Tải bản đầy đủ (.doc) (3 trang)

Tài liệu Lý Thánh Tông pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (90.1 KB, 3 trang )

Lý Thánh Tông
Lý Thánh Tông (1023-1072) là vua thứ ba nhà Lý, cai trị từ năm 1054 đến năm 1072.
Ông tên thật là Lý Nhật Tôn, người ở làng Cổ Pháp, nay thuộc về huyện Từ Sơn, tỉnh
Bắc Ninh, Việt Nam.
Thái tử tài ba
Lý Nhật Tôn là con trưởng của Lý Thái Tông, mẹ là hoàng hậu Mai thị. Ông sinh ngày
25 tháng 2 âm lịch năm 1023 tại cung Long Đức. Năm 1028, Lý Thái Tông lên ngôi, ông
được lập làm thái tử.
Thái tử Nhật Tôn sớm tinh thông kinh truyện, rành âm luật, lại giỏi võ nghệ. Ông tỏ ra là
người thông minh xuất chúng. Cũng giống như vua cha, ông sớm được ở ngoài cung, tiếp
xúc với dân chúng nên hiểu được nỗi khổ của dân và thông thạo nhiều việc.
Năm 15 tuổi (1037), ông được Thái Tông phong làm đại nguyên soái, cùng cha đi dẹp
bạo loạn ở Lâm Tây (Lai Châu) và lập được công.
Năm 1039, Lý Thái Tông đi đánh Nùng Tồn Phúc, thái tử Nhật Tôn mới 17 tuổi được cử
làm giám quốc, coi sóc kinh thành và việc triều chính.
Năm 1040, ông lại được vua cha giao cho việc xử các vụ kiện tụng trong nước, đặt điện
Quảng Vũ cho ông phụ trách.
Năm 1043, ông lại được cử làm Đô thống đại nguyên soái đi đánh châu Ái (Thanh Hoá).
Năm 1044, Lý Thái Tông đi đánh Chiêm Thành, ông được giao làm Lưu thủ kinh sư.
Tháng 1 năm 1054, thấy mình già yếu, Thái Tông cho phép thái tử Nhật Tôn ra coi chầu
nghe chính sự. Hai tháng sau, vua cha mất, ông lên nối ngôi, tức là vua Lý Thánh Tông.
Hoàng đế nhân từ
Ngay sau khi lên ngôi, Thánh Tông đổi quốc hiệu là Đại Việt.
Thánh Tông là một ông vua có lòng thương dân. Nhân một năm trời rét đậm, Thánh Tông
bảo các quan hầu cận rằng: "Trẫm ở trong cung ngự sưởi than thú, mặc áo hồ cừu mà còn
rét thế này.Huống chi những tù phạm giam trong ngục, phải trói buộc, cơm không có mà
ăn, áo không có mà mặc; vả lại có người xét hỏi chưa xong, gian ngay chưa rõ, nhỡ rét
quá mà chết thì thật là thương lắm". Nói rồi truyền lấy chăn chiếu cho tù nằm, và mỗi
ngày cho hai bữa ăn.
Lại có một hôm, Thánh Tông ra ngự ở điện Thiên Khánh xét án, có Động Thiên công
chúa đứng hầu bên cạnh. Thánh Tông chỉ vào công chúa mà bảo các quan rằng:


"Lòng trẫm yêu dân cũng như yêu con trẫm vậy, hiềm vì trăm họ ngu dại, làm càn
phải tội, trẫm lấy làm thương lắm. Từ rày về sau tội gì cũng giảm nhẹ bớt đi".
Vua Thánh Tông có nhân từ nên trăm họ mến phục, trong thời ông cai trị ít có việc giặc
giã. Là người sùng đạo Phật, Thánh Tông đã xây cất nhiều chùa tháp, đúc chuông đồng
lớn. Tuy vậy, ông còn rất chú trọng Nho giáo. Vì muốn khai hóa văn học, ông cho lập
Văn Miếu, làm tượng Chu công, Khổng Tử và 72 tiên hiền để thờ. Việt Nam có Văn
Miếu thờ Khổng Tử và các bậc hiền tài khởi đầu từ đó.
Lý Thánh Tông có người vợ thứ là nguyên phi Ỷ Lan cũng nổi tiếng có tài trị nước. Nhà
vua muộn con, không có thái tử giám quốc như các đời trước khi đi đánh giặc nhưng việc
chính sự được yên ổn nhờ tay nguyên phi Ỷ Lan.
Phá Tống bình Chiêm
Ổn định tình hình trong nước, Lý Thánh Tông chú trọng mở rộng cương thổ.
Về việc binh, Thánh Tông đặt quân hiệu và chia ra làm tả hữu tiền hậu 4 bộ, hợp lại là
100 đội có lính kỵ và lính bắn đá. Còn những phiên binh thì lập ra thành đội riêng. Binh
pháp thời Lý Thánh Tông có tiếng là giỏi. Nhà Tống cũng phải dụng tâm học cách tổ
chức, phiên chế quân đội Đại Việt.
Tháng 3 năm 1059, ông mang quân vào Khâm châu nước Tống diễu võ dương oai khiến
quân Tống phải nể sợ.
Năm 1060, ông lại sai tướng trấn thủ Lạng châu là Thân Thiệu Thái đánh quân Tống can
thiệp ở biên giới, bắt được tướng nhà Tống là chỉ huy sứ Dương Bảo Tài. Tháng 7, quân
Tống mấy lần phản công nhưng thất bại, phái Thị lang bộ Lại là Dư Tĩnh sang điều đình.
Phía Đại Việt, Thánh Tông cử Phí Gia Hậu đi hoà đàm, đối đãi với sứ Tống rất hậu
nhưng cương quyết không trả tù binh Dương Bảo Tài.
Nước Chiêm Thành phía Nam hay sang quấy nhiễu, năm 1069 Thánh Tông thân chinh đi
đánh. Đánh lần đầu không thành công, bèn đem quân trở về. Đi nửa đường đến châu Cư
Liên, vua nghe thấy nhân dân khen bà Nguyên phi ở nhà giám quốc, trong nước được yên
trị, Thánh Tông nghĩ bụng: "Người đàn bà trị nước còn được như thế, mà mình đi đánh
Chiêm Thành không thành công, thế ra đàn ông hèn lắm sao?" Ông bèn đem quân trở lại,
đánh bắt được vua Chiêm Thành là Chế Củ. Thánh Tông về triều, đổi niên hiệu là Thần
Vũ.

Chế Củ xin dâng đất ba châu là Địa Lý, Ma Linh và Bố Chính để chuộc tội. Thánh Tông
lấy 3 châu ấy và cho Chế Củ về nước. Những châu ấy nay ở địa hạt các huyện Quảng
Ninh, Quảng Trạch, Bố Trạch, Tuyên Hoá, Lệ Thuỷ tỉnh Quảng Bình và huyện Bến Hải
tỉnh Quảng Trị.
Niên hiệu
Tháng 1 năm 1072, Thánh Tông mất đột ngột, trị vì được 17 năm, thọ 50 tuổi. Vua Thánh
Tông đặt 5 niên hiệu:
• Long Thụy Thái Bình (1054 - 1058)
• Chương Thánh Gia Khánh (1059 - 1065)
• Long Chương Thiên Tự (1066 - 1067)
• Thiên Huống Bảo Tượng (1068)
• Thần Vũ (1069 - 1072)
Thái tử Càn Đức 7 tuổi lên nối ngôi, tức là Lý Nhân Tông.
Nhận định
Lý Thánh Tông là người kế tục xứng đáng cha và ông trong việc phát triển cơ nghiệp nhà
Lý. Tận tuỵ công việc, thương dân, sửa sang chính trị, làm phương bắc phải kiềng nể,
phương nam phải kính sợ. Hơn thế nữa, ông còn xứng đáng là vị vua mở đầu cho quốc
hiệu Đại Việt hiển hách. Sự nghiệp của Lý Thánh Tông có 3 điểm nhấn lớn trong lịch sử
Việt Nam mà đời sau còn nhắc đến nhiều lần: nước Đại Việt, Văn Miếu và mở đất 3 châu
phía nam.
Nhà Lý tới thời ông trị vì đã hoàn toàn ổn định, vững chắc. Đất nước cường thịnh mà ông
để lại cho thái tử, dù còn ít tuổi nhưng vẫn được tiếp quản và kế tục không hề bị khủng
hoảng, nghiêng ngả. Đó là nhờ vào đội ngũ nhân sự có tài năng kiệt xuất, trung thành, tận
tuỵ như Nguyên phi Ỷ Lan, Lý Thường Kiệt, Lý Đạo Thành…, những tên tuổi lớn trong
lịch sử Việt Nam đã được trui rèn, thử thách dưới thời ông.
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×