Tải bản đầy đủ (.docx) (16 trang)

TIỂU LUẬN tư TƯỞNG hồ CHÍ MINH đề tài vai trò của tinh hoa văn hóa nhân loại trong sự hình thành tư tưởng hồ chí minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (78.94 KB, 16 trang )

TIỂU LUẬN TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
Đề tài : Vai trị của tinh hoa văn hóa nhân loại trong sự hình
thành tư tưởng Hồ Chí Minh
Phần mở đầu
1. Sự cần thiết của đề tài
Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và
sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, là kết
quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa MácLênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và phát triển
các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa
văn hóa nhân loại một cách có chọn lọc. Ở bài tiểu luận này, em
xin làm rõ phần nào nhận định đúng đắn của về tư tưởng vĩ đại
của Người.
2. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu ở trong bài tiểu luận này là nguồn gốc,
các yếu tố căn bản hình thành và phát triển tạo nên tư tưởng
Hồ Chí Minh mang những tính chất đổi mới , cải cách tồn diện
về tư tưởng, nhưng mang đậm tinh thần , truyền thống, bản sắc
dân tộc, thích hợp với đất nước ta.
3. Phạm vi nghiên cứu
Trước hết ta ngược dịng thời gian tìm hiểu về quá khứ của chủ
tịch Hồ Chí Minh để có cái nhìn chung về tinh hoa văn hóa nhân


loại ảnh hưởng đến người chủ tịch vĩ đại như thế nào ! sau
đó dựa vào các yếu tố được hình thành đó phân tích đi sâu
vào những nét văn hóa độc đáo của nền văn hóa nhân loại từ
phương đông đến với phương tây
4. Phương pháp nghiên cứu
Áp dụng chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử kèm
theo đó là phân tích, tổng hợp, so sánh, đối chiếu, thống kê trắc
lượng để làm rõ các luận điểm một cách linh hoạt , k cứng nhắc


giúp chúng ta hiểu được tư tưởng Hồ Chí Minh mang đậm dấu
ấn của quá trình phát triển lịch sử, quá trình phát triển sáng
tạo, đổi mới.
5. Giới thiệu mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Nghiên cứu một cách hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh về luận
điểm “tinh hoa văn hóa nhân loại và sự hình thành tư tưởng
HCM”. Đánh giá tình hình thế giới và đặc biệt là Việt Nam hiện
nay trong việc áp dụng, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại từ
xưa đến nay.
Để đạt được mục đích nghiên cứu trên, bài tiểu luận có nhiệm
vụ:
+Phân tích nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về luận điểm
"tinh hoa văn hóa nhân loại trong sự hình thanh tư tưởng Hồ
Chí Minh"
+Đánh giá tình hình nhận thức, tư tưởng giới trẻ Việt Nam hiện
nay đối với vấn đề trên và rút ra nhận xét.
Phần nội dung:


I, ĐẶC ĐIỂM VÀ NỘI DUNG CỦA CÁC GIÁ TRỊ TINH HOA VĂN
HÓA NHÂN LOẠI CÓ ẢNH HƯỞNG ĐẾN SỰ HÌNH THÀNH TƯ
TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
1, Tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa
Văn hóa là một khái niệm có rất nhiều định nghĩa khác nhau.
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh , khai niệm được hiểu theo ba
nghĩa,nghĩa rộng, nghĩa hẹp và nghĩa rất hẹp.
Theo nghĩa rộng, văn hóa là toàn bộ những giá trị vật chất và
tinh thần do loài người sáng tạo ra với phương thức sử dụng
chúng, nhằm đáp ứng lẽ sinh tồn, đồng thời là mục đích của
cuộc sống con người.

Định nghĩa về văn hóa của Hồ Chí Minh đã khắc phục
được những quan niệm phiến diện về văn hoá trong lịch sử
và hiện tại.
Theo nghĩa hẹp, Người viết: “Trong cơng cuộc kiến thiết
nước nhà, có bốn vấn đề cần chú ý đến, cũng phải coi là quan
trọng ngang nhau: chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa. Nhưng văn
hóa là một kiến trúc thượng tầng”.
Theo nghĩa rất hẹp, văn hóa đơn giản là trình độ học vấn của
con người, thể hiện ở việc Hồ Chí Minh yêu cầu mọi người phải
đi học “văn hóa”, xóa mù chữ,...
2. Quan điểm của Hồ Chí Minh về các vấn đề chung của văn hóa
Quan điểm về vị trí và vai trị của văn hóa trong đời sống xã
hội
a)


-

Văn hóa là đời sống tinh thần, thuộc kiến trúc thượng tầng

Văn hóa khơng thể đứng ngồi mà phải ở trong kinh tế và
chính trị
-

b)

Văn hố vừa là mục tiêu, vừa là động lực của cách mạng
Quan điểm về chức năng của văn hóa

Khẳng định, nêu cao lý tưởng đúng đắn và những tình

cảm cao đẹp
-

-

Mở rộng hiểu biết, nâng cao dân trí

-

Bồi dưỡng những phẩm chất, phong cách tốt đẹp, lành mạnh

c)

Quan điểm về tính chất của nền văn hóa

Trong cách mạng dân tộc dân chủ: Dân tộc, khoa học và đại
chúng
-

Trong cách mạng xã hội chủ nghĩa: Có tính chất dân tộc và
nội dung xã hội chủ nghĩa
-

Đặc điểm và nội dung của các giá trị tinh hoa văn hóa nhân
loại có ảnh hưởng đến sự hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh
3.

Nói đến văn hóa nhân loại có tầm cỡ vĩ đại nhất và ảnh hưởng
lớn nhất đối với Hồ Chí Minh, là phải nói đến chủ nghĩa MácLênin. Có thể nói, Hồ Chí Minh đã tiếp thu phát triển chủ nghĩa
Mác-Lênin và ứng dụng sáng tạo vào điều kiện cụ thể của đất

nước, đưa cách mạng Việt Nam giành nhiều thắng lợi vĩ đại và
cống hiến nhiều vào kho tàng lý luận Mác-xít cũng như phương
pháp hoạt động sáng tạo của cuộc cách mạng vô sản.


Hồ Chí Minh rời An Nam, đi ra xứ người để tìm một con đường
cứu nước, vì theo người, con đường cứu nước của các văn sĩ
phu An Nam thời bấy giờ không hiệu quả và phù hợp trong công
cuộc giải phóng đất nước lúc bấy giờ nữa. Nguyễn Tất Thành đã
có sự thống nhất giữ mục đích và phương pháp ra đi tìm đường
cứu nước, giải phóng dân tộc: mục đích của Người là nước nhà
được độc lập nên phương pháp mà Người chọn không thể là
dựa vào ngoại lực như Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh, mơ ước
của Người là nhân dân được tự do, hạnh phúc, vì vậy cũng
không thể theo lối Cần Vương - hướng đến một chế độ phong
kiến đã lỗi thời, khơng cịn phù hợp với bối cảnh lịch sử và sự
phát triển của ngoại quốc, không thể khiến cho nhân dân được
tự do hạnh phúc thực sự, vì vậy, Người cần phải có phương
pháp khác, đó chinh là đi sang phương Tây và sống, làm việc với
nhân dân lao động, để xem bên đó có thực sự “tự do, bình
đẳng, bác ái” như thực dân Pháp hay ca ngợi lúc bấy giờ không.
Nhơ vây, trong mươi năm đâu (1911 – 1920) cua qua trinh bôn
ba tim đương cưu nươc, Ngươi đa hoan thiên trí tuệ của mình
bằng vốn hiểu biết văn hóa, chính trị và thực tiễn cuộc sống
phong phú của cả nhân loại tao thanh môt ban linh tri tuê ma
không môt nha cach mang tre tuôi Viêt Nam nao vao thơi ây co
thê so sanh đươc. Người rút ra một số kết luận trong sự phát
triển nhận thưc của minh, đó là : chủ nghĩa tư bản, đế quốc ở
đâu cũng tàn bạo, độc ác, bất công; người lao động ở đâu cũng
bị áp bức, bóc lột, chà đạp; “…dù màu da có khác nhau, trên đời

này chỉ có hai giống người “giống người bóc lột và giống người
bị bóc lột” và cũng chỉ có một tình hữu ái là thật, đó là tình hữu


ái vô sản. Những kết luận ấy rât gân gui vơi nhưng quan điêm cơ
ban cua chủ nghĩa Mác-Lênin. Ban linh tri tuêây đa nâng cao
khả năng tư duy độc lập, tự chủ và sáng tạo khi Ngươi tiếp thu
và vận dụng chủ nghĩa Mác-Lênin phù hợp với hoàn cảnh, điều
kiện cụ thể của Việt Nam. Sơ thao của V.I. Lê-nin, viết năm
1920, đã thức tỉnh Nguyễn Ái Quốc, đưa Người đến với chủ
nghĩa Mác - Lênin, vì đây là chủ nghĩa duy nhất quan tâm đến
vấn đề thuộc địa. Nhưng vượt trên những hạn chế lúc bấy giờ
trong nhận thức và đánh giá về phong trào cách mạng thuộc
địa: Cách mạng thuộc địa phụ thuộc vào cách mạng chính quốc,
là "hậu bị qn" của cách mạng vơ sản chính quốc; cách mạng
chính quốc thắng lợi thì các thuộc địa mới được giải phóng, Hồ
Chí Minh hiểu sâu sắc khát vọng và tiềm năng, sức mạnh to lớn
của các dân tộc thuộc địa, nên đã nêu lên luận điểm: Cách
mạng giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa quan hệ chặt chẽ
với cách mạng chính quốc, nhưng khơng hồn tồn phụ thuộc
vào cách mạng chính quốc. Nhân dân các dân tộc thuộc địa và
phụ thuộc có thể "chủ động đứng lên, đem sức ta mà giải
phóng cho ta", giành thắng lợi trước cách mạng chính quốc và
qua đó, thúc đẩy cách mạng chính quốc. Theo C.Mac,
Ph.Ăngghen va V.I.Lênin, so vơi vân đê giai câp vô san thi vân đê
dân tôc chi la môt vân đê thư yêu, “…đăt lên hang đâu va bao
vênhưng lơi ich không phu thuôc vao dân tôc ma chung cho
toan thê giai câp vô san” , nhưng Hô Chi Minh lai chu trương
đoan kêt toan dân, huy đông moi lưc lương không ra m ăt phan
đông vi “Trong luc nay quyên lơi dân tôc giai phong cao hơn hêt

thảy.” Hô Chi Minh nhân thây trươc hêt cân co môt


chinh phu đai biêu cho sư chân thanh đoan kêt va hanh đ ông
nhât tri cua toan thê quôc dân, “Môt cơ câu như thê mơi đu
lưc lương va oai tin, trong thi lanh đao công viêc cưu quôc, kiên
quôc, ngoai thi giao thiêp vơi cac hưu bang”. Nguyễn Ái Quốc
đã tiếp thu chủ nghĩa Mác-Lênin theo phương pháp nhân thức
mácxit, đông thơi, người theo lôi “đăc y, vong ngôn” cua
phương Đông, côt năm lấy cái tinh thần, cái cốt yếu, cái bản
chất chư không tư troi buôc trong cai vo ngôn tư. Ngươi vận
dụng sáng tạo lập trương, quan điểm, phương pháp của chủ
nghĩa Mác-Lênin để hoạch định đường lối, chủ trương, giải
pháp và những đối sách phù hợp cho cách mạng Việt Nam.
Ngay từ năm 1924, sau khi đến với chủ nghĩa Mác-Lênin, trở
thành một cán bộ của Đảng Cộng sản Pháp và của Quốc tế Cộng
sản, Hồ Chí Minh đã vạch rõ sự khác nhau giữa thực tiễn của
các nước tư bản phát triển ở châu Âu mà C. Mác, Ph. Ăng-ghen
và V.I.Lê-nin đã chỉ ra với thực tiễn Việt Nam – môt nước thuộc
địa, nửa phong kiến, nơng nghiệp, lạc hậu ở phương Đơng. Do
đó, cần bổ sung, phát triển chủ nghĩa Mác về cơ sở lịch sử
phương Đông, không cứng nhắc, áp dụng y nguyên, vì bối cảnh
lịch sử của hai bên khác nhau hồn tồn.
Tiếp thu văn hóa phương Đơng, trước hết là Nho giáo, Hồ
Chí Minh đã đánh giá đúng đắn vai trị của Nho giáo và người
sáng lập ra nó là Khổng Tử và đã đặc biệt khai thác những mặt
tích cực của tư tưởng Nho giáo.
Hơn ai hết, Hồ Chí Minh hiểu rõ những mặt bất cập, hạn chế
của Nho giáo. Đó là trong Nho giáo có những yếu tố duy tâm,



lạc hậu, phản động như tư tưởng đẳng cấp, khinh lao động chân
tay, khinh phụ nữ, khinh thường thực nghiệm, doanh lợi… Tuy
nhiên, Hồ Chí Minh cũng thấy được những mặt tích cực của nó và
khun chúng ta “nên học”. Theo Người, mặt tích cực của Nho
giáo là nó đề cao văn hóa, lễ giáo, tạo ra truyền thống hiếu học
với châm ngôn “Học không biết chán, dạy không biết mỏỏi”. Về
điểm này, Nho giáo hơn hẳn các học thuyết cổ đại, bởi vì nhiều
học thuyết cổ đại chủ trương ngu dân để dễ cai trị.

Hồ Chí Minh đã khai thác Nho giáo, lựa chọn những yếu tố
tich cực, phù hợp để phục vụ cho nhiệm vụ cách mạng, đó là
yếu tố “Tiếp thu tư tưởng vị tha ở Phật giáo. Hồ Chí Minh là
hiện thân của lịng nhân ái, độ lượng, khoan dung - những
nét đặc trưng của giáo lý đạo Phật.”
-Thứ nhất là, tư tưởng vị tha, từ bi, bác ái, cứu khổ cứu nạn,
thương người như thể thương thân - một tình u bao la khơng
chỉ dành cho con người mà dành cho cả chim muông, cây cỏỏ.

-Thứ hai là, nếp sống có đạo đức, trong sạch, giản dị, chăm lo
làm điều thiện.
-Thứ ba là, tinh thần bình đẳng, tinh thần dân chủ chất
phác chống lại mọi phân biệt đẳng cấp.
-Thứ tư là, Phật giáo Thiền tông đề ra luật “chấp tác”: “nhất
nhật bất tác, nhất nhật bất thực” (một ngày không làm, một
ngày không ăn), đề cao lao động, chống lười biếng. Cuối cùng,
Phật giáo vào Việt Nam, gặp chủ nghĩa yêu nước, tinh thần đấu
tranh bất khuất chống ngoại xâm của dân tộc ta, đã hình thành



nên Thiền phái Trúc lâm Việt Nam, chủ trương sống khơng xa
rời, lẩn tránh mà gắn bó với đời sống của nhân dân, với đất
nước, tham gia vào cộng đồng, vào cuộc đấu tranh của nhân
dân, chống kẻ thù dân tộc.
Như thế, có thể nói, những mặt tích cực của Phật Việt Nam
đã đi vào đời sống tinh thần dân tộc và nhân dân lao động. Gia
đình Bác Hồ là gia đình nhà nho nghèo, gần gũi với nơng dân,
nên cũng đã thấm nhuần tinh thần đó và để lại dấu ấn trong tư
tưởng Hồ Chí Minh.
Ngồi ra, cịn có thể tìm thấy nhiều trích dẫn khác nữa về các
nhà tư tưởng phương Đông như Lão Tử, Mặc Tử, Quản Tử…
trong các bài nói, bài viết của Hồ Chí Minh. Cũng như sau này,
khi đã trở thành người mác-xít, Nguyễn Ái Quốc vẫn tìm hiểu
thêm về Chủ nghĩa Tam dân của Tơn Trung Sơn và tìm thấy
trong đó “những điều thích hợp với điều kiện nước ta”. Các tiêu
chí của chủ nghĩa Tam dân là dân tộc - độc lập; dân quyền - tự
do; dân sinh - hạnh phúc đã được Hồ Chí Minh rút gọn trong
quốc hiệu của Việt Nam “Độc lập - Tự do - Hạnh phúc”. Là người
mác-xít tỉnh táo và sáng suốt, Hồ Chí Minh đã biết khai thác
những yếu tố tích cực của tư tưởng và văn hóa phương Đơng
để phục vụ cho sự nghiệp cách mạng nước ta.
Ngồi hai tư tưởng ta đã nói ở trên, Người cũng linh hội
những thứ tinh hoa nhất trong văn hóa phương Tây
Là một con người đã bơn ba bên phương Tây rất lâu, đi qua các
nước tư bản, Người đã nhìn thấy được nhiều mặt trái của cái “tự
do, binh đẳng, bác ái” mà bè lũ thực dân hay rêu rao. Xã hội


tư bản cũng chỉ phục vụ những tên thực dân, tư bản, những
kẻ nhiều tiền lắm của. Còn tầng lớp lao động, làm công ăn

lương, cũng chỉ là cỏỏ rác trong mắt bọn chúng. Tuy nhiên,
Người cũng đã tiếp thu những giá trị văn hóa tốt đẹp, những
tư tưởng tiến bộ, nhằm áp dụng cho Việt Nam ta lúc đó.
Đất nước đầu tiên người đặt chân đến sau khi xuất dương,
chinh là nước Mỹ. Người đã từng đến sống ở New York, làm
thuê và thường đến thăm khu ở của người da đen. Trong các
bài viết sau này, Người thường nhắc đến ý chí đấu tranh cho tự
do, độc lập, cho quyền sống của con người được ghi lại trong
Tuyên ngôn độc lập 1776 của nước Mỹ. Người đã tiếp thu giá trị
của tư tưởng nhân quyền với nội dung là quyền tự do cá nhân
thiêng liêng trong bản tuyên ngơn này. Sau này, Người đã phát
triển nó thành quyền sống, quyền độc lập, quyền tự do, quyền
mưu cầu hạnh phúc của tất cả các dân tộc. Nội dung nhân
quyền được Người nâng lên một tầm cỡ mới và được Người
trích dẫn trong bản Tun ngơn Độc lập của Việt Nam năm
1945.
Cuối năm 1917, Người từ Anh sang Pháp và quyết định sống và
hoạt động ở thủ đô nước Pháp. Sự kiện này là sự kiện có ý
nghĩa lịch sử rất lớn, mở ra một thời kỳ mới trong cuộc đời cách
mạng của mình.
Là thủ đơ của nước Pháp, Paris cũng đồng thời là trung tâm văn
hóa - nghệ thuật của châu Âu. Các trào lưu triết học và các
trường phái nghệ thuật nổi tiếng thế giới phần lớn đều được
hình thành và ra mắt tại đây. Sống ở giữa nơi hợp lưu của các


dịng văn hóa thế giới, Người đã có điều kiện thuận lợi để
nhanh chóng chiếm lĩnh vốn tri thức của thời đại, đặc biệt
là truyền thống văn hóa dân chủ và tiến bộ của nước Pháp.
Đến với quê hương của lý tưởng tự do, bình đẳng, bác ái, Hồ

Chí Minh được tiếp xúc trực tiếp với tác phẩm của các nhà tư
tưởng khai sáng: Von-te, Rút-xô, Mông-tét-xki-ơ,…những lý luận
gia của đại cách mạng Pháp 1789, như Tinh thần pháp luật của
Mông-tét-xki-ơ, Khế ước xã hội của Rút-xô, v.v…tư tưởng dân
chủ của các nhà khai sáng đã có ảnh hưởng tới tư tưởng của
Người. Ngồi ra, Người cịn hấp thụ được tư tưởng dân chủ và
hình thành được phong cách dân chủ của mình từ trong cuộc
sống thực tiễn. Rõ ràng là, ở Pháp, Người đã có thể hoạt động
và đấu tranh cách mạng một cách tương đối tự do, thuận lợi
hơn ở trên đất nước mình, dưới chế độ thuộc địa.
Nhờ được rèn luyện trong phong trào công nhân Pháp và sự cổ
vũ, dìu dắt trực tiếp của nhiều nhà cách mạng và trí thức tiến
bộ Pháp như M. Ca-sanh, P.V. Cu-tuya-ri-ê, G. Mơng-mút-xơ…
mà Hồ Chí Minh đã từng bước trưởng thành. Con người ấy,
trên hành trình cứu nước, đã làm giàu trí tuệ của mình bằng
vốn trí tuệ của thời đại, Đông và Tây, vừa thâu thái, vừa gạn lọc
để có thể từ tầm cao của tri thức nhân loại mà suy nghĩ và lựa
chọn, kế thừa và đổi mới, vận dụng và phát triển.
Và không thể không nhắc đến những tư tưởng tiến bộ Người
đã tiếp thu được từ Thiên Chúa Giáo. Người đã kế thừa lòng
nhân ái, đức hy sinh của Thiên chúa giáo, những giá trị cơ bản
của Thiên chúa giáo. Người đã cống hiến cả cuộc đời cho sự


nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng nhân dân lao động kh ỏỏi
ách áp bức, bóc lột; đã là hiện thân của lòng nhân ái và đức hy
sinh cao cả. Sau này, Người luôn luôn giáo dục cán bộ, đảng
viên về lịng thương người, thương dân, thương các chiến sỹ
ngồi mặt trận - đó là những tư tưởng thấm đậm những giá
trị cao cả mang tính nhân loại mà Thiên chúa giáo đã khởi

xướng và răn dạy.
Thế nhưng, Người cũng rất lên án những kẻ “giả danh Chúa” để
thực hiện những “hành vi ác quỷ”: dẫn đường cho đội quân
viễn chinh; cướp của cải, đánh đập, bắt giết người (đặc biệt là
trẻ em); chiếm ruộng đất canh tác, v.v…Người coi những hành
động đó là sự đi ngược lại và phản bội lòng nhân ái cao cả của
Chúa, làm hoen ố tư tưởng lớn của Ngài là muốn mưu cầu phúc
lợi cho xã hội. Người viết: “Nếu Chúa bất hạnh đã chịu đóng
đanh trên cây thánh giá trở về cõi thế này, thì chắc Ngài sẽ vơ
cùng ngao ngán khi thấy “các mơn đồ trung thành” của mình
thực hiện đức khổ hạnh như thế nào”.
Người lên án những giáo sĩ đại diện cho chủ nghĩa tư bản
phương Tây, những kẻ nhân danh Chúa để quan hệ mật thiết
với thế lực thực dân, tham gia vào guồng máy của chủ nghĩa
thực dân, xâm nhập về kinh tế và quân sự, áp đặt nền văn hóa
thực dân, làm xuất hiện nguy cơ bá quyền văn hóa, v.v…
Tóm lại, Hồ Chí Minh tiếp thu các tinh hoa văn hóa nhân loại
một cách có chọn lọc rồi vận dụng tinh hoa đó một cách sát hợp
vào những điều kiện cụ thể của đất nước, của dân tộc vì mục
đích khơng chỉ cho sự nghiệp giải phóng dân tộc mình mà


cịn góp phần tích cực nhất vào sự nghiệp của các dân tộc khác
trên thế giới.
CHƯƠNG 2: TIẾP THU TINH HOA VĂN HĨA NHÂN LOẠI VÀ GIỮ
GÌN BẢN SẮC VĂN HÓA DÂN TỘC CỦA GIỚI TRẺ TRONG THỜI
ĐẠI MỚI
Trong thời đại mới, nơi mà mọi thứ được mở cửa tự do, thì việc
tiếp cận các văn hóa của nước ngồi khơng cịn gì lạ lẫm và xa
xơi nữa. Khi sóng điện thoại và internet gần như bao phủ toàn

đất nước, giúp con người dễ tiếp cận được với những thông tin
mới, những văn hóa, tư tưởng mới du nhập vào nước ta. Việc
này một lần nữa đặt cho ta một vấn đề, đó chính là việc trước
vơ vàn văn hóa, tư tưởng ngoại quốc, ta nên học tập, tiếp thu
cái gì, bỏỏ qua và phê phán cái gì? Làm thế nào để “hịa nhập
nhưng khơng hịa tan”, để khơng bị lạc hậu với thể giới nhưng
cũng không đánh mất các giá trị, tư tưởng tốt đẹp của dân tộc
ta đã xây dựng, bồi đắp cả ngàn năm nay? Đó là một vấn đề
khó, địi hỏỏi sự nghiêm túc khi phân tích, tìm hiểu và áp dụng
vào thực tế.
Hơn ai hết, những người trẻ luôn là những người nhạy bén với
cái mới. thế hệ trẻ luôn là thế hệ dễ tiếp cận và làm quen với
những cái mới nhất. điều này một mặt là điều tích cực, vì để dất
nước phát triển, giới trẻ cần là những người nhanh nhẹn nhất, để
đưa đất nước phát triển hơn. Vậy nhưng nó cũng có những điều
đáng suy ngẫm. Đó chính là những thứ văn hóa khơng tốt, khơng
phù hợp với giới trẻ, làm lệch lạc và suy đồi phẩm chất, đạo đức
cửa con người. Một bộ phận sinh viên xa rời truyền


thống, lịch sử, văn hóa của dân tộc. Khơng ít người có thái độ
ứng xử, biểu hiện tình cảm thái q trong các hoạt động giải trí,
văn hóa, nghệ thuật; lãng quên, thờ ơ đối với dòng nhạc dân ca,
dòng nhạc cách mạng, truyền thống. Bên cạnh đó, chúng ta
thấy một hiện tượng đáng báo động của giới trẻ nói chung và
sinh viên nói riêng trong việc hội nhập, tiếp thu văn hóa thế
giới, du nhập những hoạt động văn hóa tiêu cực, khơng phù
hợp thuần phong, mỹ tục của dân tộc. Khơng ít sinh viên đang
ngày đêm cuốn vào các trị chơi điện tử, online mang nặng tính
bạo lực, ảnh hưởng lớn đến sức khỏỏe, thời gian học tập. Có

những người say mê với các ấn phẩm, văn hóa phẩm không
lành mạnh, độc hại, dẫn đến những hành động suy đồi đạo
đức, vi phạm pháp luật.
Bên cạnh đó, những biểu hiện sai lệch của những người mà giới
trẻ coi là thần tượng như ca sĩ, diễn viên điện ảnh, những
“giang hồ mạng” phát ngôn gây sốc nhưng lại được một bộ
phận giới trẻ hưởng ứng, ví dụ như gần đây là Khá Bảnh, hay
hotgirl Tiktok phát ngôn tiêu cực, ảnh hưởng đến nhiều người.
họ là những người có ảnh hưởng khơng tốt với giới trẻ. Khơng ít
người lớn cũng đã ngán ngẩm khi thấy con em mình chửi tục,
“múa quạt”. Ngồi ra, ngơn ngữ dùng trong những cuộc trị
chuyện trên các trang mạng xã hội hay tin nhắn cũng bị một bộ
phận học sinh, sinh viên "biến tấu" với những từ ngữ khó hiểu,
thậm chí dung tục và sử dụng một cách tràn lan, khó chấp
nhận, khơng cịn giữ được sự trong sáng của tiếng Việt.


Thậm chí, có những từ ngữ bị dùng sai bản chất với ngụ ý không
lành mạnh.
Những thực trạng nêu trên xuất phát từ những nguyên nhân
khách quan và những nguyên nhân chủ quan. Trước hết, cần
phải khẳng định, bản thân mỗi học sinh, sinh viên chưa thật sự
xây dựng cho mình ý thức tự rèn luyện, nâng cao trình độ, học
hỏỏi kỹ năng. Bản lĩnh, ý thức tìm hiểu cịn hạn chế của sinh
viên trước những loại hình hoạt động văn hóa, nghệ thuật khác
nhau cũng là một trong những nguyên nhân đáng chú ý dẫn
đến những hạn chế, yếu kém của một bộ phận bạn trẻ trong
việc tham gia gìn giữ bản sắc văn hóa dân tộc. Trong thực tế
cuộc sống, một số hoạt động văn hóa, nghệ thuật khơng cịn
phù hợp, khơ khan, xa rời với sở thích của tuổi trẻ, cho nên giới

trẻ và sinh viên phải tìm đến với những loại hình nghệ thuật du
nhập từ nước ngồi. Tuy nhiên, các loại hình này lại chưa được
chọn lọc trước khi tràn lan trong xã hội. Công tác quản lý của
các ban, ngành chức năng chưa thật sự có hiệu quả trong việc
khắc phục thực trạng này.
Tuy nhiên, ta khơng thể chỉ nhìn vào một bộ phận tiêu cực mà
đanh giá được tất cả. vẫn có rất nhiều thanh thiếu niên tích cực,
đi du học để tiếp thu những tri thức, phát triển của nhân loại, trở
về giúp ích cho Tổ Quốc. vẫn cịn những thanh thiếu niên ham mê
các loại hình văn nghệ cổ truyền, tìm cách kết hợp nó với các thể
loại nhạc nước ngồi để cho ra những sản phẩm đặc sắc, như
Hoàng Thùy Linh với rất nhiều bản hit được đông đảo giới trẻ đón
nhận. Điều này cho chúng ta biết rằng, giới trẻ


thanh thiếu niên không hề chối bỏỏ, không tôn trọng văn hóa
nước nhà và chỉ chuộng văn hóa ngoại lai. Chúng ta cần cần tiếp
tục đẩy mạnh việc giáo dục tư tưởng, đạo đức, tác phong sống
trong sinh viên và coi đây là nhiệm vụ quan trọng, cấp bách, cần
thường xuyên thực hiện tốt. Đẩy mạnh tổ chức các cuộc thi tìm
hiểu liên quan lịch sử hào hùng, truyền thống văn hóa của đất
nước, của quê hương. Hơn nữa, phải chủ động, sáng tạo và linh
hoạt trong tổ chức các hoạt động định hướng cho sinh viên tiếp
thu những mặt tích cực, tiên tiến của văn hóa hiện đại; đồng
thời khơi dậy tinh thần tự hào dân tộc, gìn giữ và phát huy bản
sắc văn hóa của dân tộc. Kiên quyết đấu tranh đối với những
biểu hiện vô cảm; khơi dậy tinh thần tương thân, tương ái trong
tuổi trẻ




×