế, giữa các nước thông qua sự gia tăng các luồng giao lưu hàng hoá và
nguồn lực (resources) qua biên giới giữa các quốc gia cùng với sự hình thành
các định chế, tổ chức quốc tế nhằm quản lý các hoạt động và giao dịch kinh tế
quốc tế.
1.2. Lịch sử ra đời và hình thành của tồn cầu hóa
Xu thế của tồn cầu hóa bắt nguồn từ sự phát triển của các lực lượng
sản xuất từ tính chất xã hội của lực lượng sản xuất trên phạm vi quốc tế.
Trong các xã hội xa xưa, các quốc gia dân tộc tồn tại tương đối biệt lập, ít có
quan hệ với nhau. Nhưng cùng với sự phát triển của lực lượng sản xuất, sự
tăng tiến của sản xuất và trao dổi hàng hóa, sự mở rộng thị trường, thì các mối
3
quan hệ cũng dần vượt ra khỏi ranh giới quốc gia, hình thành các mối quan hệ
quốc tế và cũng từ đó, q trình quốc tế hóa được bắt đầu.
Q trình quốc tế hóa được đẩy mạnh đặc biệt với sự ra đời của Chủ
nghĩa Tư bản từ thế kỷ 16. Những phát kiến về địa lý, những cuộc chiến
tranh xâm chiếm thuộc địa, sự phát triển đại công nghiệp, sự phát triển sản
xuất nhờ áp dụng các thành tựu khoa học công nghệ, sự mở rộng thị trường
quốc tế, mở rộng giao lưu quốc tế đã phá vỡ tính chất cát cứ, biệt lập trong
phạm vi quốc gia, mở rộng phạm vi hoạt động kinh tế. Q trình tồn cầu
hóa đã được dự báo từ khi Chủ nghĩa Tư bản ra đời, lúc bấy giờ được gọi là
quá trình quốc tế hóa.
Hơn 150 năm trước đây, Mác và Ăng-ghen đã viết trong Tuyên ngôn
của Đảng Cộng sản: “Đại công nghiệp đã tạo ra thị trường thế giới, thay cho
tình trạng cô lập trước kia của cá địa phương và dân tộc vẫn tự cung tự cấp,
ta thấy phát triển những mối quan hệ phổ biến, sự phụ thuộc phổ biến của
các dân tộc”.
Chính Mác đã chia q trình quốc tế hóa tư bản chủ nghĩa thành hai
giai đoạn:
Giai đoạn lệ thuộc một cách hình thức của thế giới, trước hết là của các
dân tộc “ngoại vi” vào chủ nghĩa tư bản và giai đoạn lệ thuộc thực sự của cả
thế giới vào Chủ nghĩa tư bản. Ở giai đoạn đầu, từ thế kỷ 16 chủ yếu là quốc
tế hóa lĩnh vực thông vốn, việc chiếm dụng giá trị thặng dư tồn cầu chủ yếu
thơng qua bn bán và chiến tranh của chủ nghĩa thực dân cũ. Vào giai đoạn
sau, theo Mác, Chủ nghĩa tư bản đã đưa cả thế giới vào một hệ thống phân
chia lao động quốc tế. Và cũng từ đó, q trình quốc tế hóa khơng ngừng phát
triển với những cột mốc lớn: Trước chiến tranh thế giới thứ nhất, từ những
năm 80 tới nay, xu thế quốc tế hóa được gọi bằng một tên mới là tồn cầu hóa
(Globalization). Một trong những xu hướng mới tồn cầu hóa hiện nay (chẳng
hạn: Kinh tế là việc sáp nhập và hợp nhất các công ty thành các tập đồn lớn,
nhất là các cơng ty khoa học kỹ thuật, công nghệ nhằm tăng khả năng cạnh
4
tranh trên thị trường trong và ngồi nước. Ví dụ: Vào thập niên 90, các vụ sáp
nhập đã lên đến 2500 tỷ USD. Ở Mỹ, năm 1998, Exon đã sáp nhập Mobile trị
giá 86 tỷ USD; Travelers Group sáp nhập Citi Corp trị giá 73,6 tỷ USD; SBC
sáp nhập Communications Americantech trị giá 72,3 tỷ USD; Bell Atlantic
sáp nhập GTE trị giá 71,7 tỷ USD; AT&T sáp nhập Media online trị giá 63 tỷ
USD...). Vào đầu những năm 2000, các cuộc cạnh tranh và sáp nhập các tập
đoàn lớn đã diễn ra gay gắt và quyết liệt với quy mô chưa từng có. Ví dụ:
Cơng ty truyền thơng hàng đầu thế giới American Online (AOL) đã quyết
định mua lại công ty thơng tin giải trí thơng tin đại chúng lớn nhất thế giới
Time Wanner với giá khoảng 160 tỷ USD, đổi tên mới là AOL Time, có tổng
giá trị trên thị trường là 360 tỷ USD và doanh thu hàng năm đạt lên tới 30 tỷ
USD.
Một nguyên nhân trực tiếp và đồng thời cũng là biểu hiện của xu thế
toàn cầu hóa là sự tác động mạnh mẽ của các công ty tư bản độc quyền xuyên
quốc gia. Theo số liệu của UNCTAD, trong những thập niên 90 đã có 53 ngàn
doanh nghiệp hoạt động xuyên quốc gia với 450 ngàn cơ sở sản xuất và chiếm
gần 2/3 tổng khối lượng bn bán trên tồn thế giới, kiểm sốt 2/3 thương
mại thế giới, 4/5 nguồn vốn đầu tư trực tiếp ở nước ngoài và 9/10 kết quả
nghiên cứu và chuyển giao công nghệ trên thế giới.
Một đặc trưng cơ bản của tồn cầu hóa nữa đó là sự phát triển nhanh
chóng của quan hệ kinh tế thương mại và chu chuyển trên phạm vi quốc tế.
Hiện nay riêng thị trường tư bản quốc tế có tổng mức vốn luân chuyển lên tới
400 ngàn tỷ USD trong một ngày, thị trường này trao đổi khối lượng vốn cao
hơn mức vốn của tổng tất cả các ngân hàng trên thế giới.
Trong quá trình tồn cầu hóa và khu vực hóa, nổi lên xu hướng liên kết
kinh tế dẫn đến sự ra đời của tổ chức kinh tế, chính trị, thương mại, tài chính
quốc tế và khu vực như: Tổ chức thương mại thế giới (WTO), Quỹ tiền tệ
quốc tế (IMF), Ngân hàng thế giới (WB), Liên minh Châu Âu (EU), Hiệp hội
các nước Đông Nam Á (ASEAN), khu thương mại tự do Bắc Mỹ (NAFTA),
5
Diễn đàn hợp tác kinh tế Châu Á - Thái Bình Dương (APEC), thị trường tự do
Nam Mỹ (Mercosur)...
Cũng trong q trình tồn cầu hóa về kinh tế đã tác động mạnh mẽ đến
chính trị dẫn đến sự ra đời của các tổ chức chính trị quốc tế như Liên hợp
quốc và các tổ chức của nó như UNDP, UNFPA, UNESCO, UNICEP,
INCTAD, FAO... đang tác động mạnh mẽ đến sự phát triển của các nước trên
phạm vi toàn cầu. Cùng với sự hình thành các tổ chức chính trị quốc tế, q
trình tồn cầu hóa đã hình thành luật pháp quốc tế như công ước quốc tế về
luật biển năm 1982, tuyên bố thế giới về nhân quyền, công ước LHQ về
quyền trẻ em mà Việt nam là nước tham gia ký kết sớm nhất châu Á.
6
CHƯƠNG II
BẢN CHẤT CỦA TỒN CẦU HĨA HIỆN NAY
2.1. Tồn cầu hóa là xu hướng phát triển khách quan của nhân loại, các quốc
gia và dân tộc
Sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất đã dẫn đến một xu thế
lớn đang chi phối sự phát triển của thế giới hiện đại, đó là q trình tồn cầu
hóa. Tồn cầu hóa (tiếng Anh là Globalization), xét về bản chất là quá trình
gia tăng mạnh mẽ những mối liên hệ ảnh hưởng, tác động lẫn nhau trên tất cả
các lĩnh vực của đời sống kinh tế, xã hội, chính trị giữa các quốc gia, các dân
tộc trên toàn thế giới. Trong các nội dung trên thì tồn cầu hóa kinh tế vừa là
trung tâm, vừa là động lực thúc đẩy q trình tồn cầu hóa các lĩnh vực khác.
Về bản chất, tồn cầu hóa kinh tế là sự gia tăng nhanh chóng các hoạt động
kinh tế vượt qua mọi biên giới quốc gia và khu vực, tạo ra sự tùy thuộc lẫn
nhau giữa các nền kinh tế trong sự vận động phát triển hướng tới một nền
kinh tế thế giới hội nhập và thống nhất. Những đặc điểm chủ yếu của tồn cầu
hóa kinh tế là :
Tự do hóa các yếu tố của tái sản xuất xã hội mang tính tồn cầu được
thể hiện qua tự do hóa thương mại đang trở thành nội dung quan trọng của
q trình tồn cầu hóa kinh tế. Bằng chứng là, mục tiêu của hầu hết các thể
chế kinh tế thương mại song phương và đa phương, đặc biệt là WTO, đều tập
trung giải quyết vấn đề tiếp cận thị trường thông qua các cam kết về tự do hóa
thương mại. Đây là quá trình dỡ bỏ dần những cản trở trong hoạt động thương
mại, xóa bỏ sự phân biệt đối xử, tạo lập sự cạnh tranh bình đẳng, nhằm làm
cho hoạt động thương mại trên phạm vi quốc tế ngày càng tự do hơn thông
qua việc cắt giảm dần thuế quan; giảm bớt, tiến tới loại bỏ hàng rào phi thuế
quan, như hạn ngạch nhập khẩu, giấy phép nhập khẩu, quản lý ngoại hối, phụ
thu hàng nhập khẩu, các loại lệ phí và nhiều cản trở vơ hình khác; bảo đảm
cạnh tranh cơng bằng và không phân biệt đối xử.
7
Đẩy mạnh tự do hóa các hoạt động tài chính và đầu tư quốc tế được đẩy
mạnh. Tồn cầu hóa trong lĩnh vực tài chính được đẩy mạnh thơng qua việc tự
do hóa rộng rãi các giao dịch tài chính quốc gia và phát triển các thị trường tài
chính quốc tế, hướng tới một thị trường tài chính mang tính tồn cầu. Tự do
hóa tài chính bao gồm các nội dung cơ bản, như: nới lỏng kiểm sốt tín dụng;
tự do hóa lãi suất; tự do hóa tham gia hoạt động ngân hàng và các dịch vụ tài
chính trên tồn thế giới, khơng phân biệt biên giới; tự do hóa việc di chuyển
của các luồng vốn quốc tế.
2.2. Toàn cầu hóa là xu hướng khách quan, lơi cuốn ngày càng
nhiều nước tham gia
Quá trình này dẫn đến hệ thống các nền tài chính quốc gia hội nhập và
tùy thuộc, tác động lẫn nhau ngày càng mạnh mẽ.
Các công ty đa quốc gia (MNCs) ngày càng đóng vai trị quan trọng và
chủ đạo trong các quan hệ kinh tế thế giới. Tính đến năm 2004, tồn thế giới
có khoảng 63.000 cơng ty đa quốc gia với trên 800.000 chi nhánh. Các công
ty đa quốc gia hiện chi phối hơn 80% giá trị thương mại quốc tế, chiếm hơn
90% tổng giá trị vốn đầu tư và thành tựu khoa học, công nghệ trên thế giới.
Với sức mạnh ngày càng lớn, các công ty đa quốc gia ngày càng mở rộng ảnh
hưởng, duy trì và nâng cao quyền lực kiểm sốt trong các lĩnh vực quan trọng
như tài chính, cơng nghệ, dịch vụ và lao động. Các cơng ty xun quốc gia
chính là một nhân tố cực kỳ quan trọng góp phần thúc đẩy mạnh mẽ hơn q
trình tồn cầu hóa kinh tế. Trong hơn một thập kỷ gần đây, các công ty xuyên
quốc gia đã tăng cường hoạt động mua lại và sáp nhập (M & A), hình thành
các cơng ty quốc tế khổng lồ có ảnh hưởng ngày càng lớn đến q trình phân
cơng lao động quốc tế.
Hình thành ngày càng nhiều tổ chức liên kết kinh tế quốc tế ở những
cấp độ khác nhau (khu vực và thế giới) và vai trị quan trọng của WTO trong
q trình tồn cầu hóa.
8
Trong những thập kỷ gần đây, nền kinh tế thế giới đã chứng kiến sự
phát triển nhanh chóng và mạnh mẽ của các hoạt động liên kết kinh tế quốc
tế. Quá trình liên kết kinh tế quốc tế diễn ra ở nhiều cấp độ khác nhau, từ liên
kết tam giác, tứ giác phát triển đến liên kết khu vực như: EU, ASEAN,
NAFTA, MECOSUR,.. liên khu vực như APEC, ASEM và liên kết tồn cầu.
Trong đó, liên kết khu vực đóng vai trò quan trọng. Nếu năm 1956 đánh dấu
sự ra đời của liên kết khu vực đầu tiên là Cộng đồng kinh tế châu Âu, thì
trong thập kỷ 80 và 90 và của thế kỷ XX, liên kết kinh tế khu vực đã trở thành
làn sóng lan khắp các châu lục. Hiện nay trên tồn thế giới có khoảng 24 tổ
chức liên kết kinh tế khu vực có quy mơ lớn với những mức độ quan hệ khác
nhau. Tầm ảnh hưởng của chúng đến mức hầu như khơng có quốc gia nào
không là thành viên của một liên kết kinh tế quốc tế, nhiều quốc gia đồng thời
là thành viên của nhiều tổ chức liên kết kinh tế khác nhau. Và, nếu khi mới ra
đời, GATT chỉ có 23 thành viên với lĩnh vực điều tiết chủ yếu là trong thương
mại hàng hóa và cịn giới hạn ở vấn đề thuế quan, thì đến cuối năm 2005,
WTO (tổ chức thay thế cho GATT trước đây) đã là một tổ chức với gần 150
thành viên, điều tiết hầu hết các lĩnh vực, khía cạnh của thương mại quốc tế.
Tồn cầu hóa đã thúc đẩy kinh tế phát triển với tốc độ cao, nếu nửa đầu
thế kỷ XX, tổng GDP của thế giới tăng 2,7 lần, thì đến nửa cuối thế kỷ, tổng
GDP thế giới đã tăng 5,2 lần. Đầu năm 1950, tỷ trọng thương mại trong GDP
tồn cầu là 7%, thì hiện nay đã tăng lên hơn 50%. Năm 2004, tổng giá trị
thương mại toàn cầu đạt hơn 22.267 tỉ USD, làm cho thương mại thực sự trở
thành động lực chủ yếu thúc đẩy sự phát triển và tăng trưởng của nền kinh tế
thế giới. Biểu đồ sau đây cho thấy mức tăng trưởng GDP và xuất khẩu hàng
hóa thế giới trong 10 năm sau khi WTO ra đời.
Thông qua quá trình tồn cầu hóa, mức độ phụ thuộc lẫn nhau giữa các
quốc gia cũng như người dân trên thế giới ngày càng gia tăng. Sự phụ thuộc
lẫn nhau không chỉ diễn ra trên phương diện kinh tế – thương mại, mà cịn
xuất hiện ở những vấn đề khác như tình trạng ấm lên toàn cầu của trái đất, hay
9
các làn sóng tội phạm và chủ nghĩa khủng bố xuyên quốc gia… Những vấn đề
này đòi hỏi các quốc gia cần phải thúc đẩy hợp tác sâu rộng hơn bởi lẽ trong
bối cảnh tồn cầu hóa, khơng một quốc gia nào có thể tránh được những tác
động này, và càng khơng thể một mình giải quyết được những vấn đề đó.
Thứ tư, dường như tồn cầu hóa đang làm giảm dần các khác biệt về
mặt văn hóa. Những bộ phim Hollywood giúp phổ biến các giá trị văn hóa đại
chúng của Mỹ ra khắp thế giới. Thói quen tiêu dùng và sinh hoạt của người
dân ở các quốc gia cũng dần bị biến đổi theo hướng đồng nhất. Tương tự,
thông qua âm nhạc và điện ảnh, người dân thế giới ngày càng biết tới nhiều
hơn các giá trị văn hóa, ngơn ngữ, phong tục tập q… của các quốc gia như
Hàn Quốc hay Trung Quốc. Một mặt quá trình tồn cầu hóa về văn hóa này
tạo nên sự hiểu biết lẫn nhau lớn hơn giữa người dân thuộc nhiều quốc gia,
nhiều nền văn hóa khác nhau. Mặt khác, trong một số trường hợp nó cũng tạo
nên những phản ứng tiêu cực, như sự va chạm giữa các giá trị văn hóa đối lập,
hay sự phản kháng đối với những giá trị văn hóa phương Tây, đặc biệt là ở
các quốc gia Hồi giáo. Tương tự, tồn cầu hóa cũng đe dọa làm lu mờ bản sắc
văn hóa của các quốc gia, vốn là những giá trị cần được duy trì nhằm bảo vệ
sự đa dạng của nền văn hóa thế giới.
2.3. Thời cơ và thách thức đối với quá trình tồn cầu hóa hiên nay
2.3.1.Những thời cơ
- Phát huy được lợi thế so sánh để phát triển
Lợi thế so sánh ln biến đổi phụ thuộc vào trình độ phát triển của mỗi
nước. Nước nào có nền kinh tế càng kém phát triển thì lợi thế so sánh càng
suy giảm. Đa số các nước đang phát triển chỉ có lợi thế so sánh bậc thấp
như lao động rẻ, tài nguyên, thị trường.... Đó là một thách thức lớn đối với
các nước đang phát triển. Nhưng tồn cầu hóa cũng mang lại cho các nước
đang phát triển những cơ hội lớn mới, nếu biết vận dụng sáng tạo để thực
hiện được mơ hình phát triển rút ngắn. Chẳng hạn, bằng lợi thế vốn có về
tài nguyên, lao động, thị trường, các ngành công nghiệp nhẹ, du lịch, dịch
10
vụ.... các nước đang phát triển có thể tham gia vào tầng thấp và trung bình
của sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế toàn cầu với cơ cấu kinh tế có các ngành
sử dụng nhiều lao động, nhiều nguyên liệu, cần ít vốn đầu tư, cơng nghệ
trung bình tiên tiến tạo ra những hàng hố - dịch vụ khơng thể thiếu trong
cơ cấu hàng hoá - dịch vụ trên thị trường thế giới. Để làm được việc đó các
nước đang phát triển có cơ hội tiếp nhận được các dịng vốn quốc tế, các
dịng kỹ thuật - cơng nghệ mới và kỹ năng quản lý hiện đại. Nhưng cơ hội
đặt ra như nhau đối với các nước đang phát triển, song nước nào biết tận
dụng nắm bắt được chúng thì phát triển. Điều đó phụ thuộc vào nhân tố chủ
quan, vào nội lực của mỗi nước.
Việc phát huy tối đa lợi thế so sánh trong q trình tồn cầu hóa của các
nước đang phát triển là nhằm tận dụng tự do hoá thương mại, thu hút đầu tư
để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, phát triển xã hội. Tỷ trọng mậu dịch thế giới
trong tổng kim ngạch mậu dịch thế giới của các nước ĐPT ngày một tăng
(1985: 23%, 1997: 30%). Các nước đang phát triển cũng ngày càng đa dạng
hoá, đa phương hoá trong quan hệ kinh tế quốc tế, tỷ trọng hàng công nghiệp
trong cơ cấu hàng xuất khẩu ngày càng tăng (1985: 47%, 1998: 70%) và các
nước đang phát triển đang nắm giữ khoảng 25% lượng hàng cơng nghiệp xuất
khẩu trên tồn thế giới.
- Tăng nguồn vốn đầu tư
Kinh tế tồn cầu hóa biểu hiện nổi bật ở dịng ln chuyển vốn tồn
cầu. Điều đó tạo cơ hội cho các nước đang phát triền có thể thu hút được
nguồn vốn bên ngoài cho phát triển trong nước, nếu nước đó có cơ chế thu hút
thích hợp. Thiết lập một cơ cấu kinh tế và cơ cấu đầu tư nội địa hợp lý là cơ
sở để định hướng thu hút đầu tư nước ngoài. Các nhà đầu tư nước ngồi tìm
kiếm các ưu đãi từ những điều kiện và môi trường đầu tư bên trong để thúc
đẩy chương trình đầu tư của họ. Các nước đang phát triển đã thu hút và sử
dụng một lượng khá lớn vốn nước ngồi cùng với nguồn vốn đó, vốn trong
nước cũng được huy động.
11
Tồn cầu hóa đã tạo ra sự biến đổi và gia tăng cả về lượng và chất dòng
luân chuyển vốn vào các nước đang phát triển, nhất là trong khi các nước
ĐPT đang gặp rất nhiều khó khăn về vốn đầu tư cho phát triển.
- Nâng cao trình độ kỹ thuật - cơng nghệ
Trước xu thế tồn cầu hóa các nước đang phát triển tuỳ theo vị thế, điều
kiện lịch sử cụ thể và trình độ phát triển của mình đều có cách thức riêng phát
triển theo con đường rút ngắn. Hai trong số nhiều con đường phát triển
là: Thứ nhất, du nhập kỹ thuật - công nghệ trung gian từ các nước phát triển
để xây dựng những ngành công nghiệp của mình như là một bộ phận hợp
thành trong tầng công nghiệp hiện đại. Tuỳ thuộc vào khả năng vốn, trí tuệ...
mà các nước đang phát triển lựa chọn một hoặc cùng lúc cả hai con đường
phát triển nói trên. Tồn cầu hóa cho phép các nước đang phát triển có điều
kiện tiếp nhận các dịng kỹ thuật - công nghệ tiên tiến, hiện đại từ các nước
phát triển để nâng cao trình độ kỹ thuật - cơng nghệ của mình. Nhưng điều đó
cịn phụ thuộc vào khả năng của từng nước biết tìm ra chiến lược cơng nghiệp
hố rút ngắn thích hợp.
- Thay đổi được cơ cấu kinh tế theo hướng tích cực
Tồn cầu hóa địi hỏi nền kinh tế của các quốc gia, trong đó có các
nước đang phát triển phải tổ chức lại với cơ cấu hợp lý. Kinh tế thế giới đang
chuyển mạnh từ nền kinh tế công nghiệp sang nền kinh tế tri thức. Nhưng ở
các nước phát triển những ngành có hàm lượng chất xám, hàm lượng công
nghệ cao, hàm lượng vốn lớn... đang chiếm ưu thế, còn ở những nước đang
phát triển chỉ có thể đảm nhận những ngành có hàm lượng cao về lao động,
nguyên liệu và hàm lượng thấp về công nghệ, vốn. Tuy nhiên, nếu nước đang
phát triển nào chủ động, biết tranh thủ cơ hội, tìm ra được con đường phát
triển rút ngắn thích hợp, thì có thể vẫn sớm có được nền kinh tế tri thức. Điều
đó địi hỏi một sự nỗ lực rất lớn. Q trình TCH sẽ dẫn đến tốc độ biến đổi
cao và nhanh chóng của nền kinh tế tồn cầu, điều đó buộc nền kinh tế mỗi
nước, muốn phát triển, khơng cịn con đường nào khác là phải hoà nhập vào
12
quỹ đạo vận động chung của nền kinh tế thế giới. Nền kinh tế nào bắt kịp
dòng vận động chung thì phát triển, khơng thì dễ bị tổn thương và bất định.
- Mở rộng kinh tế đối ngoại
Tồn cầu hóa làm cho q trình quốc tế hố đời sống kinh tế trở thành
xu hướng tất yếu và diễn ra hết sức mạnh mẽ do sự phát triển cao của lực
lượng sản xuất dưới tác động của cuộc cách mạng khoa học - cơng nghệ. Tồn
cầu hóa đang diễn ra với tốc độ cao, càng đòi hỏi mạnh mẽ việc mở rộng quan
hệ kinh tế đối ngoại của mỗi nền kinh tế, đặc biệt là đối với các nước. Và chỉ
bằng cách đó mới có thể khai thác có hiệu quả nguồn lực quốc tế. Đồng thời,
Tồn cầu hóa, q trình quốc tế hoá đời sống kinh tế càng đẩy mạnh thì càng
tạo ra những cơ hội và thách thức mới mà chỉ có sự phối hợp quốc tế, mở
rộng kinh tế đối ngoại thì mới có thể tranh thủ được những cơ hội, vượt qua
được những thách thức. Thực tế lịch sử cũng đã khẳng định rằng: ngày nay
không một quốc gia nào có thể phát triển được nếu khơng thiết lập quan hệ
kinh tế với các nước khác, và do vậy không một quốc gia nào, kể cả các nước
đang phát triển, lại không thực hiện việc mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại.
Trong hoàn cảnh quốc tế hố đời sống kinh tế ngày càng sâu rộng, q
trình tồn cầu hóa được thúc đẩy mạnh mẽ, các quan hệ kinh tế đối ngoại trở
thành một nhân tố không thể thiếu để thực hiện tái sản xuất mở rộng ở mỗi
nước, nhất là những nước đang phát triển.
- Cơ sở hạ tầng được tăng cường
Q trình tồn cầu hóa đã tạo ra cơ hội để nhiều nước đang phát triển
hệ thống cơ sở hạ tầng về giao thông vận tải, về bưu chính viễn thơng, về
điện, nước... đặc biệt ở các nước đang phát triển mức thu nhập tính theo đầu
người rất thấp, do đó tích luỹ cũng vơ cùng thấp vì phần lớn thu nhập dùng
vào sinh hoạt. Trong khi đó các nước đang phát triển lại rất cần những lượng
vốn lớn để xây dựng kết cấu hạ tầng và xây dựng những cơng trình thiết yếu
nhằm phát triển kinh tế. Bởi vậy, xuất hiện khoảng cách lớn giữa nhu cầu đầu
tư và tích luỹ vốn. Cho nên các nước đang phát triển muốn tăng cường xây
13
dựng cơ sở hạ tầng thì phải biết tạo mơi trường thuận lợi để thu hút vốn đầu
tư nước ngoài. Chỉ có thơng qua các quan hệ kinh tế đối ngoại mới có thể cải
tạo, đổi mới và nâng cao trình độ cơng nghệ của các cơ sở sản xuất hiện có;
cải tiến, hiện đại hố cơng nghệ truyền thống; xây dựng những hướng cơng
nghệ hiện đại... Nhờ đó mà xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật, cơ sở hạ tầng
cho nền kinh tế.
- Học tập kinh nghiệm quản lý tiên tiến
Các nước có nền kinh tế phát triển thường có phương thức, cách thức
quản lý nền kinh tế tiên tiến với những công cụ quản lý hiện đại. Thông qua
các quan hệ hợp tác kinh tế quốc tế các nước ĐPT học tập những kinh nghiệm
quản lý tiên tiến hiện đại của các nước phát triển. Học tập trực tiếp qua các dự
án đầu tư, qua các Xí nghiệp, Cơng ty liên doanh...., qua việc đàm phán ký kết
các hợp đồng kinh tế...
2.3.2. Những thách thức đặt ra trong q trình tồn cầu hóa
- Tăng trưởng kinh tế không bền vững do phụ thuộc vào xuất khẩu
Nền kinh tế các nước đang cơ cấu lại theo chiến lược kinh tế thị trường
mở, hội nhập quốc tế. Nhưng trong q trình đó, tốc độ tăng trưởng kinh tế
của nhiều nước đang phát triển phụ thuộc phần lớn vào xuất khẩu. Mà xuất
khẩu lại phụ thuộc vào sự ổn định của thị trường thế giới, vào giá cả quốc tế,
vào lợi ích của các nước nhập khẩu, vào độ mở cửa thị trường của các nước
phát triển... do vậy, mà chứa đựng nhiều yếu tố bất ổn, khó lường trước.
- Lợi thế của các nước đang phát triển đang bị yếu dần
Nền kinh tế thế giới đang chuyển mạnh từ nền kinh tế công nghiệp sang
nền kinh tế tri thức. Do vậy mà những yếu tố được coi là lợi thế của các nước
đang phát triển như tài nguyên, lực lượng lao động dồi dào, chi phí lao động
thấp... sẽ yếu dần đi, còn ưu thế về kỹ thuật - cơng nghệ cao, về sản phẩm sở
hữu trí tuệ, về vốn lớn... lại đang là ưu thế mạnh của các nước phát triển. Ba
dịng ln chuyển tồn cầu là kỹ thuật - công nghệ, thông tin và vốn đang trở
thành động lực thúc đẩy tồn cầu hóa. Trong q trình đó, lợi thế so sánh của
14
các nước cũng biến đổi căn bản: trên phạm vi toàn cầu lợi thế đang nghiêng
về các nước phát triển vì ở đó dang có ưu thế về trí tuệ, hàm lượng công nghệ
cao và vốn lớn. Các nước đang phát triển đang bị giảm dần ưu thế do lợi thế
về lao động rẻ, tài nguyên phong phú... đang bị suy yếu. Và các nước càng
kém phát triển thì càng phải chịu nhiều thua thiệt và rủi ro do sự suy giảm về
lợi thế so sánh gây ra. Đó là thách thức cho các nước đi sau. Tồn cầu hóa
trong khi làm tăng vai trị của các ngành cơng nghiệp, dịch vụ, nhất là những
ngành có cơng nghệ cao, lao động kỹ năng... thì sẽ giảm tầm quan trọng của
các hàng hố sơ chế và lao động khơng kỹ năng. Cuộc cách mạng công nghệ
sinh học, tin học, điện tử... làm giảm tầm quan trọng của các mặt hàng công
nghệ thơ. Do đó, các nước đang phát triển, trước đây được coi là giàu có,
được ưu đãi về tài nguyên thiên nhiên, thì ngày nay đang trở thành những
nước nghèo. Sự tiến bộ về khoa học - công nghệ không chỉ làm thay đổi cơ
cấu, mà còn làm thay đổi về lợi thế so sánh giữa các nước phát triển và đang
phát triển. Các ngành công nghiệp hiện đại sử dụng ngày càng ít tài ngun
thiên nhiên, do đó, tài ngun thiên nhiên khơng cịn là lợi thế lớn, khơng còn
là yếu tố cạnh tranh quan trọng. Trong nền kinh tế hiện đại, chỉ có cơng nghệ
tri thức, kỹ năng tinh xảo được coi là các nguồn lực có lợi thế so sánh cao.
như vậy, các nước đang phát triển, các nhà xuất khẩu hàng hoá sơ chế và lao
động khơng kỹ năng ngày càng bị rơi vào tình thế bất lợi. Hơn nữa, Tồn cầu
hóa buộc các nước đang phát triển hoạt động theo nguyên tắc của thị trường
toàn cầu, làm hạn chế tính hiệu quả của chính sách phát triển quốc gia của họ.
Trong nền kinh tế toàn cầu hiện nay, tầm quan trọng của nguyên liệu thô và
lao động kỹ năng thấp đang giảm dần, trong khi lao động kỹ năng và tri thức
ngày càng trở nên quan trọng. Lợi thế đang ngày càng nghiêng dần về phía
các nước phát triển.
- Nợ nần của các nước đang phát triển tăng lên
Sau một thời gian tham gia toàn cầu hóa nợ nần của nhiều nước đang
phát triển ngày càng thêm chồng chất. Khoản nợ quá lớn (trên 2200 tỷ USD)
là gánh nặng đè lên nền kinh tế của các nước ĐPT, nó là lực cản kéo lùi tốc độ
15
tăng trưởng kinh tế của các nước này. Theo báo cáo của WB về tình hình tài
chính tồn cầu năm 1999, tỷ lệ nợ nước ngoài so với GNP của Braxin là 24%,
Mêhicô là 38%, Inđônêxia là 65%, Philippin là 51%... Những khoản nợ quá
lớn đang làm cho nền kinh tế một số nước ĐPT ngày càng phụ thuộc vào nền
kinh tế các nước chủ nợ, mà chủ yếu là các nước tư bản phát triển. Có những
nước khoản vay mới không đủ dể trả lời những khoản vay cũ. Điều đó càng
làm cho nền kinh tế một số nước ĐPT lâm vào bế tắc, khơng có đường ra, dẫn
đến vỡ nợ, phá sản. TCH như cỗ xe khổng lồ nghiền nát nền kinh tế một số
nước bị vỡ nợ.
- Sức cạnh tranh của nền kinh tế yếu kém
Toàn cầu hóa đã làm cho vấn đề cạnh tranh tồn cầu trở nên ngày càng
quyết liệt. Xuất phát điểm và sức mạnh của mỗi quốc gia khác nhau, nên cơ
hội và rủi ro của các nước là không ngang nhau. Nền kinh tế của các nước
ĐPT dễ bị thua thiệt nhiều hơn trong cuộc cạnh tranh không ngang sức này.
Càng phải phá bỏ hàng rào bảo hộ thì thách thức đối với các nước đang phát
triển càng lớn. Chính sự yếu kém về kỹ thuật, công nghệ, vốn, kỹ năng tổ
chức nền kinh tế của các nước đang phát triển sẽ làm cho chênh lệch về trình
độ phát triển giữa các nước ĐPT với các nước phát triển sẽ ngày càng cách xa
hơn. Từ đó cho thấy rằng: việc áp dụng ngun tắc cạnh tranh bình đẳng cho
các nước có trình độ kinh tế khác xa nhau thực chất là một sự bất bình đẳng.
Trên một sân chơi ngang bằng, cạnh tranh ‘’bình đẳng’’ những nền kinh tế lớn
mạnh, những cơng ty có sức mạnh nhất định sẽ chiến thắng những nền kinh tế
cịn kém phát triển, những cơng ty cịn nhỏ yếu. Tính chất bất bình đẳng trong
cạnh tranh quốc tế hiện nay đang đem lại những thua thiệt cho các nước đang
phát triển.
- Mở rộng lãnh thổ, tăng thêm dân số.
Trước khi CHXH ở Liên Xô và Đông Âu (cũ) tan rã, các nước ĐPT
trên thế giới là 163/191 quốc gia và khu vực. Hiện nay con số này là 180/210.
Bởi lẽ các nước Liên Xô và Đông Âu là 9 nước, nay đã chia tách thành 28
16
nước. Điều đó làm cho dân số ở các nước ĐPT hiện nay tăng thêm khoảng
hơn 400 triệu, đất đai tăng thêm hơn 25 triệu km2.
- Phân hoá giàu nghèo giữa hai nhóm nước: phát triển và đang
phát triển tăng lên
Q trình tồn cầu hóa là q trình làm tăng thêm sự phân hố giàu
nghèo giữa hai nhóm nước: phát triển và đang phát triển. Hiện nay các nước
phát triển đang nắm giữ 3/4 sức sản xuất của toàn thế giới, 3/4 phân ngạch
mậu dịch quốc tế, là nơi đầu tư và thu hút chủ yếu các luồng vốn FDI (năm
1999 trong 827 tỷ USD tổng vốn FDI của thế giới, các nước phát triển chiếm
609 tỷ USD, riêng EU gần 300 tỷ USD, Mỹ gần 200 tỷ USD). Các Công ty
xuyên quốc gia lớn nhất thế giới cũng chủ yếu nằm ở các nước phát triển. Các
nước này cũng nắm giữ hầu hết các công nghệ hiện đại nhất, các phát minh,
sáng chế, bí quyết và các sản phẩm chất xám khác. Đây cũng là nơi liên tục
thu hút được "chất xám" của toàn thế giới. Ngoài ra các thiết chế kinh tế, tài
chính, tiền tệ, thương mại quốc tế như WTO. IMF, WB... đều nằm dưới sự chi
phối của các nước phát triển, đứng đầu là Mỹ. Với những sức mạnh kinh tế to
lớn như vậy, các nước phát triển đang chi phối nền kinh tế toàn cầu. Cịn các
nước ĐPT thì nền kinh tế chưa đủ sức để chống đỡ được vịng xốy của cạnh
tranh trong nền kinh tế thế giới. Do vậy mà các nước ĐPT ngày càng bị nghèo
đi so với tốc độ giàu nhanh của các nước phát triển. Năm 1998, 24 quốc gia
phát triển chiếm khoảng 17% dân số thế giới thì chiếm tới 79% giá trị tổng
sản lượng kinh tế quốc dân tồn thế giới; cịn các nước ĐPT chiếm 83% dân
số thế giới thì chỉ chiếm 21% giá trị tổng sản lượng kinh tế quốc dân toàn thế
giới; 20% số dân thế giới sống ở những nước thu nhập cao tiêu dùng 86% số
hàng hố của tồn thế giới. 20% số dân nghèo nhất thế giới năm 1998 chỉ
chiếm 1,1% thu nhập tồn thế giới, tỷ lệ đó năm 1991 là 1,4%, năm 1996 là
2,3%. Hiện nay, tài sản của 10 tỷ phú hàng đầu thế giới đã đạt 133 tỷ USD
tương đương với 1,5 lần thu nhập quốc dân của tất cả các nước ĐPT.
- Môi trường sinh thái ngày càng xấu đi
17
Việc chuyển dịch những ngành đòi hỏi nhiều hàm lượng lao động, tài
nguyên... nhiều những ngành công nghiệp gây ô nhiễm môi trường sang các
nước ĐPT; việc các nhà tư bản nước ngoài đầu tư vào các nước ĐPT ngày
càng trở nên xấu đi nhanh chóng. Hơn nữa, trong quá trình TCH sự phát triển
của các nước phát triển khơng chỉ dựa vào tài nguyên giá rẻ, sức lao động rẻ,
thị trường giá rẻ, hàng hoá và dịch vụ rẻ; mà cịn dựa vào đầu độc mơi trường
sinh thái ở các nước ĐPT. 2/3 rừng của thế giới đang bị phá huỷ và đang mất
đi với tốc độ mỗi năm 16 triệu ha. Lượng gỗ dùng cho sản xuất giấy (gần như
toàn bộ lấy từ các nước ĐPT) thập kỷ 90 gấp đôi thập kỷ 50, mà tiêu dùng chế
phẩm giấy của Mỹ, Nhật Bản, Châu Âu chiếm 2/3 thế giới. Tồn thế giới mỗi
năm có 2,7 triệu người chết vì khơng khí bị ơ nhiễm, thì 90% số người đó là ở
các nước ĐPT. Ngồi ra, mỗi năm cịn có khoảng 25 triệu người bị trúng độc
vì thuốc trừ sâu, 5 triệu người bị chết vì nhiễm bệnh do nước bị nhiễm bẩn...
18
CHƯƠNG 3
Ý NGHĨA CỦA VIỆC NGHIÊN CỨU VỚI QUÁ TRÌNH NHẬN THỨC
VÀ THỰC HIỆN HỘI NHẬP QUỐC TẾ Ở VIỆT NAM
3.1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về hợp tác và hội nhập quốc tế
Trong khi tàng di sản của người để lại, một trong những tư tưởng cao
quý mà Bác đã để lại cho dân tộc ta là về hợp tác và hội nhập quốc tế
Thứ nhất, hợp tác quốc tế là xu thế tất yếu của thời đại, phá bỏ sự biệt
lập, mở đường cho sự phát triển, liên kết các dân tộc trong cuộc đấu tranh vì
độc lập, tự do và tiến bộ xã hội
Thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 đã mở đầu cho
một thời đại mới - thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội
trên phạm vi toàn thế giới. Thời đại mới đã chấm dứt sự tồn tại biệt lập giữa
các quốc gia, mở ra mối quan hệ ngày càng rộng lớn giữa các dân tộc. Trong
quá trình tìm đường cứu nước, Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh đã nhanh
chóng nắm bắt được đặc điểm của thời đại. Ngay từ những năm 20 của thế kỷ
XX, Người đã tổng kết, khái quát những nhận xét đầu tiên của mình bằng
những luận điểm về nhu cầu, khả năng, điều kiện hợp tác giữa các dân tộc.
Điểm nổi bật trong tư tưởng của Người lúc bấy giờ là sự hợp tác, đoàn kết
giữa các dân tộc nhỏ yếu, lạc hậu, bị áp bức tạo nên sức mạnh chống đế quốc,
thực dân, đặc biệt là chống lại chính sách “chia để trị”. Người cho rằng: “Thời
đại của chủ nghĩa tư bản lũng đoạn cũng là thời đại một nhóm nước lớn do
bọn tư bản tài chính cầm đầu thống trị các nước phụ thuộc và nửa phụ thuộc,
bởi vậy cơng cuộc giải phóng các nước và các dân tộc bị áp bức là một bộ
phận khăng khít của cách mạng vơ sản. Do đó mà trước hết nảy ra khả năng
và sự cần thiết phải có liên minh chiến đấu chặt chẽ giữa các dân tộc thuộc địa
với giai cấp vô sản của các nước đế quốc để thắng kẻ thù chung”.
Sau khi nắm bắt được đặc điểm của thời đại mới, Hồ Chí Minh đã hoạt
động tích cực để gắn cách mạng Việt Nam với cách mạng thế giới. Khi chủ
19
nghĩa thực dân đế quốc đã trở thành hệ thống thế giới, Người đã chỉ ra quyết
sách: “Chúng ta cách mệnh thì cũng phải liên lạc tất cả những đảng cách
mệnh trong thế giới để chống lại tư bản và đế quốc chủ nghĩa”. Người còn chỉ
thị: “…trong khi tuyên truyền cái khẩu hiệu nước An Nam độc lập, phải đồng
thời tuyên truyền và thực hành liên lạc với bị áp bức dân tộc và vô sản giai
cấp thế giới, nhất là vô sản giai cấp Pháp”. Tuy nhiên, khi gắn cách mạng giải
phóng dân tộc thuộc địa trong đó có Việt Nam với cách mạng vơ sản thế giới,
Hồ Chí Minh vẫn nhấn mạnh những đặc điểm riêng về lịch sử - xã hội, chính
trị, kinh tế của mỗi dân tộc; những đặc điểm riêng giữa phương Đông và
phương Tây để vạch ra chiến lược đấu tranh cho phù hợp. Mặt khác, khi chủ
trương hợp tác vững bền, lâu dài, Người khơng chỉ xuất phát từ những mục
đích chính trị - xã hội của thời đại - độc lập dân tộc, tiến bộ xã hội, mà cịn vì
sự phát triển nhanh chóng của lực lượng sản xuất thế giới. Trong tư tưởng Hồ
Chí Minh, hợp tác quốc tế là để xóa bỏ nghèo nàn, lạc hậu, tiến kịp các nước
trên thế giới và sâu xa là đặt chiến lược phát triển đất nước gắn liền với những
chuyển biến mang tính thời đại.
Ngay từ những thập niên đầu của thế kỷ XX, Hồ Chí Minh đã nhận rõ
một quốc gia, dân tộc muốn có sức mạnh phải thốt ra khỏi tình trạng biệt lập,
phải mở cửa, tăng cường hợp tác với bên ngồi; tình trạng bế quan tỏa cảng
chỉ làm đất nước suy yếu và đưa đến những hậu quả chính trị nghiêm trọng.
Năm 1924, trong thư gửi đồng chí Pê-tơ-rốp, Tổng Thư ký Ban Phương Đông
Quốc tế Cộng sản, Người viết: “Nguyên nhân đầu tiên đã gây ra sự suy yếu
của dân tộc ở phương Đơng đó là sự biệt lập. Không giống như các dân tộc
phương Tây, các dân tộc phương Đơng khơng có những quan hệ và tiếp xúc
giữa các lục địa với nhau. Họ hoàn toàn khơng biết gì đến những việc xảy ra ở
các nước láng giềng gần gũi nhất của họ, do đó họ thiếu sự tin cậy lẫn nhau,
sự phối hợp hành động và sự cổ vũ lẫn nhau”. Từ quan điểm cơ bản này,
Người nêu tư tưởng hợp tác quốc tế về kinh tế gắn với những vấn đề chính trị
- xã hội. Người cho rằng, ngoại giao và kinh tế có quan hệ và ảnh hưởng lẫn
20
nhau, đó là một điều kiện quan trọng để bảo đảm thắng lợi của công cuộc kiến
thiết đất nước. Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, mở cửa kinh tế đối với Việt Nam
vừa là nhu cầu, vừa là điều kiện quan trọng để phát triển và đưa đất nước đi
lên. Người chủ trương “chuộc lại dần dần” những cơ sở người Pháp đã bỏ vốn
ra gây dựng ở nước ta từ trước đến giờ, “nếu xét ra cần thiết cho nền kinh tế
quốc gia Việt Nam”, “hoan nghênh những người Pháp đem tư bản vào xứ ta
khai thác những nguồn nguyên liệu chưa có ai khai thác”, “mời những nhà
chuyên môn Pháp, cũng như Mỹ, Nga hay Tàu giúp việc cho chúng ta trong
cuộc kiến thiết quốc gia”, nhằm khuyến khích các đối tác nước ngồi hợp tác
trên những lĩnh vực mà chúng ta cịn yếu, chưa có điều kiện khai thác, góp
phần thúc đẩy tăng trưởng cho nền kinh tế Việt Nam.
Thứ hai, mở rộng hợp tác quốc tế một cách toàn diện với các quốc gia,
dân tộc, đặc biệt với các nước láng giềng và trong khu vực
Trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng sôi nổi, nhiệt huyết của
mình, Hồ Chí Minh ln chăm lo xây dựng, vun đắp cho tình hữu nghị, hợp
tác và đồn kết giữa nhân dân các nước theo tinh thần “bốn phương vơ sản
đều là anh em”, qua đó tạo nên sức mạnh to lớn cho sự nghiệp cách mạng của
dân tộc. Người đặc biệt coi trọng việc mở rộng hợp tác về kinh tế, văn hóa,
khoa học - kỹ thuật với tất cả các nước để tăng thêm sự hiểu biết và tình hữu
nghị giữa các dân tộc. Ngay sau khi nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa được
thành lập, trong bối cảnh thù trong giặc ngoài câu kết với nhau chống phá
cách mạng, Hồ Chí Minh vẫn trước sau như một tỏ rõ thiện chí Việt Nam sẵn
sàng quan hệ ngoại giao và thương mại với tất cả các nước trên thế giới.
Hồ Chí Minh nhiều lần gửi thư cho Tổng thống, Bộ trưởng Ngoại giao
Mỹ, mong muốn có quan hệ tốt giữa hai nước và cùng nhau góp phần giải
quyết hợp lý, công bằng nền độc lập của Việt Nam. Ngày 01-11-1945, nhân
danh Hội Văn hóa Việt Nam, Người đã gửi thư cho Bộ trưởng Ngoại giao Mỹ,
đề nghị “gửi một phái đoàn khoảng 50 thanh niên Việt Nam sang Mỹ với với
ý định, một mặt thiết lập những mối quan hệ văn hóa thân thiết với thanh niên
21
Mỹ, và mặt khác để xúc tiến việc tiếp tục nghiên cứu về kỹ thuật, nông nghiệp
cũng như các lĩnh vực chun mơn khác”.
Hồ Chí Minh đã nhiều lần tun bố: “Chính sách ngoại giao của Chính
phủ thì chỉ có một điều tức là thân thiện với tất cả các nước dân chủ trên thế
giới để giữ gìn hịa bình”. Người không chỉ coi trọng mở rộng hợp tác quốc tế
với các nước dân chủ, các nước xã hội chủ nghĩa, mà còn chú trọng hợp tác
quốc tế với nhiều nước khác. Ngay đối với nước Pháp, mặc dù Chính phủ
Pháp đang tiến hành cuộc chiến tranh chống lại độc lập, tự do của nhân dân
Việt Nam, song Hồ Chí Minh vẫn bày tỏ thiện chí và thực lịng muốn hợp tác
với nước Pháp, với những người Pháp chân chính, u chuộng hịa bình. Hơn
ai hết, Hồ Chí Minh đã nhìn thấy sự cần thiết phải nhanh chóng kết thúc chiến
tranh, chuyển từ đối đầu sang đối thoại, hợp tác cùng có lợi về mọi mặt. Người
đã tuyên bố: “Việt Nam sẵn sàng cộng tác thân thiện với nhân dân Pháp.
Những người Pháp tư bản hay công nhân, thương gia hay trí thức, nếu họ muốn
thật thà cộng tác với Việt Nam thì sẽ được nhân dân Việt Nam hoan nghênh
như bầu bạn”. Trong lời kêu gọi gửi tới Liên hợp quốc năm 1946, Hồ Chí Minh
nêu rõ: “Nước Việt Nam dành sự tiếp nhận thuận lợi cho đầu tư của các nhà tư
bản, nhà kỹ thuật nước ngoài trong tất cả các ngành kỹ nghệ của mình. Nước
Việt Nam sẵn sàng mở rộng các cảng, sân bay và đường xá giao thông cho việc
buôn bán và quá cảnh quốc tế. Nước Việt Nam chấp nhận tham gia mọi tổ chức
hợp tác kinh tế quốc tế dưới sự lãnh đạo của Liên hợp quốc”.
Trong mối quan hệ rộng mở với các nước, các lực lượng dân chủ tiến bộ
thế giới, Hồ Chí Minh chủ trương gắn cuộc đấu tranh vì độc lập ở Việt Nam
với mục tiêu bảo vệ hòa bình, tự do, cơng lý và bình đẳng. Hồ Chí Minh đã
khơi gợi lương tri của loài người tiến bộ, tạo nên những tiếng nói ủng hộ mạnh
mẽ từ các tổ chức quần chúng, các nhân sĩ trí thức và từng con người cụ thể.
Đối với Trung Quốc - một nước lớn có quan hệ lâu đời với Việt Nam,
phát huy truyền thống hịa hiếu của cha ơng, Hồ Chí Minh chủ động xây đắp
nên mối quan hệ “vừa là đồng chí vừa là anh em”. Ngay từ những năm 1940,
22
Người đã khẳng định: “Trung - Việt khác nào môi với răng. Mơi hở thì răng
buốt, cứu Trung Quốc là tự cứu mình” và “Liên Hoa”, “liên hệ mật thiết với
Trung Quốc” là một trong những điều kiện quan trọng của phong trào giải
phóng dân tộc Việt Nam.
Với các nước Đơng Dương, Người chú ý xây dựng tình hữu nghị, hợp
tác toàn diện, đoàn kết keo sơn trên cơ sở của những người cùng cảnh ngộ,
cùng chung kẻ thù, cùng khát vọng độc lập tự do. Mối quan hệ về chính trị,
kinh tế và quân sự giữa Việt Nam, Lào và Cam-pu-chia trở nên khăng khít từ
khi Đảng Cộng sản Đông Dương ra đời, nắm sứ mệnh lãnh đạo công cuộc
giải phóng trong cả xứ Đơng Dương thuộc địa. Ngay sau khi Việt Nam tuyên
bố độc lập, Hồ Chí Minh đã tích cực xúc tiến việc hình thành liên minh chiến
đấu giữa ba nước Việt Nam, Lào và Cam-pu-chia. Tình đồn kết quốc tế cao
cả, trong sáng và vơ tư đó xuất phát từ nhu cầu khách quan góp sức cùng nhau
đánh bại kẻ thù chung để bảo vệ sự tồn tại và phát triển của mỗi dân tộc.
Mở rộng ra các nước khác, Người chăm lo củng cố mối quan hệ đoàn
kết hữu nghị, hợp tác nhiều mặt với các dân tộc châu Á và châu Phi đang đấu
tranh giành độc lập. Với các nước khu vực Đông Nam Á, Hồ Chí Minh ln
quan tâm xây dựng tình hữu nghị hợp tác từ những ngày còn dưới ách thống
trị của bọn thực dân. Bằng những hoạt động ngoại giao khơng mệt mỏi,
Người đã góp phần nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế, trong
phe xã hội chủ nghĩa cũng như trong các nước thuộc thế giới thứ ba, đồng
thời tăng cường hữu nghị, hợp tác giữa các nước, các dân tộc.
Thứ ba, hợp tác quốc tế trên cơ sở giữ vững độc lập chủ quyền, bình
đẳng cùng có lợi; phát huy sức mạnh nội lực kết hợp sức mạnh thời đại, đồng
thời không quên nghĩa vụ quốc tế
Trong hợp tác quốc tế, Hồ Chí Minh khơng chủ trương đối thoại, hợp
tác với bên ngoài, với các nước bằng mọi giá, mà phải trên cơ sở giữ vững
độc lập chủ quyền, bình đẳng, các bên cùng có lợi. Theo Người, bất kỳ nước
nào muốn hợp tác với Việt Nam, muốn đem tư bản đến kinh doanh ở Việt
23
Nam với mục đích làm lợi cho cả hai bên thì sẽ được Việt Nam hoan nghênh.
Ngược lại, bất kỳ nước nào mong muốn đưa tư bản đến để ràng buộc, áp đặt
thì Việt Nam sẽ kiên quyết cự tuyệt. Hồ Chí Minh ln khẳng định độc lập,
chủ quyền, bình đẳng là nền tảng trong mọi quan hệ hợp tác quốc tế. Người
chỉ rõ: “Trên nguyên tắc bình đẳng và hai bên cùng có lợi, chúng tơi sẵn sàng
đặt quan hệ ngoại giao và thương mại với tất cả các nước” Ngay khi mới
giành được chính quyền, Người sẵn sàng mời những nhà chuyên môn Pháp,
Mỹ, Nga… đến giúp ta kiến thiết đất nước. Nhưng điều kiện chính vẫn là họ
phải thừa nhận quyền độc lập của nước ta. Theo Người, “nếu khơng vậy, thì
khơng thể nói chuyện gì được cả”
Hồ Chí Minh cũng cho rằng, trong điều kiện phát triển mạnh mẽ của
khoa học công nghệ và hội nhập quốc tế, độc lập chủ quyền của mỗi quốc gia
không tách rời với hợp tác kinh tế quốc tế, không cản trở quan hệ kinh tế quốc
tế. Độc lập chủ quyền là tiền đề, là cơ sở khẳng định quyền tự chủ, tự quyết
trong hoạch định chiến lược phát triển kinh tế, lựa chọn hình thức và đối tác
đầu tư… Hợp tác quốc tế để tranh thủ nguồn vốn, khoa học công nghệ, thị
trường nhằm phát triển kinh tế, phát huy sức mạnh nội lực, tăng cường sự
hiểu biết lẫn nhau, vì lợi ích chung mỗi nước, mỗi dân tộc.
Trong hợp tác quốc tế, Hồ Chí Minh quan tâm phát huy sức mạnh dân
tộc, coi đó là nguồn lực nội sinh giữ vai trò quyết định. Trong đấu tranh cách
mạng, Người luôn nêu cao khẩu hiệu “tự lực cánh sinh, dựa vào sức mình là
chính”. Cách mạng Việt Nam đi theo đường lối độc lập, tự chủ thì chính sách
đối ngoại, hợp tác quốc tế phải lấy sức mạnh bên trong làm điểm tựa. Bởi,
“nếu tự mình khơng có thực lực làm cơ sở thì khơng thể nói gì đến ngoại
giao”; “Muốn người ta giúp cho thì trước mình phải tự giúp lấy mình đã”
Theo Người, mỗi dân tộc phải xây dựng được lực lượng nội tại cho mình để
tạo ra thế và lực. Có thế và lực mới có điều kiện để tiếp thu sự giúp đỡ và
tranh thủ sức mạnh từ bên ngồi. Trên cơ sở đó, trong hợp tác quốc tế các dân
tộc mới giữ vững độc lập tự chủ; giữ vững định hướng chính trị của sự phát
24