Tải bản đầy đủ (.pdf) (156 trang)

Giáo trình Tổng quan du lịch và khách sạn (Nghề: Nghiệp vụ nhà hàng khách sạn - Trung cấp) - Trường CĐ Nghề Kỹ thuật Công nghệ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.87 MB, 156 trang )

BỘ LAO ĐỘNG- THƯƠNG BINH VÀ XÃ HỘI
TRƯỜNG CAO ĐẲNG NGHỀ KỸ THUẬT CƠNG NGHỆ

GIÁO TRÌNH
TỔNG QUAN DU LỊCH VÀ KHÁCH SẠN
NGHỀ : NGHIỆP VỤ NHÀ HÀNG KHÁCH SẠN
(Ban hành kèm theo Quyết định số 245/QĐ-CĐNKTCN ngày 23 tháng 10 năm 2020 của
Hiệu trưởng Trường Cao đẳng nghề Kỹ Thuật Công nghệ)

Hà Nội - Năm 2020

1


BỘ LAO ĐỘNG- THƯƠNG BINH VÀ XÃ HỘI
TRƯỜNG CAO ĐẲNG NGHỀ KỸ THUẬT CƠNG NGHỆ

GIÁO TRÌNH
MƠN HỌC : TỔNG QUAN DU LỊCH VÀ KHÁCH SẠN
NGHỀ : NGHIỆP VỤ NHÀ HÀNG KHÁCH SẠN
TRÌNH ĐỘ : TRUNG CẤP
(Ban hành kèm theo Quyết định số 212/QĐ - CĐNKTCN ngày 7 tháng 10 năm 2020 của
Hiệu trưởng Trường Cao đẳng nghề Kỹ Thuật Công nghệ)

Hà Nội - Năm 2020

2


TUYÊN BỐ BẢN QUYỀN
Tài liệu này thuộc loại sách giáo trình nên các nguồn thơng tin có thể được phép


dùng nguyên bản hoặc trích dùng cho các mục đích về đào tạo và tham khảo
Mọi mục đích khác mang tính lệch lạc hoặc sử dụng với mục đích kinh doanh thiếu
lành mạnh sẽ bị nghiêm cấm

3


LỜI GIỚI THIỆU
Trong những năm gần đây, du lịch đã trở thành một ngành kinh tế dịch vụ quan
trọng của đất nước do những đóng góp to lớn của nó. Vì vậy, Đảng và Nhà nước ta đang
tập trung đầu tư thúc đẩy hoạt động du lịch phát triển nhằm đem lại lợi nhuận cho quốc
gia. Đáp lại sự quan tâm đó, ngành du lịch Việt Nam đã khơng ngừng mở rộng thị trường,
tăng cường quảng bá, xúc tiến du lịch; tạo ra các sản phẩm, dịch vụ du lịch hấp dẫn đối
với du khách. Đặc biệt, ngành còn đẩy mạnh hoạt động đào tạo bồi dưỡng nguồn nhân lực
có trình độ và kỹ năng đáp ứng được yêu cầu phát triển của ngành trong tiến trình hội
nhập khu vực và thế giới. Trong sự nghiệp đào tạo nhân lực du lịch, các trường đã đưa ra
chương trình đào tạo nhằm cung cấp cho người học hệ thống kiến thức cơ sở ngành và
chuyên ngành cũng như kỹ năng nghề phù hợp với yêu cầu của ngành. Trong hệ thống
kiến thức về du lịch, môn Tổng quan du lịch và khách sạn được coi là môn học cung cấp
kiến thức cơ sở về du lịch và khách sạn làm tiền đề để nghiên cứu các mơn chun ngành.
Vì vậy, trong chương trình khung nghề Nghiệp vụ Nhà hàng Khách sạn, môn Tổng quan
du lịch và khách sạn đã được đưa vào giảng dạy cho học sinh. Để nâng cao hiệu quả dạy
và học, Nhà trường đồng thời cho biên soạn giáo trình mơn học này. Giáo trình Tổng
quan du lịch và khách sạn được biên soạn nhằm trang bị cho người học những vấn đề cơ
bản về du lịch, khách sạn và những kỹ năng cần thiết để ứng dựng và phát triển các kiến
thức của môn học vào trong kinh doanh du lịch. Với mục tiêu trên, giáo trình Tổng quan
du lịch và khách sạn được biên soạn làm 3 chương với các nội dung chính sau:
Chương 1. Khái quát chung về du lich và khách sạn
Chương 2. Mối quan hệ giữa du lịch và các lĩnh vực khác, các điều kiện phát triển du
lịch

Chương 3. Khách sạn
Biên soạn giáo trình Tổng quan du lịch và khách sạn là một cơng việc nghiên cứu
địi hỏi sự nỗ lực rất lớn. Tuy nhiên, do giáo trình được nghiên cứu và biên soạn lần đầu,
do sự hạn chế về thời gian và trình độ của tác giả, nên khơng thể tránh khỏi những thiếu

4


sót. Tác giả rất mong nhận được những ý kiến đóng góp của bạn đọc để tiếp tục bổ sung,
hồn thiện giáo trình.
Xin trân trọng cảm ơn!
Hà nội, ngày 10 tháng 9 năm 2020
BAN CHỦ NHIỆM XÂY DỰNG CHƯƠNG TRÌNH
NGHỀ: NGHIỆP VỤ NHÀ HÀNG KHÁCH SẠN
TRƯỜNG CAO ĐẲNG NGHỀ KỸ THUẬT CÔNG NGHỆ

5


MỤC LỤC
Chương 1: KHÁI QUÁT VỀ DU LỊCH VÀ KHÁCH SẠN
......................................................................................... ………………………10
1. Một số khái niệm cơ bản ................................................................................. 10
1.1 Khái niệm du lịch ....................................................................................... 10
1.2 Khái niệm khách du lịch ............................................................................ 13
1.3 Khái niệm điểm đến du lịch ....................................................................... 15
1.4. Khái niệm Khách sạn ................................................................................ 16
2. Các loại hình du lịch .............................................................................. …….16
2.1. Căn cứ vào môi trường tài nguyên ............................................................ 16
2.2 Căn cứ vào phạm vi lãnh thổ...................................................................... 20

2.3. Căn cứ vào mục đích chuyến đi ............................................................... 21
2.4 Căn cứ vào sự tương tác của du khách đối với nơi đến du lịch ................ 25
2.5. Căn cứ việc sử dụng phương tiện vận chuyển khách du lịch tới điểm đến
du lịch ............................................................................................................... 26
2.6 Các cách phân loại khác ............................................................................. 28
3.Nhu cầu du lịch và sản phẩm du lịch ............................................................... 30
3.1. Nhu cầu du lịch ......................................................................................... 30
3.2. Sản phẩm du lịch ....................................................................................... 36
Phân loại ........................................................................................................... 36
Đặc điểm........................................................................................................... 36
4. Thời vụ du lịch ................................................................................................ 37
4.1. Khái niệm và đặc điểm của thời vụ du lịch ............................................... 37
4.2. Các nhân tố tác động đến thời vụ du lịch .................................................. 39
4.3. Một số giải pháp khắc phục sự bất lợi của thời vụ du lịch ....................... 43
5. Một số loại hình cơ sở lu lịch tiêu biểu ........................................................... 45
5.1 Khách sạn ................................................................................................... 45
5.2 Nhà nghỉ du lịch ......................................................................................... 45
5.3 Motel .......................................................................................................... 49
5.4 Bungalow ................................................................................................... 55
5.5 Làng du lịch ................................................................................................ 59
CHƯƠNG 2. MỐI QUAN HỆ GIỮA DU LỊCH VÀ MỘT SỐ LĨNH VỰC
KHÁC, CÁC ĐIỀU KIỆN ĐỂ PHÁT TRIỂN DU LỊCH……………………..78
1.1. Mối quan hệ giữa du lịch và kinh tế ……………………………………78
1.2 Mối quan hệ giữa du lịch và văn hóa – xã hội .................... …………….79
1.3 Tác động môi trường của du lịch ........................................................ …..88
6


2.1 Điều kiện chung ........................................................................................ 93
2.2. Điều kiện về khả năng cung ứng du lịch ................................................. 101

CHƯƠNG 3. KHÁCH SẠN
1 Giới thiệu chung ........................................................................................... ..134
2.Phân loại khách sạn ........................................................................................ 139
2.1 Phân loại ................................................................................................... 139
2.2. Xếp hạng khách sạn ........................................................................... …145

7


CHƯƠNG TRÌNH MƠN HỌC
Tên mơn học: Tổng quan du lịch và khách sạn
Mã môn học: MH 07
Thời gian thực hiện môn học: 30 giờ. (Lý thuyết: 28 giờ; Thực hành; Kim tra 2 gi)

I. Vị trí, tính chất môn học:
- Tổng quan du lịch và khách sạn là môn học thuộc nhóm kiến thức cơ sở ngành
trong chương trình khung đào tạo trình độ trung cấp Kỹ thuật chế biến món ăn.
- Môn học lý thuyết cơ bản trong nghề phục vụ du lịch nói chung và nghề kỹ
thuật chế biến món ăn nói riêng. Là môn học lý thuyết, đánh giá kết thúc môn học bằng
hình thức kiểm tra hết môn.
II. Mục tiêu môn học:
Môn học nhằm cung cấp cho người học những kiến thức khái quát về hoạt động
du lịch và khách sạn. Trang bị cho người học những kiến thức có liên quan đến phục vụ
du lịch khách sạn nói chung và liên hệ với nghề nghiệp kỹ thuật chế biến món ănnói
riêng.
III. Nội dung môn học:
1. Nội dung tổng quát và phân phối thời gian:

8



Thời gian
Số
TT

I.

Tên chương mục

Khái quát về hoạt động du
lịch và khách sạn

Tổng
số


thuyết

14

13

Một số khái niệm cơ bản

Thực
hành
Bài tập

Kiểm tra *
(LT hoặc

TH)
1

1

Các loại hình du lịch
Nhu cầu du lịch và sản
phẩm du lịch

II.

Thời vụ du lịch

5

Một số loại hình cơ sở lưu
trú du lịch tiêu biểu

4

Mối quan hệ giữa du lịch
và một số lĩnh vực khác Các điều kiện để phát
triển du lịch

3
7

7

0


Mối quan hệ giữa du lịch và
một số lĩnh vực khác
2
Các điều kiện để phát
triển du lịch
5
III.

Khách sạn

9

8

Giới thiệu chung

2

Phân loại và xếp hạng khách
sạn

2

Cơ cấu tổ chức trong một
khách sạn

4

9


1


Céng

30

28

0

2

Chương 1: KHÁI QUÁT VỀ DU LỊCH VÀ KHÁCH SẠN
Mã chương: NHKS 07.01
Giới thiệu:
Trong chương 1, sẽ trang bị cho người học những kiến thức cơ bản như: Hiểu được về
khái niệm về du lịch, du khách và các khái niệm liên quan, Phân tích được các điều kiện
phát triển du lịch và liên hệ thực tế tại Việt Nam
Mục tiêu của chương:
Sau khi học xong chương này người học cần:
-

Trình bày được khái niệm về du lịch, du khách và các khái niệm liên quan

-

Hệ thống được các thời kỳ hình thành và phát triển của du lịch thế giới và Việt
Nam


-

Nắm được nguyên tắc hoạt động của một số tổ chức du lịch trên thế giới và Việt
Nam

-

Đưa ra được các lý do con người đi du lịch và cơ sở hình thành các loại hình du
lịch

-

Phân tích được các điều kiện phát triển du lịch và liên hệ thực tế tại Việt Nam

-

Có thái độ hứng thú nghiên cứu về du lịch thế giới và Việt Nam

Nội dung chính:

10


1. Một số khái niệm cơ bản
1.1 Khái niệm du lịch
Con người vốn tò mò về thế giới xung quanh, muốn có thêm hiểu biết về cảnh quan,
địa hình, hệ động thực vật và nền văn hóa của những nơi khác. Vì vậy, du lịch đã xuất
hiện và trở thành một hiện tượng khá quan trọng trong đời sống của con người. Đến nay
du lịch khơng cịn là hiện tượng riêng lẻ, đặc quyền của cá nhân hay của nhóm người nào

đó, mà du lịch đã trở thành một nhu cầu xã hội phổ biến đáp ứng mục tiêu không ngừng
nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của con người. Tuy nhiên, khái niệm du lịch có
nhiều cách hiểu do được tiếp cận bằng nhiều cách khác nhau. Sau đây là một số quan
niệm du lịch theo các cách phổ biến:
 Tiếp cận du lịch dưới góc độ nhu cầu của con người
- Du lịch là một hiện tượng: Trước thế kỷ XIX đến đầu thế kỷ XX du lịch hầu như
vẫn được coi là đặc quyền của tầng lớp giàu có, quý tộc và người ta chỉ coi đây là một
hiện tượng cá biệt trong đời sống kinh tế - xã hội. Trong thời kỳ này, người ta coi du lịch
như một hiện tượng xã hội góp phần làm phong phú thêm cuộc sống và nhận thức của con
người. Đó là hiện tượng con người rời khỏi nơi cư trú thường xuyên đến một nơi xa lạ vì
nhiều mục đích khác nhau ngoại trừ mục đích tìm kiếm việc làm (kiếm tiền) và trong thời
gian đó họ phải tiêu tiền mà họ đã kiếm được. Các giáo sư Thụy Sĩ là Hunziker và Krapf
đã khái quát: Du lịch là tổng hợp các hiện tượng và các mối quan hệ nảy sinh từ việc đi
lại và lưu trú của những người ngồi địa phương – những người khơng có mục đích định
cư và khơng liên quan tới bất cứ hoạt động kiếm tiền nào. Quan niệm này được hiệp hội
quốc tế các chuyên gia khoa học về du lịch (AIEST) thừa nhận.
Với quan niệm này, du lịch mới chỉ được giải thích ở hiện tượng đi du lịch, tuy
nhiên đây cũng là một khái niệm làm cơ sở để xác định người đi du lịch và là cơ sở hình
thành cầu về du lịch sau này.
- Du lịch là một hoạt động: Theo Mill và Morrison, du lịch là một hoạt động xảy ra
khi con người vượt qua biên giới (một nước, hai ranh giới một vùng, một khu vực) để
nhằm mục đích giải trí hoặc đi cơng việc và lưu trú tại đó ít nhất 24h nhưng khơng quá 1
năm. Như vậy, có thể xem xét du lịch thông qua những hoạt động đặc trưng mà con người
mong muốn trong các chuyến đi. Du lịch có thể được hiểu “là các hoạt động liên quan

11


đến chuyến đi của con người ngoài nơi cư trú thường xuyên của mình nhằm đáp ứng nhu
cầu thăm quan tìm hiểu, giải trí, nghỉ dưỡng trong một khoảng thời gian nhất định”.

Từ các góc độ nói trên, bản chất của du lịch được chỉ rõ thông qua 5 đặc điểm
chính như sau:
1. Du lịch nảy sinh từ sự di chuyển và lưu trú của con người từ các nơi đến khác
nhau.
2. Có hai yếu tố chính trong hoạt động du lịch: Hành trình tới nơi đến và lưu lại,
trong đó bao gồm cả hoạt động ở nơi đến.
3. Chuyến đi và lưu trú xảy ra bên ngoài nơi cư trú và làm việc thường xuyên, do
đó du lịch làm nảy sinh những hoạt động của người đi du lịch ở nơi đến khác biệt với
những hoạt động của cư dân sinh sống và làm việc ở đây.
4. Sự di chuyển tới nơi đến mang tính tạm thời, thời gian ngắn và sau đó quay trở
về trong khoảng vài ngày, vài tuần hoặc vài tháng.
5. Chuyến đi với nhiều mục đích song khơng vì mục đích định cư hoặc tìm kiếm
việc làm tại nơi viếng thăm.
Với các cách tiếp cận nói trên, bản chất của du lịch chủ yếu mới chỉ được giải thích
dưới góc độ là một hiện tượng, một hoạt động thuộc nhu cầu của khách du lịch.
 Tiếp cận du lịch dưới góc độ là một ngành kinh tế
Khi đi du lịch, con người thường nảy sinh nhiều nhu cầu trong chuyến đi của mình
như nhu cầu đi lại, ăn ở, giải trí. Lúc đầu, họ tự thỏa mãn các nhu cầu đó. Về sau, nó trở
thành cơ hội kinh doanh. Du lịch bắt đầu được quan niệm là một hoạt động kinh tế nhằm
thỏa mãn các nhu cầu của du khách. Một ngành kinh tế được hình thành nhằm đáp ứng
các nhu cầu của con người trong chuyến đi rời khỏi nơi cư trú thường xuyên được gọi là
ngành du lịch. Theo các học giả Mỹ McIntosh, Goeldner và Ritchie, du lịch là một ngành
tổng hợp của các lĩnh vực lữ hành, khách sạn, vận chuyển và tất cả các yếu tố cấu thành
khác kể cả xúc tiến quảng bá nhằm phục vụ các nhu cầu và mong muốn đặc biệt của
khách du lịch. Hội nghị Liên hợp quốc về du lịch năm 1971 cũng đi đến thống nhất cần
phải quan niệm rộng rãi ngành du lịch như là người đại diện cho tập hợp các hoạt động
cơng nghiệp và thương mại cung ứng tồn bộ hoặc chủ yếu các hàng hóa và dịch vụ cho
tiêu dùng của khách du lịch quốc tế và nội địa.

12



Như vậy, khi tiếp cận du lịch với tư cách là một hệ thống cung ứng các yếu tố cần
thiết trong các hành trình du lịch thì du lịch được hiểu là một ngành kinh tế cung ứng các
hàng hóa và dịch vụ trên cơ sở kết hợp giá trị các tài nguyên du lịch nhằm thỏa mãn nhu
cầu và mong muốn đặc biệt của du khách.
 Tiếp cận du lịch một cách tổng hợp
Để xem xét du lịch một cách toàn diện hơn, các tác giả McIntosh, Goelder và Ritchie
cho rằng cần phải cân nhắc tất cả các chủ thể (thành phần) tham gia vào hoạt động du lịch
mới có thể khái quát và hiểu được bản chất của du lịch một cách đầy đủ. Các chủ thể
(thành phần) đó bao gồm:
- Khách du lịch: Đây là những người tìm kiếm các kinh nghiệm và sự thỏa mãn về
vật chất hay tinh thần khác nhau. Bản chất của du khách sẽ xác định các nơi đến du lịch
lựa chọn và các hoạt động tham gia, thưởng thức.
- Các doanh nghiệp cung cấp hàng hóa và dịch vụ du lịch: Các nhà kinh doanh coi
du lịch là một cơ hội để kiếm lợi nhuận thông qua việc cung cấp các hàng hóa và dịch vụ
nhằm đáp ứng cho nhu cầu của thị trường khách du lịch.
- Chính quyền sở tại: Những người lãnh đạo chính quyền địa phương nhìn nhận du
lịch như là một nhân tố có tác dụng tốt cho nền kinh tế thông qua triển vọng về thu nhập
từ các hoạt động kinh doanh cho dân địa phương, ngoại tệ thu được từ khách quốc tế và
tiền thuế thu được cho ngân quỹ một cách trực tiếp hoặc gián tiếp.
- Dân cư địa phương: Dân cư địa phương thường coi du lịch là một nhân tố tạo ra
việc làm và giao lưu văn hóa. Một điều quan trọng cần nhấn mạnh ở đây là hiệu quả của
sự giao lưu giữa số lượng lớn du khách quốc tế và dân cư địa phương. Hiệu quả này có
thể vừa có lợi và vừa có hại.
Như vậy, để phản ánh một cách đầy đủ và toàn diện các hoạt động các mối quan hệ
của du lịch, theo cách tiếp cận này, du lịch được hiểu là tổng hợp các hiện tượng và
mối quan hệ nảy sinh từ sự tác động qua lại giữa khách du lịch, các nhà kinh doanh,
chính quyền và cộng đồng dân cư địa phương trong quá trình thu hút và tiếp đón khách
du lịch.


13


Với cách tiếp cận này, khách du lịch là nhân vật trung tâm làm nảy sinh các hoạt
động và các mối quan hệ để trên cơ sở đó thỏa mãn mục đích của các chủ thể tham gia
vào các hoạt động và các mối quan hệ đó.
Tóm lại, du lịch là một khái niệm có nhiều cách tiếp cận xuất phát từ tính chất phong
phú và sự phát triển của hoạt động du lịch. Chính vì vậy, tùy thuộc vào từng mục đích
nghiên cứu mà có thể sử dụng các quan niệm đó một cách phù hợp.
1.2 Khái niệm khách du lịch
Du khách (khách du lịch) là chủ thể thực hiện hoạt động du lịch và được coi là yếu
tố trung tâm trong hệ thống các hoạt động du lịch. Du khách có thể hiểu một cách đơn
giản là người đi du lịch. Tuy nhiên, định nghĩa về du khách được đưa ra lại rất khác nhau
giữa các thời kỳ và các quốc gia.
Theo các tác giả Nguyễn Văn Đính và Trần Thị Minh Hoà (2004), định nghĩa về
du khách lần đầu tiên xuất hiện vào cuối thế kỷ XVIII tại Pháp. Thời bấy giờ các hành
trình của người Đức, người Đan Mạch, người Bồ Đào Nha, người Hà Lan và người Anh
trên đất Pháp được chia thành hai loại. Cuộc hành trình nhỏ (vịng đi nhỏ “Le peptit tour")
là cuộc hành trình từ Paris đến miền Đơng Nam nước Pháp. Cuộc hành trình lớn (vịng đi
lớn“Le grand tour") là cuộc hành trình theo bờ Địa Trung Hải, xuống phía Tây Nam nước
Pháp và vùng Bourgone. Khách du lịch được định nghĩa là người thực hiện một cuộc
hành trình lớn “Fair le grand tour„.
Theo hai tác giả Trung Quốc là Đổng Ngọc Minh và Vương Lơi Đình (2000), thuật
ngữ “tourist" (khách du lịch) trong tiếng Anh xuất hiện lần đầu tiên trong cuốn Từ điển
Oxford vào năm 1811. Thuật ngữ này có nghĩa là người từ nơi khác đến với mục đích
tham quan, du ngoạn.
Vào đầu thế kỷ XX, Lozep Stander (Nhà kinh tế học người Áo) định nghĩa:
“Khách du lịch là hành khách xa hoa, ở lại theo ý thích ngồi nơi cư trú thường xun để
thoả mãn nhu cầu cao cấp mà khơng theo đuổi mục đích kinh tế „ (Dẫn theo Nguyễn Văn

Đính và Trần Thị Minh Hoà, 2004).
Theo Odgilvi (Nhà kinh tế học người Anh):“Để trở thành khách du lịch phải có 2 điều
kiện: (1) Đi xa nhà trong thời gian dưới 1 năm; (2) Phải chi tiêu tại nơi nghỉ lại bằng tiền
kiếm được ở nơi khác" (Dẫn theo Nguyễn Văn Đính và Trần Thị Minh Hoà, 2004).

14


Hội nghị của Tổ chức du lịch quốc tế họp tại Roma (1968) đã xác định:“Bất cứ ai ngủ
một đêm tại nơi khơng phải nhà của mình và mục đích chính của cuộc hành trình khơng
nhằm kiếm tiền đều được coi là khách du lịch" (Dẫn theo Nguyễn Văn Lưu, 2005).
Theo Luật du lịch Việt Nam (2005):“Khách du lịch là người đi du lịch hoặc kết hợp đi
du lịch, trừ trường hợp đi học, làm việc hoặc hành nghề để nhận thu nhập ở nơi đến’’.
Ngày 4/3/1993, theo đề nghị của Tổ chức du lịch thế giới (UNWTO), Uỷ ban
thống kê LHQ đã công nhận các thuật ngữ sau để thống nhất việc thống kê du lịch:
Khách du lịch quốc tế (International Tourist) bao gồm khách quốc tế đến du lịch
(Inbound Tourist) và khách quốc tế đi du lịch ra nước ngoài (Outbound Tourist).
Khách du lịch trong nước (Internal Tourist) gồm những người là công dân của một
quốc gia và người nước ngoài đang sống trên lãnh thổ quốc gia đó đi du lịch trong nước.
Khách du lịch nội địa (Domestic Tourist) bao gồm khách du lịch trong nước
(Internal Tourist) và khách quốc tế đến du lịch (Inbound Tourist).
Khách du lịch quốc gia (National Tourist) bao gồm khách du lịch trong nước
(Internal Tourist) và khách quốc tế đi du lịch ra nước ngoài (Outbound Tourist).
Tuy nhiên, ở Việt Nam quan niệm về các loại khách du lịch lại đơn giản hơn. Theo
điều 34, chương V của Luật du lịch Việt Nam (2005):“Khách du lịch gồm khách du lịch
nội địa và khách du lịch quốc tế". Theo quan niệm như vậy, khách du lịch nội địa cũng
được gọi là khách du lịch trong nước.
Theo Luật Du lịch Việt Nam (2005):“Khách du lịch quốc tế là người nước ngoài,
người Việt Nam định cư ở nước ngồi vào Việt Nam du lịch; cơng dân Việt Nam, người
nước ngoài thường trú tại Việt Nam ra nước ngoài du lịch."

Theo Luật du lịch Việt Nam (2005):“Khách du lịch nội địa là công dân Việt Nam,
người nước ngoài thường trú tại Việt Nam đi du lịch trong phạm vi lãnh thổ Việt Nam".
1.3 Khái niệm điểm đến du lịch
Tài nguyên du lịch là cảnh quan thiên nhiên, yếu tố tự nhiên, di tích lịch sử - văn
hố, cơng trình lao động sáng tạo của con người, các giá trị nhân văn khác và các sự kiện
đặc biệt có thể được sử dụng nhằm đáp ứng nhu cầu du lịch, là yếu tố cơ bản để hình
thành các khu du lịch, điểm du lịch, tuyến du lịch, đô thị du lịch.

15


Điểm du lịch là nơi có tài nguyên du lịch hấp dẫn, phục vụ nhu cầu tham quan của
khách du lịch.
Khu du lịch là nơi có tài nguyên du lịch hấp dẫn với ưu thế về tài nguyên du lịch tự
nhiên, được quy hoạch, đầu tư phát triển nhằm đáp ứng nhu cầu đa dạng của khách du
lịch, đem lại hiệu quả về kinh tế - xã hội và môi trường.
Tuyến du lịch là lộ trình liên kết các khu du lịch, điểm du lịch, cơ sở cung cấp dịch
vụ du lịch, gắn với các tuyến giao thông đường bộ, đường sắt, đường thuỷ, đường hàng
không.
Kinh doanh du lịch là việc thực hiện một, một số hoặc tất cả các cơng đoạn của
q trình hoạt động du lịch hoặc thực hiện dịch vụ du lịch trên thị trường nhằm mục
đích sinh lợi.
Lữ hành là việc xây dựng, bán và tổ chức thực hiện một phần hoặc tồn bộ chương
trình du lịch cho khách du lịch.
Hoạt động du lịch là hoạt động của khách du lịch, tổ chức, cá nhân kinh doanh du
lịch, cộng đồng dân cư và cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan đến du lịch.
Xúc tiến du lịch là hoạt động tuyên truyền, quảng bá, vận động nhằm tìm kiếm,
thúc đẩy cơ hội phát triển du lịch.
Sản phẩm du lịch bao gồm các dịch vụ du lịch, các hàng hoá và tiện nghi cung ứng
cho khách du lịch, nó được tạo nên bởi sự kết hợp các yếu tố tự nhiên, cơ sở chất kỹ thuật

và lao động du lịch tại một vùng, một địa phương nào đó.
1.4. Khái niệm Khách sạn
Khách sạn là cơ sở kinh doanh lưu trú phổ biến trên Thế giới, đảm bảo chất lượng
và tiện nghi cần thiết phục vụ kinh doanh lưu trú, đáp ứng một số yêu cầu về nghỉ ngơi,
ăn uống, vui chơi giải trí và các dịch vụ khác trong suốt thời gian khách lưu trú tại khách
sạn, phù hợp với động cơ, mục đích chuyến đi.
2. Các loại hình du lịch
2.1. Căn cứ vào mơi trường tài nguyên
- Du lịch thiên nhiên (Du lịch sinh thái) hấp dẫn người thích tận hưởng bầu khơng
khí ngồi trời, thích thưởng thức phong cảnh đẹp và đời sống động thực vật hoang dã.

16


Những người đi du lịch trong nhóm này muốn tìm đến vẻ đẹp và đời sống hoang sơ của
Vườn Quốc gia Xuân Thủy, phong cảnh hùng vĩ của Bà Nà...
- Du lịch sinh thái là hình thức du lịch dựa vào thiên nhiên, gắn với bản sắc văn hoá
địa phương với sự tham gia của cộng đồng nhằm phát triển bền vững. Du lịch sinh thái
(EcoTourism) là loại hình du lịch có trách nhiệm tại các điểm đi lại của các khu vực thiên
nhiên, bảo tồn được môi trường và cải thiện phúc lợi cho người dân địa phương. Loại
hình du lịch này tuy ra đời khá muộn nhưng nó đă nhanh chóng trở thành một loại hình du
lịch có triển vọng và đang phát triển với tốc độ khá nhanh, đặc biệt là trong các khu bảo
tồn và vườn quốc gia. Với ý nghĩa đó, đề tài đã nghiên cứu tiềm năng và giải pháp phát
triển du lịch sinh thái trong khu bảo tồn thiên nhiên nhằm gắn kết du lịch với bảo tồn và
phát triển kinh tế cộng đồng địa phương.
Minh họa 1: Du lịch sinh thái
Du lịch sinh thái có nguồn gốc từ du lịch thiên nhiên và du lịch ngồi trời.
Thực ra loại hình du lịch này đă có từ rất lâu nhưng ít được con người chú ý. Kể từ
khi loại hình du lịch máy bay ra đời, cùng với sự phát triển khá nhanh của ngành
du lịch với mối quan tâm về vấn đề bảo vệ tài nguyên môi trường, nhất là sau hội

nghị thượng đỉnh về môi trường tổ chức tại Stockholm (Thuỵ Điển) năm 1972 và
tại Rio Dejanero (Brazil) năm 1992 th́ du lịch sinh thái mới thực sự phát triển và
được xem như là một công cụ hữu hiệu để thoả măn sự khát khao của con người về
với thiên nhiên, gắn kết bảo vệ tài nguyên môi trường với phát triển du lịch bền
vững.
Du lịch sinh thái có những đóng góp rất lớn về mặt kinh tế – xă hội ở nhiều quốc
gia. Chỉ tính riêng Kenya, năm 1994 du lịch sinh thái trở thành một ngành xuất
khẩu lớn nhất nước đóng góp 35% thu nhập ngoại tệ và 11% tổng sản phẩm quốc
gia. Ở Mỹ, các hệ thống vườn quốc gia, khu bảo tồn mỗi năm đón khoảng 270 triệu
lượt khách đem về hàng chục tỷ đô la. Một số nước như Mêxicô, Úc, Malaixia,
Eucoado, Kenya, Brazil, Ethiophia… du lịch sinh thái cũng đă đóng vai tṛ quan
trọng trong việc thu đổi ngoại tệ.
Mặc dù chưa có con số thống kê cụ thể nhưng theo nghiên cứu sơ bộ của

17


Fillion (1992), du lịch sinh thái đă đóng góp 223 tỷ đơ la trong thu nhập của nhiều
quốc gia.
Ngồi những lợi ích về mặt kinh tế, du lịch sinh thái đă mang lại nhiều lợi ích trong
lĩnh vực bảo tồn và phát triển kinh tế cộng đồng. Ở Coastarica, Vênêxuêla… một số
chủ trang trại chăn nuôi đă bảo vệ nhiều diện tích rừng nhiệt đới quan trọng và biến
những nơi này thành điểm du lịch sinh thái tự nhiên, tạo công ăn việc làm cho người
dân địa phương. Ecuado sử dụng khoản thu nhập từ du lịch sinh thái tại đảo Galapago
để duy tŕ mạng lưới vườn quốc gia…. nhờ du lịch sinh thái mà người dân trong vùng
đệm ở các khu bảo tồn, vườn quốc gia phát triển các ngành nghề thủ công, tham gia
hoạt động du lịch để đảm bảo thu nhập, hạn chế sự tác động vào rừng.
Ở Việt Nam, ngành du lịch phát triển tương đối muộn. Hoạt động du lịch chỉ
thực sự diễn ra sôi nổi từ sau năm 1990 gắn liền với chính sách mở cửa của Đảng
và Nhà nước. Theo số liệu thống kê từ năm 1990 đến 2002 lượng khách quốc tế

tăng10,5 lần (từ 250.000 đến 2.620.000) khách nội địa tăng 13 lần (từ 1000.000
tăng lên 13.000.000). Thu nhập xă hội cũng tăng đáng kể, năm 1991 là 2.240 tỷ
đồng đến năm 2002 là 23.000 tỷ đồng, trong đó hoạt động du lịch sinh thái trong
các khu bảo tồn và vườn quốc gia và du lịch biển đóng góp một tỷ trọng lớn. Các
số liệu thống kê ở một số vườn quốc gia như Cúc Phương, Cát Bà, Côn Đảo, Bạch
Mă … các khu bảo tồn thiên nhiên như Phong Nha - Kẻ Bàng, Hồ Kẻ Gỗ… bình
quân mỗi năm tăng 50% khách nội địa và 30 % khách quốc tế. Trong giai đoạn từ
1995 – 1998 du lịch sinh thái đạt tăng trưởng 16,5%.
Du lịch sinh thái ở Việt Nam cũng đã có những đóng góp lớn cho sự phát triển
cộng đồng, bảo vệ tài nguyên môi trường. Nhờ phát triển du lịch sinh thái mà đồng
bào một số dân tộc, cư dân sinh sống trong vùng đệm các vườn quốc gia, khu bảo
tồn có được việc làm, nâng cao mức sống, các lễ hội, tập tục, ngành nghề thủ công
được bảo tồn và phát triển.
(Nguồn: www.vietnamtourism.gov.vn)
- Du lịch văn hóa thu hút những người mà mối quan tâm chủ yếu của họ là truyền
thống lịch sử, phong tục tập quán, nền văn hóa nghệ thuật... của điểm đến. Các du khách
này sẽ đến thăm bảo tàng, tham dự các lễ hội truyền thống...

18


Du lịch văn hố là hình thức du lịch dựa vào bản sắc văn hoá dân tộc với sự tham gia
của cộng đồng nhằm bảo tồn và phát huy các giá trị văn hố truyền thống. Bên cạnh
những loại hình du lịch như du lịch sinh thái, du lịch khám chữa bệnh, du lịch mạo hiểm,
du lịch giáo dục… gần đây du lịch văn hóa được xem là loại sản phẩm đặc thù của các
nước đang phát triển, thu hút nhiều khách du lịch quốc tế. Du lịch văn hóa chủ yếu dựa
vào những sản phẩm văn hóa, những lễ hội truyền thống dân tộc, kể cả những phong tục
tín ngưỡng… để tạo sức hút đối với khách du lịch bản địa và từ khắp nơi trên thế giới.
Đối với khách du lịch có sở thích nghiên cứu, khám phá văn hóa và phong tục tập qn
bản địa, thì du lịch văn hóa là cơ hội để thỏa mãn nhu cầu của họ. Phần lớn hoạt động du

lịch văn hóa gắn liền với địa phương – nơi lưu giữ nhiều lễ hội văn hóa và cũng là nơi tồn
tại đói nghèo. Khách du lịch ở các nước phát triển thường lựa chọn những lễ hội của các
nước để tổ chức những chuyến du lịch nước ngoài. Bởi thế, thu hút khách du lịch tham
gia du lịch văn hóa tức là tạo ra dòng chảy mới và cải thiện cuộc sống của người dân địa
phương. Ở những nước kém phát triển hoặc đang phát triển, nền tảng phát triển phần lớn
không dựa vào những đầu tư lớn để tạo ra những điểm du lịch đắt tiền, mà thường dựa
vào nguồn du lịch tự nhiên và sự đa dạng trong bản sắc dân tộc. Những nguồn lợi này
không tạo ra giá trị lớn cho ngành du lịch, nhưng lại đóng góp đáng kể cho sự phát triển
của cộng đồng xã hội. Những quốc gia phát triển mạnh du lịch văn hóa là Thái Lan,
Indonesia, Malaysia, Trung Quốc, và một số nước thuộc khu vực Nam Mỹ…. “Du lịch
văn hóa là xu hướng của nhiều nước. Loại hình du lịch này rất phù hợp với bối cảnh của
Việt Nam, rất tốt cho hoạt động xóa đói giảm nghèo quốc gia, vì vậy phải được xem là
hướng phát triển của ngành du lịch Việt Nam”, một quan chức của Vụ Hợp tác quốc tế
thuộc Tổng Cục Du lịch phát biểu.
Ở Việt Nam, nhiều hoạt động du lịch văn hóa được tổ chức dựa trên những đặc điểm
của vùng miền. Chương trình Lễ hội Đất Phương Nam (Lễ hội văn hóa dân gian vùng
Đồng bằng Nam bộ), Du lịch Điện Biên (Lễ hội văn hóa Tây Bắc kết hợp với sự kiện
chính trị: 50 năm chiến thắng Điện Biên Phủ), Con đường Di sản miền Trung (Lễ hội dân
gian kết hợp tham quan những di sản văn hóa được UNESCO cơng nhận)… là những
hoạt động của du lịch văn hóa, thu hút nhiều khách du lịch trong và ngồi nước. Trong số
đó, Festival Huế được xem là hoạt động du lịch văn hóa đặc sắc ở Việt Nam. Lễ hội được

19


tổ chức thường xuyên 2 năm một lần, với sự hỗ trợ của Chính phủ Pháp. Festival Huế
2004 là lần thứ ba Việt Nam có dịp giới thiệu với du khách về lễ hội dân gian của miền
Trung. Ngoài ra, lễ hội dân gian này cịn có sự tham gia của các nước Pháp, Trung
Quốc…
Hình 1: Một số hình ảnh minh họa về loại hình du lịch văn hóa


2.2 Căn cứ vào phạm vi lãnh thổ
Các tác giả McIntosh, Goeldner và Ritchie đã sử dụng tiêu thức này để phân chia
thành các loại hình du lịch sau:
- Du lịch quốc tế (International Tourism) liên quan đến các chuyến đi vượt ra khỏi
phạm vi lãnh thổ (biên giới) quốc gia của khách du lịch. Chính vì vậy, du khách thường
gặp phải 3 cản trở chính trong chuyến đi đó là: ngơn ngữ, tiền tệ và thủ tục đi lại. Cùng
với dòng du khách, hình thức du lịch này tạp ra dịng chảy ngoại tệ giữa các quốc gia và
do đó ảnh hưởng đến cán cân thanh toán của quốc gia. Loại hình du lịch này được phân
chia thàn 2 loại nhỏ:

20


+ Du lịch quốc tế đến là chuyến viếng thăm của những người từ các quốc gia
khác.
+ Du lịch ra nước ngoài là chuyến đi của cư dân trong nước đến một nước khác.
- Du lịch trong nước là chuyến đi của những cư dân chỉ trong phạm vi quốc gia
của họ.
+ Du lịch nội địa bao gồm du lịch trong nước và du lịch quốc tế đến.
+ Du lịch quốc gia bao gồm du lịch nội địa và du lịch ra nước ngoài.
Trong thực tế ở Việt Nam, thuật ngữ du lịch nội địa được sử dụng để chỉ những
chuyến đi du lịch trong nước của người Việt Nam (đồng nghĩa với khái niệm du lịch trong
nước của McIntosh, Goeldner và Ritchie) và trường hợp nước ngoài đang sinh sống tạm thời
hoặc làm việc tại Việt Nam khi đi du lịch trong phạm vi lãnh thổ Việt Nam.
Trường hợp người Việt Nam định cư ở nước ngoài về Việt Nam du lịch được quan
niệm là khách du lịch quốc tế và thuộc loại hình du lịch quốc tế đến. Cịn người nước
ngồi cư trú tại Việt Nam khi ra nước ngoài du lịch được quy định là khách du lịch quốc
tế và thuộc loại hình du lịch ra nước ngồi.
2.3. Căn cứ vào mục đích chuyến đi

- Du lịch tham quan: Tham quan là hành vi quan trọng của con người với mục đích
chính là nâng cao hiểu biết cho cá nhân, loại hình du lịch này thoả mãn lịng ham hiểu biết
và ham thích nâng cao văn hố thông qua các chuyến đi du lịch đến những nơi lạ để tìm
hiểu các di sản văn hố, di tích lịch sử, các cơng trình kiến trúc nghệ thuật, các lễ hội độc
đáo, các làng nghề thủ công truyền thống, các bản làng của ngưòi dân tộc thiểu số, phong
tục tập quán và tìm hiểu những thành quả kinh tế, chế độ xã hội, chất lượng cuộc sống của
mỗi địa phương mỗi quốc gia và có thể là một phong cảnh thiên nhiên kỳ thú…. Loại
hình du lịch tham quan có tác dụng nhận thức là rất lớn, tác dụng giải trí khơng hiện hình
hoặc có ý nghĩa thứ yếu. Thời gian lưu lại của khách đối với loại hình này trong thời gian
rất ngắn, thường kéo dài một giờ, hoặc một vài phút. Đối tượng của loại hình du lịch này
thường là những người có văn hố cao như nhà giáo, nhà khoa học, nhà sử học, nhà
báo…. Ưu thế của loại hình du lịch này là đại bộ phận khơng chịu ảnh hưởng của tính
mùa vụ. Điều này nó giúp cho sự cân bằng trong việc phát triển du lịch.

21


- Du lịch giải trí: Mục đích chuyến đi là thư giãn, xả hơi, bứt ra khỏi công việc thường
nhật căng thẳng để phục hồi sức khỏe (vật chất cũng như tinh thần). Trong chuyến đi, nhu
cầu giải trí là nhu cầu không thể thiếu được của du khách. Do vậy, ngồi thời gian tham quan,
nghỉ ngơi, cần thiết có các chương trình vui chơi, giải trí trong chuyến đi cho du khách trong
chuyến đi. Với sự phát triển của xã hội, mức sống gia tăng, số người đi du lịch chỉ nhằm mục
đích giải trí, tiêu khiển bằng các trò chơi cũng gia tăng đáng kể. Để đáp ứng xu thế này cần
quan tâm mở rộng các loại hình và các cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ vui chơi giải trí như
các khu du lịch, làng du lịch, cơng viên, khu vui chơi giải trí, sịng bạc… Ở Việt Nam, tuy
các khu vui chơi giải trí cịn chưa hiện đại do hoàn cảnh kinh tế chưa cho phép song cũng đã
thu hút được khá đông khách trong và ngoài nước, nhất là trong các dịp lễ tết. Ví dụ như là
khu du lịch Đầm Sen, Suối Tiên ở Thành Phố Hồ Chí Minh. Muốn phát triển loại hình du
lịch này cần quan tâm đến các dự án cùng với việc đầu tư, quy hoạch du lịch, đào tạo các bộ
nhân viên.

- Du lịch nghỉ dưỡng: Du khách tìm đến các bãi biển, vùng suối nước khống, nước
nóng có giá trị y học cao để chữa bệnh. Bên cạnh đó do đời sống cơng nghiệp, sự làm việc
căng thẳng nên tranh thủ những ngày nghỉ tìm đến với thiên nhiên, hồ mình vào thiên
nhiên để thay đổi mơi trường sống hàng ngày, tránh tình trạng stress. Vì vậy, khơng gian
du lịch phải thống mát, n tĩnh. Và điều quan trọng là phải có đội ngũ phục vụ chuyên
nghiệp. Thời gian lưu lại của khách đối với loại hình du lịch này là rất lớn. Đối tượng
khách chủ yếu của loại hình du lịch này cơng nhân lao động, người già. Ngày nay ở Việt
Nam, các bộ ngành đang có xu hướng xây dựng các nhà nghỉ tại các bờ biển đẹp vừa kinh
doanh, vừa tạo điều kiện cho cán bộ công nhân đi nghỉ vào dịp hè. Do chịu ảnh hưởng của
điều kiên thời tiết, khí hậu nên hiệu suất sử dụng khơng cao hay nói cách khác loại hình
này chịu ảnh hượng của tính mùa vụ.
- Du lịch thể thao: Nhu cầu, sở thích của khách gắn với các mơn thể thao. Loại hình
này có hai loại khách chính đó là vận động viên trực tiếp tham gia thi tài ở các kì Thế Vận
hội, Worldcup hoặc đến các vùng có tiềm năng thể thao như leo núi, trượt tuyết, săn bắn,
bơi lội… (chủ động) và các cổ động viên xem các cuộc thi đấu và cổ vũ (bị động). Loại
hình du lịch thể thao là một trong những loại hình đem lại ngn thu rất lớn cho địa
phương vì nó thu hut một lượng lớn khách du lịch. Không phải ngẫu nhiên mà các quốc

22


gia trên thế giới ngày càng ra sức chạy đua để được đăng cai một kì Thế vận hội,
Worldcup bên cạnh việc thu lợi nhuận là quảng bá hình hình ảnh đất nước nhằm mục đích
phát triển du lịch.
Chúng ta thấy rằng, đối với các tổ chức kinh doanh lữ hành của quốc gia hay địa
phương đăng cai tổ chức thể thao hồn tồn có thể chủ động đón những đối tượng tham
gia vào cuộc thi (khách du lịch thể thao chủ động). Nhưng họ lại hồn tồn khơng thể
đốn trước mà chỉ dự báo được số du khách tới xem (khách du lịch thể thao bị động). Vì
vậy trong phạm vi này có thể cho rằng các cơng ty lữ hành phải đóng vai trị bị động.
Trong điều kiện hiện nay, đối tượng du khách có xu hướng phát triển nhanh, vì thế

đứng ở góc độ bị động đối với đối tượng du khách này, các nhà kinh doanh du lịch phải
xây dựng tính dự báo đảm bảo tính thuyết phục, tránh cung cấp dịch vụ quá dư thừa hoặc
quá thiếu theo nhu cầu của du khách tới xem hoạt động thể thao.
Hiệu quả du lịch từ khách du lịch bị động là khơng thể phủ nhận được, chính vì vậy một
trong những mục đích chính của quốc gia dành giật đăng cai tổ chức các kỳ thể thao lớn
khơng nằm ngồi mục đích như được nguồn tài chính lớn từ khách du lịch.
- Du lịch tôn giáo: Loại hình này thoả mãn nhu cầu tín ngưỡng đặc biệt của những
người theo các tôn giáo khác nhau (hiện nay, trên thế giới có các tơn giáo lớn như đạo
Hồi, đạo Phật, đạo Thiên Chúa, đạo Tin Lành, Nho giáo, Do Thái…). Đây là loại hình
du lịch lâu đời rất phổ biến ở các nước tư bản. Vì tơn giáo là nhu cầu tinh thần và là tín
ngưỡng trong những cá nhân theo tơn giáo của họ, do đó dộng cơ đi và đến những nơi
cội nguồn của tôn giáo là mong muốn và là nguyện vọng hàng năm của họ. Ngồi ra cịn
có những đối tượng khơng thuộc thành phần tơn giáo, nhưng họ lại có xu hướng hiếu kỳ
khi tham gia vào các hoạt động mang tính tơn giáo. Chính điều này mà mỗi năm tất cả
các quốc gia trên thế giới hoạt động du lịch tôn giáo là rất lớn và không ngừng tăng
trưởng về số lượng du khách trên phạm vi khả năng thanh toán. Các trung tâm nổi tiếng
thế giới của loại hình du lịch này là Vaticăng, Gieluxalun, Mecca,… Ở Việt Nam, vào
mùa xuân, các tín đồ Phật giáo hành hương về Yêu Tử - nơi khởi nguồn của đạo Phật
phái Trúc Lâm, Chùa Hương, thăm nhà thờ Phát Diệm (Ninh Bình)…
Hoạt động hướng dẫn tham quan đối với loại hình du lịch này địi hỏi phải có q
trình khảo sát, chọn lọc và được chuẩn bị theo một chương trình nhất định. Khi giới thiệu

23


cần phải định hướng cho khách về thông tin biểu hiện tính tích cực, tránh thần thánh hố,
tránh đưa con người vào bi quan, bi lụy.
- Du lịch thăm thân: Nảy sinh do nhu cầu giao tiếp xã hội nhằm gặp mặt, thăm hỏi,
trò chuyện, chia sẻ những niềm vui, nỗi buồn cùng bà con, họ hàng, bạn bè thân quen…
Hình thức du lịch này có ý nghĩa quan trọng đối với những nước có nhiều người sống ở

nước ngồi như Việt Nam, Ý, Anh, Tây Ban Nha, Nam Tư. Đối tượng của loại hình du
lịch này thường đi trong thời gian dài ngày và thường diễn ra vào thời điểm sự kiện quan
trọng như dịp tết, quốc khánh, lễ hội….Khách du lịch gần như chỉ mua những dịch vụ
không trọn gói của các cơng ty lữ hành. Và mỗi lần trở về thăm quê hương, khách du lịch
thuộc loai hình này mang về một lượng ngoại tệ lớn, tạo điều kiện tích lũy ngoại tệ cho
quốc gia.
Việt Nam cũng là một trong những quốc gia có đối tượng Việt kiều rất đơng và
hàng năm có tới vài trăm ngàn người về thăm quê hương, là một thị trường khách mà
các nhà kinh doanh lữ hành quốc tế tại Việt Nam đang hướng tới. Ngoài ra, trong phạm
vi du lịch thăm thân nội địa cũng rất phổ biến, âu cũng chính là do đặc điểm lịch sử để
lại.
- Du lịch MICE: MICE là loại hình du lịch kết hợp hội nghị, hội thảo, triển lãm, tổ
chức sự kiện, du lịch khen thưởng của các công ty cho nhân viên, đối tác. MICE – viết tắt
của Meeting (hội họp), Incentive (khen thưởng), Convention (hội nghị, hội thảo) và
Exhibition (triển lãm). Tên đầy đủ tiếng Anh là Meeting Incentive Conference Event. Bởi
vậy các đồn khách MICE thường rất đơng (vài trăm khách) và đặc biệt mức chi tiêu cao
hơn khách đi tour bình thường (do Ban tổ chức các hội nghị quốc tế bao giờ cũng đặt
phòng cho khách ở khách sạn 4 – 5 sao, dịch vụ cao, tour sau hội nghị phải thiết kế
chuyên biệt theo yêu cầu…). MICE hiện là loại hình du lịch mang lại nguồn thu rất lớn
cho ngành du lịch ở các nước.
Đối với Việt Nam loại hình du lịch này đã được các cơng ty trong ngành du lịch khai
thác từ nhiều năm nay, bước đầu đã có kết quả khả quan. Khai thác thị trường MICE là
một trong những mục tiêu của chiến lược phát triển ngành du lịch Việt Nam.
Đánh giá về tiềm năng phát triển MICE, đoàn chuyên gia UNWTO cho rằng: Việt
Nam có tiềm năng rất lớn và nếu phát triển MICE sẽ là đối thủ đáng ngại của Singapore

24


(trung tâm thu hút MICE lớn nhất Đông Nam Á hiện nay). Cảnh quan thiên nhiên ưu đãi,

nhiều di sản văn hóa, thiên nhiên thuộc hàng kỳ quan thế giới, bãi biển đẹp, hệ thống
khách sạn, resort phát triển… Tuy nhiên theo UNWTO để MICE phát triển Việt Nam nên
thành lập MICE Bureau (tổ chức xúc tiến phát triển MICE), xây dựng chiến lược
marketing, cải thiện ngay hạ tầng phục vụ khách MICE: visa, sân bay, hệ thống khách
sạn, trong đó, việc xác định vị trí xây dựng trung tâm hội chợ triển lãm quốc tế rất quan
trọng: nó phải gần sân bay, khách sạn, thuận tiện đi lại, giao dịch. Các giải pháp khác phải
hướng vào việc phân tích số liệu thông tin thị trường, thiết lập chiến lược thông tin quảng
bá MICE và xây dựng website, phát triển thương mại điện tử, mở các lớp đào tạo nguồn
nhân lực trong và ngoài nước.
2.4 Căn cứ vào sự tương tác của du khách đối với nơi đến du lịch
Valene Smith, một nhà nhân chủng học đã phối hợp với trường Đại học
Pennsylvania đưa ra một cách phân nhóm khác. Cách phân loại này quan tâm đến sự tác
động (cả về kinh tế và xã hội) của khách du lịch đến nước chủ nhà thông qua một số biến
số quan trọng như: phạm vi khách du lịch quan tâm (ảnh hưởng đến môi trường), thời
gian lưu lại và đối tượng dân cư du khách thường gặp gỡ (và mục đích của cuộc gặp gỡ).
Theo cách này, có các loại hình du lịch sau:
- Du lịch thám hiểm: bao gồm các nhà nghiên cứu, học giả, người leo núi và những
nhà thám hiểm đi theo các nhóm với số lượng nhỏ. Họ hoàn toàn chấp nhận các điều kiện
địa phương. Họ sử dụng đồ dùng cá nhân, thức ăn chuẩn bị trước và hầu như không tiêu
thụ các sản phẩm, dịch vụ du lịch. Chính vì vậy, loại hình du lịch này ảnh hưởng khơng
đáng kể đến kinh tế, văn hóa – xã hội và môi trường của điểm đến.
- Du lịch thượng lưu: chuyến đi của tầng lớp thượng lưu đến những nơi độc đáo để
giải trí và tìm kiếm sự mới lạ. Bên cạnh việc sử dụng các tiện nghi dành cho khách du lịch
thì họ cũng dễ dàng thích nghi với các điều kiện địa phương. Số lượng khách của nhóm
này thường tương đối ít, có nhu cầu về những sản phẩm du lịch chất lượng cao và không
đàn hồi theo giá cả. Chuyến du lịch của họ có thể dẫn tới những hoạt động đầu tư sau này
có lợi cho điểm đến.
- Du lịch khác thường: bao gồm những khách du lịch khơng giàu có như tầng lớp
thượng lưu, họ thích đến những nơi xa xơi, hoang dã, quan tâm đến những vùng văn hóa


25


×