Tải bản đầy đủ (.pdf) (165 trang)

(Luận án tiến sĩ) mua bán nợ của các ngân hàng thương mại theo pháp luật việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.85 MB, 165 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

TRẦN THỊ THANH THỦY

MUA BÁN NỢ CỦA CÁC NGÂN HÀNG
THƢƠNG MẠI THEO PHÁP LUẬT
VIỆT NAM HIỆN NAY
Ngành: Luật Kinh Tế
Mã số: 93.80.107

LUẬN ÁN TIẾN SĨ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: 1. PGS.TS. Nguyễn Nhƣ Phát
2. TS. Lê Anh Tuấn

Hà Nội, năm 2021


Chƣơng 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ CƠ SỞ LÝ THUYẾT
NGHIÊN CỨU
1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu
1.1.1. Các cơng trình nghiên cứu những vấn đề lý luận về mua bán nợ của
ngân hàng thương mại
Một là, các nghiên cứu về khái niệm, đặc điểm và phân loại nợ của ngân
hàng thương mại
Khái niệm nợ nói chung và nợ của NHTM nói riêng được một số cơng trình tại
Việt Nam nghiên cứu cụ thể như sau:
Tại luận án tiến sĩ về “Pháp luật về hoạt động mua bán nợ của tổ chức tín


dụng ở Việt Nam” của tác giả Khúc Thị Phương Nhung cho rằng khái niệm nợ
(khoản nợ) có thể được biểu hiện bằng một khoản tiền nhất định hoặc dưới dạng
khác (dịch vụ phải cung ứng, công việc phải thực hiện) mà theo đó nghĩa vụ này
được phát sinh trên cơ sở hợp đồng hoặc theo quy định của pháp luật và bên nợ có
nghĩa vụ phải thực hiện theo u cầu của bên có quyền. Ngồi ra, cơng trình cịn
đưa ra khái niệm nợ của TCTD, theo đó, nợ của TCTD là một khoản tiền bao gồm
khoản gốc, lãi, phí và/hoặc chi phí khác có liên quan mà khách hàng (tổ chức, cá
nhân) có nghĩa vụ phải trả cho TCTD tại một thời điểm nhất định theo thỏa thuận
được xác lập trong hợp đồng giữa TCTD và khách hàng [[31], tr. 57].
Theo luận án tiến sĩ kinh tế về “Phát triển thị trường mua bán nợ tại Việt
Nam” của tác giả Nguyễn Thu Hương, cho rằng nợ là nghĩa vụ phải trả bằng tiền hoặc
tài sản của cá nhân hoặc tổ chức này (gọi là khách nợ) đối với cá nhân hoặc tổ chức
khác (chủ nợ). Nợ có thể có tài sản bảo đảm hoặc khơng có tài sản bảo đảm [22].
Luận văn thạc sĩ luật học về “Hợp đồng mua bán nợ theo pháp luật Việt Nam”
của tác giả Lê Trọng Dũng cũng đề cập đến khái niệm nợ, theo đó, nợ là nghĩa vụ
của cá nhân, tổ chức phải trả tài sản cho cá nhân, tổ chức khác phát sinh từ hợp
đồng hoặc theo quy định của pháp luật [[18], tr. 8]. Theo định nghĩa này, nợ được

10


hiểu là một mối quan hệ pháp lý của một bên phải hoàn trả cho một bên khác, mà
đối tượng được giới hạn trong phạm vi tài sản, phát sinh do thoả thuận của các bên
hoặc do sự điều tiết của pháp luật trong những trường hợp cụ thể.
Theo bài viết “Nghĩa vụ dân sự và quan niệm nghĩa vụ dân sự ở Việt Nam”
của Phó giáo sư Tiến s Ngô Huy Cương, các định nghĩa nợ thông thường chỉ đứng
dưới góc nhìn của bên có nghĩa vụ phải thực hiện vì lợi ích của người khác mà chưa
xem xét góc độ từ phía người có quyền, theo đó một bên có quyền u cầu, cịn bên
kia phải thực hiện hành vi nhất định theo yêu cầu đó, có nghĩa là chỉ mối quan hệ
giữa trái chủ và người thụ trái xác định. Khi nói hợp đồng là căn cứ phát sinh ra

nghĩa vụ, thì có nghĩa là hợp đồng làm phát sinh ra quan hệ giữa trái chủ và người
thụ trái xác định [17]. Do vậy, cần lưu ý trong quan hệ nghĩa vụ ln có hai chủ thể
trái ngược nhau: một bên có quyền yêu cầu thực hiện nghĩa vụ, bên còn lại phải
thực hiện yêu cầu của bên kia để quan tâm đầy đủ các khía cạnh.
Bên cạnh các cơng trình nghiên cứu về nợ nói chung của NHTM, cũng có nhiều
cơng trình nghiên cứu về nợ xấu nói chung và nợ xấu của NHTM, cụ thể như sau:
Theo Luận án tiến sĩ kinh tế của tác giả Nguyễn Thị Hoài Phương về “Quản lý
nợ xấu tại ngân hàng thương mại Việt Nam”, tác giả cho rằng nếu đứng dưới góc
nhìn của các NHTM thì nợ xấu có thể hiểu là những khoản nợ cho vay khơng có
khả năng sinh lời hay những khoản vay khơng cịn hoạt động, liên quan tới tính hiệu
quả của khu vực ngân hàng. Những khoản vay trở nên không sinh lời khi người vay
dừng việc thanh toán và khoản cho vay này bắt đầu bị vỡ nợ. Cụ thể, theo quan
điểm của tác giả, nợ xấu phải được tiếp cận dựa vào khả năng trả nợ của khách
hàng. Có nghĩa là một khoản vay trong hạn, hoặc thậm chí mới cho vay, nhưng có
dấu hiệu chứng tỏ rằng khả năng trả nợ của khoản vay là đáng nghi ngờ thì cũng có
thể coi là một khoản nợ xấu [34].
Việc nghiên cứu khái niệm nợ xấu cũng được đề ra trong nhiều cơng trình
nghiên cứu, bài viết khác. Như trong luận văn thạc sĩ của Nguyễn Thị Tú về “Pháp
luật về mua bán nợ xấu của Ngân hàng thương mại ở Việt Nam”, tác giả đã đưa ra
khái niệm về nợ xấu, hay cịn gọi là nợ khó địi hoặc các khoản vay có vấn đề, là

11


khái niệm được sử dụng phổ biến nhằm ám chỉ các khoản nợ bị suy giảm khả năng
thu hồi hoặc mất khả năng thu hồi [43]. Khái niệm này cho thấy về bản chất nợ xấu
là khoản nợ mà người vay không trả nợ đến hạn bao gồm cả trường hợp không trả
nợ và mất khả năng trả nợ. Hay quan điểm của Tiến sĩ Tôn Thanh Tâm trong bài
viết “Bàn về xử lý nợ xấu” chỉ ra rằng, dấu hiệu nhận biết nợ xấu là nếu bên vay trả
nợ khơng sịng phẳng, khơng đầy đủ cả gốc và lãi cho ngân hàng khi đến hạn thì nó

trở thành nợ xấu [36].
“Pháp luật về hoạt động mua bán nợ của tổ chức tín dụng ở Việt Nam” của
tác giả Khúc Thị Phương Nhung đã đề cập một số vấn đề về đặc điểm nợ và phân
loại nợ của TCTD trong đó bao gồm NHTM thơng qua góc độ phân tích đặc điểm
nợ và phân loại nợ của TCTD nói chung. Qua đó, thể hiện nợ mang một số đặc
điểm như phát sinh trên cơ sở hợp đồng giữa TCTD và khách hàng, thường đi kèm
với sự bảo đảm khả năng thanh tốn thơng qua các biện pháp bảo đảm tiền vay,
thường được các bên xác định trước thời điểm trả nợ, bao gồm số tiền vay gốc, lãi,
phí và chi phí khác nếu có, và là kết quả của q trình mà TCTD thực hiện quyền
định đoạt đối với tài sản của chính mình thơng qua hợp đồng tín dụng. Đồng thời,
cơng trình này cũng chỉ ra được phương pháp phân loại nợ định lượng và định tính,
và khoản nợ xấu (nợ nhóm 3, 4, 5) có tỷ lệ trích lập dự phịng cao hơn các nhóm nợ
khác [31].
Ln án tiến s luật học “Pháp luật về mua bán nợ xấu từ hoạt động cho vay
của các tổ chức tín dụng ở Việt Nam” của Hoàng văn Thành đã đưa ra khái niệm “nợ
xấu từ hoạt động cho vay của các TCTD là một loại quyền tài sản hình thành khi nghĩa
vụ trả nợ của khách hàng đối với TCTD không được thực hiện hoặc thực hiện không
đầy đủ sau một khoảng thời gian luật định hoặc được TCTD nhận định khách hàng rất
có thể khơng cịn khả năng thực hiện nghĩa vụ trả nợ” [[37], tr.446]
Tại một số công trình nghiên cứu khác như “Pháp luật về hoạt động mua, bán
nợ của các tổ chức tín dụng ở Việt Nam” của tác giả Trà Đình Thứ [41], “Hợp đồng
mua bán nợ theo pháp luật Việt Nam” của tác giả Lê Trọng Dũng [18], “Nợ xấu,
phân loại nợ và trích lập dự phịng rủi ro tín dụng theo quy định Việt Nam và thông

12


lệ quốc tế” của tác giả Đinh Thị Thanh Vân [46], “Hợp đồng mua bán nợ của các
ngân hàng thương mại ở Việt Nam” của tác giả Nguyễn Thị Hồng Lê [24], cũng chỉ
ra được các phương pháp phân loại nợ phổ biến tại Việt Nam theo phương pháp

định lượng và định tính.
Ngồi những cơng trình nghiên cứu trong nước kể trên, ở nước ngồi cũng
có những cơng trình nghiên cứu về khái niệm nợ, nợ xấu, phân loại nợ của NHTM.
Cụ thể là:
Trong Fundamentals of contract law (Đại cương về pháp luật hợp đồng) của
Corinne Renault Brahinsky [[59], tr. 11], tác giả khẳng định bản chất pháp lý của nợ
là một nghĩa vụ tài sản của bên nợ đối với chủ nợ. Trong bài viết Régime juridique
du transfert de créances (dịch là: Chế độ pháp lý về chuyển giao quyền đòi nợ) của
Andoh Ludovie [99], tác giả cũng cho rằng, nợ với bản chất là nghĩa vụ của chủ thể
này với chủ thể khác. Đồng thời, tác giả cũng khẳng định, thực chất chuyển giao
quyền đòi nợ là quá trình chuyển giao quyền tài sản của chủ thể có quyền cho một
bên thứ ba theo thỏa thuận.
Tiếp đến, có một số cơng trình khoa học khác cũng đã đề cập đến khái niệm
nợ xấu và cách phân loại nợ như The Treatment of Nonperforming Loans (dịch là: Xử lý
các khoản vay không hiệu quả) của Eighteenth Meeting of the IMF Committee on
Balance of Payments Statistics Washington (June 27–July 1 (2005) [60]; International
Convergence of Capital Measurement and Capital Standards (Tập hợp các tiêu
chuẩn quốc tế về vốn và đo lường vốn) (A Revised Framework) của Basel
Committee on Banking Supervision [62]. Trong các cơng trình nghiên cứu này, nợ
xấu được xác định dựa trên cả hai dấu hiệu định lượng (các khoản nợ đã quá hạn từ
90 ngày trở lên) và định tính (dấu hiệu khách hàng khơng trả được nợ).
Hai là, các cơng trình nghiên cứu về mua bán nợ của ngân hàng thương mại
Về khái niệm, đặc điểm mua bán nợ của NHTM hiện nay có một số cơng trình
tiêu biểu tại Việt Nam nghiên cứu đến vấn đề này có thể kể đến như:
Cơng trình “Pháp luật về các biện pháp hạn chế rủi ro trong hoạt động cho
vay của tổ chức tín dụng ở Việt Nam và một số nước trên thế giới” của tác giả Lê
Thị Thu Thủy [40] đã đưa ra khái niệm về mua bán nợ. Qua đó, có thể hiểu mua

13



bán nợ là hoạt động mà bên bán chuyển giao quyền đòi nợ cho bên mua nợ để sớm
thu hồi vốn của mình, bản chất của mua bán nợ là chuyển giao quyền sở hữu đối với
khoản nợ từ bên bán sáng bên mua nợ. Tuy nhiên, các phân tích trong cơng trình
nghiên cứu này chưa được cụ thể, chưa làm rõ được sự khác biệt giữa mua bán nợ
của NHTM với mua, bán tài sản thơng thường.
Bên cạnh đó, bài viết “Hồn thiện khn khổ pháp lý cho thị trường mua, bán
nợ” của tác giả Lê Trọng Dũng cũng cho rằng mua, bán nợ là quá trình chuyển giao
quyền chủ nợ đối với khoản nợ giữa bên bán nợ và bên mua nợ, tuy nhiên, chưa chỉ
ra được đặc điểm cụ thể của hoạt động mua, bán nợ [18].
Về vai trò, nguyên tắc mua bán nợ của ngân hàng thương mại: Cơng trình
“Pháp luật về các biện pháp hạn chế rủi ro trong hoạt động cho vay của tổ chức tín
dụng ở Việt Nam và một số nước trên thế giới” của tác giả Lê Thị Thu Thủy [40]
nêu được một số vai trò cơ bản của hoạt động mua bán nợ. Tuy nhiên, cơng trình
này chưa tách bạch được vai trò của hoạt động này đối với từng chủ thể cụ thể.
Cơng trình về “Hợp đồng mua bán nợ của các ngân hàng thương mại ở Việt
Nam” của tác giả Nguyễn Thị Hồng Lê [24] đưa ra nhận định mua bán nợ có vai trị
quan trọng khơng chỉ đối với các ngân hàng mà cịn có vai trị nhằm đảm bảo sự
phát triển lành mạnh cho nền kinh tế. Bên cạnh đó, về nguyên tắc mua bán nợ, cơng
trình nêu ra được ngun tắc mua bán nợ của DATC và VAMC. Cụ thể, DATC
mua nợ theo nguyên tắc tự nguyện đàm phán, trên cơ sở đánh giá hoạt động của cả
người vay, cịn VAMC mua nợ mang tính bắt buộc với quy định TCTD có nợ xấu
trên 3% phải bán nợ cho VAMC. Tuy nhiên, cơng trình nghiên cứu này cũng chưa
nêu rõ được vai trò của mua bán nợ đối với từng chủ thể và cũng chưa nêu được các
vấn đề lý luận về các nguyên tắc mua bán nợ trong hoạt động mua bán nợ hiện nay.
Ở nước ngồi, cũng có một số cơng trình khoa học đề cập đến khái niệm, đặc
điểm, vai trò của hoạt động mua, bán nợ. Chẳng hạn như: bài viết “Définition La
cession Dailly” (dịch là: Định nghĩa chuyển nhượng nợ) [100] có đề cập tới khái
niệm về chuyển nhượng quyền địi nợ; ưu điểm và nhược điểm của q trình chuyển
nhượng quyền địi nợ. Theo đó, hoạt động hay q trình chuyển nhượng nợ (chuyển


14


nhượng quyền đòi nợ) chịu sự điều chỉnh của pháp luật tại Điều L 313- 23 Luật tiền
tệ và tài chính Pháp. Chuyển nhượng nợ là một dạng thức đặc biệt của chuyển
nhượng quyền tài sản đã được điều chỉnh bởi Điều 1689 Bộ luật dân sự Pháp. Bài
viết cũng chỉ ra, bán nợ (Le débiteur cédé), có nghĩa là con nợ sẽ phải thực hiện đầy
đủ nghĩa vụ của mình cho bên nhận chuyển nhượng, nếu bên nhận chuyển nhượng
đó đã thơng báo cho con nợ về việc chuyển nhượng.
1.1.2. Các cơng trình nghiên cứu những vấn đề lý luận pháp luật về mua
bán nợ của ngân hàng thương mại
Một là, các nghiên cứu về khái niệm, đặc điểm pháp luật và các yếu tố ảnh
hưởng đến pháp luật về mua bán nợ của ngân hàng thương mại
Hiện nay, chưa có nhiều bài viết, cơng trình nghiên cứu về khái niệm, đặc
điểm pháp luật về mua bán nợ của NHTM. Một số cơng trình nghiên cứu tiêu biểu
liên quan đến vấn đề này có thể kể đến là:
Cơng trình nghiên cứu của tác giả Lê Thị Thu Thủy về “Pháp luật về các biện
pháp hạn chế rủi ro trong hoạt động cho vay của tổ chức tín dụng ở Việt Nam và
một số nước trên thế giới” [40]. Theo đó, tác giả nhận định pháp luật về mua bán nợ
xấu là tổng hợp những quy phạm pháp luật do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban
hành nhằm điều chỉnh quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình các bên thực hiện
hoạt động mua bán nợ. Đồng thời, pháp luật về mua bán nợ xấu vừa mang những
đặc điểm chung của pháp luật về mua, bán tài sản, vừa mang những đặc điểm đặc
thù của hoạt động mua bán nợ xấu. Tuy nhiên, cơng trình nghiên cứu này chỉ trình
bày tập trung vào đối tượng nợ xấu và chưa có những phân tích cụ thể, chi tiết về
pháp luật về mua bán nợ của NHTM.
Cơng trình “Pháp luật về hoạt động mua, bán nợ của các tổ chức tín dụng ở
Việt Nam” của tác giả Trà Đình Thứ [41] cũng đề cập về pháp luật và đặc điểm của
pháp luật về mua, bán nợ của TCTD. Theo đó, cơng trình này làm rõ nguồn điều

chỉnh pháp luật của hoạt động mua, bán nợ của TCTD là pháp luật chung về dân sự
và pháp luật chuyên ngành về các TCTD. Đồng thời, cơng trình nêu ra một số đặc
điểm của pháp luật mua bán nợ xấu của NHTM. Tuy nhiên, cơng trình chưa cho

15


thấy được tầm quan trọng của pháp luật đối với hoạt động mua bán nợ và chưa nêu
được khái niệm về pháp luật mua bán nợ của NHTM.
Bài viết “Một số vấn đề pháp lý về hợp đồng mua bán nợ của Ngân hàng
thương mại” của tác giả Hoàng Văn Thành [37] cũng đưa ra một số phân tích liên
quan đến nguồn luật điều chỉnh pháp luật về hợp đồng mua bán nợ. Theo đó, hợp
đồng này chịu sự điều chỉnh của Bộ luật Dân sự và các văn bản hướng dẫn thi hành
có nội dung liên quan đến hợp đồng. Cơng trình nghiên cứu về “Hợp đồng mua bán
nợ theo pháp luật Việt Nam” của tác giả Lê Trọng Dũng [18] cũng phân tích một số
vấn đề liên quan đến những vấn đề lý luận pháp luật về hợp đồng mua bán nợ thơng
qua các khía cạnh như pháp luật điều chỉnh về hợp đồng mua bán nợ và vai trò của
pháp luật về hợp đồng mua bán nợ. Tuy nhiên, các cơng trình, bài viết được đề cập
chỉ tập trung nghiên cứu về hợp đồng mua bán nợ chứ không nghiên cứu tổng quan
về mua bán nợ. Do đó, phần nguồn luật điều chỉnh được phân tích cũng chỉ đề cập
đến nguồn luật điều chỉnh pháp luật về hợp đồng mua bán nợ mà khơng phân tích
cụ thể pháp luật về mua bán nợ nói chung.
Cuối cùng, hầu như các cơng trình chưa tập trung nghiên cứu về những yếu tố
có thể ảnh hưởng đến pháp luật về mua bán nợ của NHTM.
Hai là, các nghiên cứu về những nội dung lý luận pháp luật về mua bán nợ
của ngân hàng thương mại
Qua cơng trình về “Pháp luật về hoạt động mua, bán nợ của các tổ chức tín
dụng ở Việt Nam” [41], tác giả Trà Đình Thứ cũng đã nêu ra một số nội dung pháp
luật về hoạt động mua, bán nợ của các TCTD, gồm các nhóm quy định về chủ thể
tham gia vào hoạt động mua, bán nợ của các TCTD, về hợp đồng mua, bán nợ, về

phương thức mua, bán nợ và các nhóm các quy định về bảo đảm an toàn, thanh tra,
kiểm tra, xử lý vi phạm và giải quyết tranh chấp trong hoạt động mua, bán nợ của
TCTD. Tuy nhiên, công trình này chưa phân tích các khía cạnh lý luận pháp luật
của các nhóm quy định trên một cách cụ thể mà chỉ mang tính liệt kê.
Cơng trình nghiên cứu về “Pháp luật về các biện pháp hạn chế rủi ro trong
hoạt động cho vay của tổ chức tín dụng ở Việt Nam và một số nước trên thế giới”

16


của tác giả Lê Thị Thu Thủy [40] cũng xác định nội dung pháp luật về mua bán nợ
xấu của TCTD bao gồm các nội dung cơ bản về chủ thể tham gia; hợp đồng mua
bán nợ xấu; trình tự, thủ tục thực hiện hoạt động mua bán nợ; xử lý tài sản bảo đảm
của khoản nợ và giải quyết tranh chấp phát sinh trong hoạt động mua bán nợ xấu
của TCTD.
1.1.3. Các cơng trình nghiên cứu về thực trạng pháp luật mua bán nợ của
ngân hàng thương mại theo pháp luật Việt Nam hiện nay
Một là, các nghiên cứu thực trạng quy định về đối tượng và chủ thể mua bán nợ
của ngân hàng thương mại
Cơng trình về “Hợp đồng mua bán nợ của các ngân hàng thương mại ở Việt
Nam” của tác giả Nguyễn Thị Hồng Lê [24] đã đưa ra những nghiên cứu liên quan
đến đối tượng của hợp đồng mua bán nợ của các NHTM ở Việt Nam thơng qua các
khía cạnh về khái niệm quyền đòi nợ, đặc điểm quyền đòi nợ; đối tượng khoản nợ
được mua, bán tại các TCTD; điều kiện về các khoản nợ được mua, bán và phạm vi
chuyển nhượng khoản nợ.
Trong cơng trình về “Hợp đồng mua bán nợ của các ngân hàng thương mại ở
Việt Nam” [24], tác giả Nguyễn Thị Hồng Lê cho thấy có những chủ thể tham gia
mua bán nợ, điển hình là chủ thể bán nợ thông qua các quy định về điều kiện về chủ
thể của bên bán nợ khi tham gia giao dịch mua bán nợ, điều kiện về quyền sở hữu
và quyền chuyển nhượng các khoản nợ và chủ thể tham gia mua nợ chủ yếu gồm

các NHTM, các Công ty quản lý nợ và khai thác tài sản của ngân hàng thương mại
(AMC), DATC và VAMC thông qua các quy định về điều kiện đối với mỗi chủ thể,
quy định về hoạt động và thực trạng hoạt động của các chủ thể mua nợ cũng như đưa ra
một số so sánh về mơ hình và mục tiêu hoạt động giữa các chủ thể mua nợ này.
Cơng trình “Pháp luật về hoạt động mua, bán nợ của các tổ chức tín dụng ở
Việt Nam” của tác giả Trà Đình Thứ [41] đã nghiên cứu và trình bày những chủ thể
phổ biến trong hoạt động mua bán nợ, như bên bán nợ được xác định là TCTD, bên
mua nợ có các AMC, VAMC, DATC, các nhà đầu tư nước ngoài và chỉ ra được
một số thực trạng và hạn chế trong hoạt động của các chủ thể này.

17


Bên cạnh đó, cịn có một số cơng trình, bài viết khác nghiên cứu về chủ thể
mua bán nợ, ví dụ như cơng trình về “Hợp đồng mua bán nợ theo pháp luật Việt
Nam” của tác giả Lê Trọng Dũng [18], “Nâng cao hiệu quả mua bán nợ tại
Vietcombank” của tác giả Bạch Trần Quý Nhi [29] cũng đã có sự phân tích về chủ
thể của hợp đồng mua bán nợ.
Hai là, các nghiên cứu thực trạng quy định về cơng cụ thanh tốn trong giao dịch
mua bán nợ của ngân hàng thương mại
Cơng trình về “Hợp đồng mua bán nợ của các ngân hàng thương mại ở Việt
Nam” của tác giả Nguyễn Thị Hồng Lê [24] có một số phân tích về điều khoản
thanh tốn trong hợp đồng mua bán nợ và đồng tiền thanh tốn. Theo đó, phương
thức thanh toán do các bên tự thỏa thuận với nhau, có thể thanh tốn thành nhiều
đợt hoặc thanh tốn hết một lần. Đồng tiền thanh toán thường là đồng tiền của
khoản nợ được mua, bán; cũng là đồng tiền được bên mua nợ dùng để thanh tốn
cho TCTD. Cơng trình về “Pháp luật về hoạt động mua, bán nợ của các tổ chức tín
dụng ở Việt Nam” [41], tác giả Trà Đình Thứ chỉ ra phương tiện thanh tốn là tiền –
loại phương tiện có tính thanh khoản cao nhất. Tuy nhiên, các cơng trình này mới
chỉ nêu cơng cụ thanh toán phổ biến nhất là tiền, chưa đề cập đến các cơng cụ thanh

tốn khác như các loại trái phiếu.
Ba là, các nghiên cứu thực trạng quy định về hợp đồng mua bán nợ của ngân
hàng thương mại
Về hình thức hợp đồng mua bán nợ:
Cơng trình “Hợp đồng mua bán nợ của các ngân hàng thương mại ở Việt
Nam” của tác giả Nguyễn Thị Hồng Lê [24] phân tích về hình thức của hợp đồng
mua bán nợ như một trong những điều kiện để hợp đồng này có hiệu lực và chỉ ra
được sự phân biệt so với hợp đồng mua, bán nói chung, bởi hợp đồng mua, bán nói
chung khơng có quy định cụ thể về việc phải được lập thành văn bản.
Cơng trình “Pháp luật về hoạt động mua, bán nợ của các tổ chức tín dụng ở
Việt Nam” của tác giả Trà Đình Thứ [41] đề cập đến hình thức của hợp đồng mua,
bán nợ phải được lập thành văn bản, nhằm đảm bảo một số mục đích như làm bằng

18


chứng pháp lý cho việc chuyển giao quyền đòi nợ, làm cơ sở để cơ quan quản lý
nhà nước thanh tra, giám sát. Tuy các phân tích này dựa trên Bộ luật Dân sự 2005
đã hết hiệu lực, song vẫn có giá trị tham khảo do tinh thần luật quy định về vấn đề
này hầu như khơng có sự thay đổi so với Bộ luật Dân sự 2015.
Hình thức của hợp đồng mua bán nợ cũng được đề cập, phân tích trong một số
bài viết, cơng trình nghiên cứu khác như bài viết “Một số vấn đề pháp lý về hợp
đồng mua bán nợ của Ngân hàng thương mại” của tác giả Hồng Văn Thành [37],
cơng trình về “Hợp đồng mua bán nợ theo pháp luật Việt Nam” của tác giả Lê
Trọng Dũng [18]. Các bài viết, cơng trình nghiên cứu này đều chỉ ra hợp đồng mua
bán nợ cần được thể hiện dưới hình thức bằng văn bản.
Về nội dung hợp đồng mua bán nợ:
Cơng trình về “Hợp đồng mua bán nợ của các ngân hàng thương mại ở Việt
Nam” của tác giả Nguyễn Thị Hồng Lê [24] đã đưa ra một số nhận định tình hình
pháp luật quy định về hợp đồng mua bán nợ, theo đó loại hợp đồng này còn chịu sự

điều chỉnh của luật chung là Bộ luật Dân sự về vấn đề mua, bán quyền tài sản. Theo
đó, tác giả nhận định việc lược bỏ khái niệm về hợp đồng mua bán nợ gây khó hiểu
và có quy định về nội dung của hợp đồng này nhưng khơng định nghĩa nó là gì có
thể xem là phù hợp. Các giao dịch mua bán nợ là giao dịch ba bên và do đó, tương
đối phức tạp. Vì vậy cần thiết phải có những quy định về hợp đồng mua bán nợ là gì
nhằm giúp các bên dễ dàng hơn trong quá trình tham gia giao dịch này. Đồng thời,
cơng trình cũng tổng hợp, phân tích các yếu tố về mặt thực tiễn thực hiện hợp đồng
mua bán nợ của NHTM ở Việt Nam.
Bài viết “Một số vấn đề pháp lý về hợp đồng mua bán nợ của Ngân hàng
thương mại” của tác giả Hoàng Văn Thành [37] đã đưa ra khái niệm về hợp đồng
mua bán nợ. Theo đó, hợp đồng mua bán nợ là sự thỏa thuận giữa bên mua nợ và
bên bán nợ về việc bên mua nợ sẽ mua khoản nợ của bên bán với những điều kiện
và trình tự, thủ tục do pháp luật quy định. Tác giả cũng nhận định đây là một dạng
của hợp đồng dân sự, bởi chủ thể tham gia quan hệ hợp đồng này bao gồm các tổ
chức có tư cách pháp nhân và các cá nhân, tổ chức khơng có tư cách pháp nhân.

19


Việc chỉ rõ hợp đồng mua bán nợ cũng là một dạng của hợp đồng dân sự nói chung
là căn cứ trong việc xác định các điều kiện có hiệu lực của hợp đồng và cơ sở pháp
lý để giải quyết các tranh chấp phát sinh từ hợp đồng này.
Chi tiết tình hình nghiên cứu về một số nội dung trong hợp đồng mua bán nợ
của NHTM như sau:
Thứ nhất, đối tượng của hợp đồng mua bán nợ của ngân hàng thương mại:
Cơng trình “Pháp luật về hoạt động mua, bán nợ của các tổ chức tín dụng ở
Việt Nam” của tác giả Trà Đình Thứ [41] phân tích về đối tượng của hợp đồng mua,
bán nợ. Tuy nhiên, những phân tích này dựa trên Quyết định 59/2006/QĐ-NHNN
đã hết hiệu lực, do đó, những phân tích này chỉ mang tính tham khảo, để có cái nhìn
về quy định đối tượng của hợp đồng mua bán nợ trong giai đoạn trước đây.

Các phân tích về khoản nợ được mua, bán cũng được đề cập đến trong cơng
trình về “Hợp đồng mua bán nợ của các ngân hàng thương mại ở Việt Nam” của tác
giả Nguyễn Thị Hồng Lê [24]. Thông qua cơng trình này, tác giả đã có những phân
tích, nhận định về điều kiện đối với khoản nợ được mua, bán.
Đối tượng của hợp đồng mua bán nợ cũng được đề cập, phân tích trong một số
bài viết, cơng trình nghiên cứu khác như bài viết “Một số vấn đề pháp lý về hợp
đồng mua bán nợ của Ngân hàng thương mại” của tác giả Hoàng Văn Thành [37].
Thứ hai, giá mua bán nợ của ngân hàng thương mại:
Cơng trình về “Pháp luật về hoạt động mua, bán nợ của các tổ chức tín dụng
ở Việt Nam” [41] của tác giả Trà Đình Thứ đưa ra một số nhận định về vấn đề định
giá khoản nợ và nhận định giá trị khoản nợ phần lớn là chưa được định giá sát và
thường là ở những mức giá rất cao vì một số lý do. Bên cạnh đó, tác giả cũng nhận
định giá mua, bán nợ do các bên tự thỏa thuận. Tuy nhiên, cơng trình chưa phân tích
được những điểm khác biệt của VAMC trong việc xác định giá mua bán nợ và phương
tiện thanh toán khi mua bán nợ so với các chủ thể mua nợ khác trên thị trường.
Cơng trình về “Hợp đồng mua bán nợ của các ngân hàng thương mại ở Việt
Nam” của tác giả Nguyễn Thị Hồng Lê [24] cũng có những phân tích nhất định về
việc xác định giá trị khoản nợ cho trường hợp mua bán nợ theo phương thức thỏa

20


thuận và xác định giá khởi điểm đối với mua bán nợ theo phương thức bán đấu giá.
Tác giả đưa ra nhận định rằng, dù hợp đồng mua bán nợ dựa trên nguyên tắc thỏa
thuận, nhưng với những tiêu chí về phân loại, đánh giá khoản nợ theo nghiệp vụ
ngân hàng, thì giá trị của khoản nợ được xác định sẽ là mức giá mà ngân hàng muốn
bán. Giá trị khoản nợ được xác định dựa trên những tiêu chí do ngân hàng đề ra,
thường sẽ căn cứ vào nhóm nợ, khả năng thu hồi, tài sản bảo đảm… Do đó, tùy
thuộc nhóm nợ mà sẽ có sự xác định giá khác nhau. Đồng thời, cơng trình cũng đã
phân tích về giá trị khoản nợ được VAMC mua trong từng trường hợp. Điều này

giúp người đọc có cái nhìn tổng quan hơn về giá mua bán nợ của NHTM trong
những trường hợp khác nhau.
Việc định giá mua bán nợ cũng cịn được nghiên cứu trong một số cơng trình,
bài viết khác như cơng trình về “Nâng cao hiệu quả mua bán nợ tại Vietcombank”
của tác giả Bạch Trần Quý Nhi [29].
Thứ ba, quyền và nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng mua bán nợ của ngân
hàng thương mại:
Cơng trình “Pháp luật về hoạt động mua, bán nợ của các tổ chức tín dụng ở
Việt Nam” của tác giả Trà Đình Thứ [41] đã phân tích về quyền và nghĩa vụ của các
bên trong hợp đồng mua, bán nợ. Theo đó có một số nghĩa vụ cơ bản như bên mua
có trách nhiệm thanh tốn cho TCTD bán nợ theo giá mua, bán nợ, trong khi bên
mua nợ có quyền yêu cầu bên bán nợ chuyển giao toàn bộ hồ sơ và hoàn tất các thủ
tục chuyển giao quyền chủ nợ đối với bên nợ; các bên bảo đảm cho khoản nợ theo
hồ sơ mua, bán nợ. Cơng trình phân tích thêm quyền và nghĩa vụ của khách nợ và
các bên thực hiện biện pháp bảo đảm cho khoản nợ. Tuy nhiên, các phân tích này
dựa trên các quy định pháp luật đã khơng cịn hiệu lực tại thời điểm hiện tại nên chỉ
mang tính chất tham khảo, đánh giá sự phát triển của pháp luật.
Quyền và nghĩa vụ của các bên cũng được tác giả Nguyễn Thị Hồng Lê
nghiên cứu trong cơng trình “Hợp đồng mua bán nợ của các ngân hàng thương mại
ở Việt Nam” [24], theo đó, quyền và nghĩa vụ của các bên được xác định thông qua
thỏa thuận của các bên và theo quy định của pháp luật. Cơng trình cũng làm rõ bên
mua nợ sẽ trở thành chủ nợ mới thông qua giao dịch chuyển nhượng quyền đòi nợ

21


và bên bán nợ sẽ được bên mua nợ thanh toán đầy đủ, đúng hạn số tiền theo giá
mua, bán nợ đã thỏa thuận.
Thứ tư, hiệu lực của hợp đồng:
Công trình “Hợp đồng mua bán nợ của các ngân hàng thương mại ở Việt

Nam” của tác giả Nguyễn Thị Hồng Lê [24] đã phân tích một số vấn đề về điều kiện
có hiệu lực của hợp đồng thơng qua các quy định của Bộ luật Dân sự về các hợp
đồng nói chung và hợp đồng mua bán nợ nói riêng. Qua đó, tác giả nêu ra những
điều kiện có hiệu lực đối với hợp đồng mua bán nợ gồm điều kiện về năng lực của
chủ thể tham gia; mục đích và nội dung của hợp đồng không vi phạm điều cấm của
pháp luật và trái đạo đức xã hội; đối tượng của hợp đồng, sự ưng thuận của các bên
tham gia. Cơng trình cịn đưa ra những phân tích về trách nhiệm do vi phạm hợp
đồng và chế tài xử lý vi phạm.
Điều kiện có hiệu lực của hợp đồng mua bán nợ cũng được phân tích trong bài
viết “Một số vấn đề pháp lý về hợp đồng mua bán nợ của Ngân hàng thương mại”
của tác giả Hoàng Văn Thành [37]. Theo đó, tác giả đã phân tích một số điều kiện
có hiệu lực của hợp đồng dựa trên các quy định chung của Bộ luật Dân sự.
Thứ năm, xử lý tranh chấp phát sinh:
Cơng trình “Pháp luật về hoạt động mua, bán nợ của các tổ chức tín dụng ở
Việt Nam” của tác giả Trà Đình Thứ [41] đã phân tích về phương thức giải quyết
tranh chấp là thơng qua đàm phán, khởi kiện ra Tịa án hoặc trọng tài theo quy định
của pháp luật. Tuy nhiên, tác giả chỉ phân tích sơ bộ, chưa có sự phân tích cụ thể,
chi tiết để cho thấy tầm quan trọng của các phương thức giải quyết tranh chấp trong
hoạt động mua bán nợ.
Cơng trình “Hợp đồng mua bán nợ của các ngân hàng thương mại ở Việt
Nam” của tác giả Nguyễn Thị Hồng Lê [24] cũng đã nghiên cứu những điều khoản
cơ bản về cơ quan giải quyết tranh chấp, thơng qua đàm phán, khởi kiện ra trọng tài
hoặc tịa án.
Đối với vấn đề xử lý tranh chấp phát sinh từ hợp đồng mua bán nợ tuân theo
các quy định về xử lý tranh chấp nói chung nên ít được đặt ra nghiên cứu sâu trong
bối cảnh riêng về tranh chấp phát sinh từ hợp đồng mua bán nợ.

22



Thứ sáu, các nghiên cứu thực trạng quy định về xử lý tài sản bảo đảm trong
hoạt động mua bán nợ của ngân hàng thương mại:
Cơng trình về “Pháp luật về hoạt động mua bán nợ của tổ chức tín dụng ở Việt
Nam” của tác giả Khúc Thị Phương Nhung [31] đã đưa ra những phân tích nhất định về
xử lý tài sản bảo đảm trong hoạt động mua bán nợ của TCTD thơng qua các khía cạnh
như thủ tục thực hiện việc xử lý tài sản bảo đảm, phương thức xử lý tài sản bảo đảm của
khoản nợ được mua, bán và đưa ra một số nhận xét về ưu điểm và hạn chế của pháp luật
về vấn đề này. Tác giả nhận định quy định của pháp luật dân sự về xử lý tài sản bảo đảm
cũng chính là những quy phạm được áp dụng khi xử lý tài sản bảo đảm của khoản nợ
được mua, bán trong hoạt động mua bán nợ của TCTD cùng với việc áp dụng các quy
định của pháp luật chuyên ngành.
Việc xử lý tài sản bảo đảm được nghiên cứu và đề cập đến trong cơng trình
nghiên cứu về “Pháp luật về bảo đảm thực hiện hợp đồng tín dụng bằng biện pháp
bảo lãnh” của tác giả Phạm Văn Đàm [19]. Công trình này chỉ phân tích về việc xử
lý tài sản bảo đảm thực hiện hợp đồng tín dụng bằng biện pháp bảo lãnh nói chung
mà chưa đề cập đến các biện pháp bảo đảm khác, cũng như việc xử lý tài sản bảo
đảm trong hoạt động mua bán nợ của NHTM.
1.2. Đánh giá tổng quan tình hình nghiên cứu
1.2.1. Những vấn đề đã được giải quyết qua các cơng trình nghiên cứu
trước đây và được kế thừa trong luận án
Các cơng trình nghiên cứu trước đây đã đề cập, nghiên cứu một số vấn đề lý
luận về mua bán nợ của NHTM, thơng qua các khía cạnh về khái niệm, đặc điểm,
phân loại nợ của NHTM; khái niệm, đặc điểm mua bán nợ của NHTM; vai trò của
hoạt động mua bán nợ của NHTM, các nguyên tắc của hoạt động mua bán nợ của
NHTM và các vấn đề lý luận pháp luật về mua bán nợ của NHTM.
Một là, về vấn đề lý luận về mua bán nợ của ngân hàng thương mại:
Về khái niệm, đặc điểm, phân loại nợ của ngân hàng thương mại:
Nợ được hiểu là nghĩa vụ của một bên đối với một bên khác. Trong đó, nợ của
NHTM phát sinh như một hệ quả tất yếu từ hoạt động tín dụng của NHTM trong
q trình hoạt động kinh doanh. Nợ xấu là những khoản nợ được kinh doanh kém


23


hiệu quả, khó có khả năng thu hồi. Nợ xấu của NHTM phát sinh từ hoạt động kinh
doanh, kiểm soát rủi ro kém hiệu quả và có thể ảnh hưởng đến sự phát triển bền
vững của hệ thống ngân hàng. Do đó, nợ xấu ln được các ngân hàng quan tâm và
đặt dưới sự kiểm soát chặt chẽ.
Về đặc điểm, nợ của NHTM có một số đặc điểm như: (i) phát sinh từ hoạt
động kinh doanh của NHTM, (ii) là mối quan hệ về tài sản và (iii) thường mang
nhiều rủi ro.
Về phân loại nợ, nợ được phân loại thành hai nhóm đối tượng chính là (i)
khoản nợ hoạt động bình thường và (ii) nợ xấu. Khoản nợ hoạt động bình thường là
những khoản nợ có khả năng sinh lời cho ngân hàng, có khả năng thanh tốn đúng hạn
hoặc khơng q trễ so với hạn thanh tốn. Nợ xấu thường bị xem là những khoản nợ
mất hoặc có khả năng mất khơng thể thanh tốn. Để phân loại nợ có thể dựa vào
phương pháp định lượng hoặc định tính. Phương pháp định lượng đưa ra những con số
cụ thể để quy định một khoản nợ đạt những con số đó thì sẽ bị xem là nợ xấu, ví dụ quá
một thời hạn nhất định mà khoản nợ vẫn chưa được thanh tốn. Phương pháp định tính
khơng đưa ra con số cụ thể mà dựa trên những thước đo khác, như nghi ngờ về việc
con nợ khơng có khả năng thanh toán để đánh giá một khoản nợ là nợ xấu.
Về khái niệm, đặc điểm, vai trò của mua bán nợ của ngân hàng thương mại:
Mua bán nợ là việc chuyển quyền sở hữu đối với quyền đòi nợ từ bên bán nợ
sang bên mua nợ theo nguyên tắc có đền bù, bên bán bán quyền đòi nợ còn bên mua
thanh toán cho bên bán một khoản tiền để được sở hữu quyền địi nợ đó.
Mua bán nợ đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế, đặc biệt đối với hoạt
động ngân hàng, hoạt động này như một biện pháp xử lý nợ xấu được ưa chuộng,
giúp NHTM thu hồi được một phần vốn kinh doanh, cải thiện khả năng thanh khoản
và giúp hạn chế những rủi ro trong hoạt động ngân hàng. Ngoài ra, đối với bên mua
nợ, mua bán nợ đóng vai trị là một kênh đầu tư với mục tiêu lợi nhuận.

Về nguyên tắc của hoạt động mua bán nợ của ngân hàng thương mại: Hoạt
động này được thực hiện dựa trên các nguyên tắc cơ bản như ngun tắc tự nguyện,
bình đẳng, thỏa thuận, khơng trái với quy định pháp luật.

24


Hai là, về vấn đề lý luận pháp luật về mua bán nợ của ngân hàng thương mại
Đây là quan hệ xã hội cần thiết được điều chỉnh bởi các quy phạm pháp luật,
là phương tiện để nhà nước quản lý hoạt động mua bán nợ thông qua việc ban hành
các quy tắc ứng xử cụ thể đối với các đối tượng tham gia hoặc liên quan đến hoạt
động mua bán nợ của NHTM.
Bên cạnh đó, một số cơng trình nghiên cứu cũng đề cập đến khía cạnh thực
trạng pháp luật mua bán nợ hiện nay thông qua các nội dung như quy định về đối
tượng mua bán nợ; chủ thể mua bán nợ; cơng cụ thanh tốn trong hoạt động mua
bán nợ và các vấn đề pháp lý khác có liên quan.
Về đối tượng của hoạt động mua bán nợ của ngân hàng thương mại: được xác
định là các khoản nợ phát sinh từ hoạt động cấp tín dụng của NHTM và cần phải
đáp ứng một số điều kiện nhất định theo quy định của pháp luật để có thể đưa vào
hoạt động kinh doanh.
Về chủ thể tham gia hoạt động mua bán nợ của ngân hàng thương mại: các
cơng trình trước đây tập trung nhiều vào các chủ thể VAMC và DATC.
Về các cơng cụ thanh tốn trong hoạt động mua bán nợ của ngân hàng thương
mại: các cơng trình nghiên cứu trước đây cũng đã nghiên cứu và đề cập đến những đặc
điểm của các công cụ thanh toán là trái phiếu, trái phiếu đặc biệt của VAMC và tiền.
Về hợp đồng mua bán nợ của ngân hàng thương mại: các cơng trình nghiên
cứu trước đây đã có những kết quả nghiên cứu tương đối đầy đủ các vấn đề đối
tượng, giá mua bán nợ, quyền và nghĩa vụ của các bên, hiệu lực của hợp đồng,
chấm dứt hợp đồng và xử lý tranh chấp.
Về xử lý tài sản bảo đảm trong hoạt động mua bán nợ của ngân hàng thương

mại: đây là một giai đoạn quan trọng trong việc thu hồi khoản nợ. Theo đó, các
cơng trình nghiên cứu trước đây đã đánh giá tương đối đầy đủ các vấn đề phát sinh
trong hoạt động xử lý tài sản bảo đảm và các phương pháp xử lý tài sản bảo đảm.
Về đề xuất hoàn thiện quy định pháp luật: trên cơ sở phân tích lý luận và thực
tiễn hoạt động, các cơng trình nghiên cứu trước đây đã đưa ra một số đề xuất nhằm
hoàn thiện các quy định pháp luật về mua bán nợ của NHTM, như một số định

25


hướng hoàn thiện pháp luật và đề xuất cụ thể nhằm hoàn thiện pháp luật về hoạt
động mua bán nợ của NHTM.
Trên cơ sở kế thừa các nghiên cứu trước đây, luận án so sánh, đối chiếu và
phân tích để đưa ra các đánh giá toàn diện và cập nhật các quy định pháp luật hiện
hành; từ đó đưa ra những nhận định và đề xuất hoàn thiện các quy định pháp luật
một cách phù hợp.
1.2.2. Những vấn đề chưa được giải quyết qua các cơng trình nghiên cứu
trước đây và được tiếp tục nghiên cứu trong luận án
1.2.2.1. Về lý luận về mua bán nợ của ngân hàng thương mại
Lý luận về mua bán nợ của NHTM đã được nhiều cơng trình nghiên cứu đề cập,
đánh giá. Song, những vấn đề sau đây được nghiên cứu sinh nhận định rằng chưa hồn
thiện, do đó cần được tiếp tục nghiên cứu và phát triển trong luận án, bao gồm:
Thứ nhất, về khái niệm, đặc điểm và phân loại nợ của ngân hàng thương mại:
(i) Đưa ra khái niệm về nợ dưới góc độ đánh giá tồn diện mối quan hệ giữa
bên cho vay và bên vay, và nguồn gốc phát sinh khoản nợ đó.
(ii) Đưa ra khái niệm nợ xấu dưới góc độ cả về định lượng và định tính, giúp
NHTM có một cái nhìn tồn diện và đánh giá được nợ xấu dưới hai khía cạnh này.
(iii) Làm rõ mối quan hệ giữa nợ và nợ xấu của NHTM; giữa các loại nợ (nợ
đủ tiêu chuẩn và nợ xấu) đối với hoạt động mua bán nợ của NHTM.
(iv) Làm rõ các đặc điểm nợ của NHTM để hiểu rõ đối tượng được mua, bán

trong hoạt động mua bán nợ của NHTM.
(v) Làm rõ hệ thống, phương pháp phân loại nợ và vai trò của phân loại nợ đối
với NHTM và hoạt động mua bán nợ của NHTM.
Thứ hai, về khái niệm, đặc điểm mua bán nợ của ngân hàng thương mại:
(i) Đưa ra khái niệm mua bán nợ của NHTM, qua đó làm rõ đây là mối quan
hệ chuyển giao quyền yêu cầu thanh toán khoản nợ dựa trên sự tự nguyện.
(ii) Mô tả các đặc điểm mua bán nợ của NHTM một cách tồn diện để có cái
nhìn tổng quát và hiểu rõ bản chất của hoạt động này.
Thứ ba, về vai trò của hoạt động mua bán nợ của ngân hàng thương mại:
Phân tích vai trị của hoạt động mua bán nợ của NHTM dưới góc nhìn bao
quát, sự ảnh hưởng, tác động của hoạt động này đối với từng chủ thể trong hoạt

26


động mua bán nợ nói riêng và đối với nền kinh tế nói chung. Qua đó cho thấy được
tầm quan trọng và sức ảnh hưởng của hoạt động này đối với hoạt động ngân hàng,
kinh tế, xã hội.
Thứ tư, về các nguyên tắc của hoạt động mua bán nợ của ngân hàng thương mại:
(i) Phân tích các nguyên tắc của hoạt động mua bán nợ của NHTM dựa trên
các nguyên tắc chung trong quan hệ hợp đồng, cho thấy việc mua bán nợ là một
phần của các quan hệ hợp đồng.
(ii) Phân tích các nguyên tắc đặc thù của hoạt động mua bán nợ của NHTM để
cho thấy sự đặc trưng của hoạt động này so với các quan hệ hợp đồng nói chung.
Bên cạnh những nguyên tắc chung, các chủ thể khi mua bán nợ còn phải đáp ứng
các nguyên tắc đặc thù của hoạt động này.
Bên cạnh đó, lý luận pháp luật về mua bán nợ của NHTM cũng được một số
cơng trình nghiên cứu trước đây phân tích. Tuy nhiên, việc nghiên cứu phân tích đó
vẫn chưa hồn thiện, do đó, những vấn đề sau đây được nghiên cứu sinh nhận định
rằng cần được tiếp tục nghiên cứu và phát triển trong luận án, bao gồm: (i) khái

niệm pháp luật về mua bán nợ của ngân hàng thương mại: phân tích quy phạm
pháp luật điều chỉnh quan hệ xã hội phát sinh trong mua bán nợ, cho thấy vai trò và
sự cần thiết của các quy phạm pháp luật đối với hoạt động mua bán nợ; từ đó đưa ra
khái niệm pháp luật về hoạt động mua bán nợ của NHTM một cách phù hợp nhất;
(ii) đặc điểm pháp luật mua bán nợ của ngân hàng thương mại: phân tích các đặc
điểm này một cách tồn diện, cung cấp một cái nhìn tổng quát từ nguồn luật điều
chỉnh và chủ thể chịu sự điều chỉnh đến đối tượng điều chỉnh; (iii) các yếu tố ảnh
hưởng tới pháp luật về mua bán nợ của ngân hàng thương mại: phân tích một cách
cụ thể các yếu tố ảnh hưởng đến pháp luật về mua bán nợ của NHTM. Điều này
nhằm hiểu rõ nguồn gốc của các quy định pháp luật hiện hành và có cơ sở đánh giá
các quy định đó, cân nhắc việc đề xuất các quy định pháp luật một cách phù hợp với
các yếu tố này; (iv) những nội dung lý luận pháp luật cơ bản về mua bán nợ của
ngân hàng thương mại: tập trung làm sáng tỏ đối tượng mua bán nợ tức quyền yêu
cầu thanh toán khoản nợ của NHTM để chỉ rõ rằng các khoản nợ được mua bán

27


khơng chỉ có nợ xấu, nhưng trên thực tiễn hoạt động hiện nay, nợ xấu lại chiếm hầu
hết các giao dịch mua bán nợ. Bên cạnh đó, phân tích chủ thể mua bán nợ để thấy rõ
trong hoạt động này có những chủ thể nào tham gia và vai trị của những chủ thể đó
trong thị trường như thế nào. Nghiên cứu sinh cũng nghiên cứu, phân tích nhằm làm
rõ các cơng cụ thanh tốn trong giao dịch mua bán nợ của NHTM một cách toàn
diện. Đồng thời, hợp đồng mua bán nợ của NHTM cũng cần được phân tích dưới
khía cạnh lý luận pháp luật để hiểu rõ về các nguyên tắc xác lập hợp đồng, hình thức,
nội dung, hiệu lực của hợp đồng và giải quyết các tranh chấp phát sinh. Đặc biệt, vấn
đề xử lý tài sản bảo đảm dưới góc độ của bên mua nợ trở thành chủ nợ mới cũng cần
được phân tích cụ thể, vì đây là một khía cạnh quan trọng trong các bài toán thu hồi nợ.
1.2.2.2. Về thực trạng pháp luật mua bán nợ của ngân hàng thương mại hiện nay
Có một số cơng trình đã nghiên cứu một số khía cạnh về thực trạng pháp luật

mua bán nợ của NHTM hiện nay. Tuy nhiên, các cơng trình này chỉ tập trung khai
thác một vài khía cạnh của vấn đề hoặc mới chỉ dừng ở mức độ khảo sát, nghiên
cứu một số hoạt động mua bán nợ và đưa ra các giải pháp mang tính chuyên ngành
kinh tế tài chính, chưa đi sâu về khía cạnh pháp luật mua bán nợ của các NHTM.
Cũng có một số cơng trình nghiên cứu đã tập trung khai thác các khía cạnh pháp
luật về mua bán nợ của NHTM, song vẫn còn nhiều điểm có thể được khai thác,
nghiên cứu sâu sắc hơn, cụ thể là:
Thứ nhất, về đối tượng mua bán nợ của ngân hàng thương mại: có nhiều khái
niệm nợ trong văn bản quy phạm pháp luật Việt Nam, nên cần phân tích để chỉ ra
mỗi văn bản pháp luật đã định nghĩa, đánh giá về nợ như thế nào, để từ đó làm rõ
khái niệm nợ theo quan điểm của các nhà làm luật. Điều kiện đối với khoản nợ của
NHTM được mua, bán cũng cần phân tích để làm rõ các điều kiện mà một khoản nợ
phải đáp ứng để có thể đưa vào giao dịch mua, bán trong các giao dịch mua bán nợ
thơng thường. Khơng chỉ có vậy, VAMC với vai trò và sứ mệnh đặc thù nhằm giải
quyết bài toán nợ xấu cho hệ thống ngân hàng và tiềm lực tài chính từ ngân sách
nhà nước, cần được ban hành các điều kiện chặt chẽ, cụ thể hơn khi muốn mua một
khoản nợ. Qua các phân tích đó có thể hiểu được tồn cảnh các điều kiện để một

28


khoản nợ được đưa vào mua bán bởi từng chủ thể khác nhau, đó là các điều kiện tối
thiểu được đặt ra bởi các nhà làm luật nhằm đảm bảo hoạt động ngân hàng diễn ra
bền vững, ổn định.
Thứ hai, về chủ thể mua bán nợ: làm rõ đặc điểm, vai trò và sứ mệnh của các
chủ thể tham gia vào hoạt động mua bán nợ. Những thành tựu và những hạn chế đối
với các chủ thể này. Những vấn đề cần được giải quyết để các chủ thể tham gia hoạt
động mua bán nợ tiếp tục phát triển và có thể mở rộng phạm vi hoạt động của mình
trên thị trường mua bán nợ của NHTM. Ngoài ra, luận án cũng phân tích về vai trị
và sự cần thiết của các chủ thể khác không phải là hai bên mua bán nợ như là khách

nợ, bên môi giới...
Thứ ba, về cơng cụ thanh tốn trong giao dịch mua bán nợ của ngân hàng
thương mại: tập trung nghiên cứu để làm rõ các cơng cụ thanh tốn trong các giao
dịch mua bán nợ hiện nay, nhất là trái phiếu và trái phiếu đặc biệt của VAMC, qua
đó làm sáng tỏ những điểm đặc thù, vai trị của các cơng cụ thanh toán này đối với
sứ mệnh của VAMC trong việc giải quyết bài toán nợ xấu của hệ thống ngân hàng,
ưu điểm và nhược điểm của những công cụ thanh toán này, những thay đổi cần thiết
để phù hợp với vai trò của VAMC trong thời gian tới.
Thứ tư, về hợp đồng mua bán nợ của ngân hàng thương mại: nghiên cứu làm
rõ hình thức và nội dung hợp đồng cần giao kết. Luận án phân tích sâu một số nội
dung cần có trong hợp đồng mua bán nợ thơng qua việc phân tích đối tượng của hợp
đồng; giá mua bán nợ; quyền và nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng; hiệu lực của
hợp đồng mua bán nợ; chấm dứt hợp đồng và xử lý tranh chấp phát sinh trong mua
bán nợ của NHTM.
Thứ năm, về xử lý tài sản bảo đảm trong hoạt động mua bán nợ của ngân
hàng thương mại: làm rõ vai trò của biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ trong
quan điểm của quốc tế nói chung và Việt Nam nói riêng. Từ đó chỉ ra được rằng bên
mua nợ cũng được chuyển giao quyền xử lý tài sản bảo đảm thông qua việc chuyển
giao quyền địi nợ. Luận án phân tích thêm nhằm làm rõ các cơ chế bảo vệ quyền xử
lý tài sản bảo đảm của bên mua nợ trong các văn bản quy phạm pháp luật hiện hành.

29


1.2.2.3. Về định hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật, cơ chế thực thi pháp luật
để nâng cao hiệu quả thi hành pháp luật về mua bán nợ của ngân hàng thương mại
Về định hướng hoàn thiện pháp luật về mua bán nợ của ngân hàng thương
mại tại Việt Nam: vấn đề định hướng hoàn thiện pháp luật về mua bán nợ của
NHTM đã được trình bày trong nhiều cơng trình nghiên cứu đã cơng bố. Tuy nhiên,
những cơng trình này phần nhiều mới nêu ra những định hướng hồn thiện có tính

chất chung tương tự như những định hướng hoàn thiện phổ biến cho các ngành luật
khác hoặc quá tập trung vào việc xử lý nợ xấu, chưa cụ thể hóa thành những chính
sách đặc thù và áp dụng cho hoạt động mua, bán các loại nợ khác nhau của NHTM.
Về giải pháp hoàn thiện các quy định pháp luật cụ thể về mua bán nợ của
ngân hàng thương mại tại Việt Nam: các cơng trình nghiên cứu hiện nay đã đề xuất
được nhiều giải pháp để hoàn thiện quy định pháp luật về mua bán nợ của NHTM.
Tuy nhiên, cịn có một số vấn đề bất cập đang tồn tại trong các quy định pháp luật
về mua bán nợ của NHTM mà chưa có giải pháp, hoặc giải pháp được đề xuất
khơng phù hợp với tình hình mới trong thời gian gần đây.
Về giải pháp hoàn thiện cơ chế thực thi pháp luật mua bán nợ của ngân hàng
thương mại tại Việt Nam: một số giải pháp hoàn thiện cơ chế thực thi pháp luật mua
bán nợ của NHTM đã được đề cập trong nhiều cơng trình nghiên cứu. Tuy nhiên,
những giải pháp này vẫn chưa đầy đủ, đồng bộ hoặc chỉ quá tập trung vào mục đích
xử lý nợ xấu của NHTM.
1.3. Cơ sở lý thuyết nghiên cứu
1.3.1. Lý thuyết nghiên cứu
Luận án được thực hiện dựa trên sự đúc kết từ nhiều lý thuyết nghiên cứu,
trong đó tiêu biểu là các lý thuyết nghiên cứu sau đây:
Một là, lý thuyết hành vi, lý thuyết về thông tin bất cân xứng, được áp dụng để
nghiên cứu hành vi của các bên khi tham gia giao dịch mua bán nợ và rủi ro phải
gánh chịu liên quan đến khoản nợ.
Hai là, lý thuyết hợp đồng, nhằm phân tích những điều khoản được thiết kế trong
hợp đồng cũng như quá trình soạn thảo, ký kết và thực thi hợp đồng, nguyên nhân phát
sinh các tranh chấp và giải quyết tranh chấp trong hoạt động mua bán nợ của NHTM.

30


Ba là, lý thuyết tiền tệ là lý thuyết dựa trên ý tưởng rằng sự thay đổi trong
cung tiền là động lực chính của hoạt động kinh tế. Lý thuyết tiền tệ lập luận rằng

các ngân hàng trung ương có thể kiểm soát tốc độ tăng trưởng kinh tế bằng cách sử
dụng các địn bẩy của chính sách tiền tệ. Theo lý thuyết tiền tệ, nếu cung tiền của
một quốc gia tăng, hoạt động kinh tế cũng sẽ tăng và ngược lại. Lý thuyết được áp
dụng để thấy rõ bản chất pháp lý của hoạt động mua bán nợ của NHTM và sự can
thiệp của nhà nước trong việc xử lý các khoản nợ xấu của NHTM để đảm bảo sự an
tồn cho hệ thống tài chính, tiền tệ quốc gia.
Bốn là, lý thuyết về rủi ro tín dụng và quản trị rủi ro tín dụng, lý thuyết rủi ro
tín dụng là lý thuyết chỉ ra các tổn thất phát sinh từ việc khách hàng không trả được
đầy đủ cả gốc và lãi của khoản vay hoặc khách hàng thanh tốn nợ gốc và lãi khơng
đúng hạn sau khi được cấp các khoản tín dụng (cả trong và ngoại bảng). Lý thuyết
quản trị rủi ro tín dụng dựa trên quá trình ngân hàng tác động đến hoạt động tín
dụng thơng qua bộ máy và cơng cụ quản lý để phịng ngừa, cảnh báo, đưa ra các
biện pháp nhằm hạn chế đến mức tối đa việc không thu được đầy đủ cả gốc và lãi
của khoản vay hoặc thu gốc và lãi không đúng hạn. Lý thuyết được áp dụng để phân
tích các quy định về phân loại nợ và phương thức xử lý đối với từng nhóm nợ.
1.3.2. Câu hỏi nghiên cứu
Thứ nhất, về lý luận pháp luật mua bán nợ của ngân hàng thương mại: Bản
chất mua bán nợ của NHTM là gì? Những vấn đề lý luận pháp luật mua bán nợ của
NHTM hiện nay đã đầy đủ, đúng đắn hay chưa, cịn có những nội dung nào cần
được hoàn thiện?
Thứ hai, về thực trạng pháp luật mua bán nợ của ngân hàng thương mại hiện
nay: Thực trạng quy định của pháp luật Việt Nam về mua bán nợ của NHTM có
những điểm thành tựu và hạn chế, bất cập nào? Thực tiễn áp dụng các quy định
pháp luật về mua bán nợ của NHTM như thế nào?
Thứ ba, về định hướng và đề xuất hoàn thiện, nâng cao hiệu quả thực hiện
pháp luật về mua bán nợ của ngân hàng thương mại:
Việc hoàn thiện pháp luật về mua bán nợ của NHTM tại Việt Nam cần thực
hiện theo những định hướng chung và những định hướng cụ thể nào? Các giải pháp

31



hoàn thiện quy định pháp luật về mua bán nợ của NHTM là gì để có thể thúc đẩy sự
phát triển và mở rộng của hoạt động mua bán nợ cả về khối lượng giao dịch, đối
tượng giao dịch, chủ thể giao dịch, hình thành một thị trường mua bán nợ hoàn
thiện?
Những cơ chế thực thi pháp luật nào cần phải xây dựng, hoàn thiện nhằm đảm
bảo việc thực hiện các quy định pháp luật mua bán nợ của NHTM tại Việt Nam có hiệu
quả cao?
1.3.3. Giả thuyết nghiên cứu
Giả thuyết thứ nhất, các vấn đề lý luận pháp lý về mua bán nợ của NHTM
chưa đầy đủ, chính xác và chưa bao quát hết được các vấn đề của hoạt động mua
bán nợ của NHTM.
Giả thuyết thứ hai, các quy định của pháp luật Việt Nam về hoạt động mua
bán nợ của NHTM đã được ban hành tương đối đồng bộ và đạt được những thành
tựu nhất định, tuy nhiên vẫn còn những điểm bất cập, hạn chế hoặc chưa đầy đủ, do
vậy chưa xử lý được một cách hiệu quả và bền vững tình trạng nợ xấu của NHTM
và hồn thiện khn khổ pháp lý cho thị trường mua bán nợ ở Việt Nam hiện nay.
Giả thuyết thứ ba, những định hướng hoàn thiện pháp luật mua bán nợ của
NHTM hiện nay cịn mang tính chung chung và thiếu cụ thể, các giải pháp hoàn
thiện pháp luật chưa đầy đủ cũng như chưa có những giải pháp mang tính đột phá
để đáp ứng được nhu cầu thực tiễn, xu thế hội nhập kinh tế quốc tế cũng như hình
thành được một thị trường mua bán nợ của NHTM phát triển ở Việt Nam hiện nay.
1.3.4. Hướng tiếp cận nghiên cứu
Về lý luận, luận án phân tích, làm rõ các khía cạnh lý luận về mua bán nợ của
NHTM cũng như các khía cạnh lý luận pháp luật về vấn đề này thông qua những
nội dung như là: (i) các khái niệm về nợ, nợ xấu, mua bán nợ, khái niệm pháp luật
về mua bán nợ của NHTM; (ii) đặc điểm của nợ, đặc điểm của mua bán nợ và đặc
điểm của pháp luật về mua bán nợ của NHTM (iii) vai trò của hoạt động phân loại
nợ (iv) vai trò và các nguyên tắc của hoạt động mua bán nợ (v) các yếu tố ảnh

hưởng đến pháp luật về mua bán nợ và (vi) những nội dung lý luận pháp luật cơ bản
về mua bán nợ của NHTM.

32


Về thực trạng pháp luật mua bán nợ của NHTM, luận án phân tích, làm rõ hệ
thống các quy định pháp luật hiện hành về mua bán nợ của NHTM, bao gồm: (i) đối
tượng mua bán nợ; (ii) chủ thể mua bán nợ; (iii) cơng cụ thanh tốn; (iv) giá mua
bán nợ; (v) hợp đồng mua bán nợ và (vi) xử lý tài sản bảo đảm của khoản nợ được
mua, bán và giải quyết tranh chấp. Đồng thời, luận án đánh giá thực tiễn thực hiện
các quy định này trên thực tế, đề từ đó phát hiện những điểm phù hợp hay những
bất cập của các quy định này.
Về việc đề xuất hoàn thiện quy định pháp luật và cơ chế thực thi pháp luật về
mua bán nợ, nâng cao hiệu quả thi hành pháp luật, trước hết luận án làm sáng tỏ các
định hướng cho việc hoàn thiện pháp luật về mua bán nợ của NHTM tại Việt Nam,
thông qua những đánh giá, phân tích nội dung và ảnh hưởng của các yếu tố như là quan
điểm, đường lối của Đảng và Nhà nước, hệ thống pháp luật Việt Nam, điều kiện kinh
tế, xã hội, thực tiễn mua bán nợ, thơng lệ và tiêu chuẩn quốc tế, tính khả thi của pháp
luật và kinh nghiệm xây dựng pháp luật từ một số nước khác. Từ đó, luận án đưa ra đề
xuất nhằm hoàn thiện pháp luật về mua bán nợ của NHTM, khắc phục được những hạn
chế, bất cập của hệ thống pháp luật. Bên cạnh đó, luận án cũng đề xuất các giải pháp
hoàn thiện cơ chế thực thi pháp luật mua bán nợ của NHTM để đảm bảo tính hiệu quả
của các quy định pháp luật trong hoạt động mua bán nợ của NHTM.

33


×