Tải bản đầy đủ (.doc) (295 trang)

Thực hiện công bằng giữa các thành phần kinh tế ở Việt Nam hiện nay.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (922.27 KB, 295 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

HỒ TRẦN HÙNG

THỰC HIỆN CÔNG BẰNG GIỮA CÁC THÀNH PHẦN
KINH TẾ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC

Hà Nội - 2021


VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

HỒ TRẦN HÙNG

THỰC HIỆN CÔNG BẰNG GIỮA CÁC THÀNH PHẦN
KINH TẾ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

Ngành: CNDVBC & DVLS
Mã số: 9 22 90 02

LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC

Người hướng dẫn khoa học:

1. PGS.TS. Nguyễn Thị Lan Hương


2. PGS.TS. Vũ Văn Gầu

Hà Nội - 2021


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận án là công trình nghiên cứu của riêng tơi. Các
tài liệu được trích dẫn đầy đủ và rõ ràng. Các số liệu và thơng tin đưa ra
trong luận án đảm bảo tính trung thực và khách quan. Những kết quả
nghiên cứu của luận án và các cơng trình cơng bố của tác giả khơng trùng
với bất kỳ cơng trình nào./.
TÁC GIẢ


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU.................................................................................................................................1

1. Tính cấp thiết của đề tài..................................................................................................1
2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu.....................................................................................3
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án...............................................................4
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận án..................................................4
5. Đóng góp mới của luận án..............................................................................................5
6. Ý nghĩa lý luận và ý nghĩa thực tiễn của luận án:.......................................................... 5
7. Kết cấu của luận án.........................................................................................................5
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN CÁC CƠNG TRÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN
QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN..........................................................................................6

1.1. Những cơng trình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án................................6
1.2. Giá trị tham khảo của các cơng trình được tổng quan và những vấn
đề luận án tiếp tục nghiên cứu..................................................................................25

CHƯƠNG 2: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ THỰC HIỆN CÔNG
BẰNG GIỮA CÁC THÀNH PHẦN KINH TẾ Ở VIỆT NAM.....................................29

2.1. Công bằng, thành phần kinh tế và công bằng giữa các thành phần kinh tế 29
2.2. Cơ sở lý luận của việc thực hiện công bằng giữa các thành phần kinh
tế ở Việt Nam........................................................................................................... 36
Tiểu kết chương 2................................................................................................................62
CHƯƠNG 3: THỰC TRẠNG THỰC HIỆN CÔNG BẰNG GIỮA CÁC THÀNH
PHẦN KINH TẾ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY..................................................................63

3.1. Những thành tựu trong thực hiện công bằng giữa các thành phần kinh tế ở
Việt Nam hiện nay....................................................................................................63

3.2. Những hạn chế trong thực hiện công bằng giữa các thành phần kinh
tế ở Việt Nam hiện nay.............................................................................................90

3.3. Nguyên nhân chủ yếu của những hạn chế trong thực hiện công bằng giữa các
thành phần kinh tế ở Việt Nam hiện nay................................................................112
Tiểu kết chương 3..............................................................................................................121


CHƯƠNG 4: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM ĐẨY MẠNH THỰC HIỆN CÔNG
BẰNG GIỮA CÁC THÀNH PHẦN KINH TẾ Ở VIỆT NAM..................................122

4.1. Nhóm giải pháp về nhận thức.........................................................................122
4.2. Nhóm giải pháp về thể chế............................................................................. 131
4.3. Nhóm giải pháp về tăng cường hiệu quả quản lý, điều hành kinh tế
của Nhà nước......................................................................................................... 138

4.4. Nhóm giải pháp nhằm hồn thiện cơ sở pháp lý thực hiện công bằng giữa các

thành phần kinh tế..................................................................................................149
TIỂU KẾT CHƯƠNG 4...................................................................................................160
KẾT LUẬN........................................................................................................................161
DANH MỤC CÁC CƠNG TRÌNH KHOA HỌC ĐÃ CƠNG BỐ CỦA TÁC GIẢ
CĨ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN..................................................................................165
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO........................................................................166


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT TRONG LUẬN ÁN
BĐXH

Bình đẳng xã hội

CBXH

Công bằng xã hội

CNXH

Chủ nghĩa xã hội

CNTB

Chủ nghĩa tư bản

CNCS

Chủ nghĩa Cộng sản

CPH


Cổ phần hóa

DN

Doanh nghiệp

DNDD

Doanh nghiệp dân doanh

DNNN

Doanh nghiệp nhà nước

DNNVV

Doanh nghiệp nhỏ và vừa

DN FDI

Doanh nghiệp đầu tư trực tiếp nước ngoài

DNTN

Doanh nghiệp tư nhân

KTNN

Kinh tế nhà nước


KTTN

Kinh tế tư nhân

KTTT

Kinh tế thị trường

LLSX

Lực lượng sản xuất

FDI

Đầu tư trực tiếp nước ngoài

PCI

Chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh

QHSX

Quan hệ sản xuất

TBCN

Tư bản chủ nghĩa

TLSX


Tư liệu sản xuất

TPKT

Thành phần kinh tế

TTKT

Tăng trưởng kinh tế

VCCI

Phịng Thương mại Cơng nghiệp Việt Nam

XHCN

Xã hội chủ nghĩa


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Cơng bằng là một hiện tượng xã hội, là khát vọng muôn đời mà nhân
loại tiến bộ khơng ngừng nỗ lực tìm kiếm, vì thế nó ln đồng hành cùng
lịch sử phát triển và sự tiến bộ của xã hội loài người từ xưa đến nay, từ
trong nhận thức đến thực tiễn. Với tư cách là phạm trù lịch sử - xã hội, theo
thời gian, khái niệm công bằng được nhận thức ngày càng đầy đủ hơn với
nhiều chuẩn mực, giá trị được mở rộng. Tùy từng bối cảnh lịch sử xã hội, chế
độ kinh tế, chính trị, văn hố khác nhau mà những chuẩn mực của công bằng
được nhận thức và thực thi có những nét khác biệt.

Nói đến cơng bằng và cơng bằng xã hội thì nhất định khơng thể
khơng xem xét vấn đề trên phương diện kinh tế mà tập trung nhất là công
bằng giữa các thành phần kinh tế với tư cách là các chủ thể của một nền
sản xuất xã hội. Công bằng giữa các thành phần kinh tế là biểu hiện tập
trung nhất của công bằng kinh tế. Thực chất đó là việc thực hiện hài hịa lợi
ích giữa các thành phần kinh tế nói chung và các chủ thể kinh tế nói riêng
trên phương diện cơ bản là tiếp cận cơ hội và các nguồn lực để phát triển
và được thụ hưởng các thành quả phát triển một cách công bằng, hợp lý
trên thực tế thông qua hệ thống chính sách, cơ chế và cơng cụ luật pháp.
Thực hiện tốt công bằng giữa các thành phần kinh tế là động lực quan trọng
để phát triển kinh tế, bởi nó là yếu tố có tác động trực tiếp, mạnh mẽ nhất
đến lợi ích của các chủ thể kinh tế, thúc đẩy sự năng động, sáng tạo của
doanh nghiệp và người lao động, giúp nền kinh tế cởi bỏ các rào cản, huy
động tối đa các nguồn lực, giải phóng sức sản xuất tiềm tàng nhằm thúc
đẩy kinh tế và xã hội phát triển. Quan trọng hơn, thực hiện cơng bằng giữa
các thành phần kinh tế cịn là điều kiện cốt lõi để thực hiện công bằng xã
hội và tiến bộ xã hội, là nền tảng, cơ sở cho sự ổn định chính trị - xã hội và
phát triển của đất nước.
Việt Nam là một quốc gia có xuất phát điểm kinh tế thấp lại trải qua
những tổn thất nặng nề từ các cuộc chiến tranh. Do vậy, việc lựa chọn mục
tiêu tiến lên chủ nghĩa xã hội bằng con đường xây dựng, phát triển một nền
7


kinh tế thị trường tiến bộ, hiện đại, chưa có tiền lệ là một sự lựa chọn can
đảm đầy khó khăn. Dù trải
qua mn vàn thử thách, có cả những sai lầm phải trả giá, song những
thành quả phát triển của ngày hôm nay đã chứng tỏ sự lựa chọn đó là hồn
tồn đúng đắn. Thành quả ấy là kết quả của việc khơng ngừng tìm tịi,
nghiên cứu, sẵn sàng thử nghiệm những cải cách trong suốt quá trình xây

dựng, phát triển đất nước mà trước hết là trong lĩnh vực kinh tế. Trong suốt
chặng đường đó, thực hiện cơng bằng xã hội nói chung và cơng bằng kinh
tế nói riêng vẫn luôn được xem là một trong những mục tiêu ưu tiên xuyên
suốt của Đảng và Nhà nước ta nhằm hướng tới xây dựng một xã hội “dân
giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
Sau 35 năm đổi mới đất nước, nhìn theo chiều hướng tích cực, kinh
tế Việt Nam đã có sự phát triển vượt bậc, đạt nhiều thành tựu quan trọng,
tốc độ tăng trưởng ổn định, đời sống nhân dân ngày càng được nâng cao,
công bằng xã hội và công bằng kinh tế từng bước được thực hiện. Thực
tiễn 35 năm đổi mới cũng cho thấy sự nhìn nhận của Đảng đối với các vấn
đề kinh tế đã có một bước tiến dài, thể hiện sự năng động, nhạy bén song
cũng không kém phần cẩn trọng và khoa học. Trong đó, theo chúng tơi, điều
quan trọng nhất là tồn hệ thống chính trị đã ln quan tâm đến vấn đề thực
hiện công bằng giữa các thành phần kinh tế trong điều kiện phát triển kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Chủ trương nhất quán của
Đảng, Nhà nước ta là không phân biệt đối xử giữa các thành phần kinh tế
và tạo lập môi trường pháp lý bình đẳng, thơng thống, ổn định để các chủ
thể kinh tế tự do hợp tác, cạnh tranh nhằm phát huy tối đa hiệu quả của các
thành phần kinh tế trong một nền kinh tế quốc dân thống nhất.
Có thể thấy, cơng bằng giữa các thành phần kinh tế với tư cách các
nhóm chủ thể khác nhau của xã hội đã được Đảng, Nhà nước nhìn nhận,
đánh giá vượt khỏi các mục tiêu kinh tế đơn thuần để vươn đến các mục tiêu
xã hội, chính trị và cả văn hóa. Nó cũng cho thấy, xử lý tốt vấn đề này không
chỉ giúp chúng ta thành công trên mặt trận phát triển kinh tế mà còn đạt được
những thành tựu trong lĩnh vực đời sống xã hội, qua đó thể hiện tính ưu việt
8


của chế độ chính trị chúng ta đang theo đuổi.
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu không thể phủ nhận ấy, nền

kinh tế nước ta những năm qua cũng đang bộc lộ khơng ít vấn đề cấp bách
cần sớm nhận
thức và giải quyết, như mơ hình tăng trưởng chưa hợp lý; thể chế, cơ chế
lạc hậu và nhiều bất cập; năng suất lao động thấp, nền kinh tế kém năng
động, thiếu động lực phát triển; tình trạng tham ơ, tham nhũng tràn lan, nợ
công, nợ xấu ở mức nghiêm trọng… Những hạn chế ấy đang làm cho nền
kinh tế tiềm ẩn nguy cơ bất ổn và kéo theo nhiều hệ lụy phức tạp về mặt
chính trị, xã hội.
Hệ quả đó do nhiều nguyên nhân, nhưng một trong những nguyên
nhân quan trọng là vấn đề cơng bằng nói chung và cơng bằng giữa các
thành phần kinh tế nói riêng dù đã được chú trọng nhưng thực hiện chưa
tốt, chưa thực chất và cịn gặp rất nhiều khó khăn. Dù chủ trương của Đảng
và Nhà nước là xây dựng môi trường cạnh tranh bình đẳng, minh bạch,
nhưng trên thực tế, các thành phần phần kinh tế vẫn chưa thực sự được
đối xử công bằng, đặc biệt là trong tiếp cận cơ hội, nguồn lực phát triển và
trong phân phối. Khu vực kinh tế công dù năng suất và hiệu quả hạn chế
nhưng lại đang nhận được quá nhiều ưu đãi cả về cơ chế, chính sách, lẫn
cơ hội và nguồn lực... so với khu vực kinh tế dân doanh. Thực tế đó đang
trói buộc, kìm hãm sức sống năng động của nền kinh tế, làm xói mịn động
lực của các chủ thể kinh tế, gây tổn hại đến mục tiêu phát triển kinh tế và ổn
định chính trị, xã hội.
Thực tiễn đó đang đặt ra thách thức, cũng là nhu cầu cần sớm đánh
giá đầy đủ hiện trạng vấn đề, từ đó có giải pháp đẩy mạnh thực hiện cơng
bằng giữa các thành phần kinh tế một cách thực chất và hiệu quả hơn,
nhằm khơi thông động lực, sức sáng tạo cho mọi chủ thể kinh tế vì mục tiêu
chung, sớm đưa đất nước phát triển cường thịnh. Xuất phát từ tính cấp
thiết nói trên, tác giả lựa chọn vấn đề “Thực hiện công bằng giữa các
thành phần kinh tế ở Việt Nam hiện nay” làm đề tài nghiên cứu của luận
án.
9



2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích:
Luận án có mục đích làm sáng tỏ những nội dung cơ bản trong lý
luận và thực tiễn thực hiện công bằng giữa các thành phần kinh tế ở Việt
Nam hiện nay, từ đó đề xuất một số giải pháp nhằm đẩy mạnh thực hiện
công bằng giữa các thành phần kinh tế ở Việt Nam.

10


* Nhiệm vụ:
Để thực hiện được mục đích trên, luận án tập trung giải quyết những
nhiệm vụ sau:
Thứ nhất, tổng quan các cơng trình nghiên cứu liên quan đến đề tài
luận án.
Thứ hai, hệ thống hóa và phân tích một số vấn đề lý luận về công
bằng giữa các thành phần kinh tế ở Việt Nam.
Thứ ba, nghiên cứu, phân tích, đánh giá những thành tựu cũng như
hạn chế và nguyên nhân hạn chế của việc thực hiện công bằng giữa các
thành phần kinh tế ở Việt Nam hiện nay.
Thứ tư, đề xuất một số giải pháp nhằm đẩy mạnh thực hiện công
bằng giữa các thành phần kinh tế ở Việt Nam.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án
* Đối tượng nghiên cứu: Luận án nghiên cứu công bằng giữa các
thành phần kinh tế ở Việt Nam hiện nay
* Phạm vi nghiên cứu: Luận án chủ yếu nghiên cứu việc thực hiện
công bằng giữa khu vực kinh tế nhà nước và khu vực kinh tế ngoài nhà
nước mà đại diện là giữa các doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp tư

nhân, doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngồi trên các phương
diện: cơng bằng về cơ hội; cơng bằng về chính sách, pháp luật; cơng bằng
về tiếp cận nguồn lực; công bằng về phân phối.
Về thời gian, luận án nghiên cứu vấn đề công bằng giữa các thành
phần kinh tế tại Việt Nam từ khi đất nước bước vào đổi mới cho đến nay,
đặc biệt tập trung vào giai đoạn 10 năm trở lại đây (2011 – 2020).
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận án
* Cơ sở lý luận của luận án:
- Cơ sở lý luận của luận án là chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ
nghĩa duy vật lịch sử.
- Luận án được thực hiện trên cơ sở các chỉ dẫn lý luận và phương
pháp luận về công bằng theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư
tưởng Hồ Chí Minh cũng như quan điểm về công bằng giữa các thành phần
11


kinh tế của Đảng Cộng sản Việt Nam.
- Luận án cũng sử dụng tài liệu, báo cáo của các Bộ, Ngành có liên
quan cũng như các cơng trình nghiên cứu của các nhà khoa học trong và
ngoài nước liên quan đến đề tài.
* Phương pháp nghiên cứu của luận án:
Luận án sử dụng các phương pháp nghiên cứu của chủ nghĩa duy
vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, đồng thời kết hợp với các
phương pháp: lô gic - lịch sử, phân tích - tổng hợp, so sánh - đối chiếu và
hệ thống hóa trên tinh thần kết hợp giữa lý luận và thực tiễn.
5. Đóng góp mới của luận án
- Luận án góp phần làm sáng tỏ cơ sở, thực chất và nội dung lý luận
về thực hiện công bằng giữa các thành phần kinh tế ở Việt Nam
- Luận án xác định những đặc thù và chỉ ra những hạn chế trong thực
hiện công bằng giữa các thành phần kinh tế ở Việt Nam hiện nay

- Luận án đề xuất một số giải pháp cơ bản nhằm đẩy mạnh thực hiện
công bằng giữa các thành phần kinh tế ở Việt Nam.
6. Ý nghĩa lý luận và ý nghĩa thực tiễn của luận án:
-Luận án góp phần cung cấp những luận cứ lý luận về công bằng
giữa các thành phần kinh tế nói chung và tại Việt Nam nói riêng
-Luận án có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo cho các cơ
quan hoạch định chính sách, cho sinh viên, học viên và những ai quan tâm
đến vấn đề cơng bằng nói chung và cơng bằng giữa các thành phần kinh tế
tại Việt Nam nói riêng.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, luận án được kết
cấu gồm 4 chương và 11 tiết.

12


Chương 1
TỔNG QUAN CÁC CƠNG TRÌNH NGHIÊN CỨU
LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
1.1. Những cơng trình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án
Vấn đề cơng bằng nói chung và cơng bằng trong kinh tế nói riêng đã có
nhiều học giả trong và ngồi nước tiếp cận nghiên cứu trên những khía cạnh
khác nhau cả về lý luận lẫn thực tiễn. Có thể khái quát một số nghiên cứu chủ
yếu như sau:
1.1.1. Những nghiên cứu liên quan đến lý luận về công bằng và
công bằng giữa các thành phần kinh tế
1.1.1.1. Một số nghiên cứu nước ngoài về công bằng, công bằng xã hội
Nghiên cứu về công bằng trong lịch sử, cả phương Đơng và phương
Tây nói chung thường không tách rời khỏi công bằng xã hội (CBXH). Đối
với các học giả phương Tây ngoài mácxit hiện nay, các nghiên cứu về công

bằng, CBXH lại thường gắn với việc xem xét công bằng từ giác độ kinh tế.
Trong các nghiên cứu hiện có về chủ đề này ở phương Tây hiện đại
trước hết cần nhắc đến John Rawls với tác phẩm: “Lý thuyết về Cơng lí" (A
theory of Justice) nổi tiếng của ông (Revised edition, USA, 2001). Trong tác
phẩm này, J. Rawls đã trình bày quan điểm về cơng bằng của ơng trên nền
tảng phân tích mối quan hệ giữa công bằng và thể chế xã hội. Theo ông,
thể chế xã hội quyết định việc lựa chọn các nguyên tắc phân chia cả quyền
lợi và những nghĩa vụ cơ bản. John Rawls khẳng định, cơng lý với tính cách
là cơng bằng chính là chuẩn mực của trạng thái xã hội lý tưởng mà ở đó
các cá nhân khi tham gia vào xã hội một cách tự nguyện sẽ ngày càng đạt
được lợi ích tối đa cho mình. Với ông, công bằng hay không công bằng
không phải là sự khác nhau ở xuất phát điểm của mỗi cá nhân, mà chủ yếu
là ở chỗ khi tham gia vào các hợp tác xã hội, nếu cá nhân đó chưa hoặc
khơng có sự bình đẳng với các cá nhân khác về một số phương diện (sinh
học hay xã hội) nhưng nếu họ vẫn tự nguyện chấp nhận cơ chế hoạt động
xã hội chung thì đó vẫn là cơng bằng… Lý luận về công bằng của John
13


Rawls đã đặt nền tảng, phương hướng cho các chính sách xã hội ở nhiều
quốc gia trên thế giới.

14


Tác phẩm Cơng bằng và chính trị của sự khác biệt (Justice and
Politics Difference) của Iric Masion Young (Princeton University Press,
Oxford, 1990) đã kế thừa quan điểm CBXH của John Rawls đồng thời bổ
sung vào đó một số quan điểm của C.Mác về các nguyên tắc phân phối.
Theo tác giả, cần thiết phải mở rộng khái niệm phân phối, chứ khơng chỉ bó

hẹp trong phạm vi nguồn lực vật chất và thu nhập của cá nhân. Tác giả đề
cập đến việc phải phân phối quyền tự chủ cá nhân, phân cơng lao động và
cả văn hóa, vì đây là những yếu tố cơ bản để mỗi cá nhân sử dụng nhằm
điều chỉnh hoạt động của mình trong các mối quan hệ xã hội.
Cơng trình Cơng bằng phân phối (Distribute Justice), Stanford
Encyclopedia of Philosophy, Mar 5, 2007, đã khái quát các nguyên tắc phân
phối công bằng cơ bản như: phân phối bình quân tuyệt đối, phân phối dựa
trên sự khác biệt, phân phối dựa trên tài nguyên, phân phối dựa trên phúc
lợi xã hội, phân phối dựa trên cống hiến, phân phối tự do chủ nghĩa, phân
phối dựa trên thuyết bình đẳng nam nữ. Những nguyên tắc công bằng phân
phối trên bao gồm cả phân phối lợi ích và trách nhiệm trong hoạt động kinh
tế giữa các cá nhân, các nhóm và các tổ chức…
Tác phẩm Kinh tế học công cộng của nhà kinh tế học Stiglitz, Nxb
Khoa học và kỹ thuật, Hà Nội, 1995, góp thêm một quan niệm về vấn đề
công bằng trong phát triển kinh tế. Tác giả cho rằng chúng ta thường có
những quan điểm mâu thuẫn về nội dung thế nào là cơng bằng, trong đó
điểm quan trọng là sự đánh đổi giữa công bằng và hiệu quả của sự phát
triển. Trong cơng trình này, tác giả cũng chỉ ra mâu thuẫn cơ bản giữa thực
hiện CBXH và hiệu quả phát triển kinh tế, từ đó định hướng giải quyết mối
quan hệ này thông qua mức độ hữu dụng cận biên. Tuy vậy, vẫn còn nhiều
mâu thuẫn trong mối quan hệ giữa CBXH và phát triển kinh tế mà định
hướng này chưa cho thấy tính khả thi để khắc phục.
Tác giả Lý Bân trong tác phẩm Lý luận chung về phân phối của chủ
nghĩa xã hội, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1999, đã lý giải một cách
khách quan về sự hình thành chế độ phân phối xã hội chủ nghĩa (XHCN),
trình bày lý luận về cơ sở và đặc trưng của phân phối cũng như các đặc
15


điểm cơ bản của phân phối XHCN. Với việc phân tích, luận giải, đánh giá

thực tiễn hơn 70 năm tồn tại của kinh tế các
nước XHCN, cơng trình có ý nghĩa quan trọng về mặt lý luận để tham khảo
phục vụ nghiên cứu về quan hệ phân phối ở nước ta, một nước đang quá
độ đi lên chủ nghĩa xã hội (CNXH).
Bên cạnh đó cần phải kể đến 2 tập của „Chuyên khảo về d n chủ
xã hội”. Trong đó, tập 1: Nền tảng của Dân chủ Xã hội (Foundation of
Social Democrac), do Quỹ FES (Friedrich-Ebert-Stiftung) xuất bản tại
Berlin, năm 2009, cho rằng cơng bằng cùng với tự do ồn kết là những
giá trị nền tảng của dân chủ xã hội. Chuyên khảo cũng đã khái lược
tương đối đầy đủ cơ sở lý luận về cơng bằng và CBXH nhìn từ góc độ
triết học. Tập 2 của chuyên khảo với tên gọi: Kinh tế và d n chủ xã hội,
được dịch ra tiếng Việt (Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội, 2014), bên cạnh
việc trình bày các học thuyết kinh tế cơ bản; các hệ thống kinh tế, chế
độ kinh tế cùng các định hướng chính sách kinh tế theo lập trường dân
chủ xã hội, chuyên khảo đã nhấn mạnh vai trị của cơng bằng và bình
đẳng với tư cách là những thước
o quan trọng ể o lường hiệu quả của các chính sách kinh tế.
Một số những cơng trình nêu trên mà luận án tiếp cận được chưa thể
bao quát hết những nghiên cứu về chủ đề này trên thế giới, song đã giúp
tác giả luận án có được một cái nhìn tương đối khái quát những quan điểm
về cơng bằng nói chung và cơng bằng trong kinh tế nói riêng, cũng như các
ngun tắc để thực hiện cơng bằng. Nhìn chung, các nghiên cứu này cho
thấy cơng bằng, CBXH và trong một chừng mực nhất định là cả công bằng
trong kinh tế nữa, thường được xem xét trong mối quan hệ mật thiết với các
phạm trù tự do, bình đẳng, dân chủ, đồn kết…và những vấn đề cụ thể
khác gắn với bối cảnh lịch sử - xã hội của mỗi quốc gia.
1.1.1.2. Những nghiên cứu trong nước về cơng bằng, cơng bằng xã hội
Có thể nói, đây là nhóm cơng trình có số lượng đơng đảo nhất. Trong
phạm vi luận án, xin tổng hợp một số nghiên cứu tiêu biểu như sau:
Trước hết phải kể đến tác giả Lê Hữu Tầng với các cơng trình nghiên

16


cứu tiêu biểu: “Từ tư tưởng của C.Mác về công bằng và bình đẳng trong
chủ nghĩa xã hội”, Tạp chí Triết học, số 2, 1993; “Về Công bằng xã hội”, Tạp
chí Cộng sản, số 19, 1996; Về ộng lực phát triển kinh tế xã hội, Nxb Khoa
học Xã hội, 1997; “Phân
hóa giàu nghèo xét từ góc độ cơng bằng và bình đẳng xã hội”, Tạp chí Triết
học, số 4, 1999; “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn xung quanh việc thực
hiện công bằng xã hội ở Việt Nam hiện nay”, Tạp chí Triết học, số 1, 2008.
Trong các cơng trình này, từ góc độ triết học, tác giả đã luận giải một số vấn
đề lý luận về CBXH và việc thực hiện CBXH trong điều kiện Việt Nam hiện
nay như: CBXH và bình đẳng xã hội (BĐXH); mối quan hệ giữa tăng trưởng
kinh tế (TTKT) và CBXH; động lực phát triển kinh tế xã hội, các nguyên tắc
phân phối trong CNXH…và nhiều vấn đề lý luận quan trọng có liên quan
khác. Có thể nói đây là những cơng trình nghiên cứu về cơng bằng, CBXH
từ phương diện triết học đậm nét nhất của những người làm công tác
nghiên cứu triết học.
Tác giả Phạm Xuân Nam với các công trình : “Thực hiện tiến bộ và
cơng bằng xã hội trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”,
Tạp chí Xã hội học, số 13 (87), 2004; “Tăng trưởng kinh tế và công bằng xã
hội trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”, Tạp chí Cộng
sản, số 7, 2004; “Về khái niệm cơng bằng xã hội”, Tạp chí Xã hội học số 1
(97), 2007; “Vấn đề thực hiện công bằng xã hội”, Tạp chí Xã hội học, số 2,
2007; “Cơng bằng xã hội trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa”, Tạp chí Triết học, số 2, 2008…Trong các nghiên cứu của
mình, tác giả Phạm Xuân Nam đã trình bày nhiều quan niệm và hình thức
thực hiện CBXH khác nhau trên thế giới. Qua việc khảo cứu, đánh giá các
mơ hình kinh tế tiêu biểu trên thế giới, như mơ hình kinh tế thị trường
(KTTT) tự do, mơ hình KTTT xã hội, mơ hình kinh tế kế hoạch hố tập trung

phi thị trường, tác giả đề xuất cách thức giải quyết mối quan hệ giữa thúc
đẩy TTKT với thực hiện CBXH. Tác giả cũng nhấn mạnh công bằng về kinh
tế vẫn được xem là yếu tố cốt lõi của CBXH trong những thập kỷ gần đây.
Vấn đề CBXH trong các lĩnh vực khác tuy có được đề cập đến ở những
17


mức độ khác nhau nhưng vẫn chưa được giải quyết một cách đầy đủ.
Tác giả Nguyễn Minh Hoàn với một loạt các cơng trình bàn về vấn đề
này như: “Thực hiện công bằng xã hội trong điều kiện phát triển nền kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay", Tạp chí Triết
học, số 06, 2003;
“Vai trị của cơng bằng xã hội trong tiến bộ xã hội”, Tạp chí Triết học, số 11,
2005; “Vị trí của công bằng xã hội trong tiến bộ xã hội”, Tạp chí Triết học, số
1, 2006; “Quan điểm của chủ nghĩa Mác về công bằng xã hội với tư cách
thước đo trình độ giải phóng con người", Tạp chí Triết học, số 5, 2007;
Công bằng xã hội trong tiến bộ xã hội, Nxb Chính trị quốc gia, 2009... Trong
các cơng trình của mình, tác giả đã luận giải sâu về khái niệm, nội dung
CBXH trên nhiều phương diện, khía cạnh như: phân phối, mối quan hệ
CBXH với lợi ích, thước đo trình độ giải phóng con người, vai trị điều chỉnh
các quan hệ người trong các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội…
Đáng chú ý, theo tác giả thì nội dung cơ bản của CBXH khơng phải chỉ thể
hiện ở khâu phân phối kết quả sản xuất, mà quan trọng hơn là ở chỗ nó
phải tạo ra sự công bằng về cơ hội để mọi người, mọi chủ thể kinh tế đều
có điều kiện phát triển. Tác giả cũng đã chỉ ra sự khác nhau giữa công
bằng về cơ hội và bình ẳng về cơ hội, từ đó đi đến quan điểm cho rằng,
không nên hiểu công bằng về cơ hội theo nghĩa là tạo cơ hội như nhau cho
mọi người, mọi chủ thể, mà quan trọng hơn là cơ hội đó phải phù hợp với
điều kiện, khả năng của từng chủ thể khác nhau. Nói cách khác, công bằng
về cơ hội phải được hiểu là tạo ra cơ hội phù hợp với mỗi cá nhân, chủ thể.

Các tác giả Phạm Văn Đức, Đặng Hữu Toàn, Trần Văn Đồn…trong
tác phẩm: Cơng bằng xã hội, trách nhiệm xã hội và oàn kết xã hội, Nxb.
Khoa học xã hội, Hà Nội, 2008, đã phân tích và làm nổi bật khái niệm CBXH
ở nhiều khía cạnh, góc độ khác nhau. Thứ nhất CBXH là khái niệm có tính
lịch sử, chịu sự quy định của hoàn cảnh lịch sử cụ thể. Thứ hai, CBXH có
quan hệ mật thiết với BĐXH, nhưng đây là hai khái niệm khác nhau, không
đồng nhất với nhau. Thứ ba, CBXH có mối quan hệ hữu cơ với TTKT;
CBXH là động lực mạnh mẽ thúc đẩy TTKT, ngược lại, TTKT lại là cơ sở,
18


điều kiện để thực hiện CBXH. Ngoài ra, các tác giả cịn tập trung phân tích
các ngun tắc cơ bản để thực hiện CBXH.
Cơng trình Những vấn ề lý luận cơ bản về công bằng xã hội trong iều
kiện nước ta hiện nay, Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội, 2009, Phạm Thị Ngọc
Trầm (chủ biên): Từ góc độ triết học, các tác giả đã tập trung phân tích,
đánh giá và kế thừa có
chọn lọc các quan niệm về CBXH trong lịch sử, kết hợp nghiên cứu kinh
nghiệm thực tiễn về thực hiện CBXH ở một số nước trên thế giới, từ đó đưa
ra một quan niệm thống nhất về CBXH, rút ra những bài học thiết thực cho
việc thực hiện CBXH ở Việt Nam, qua đó đóng góp cơ sở khoa học cho việc
hoạch định chính sách xã hội về thực hiện CBXH phù hợp với điều kiện Việt
Nam hiện nay.
Tác giả Nguyễn Đình Tấn với bài viết “Cơng bằng xã hội và bình đẳng
xã hội”, Tạp chí Lý luận chính trị, số 4, 2014. Theo tác giả, CBXH và BĐXH
là những khái niệm cơ bản của tất cả các khoa học xã hội. Phân biệt giữa
CBXH và BĐXH, tác giả cho rằng CBXH được hiểu là sự phù hợp giữa
năng lực thực tiễn của người ta với địa vị xã hội mà họ có, giữa nghĩa vụ và
trách nhiệm, cống hiến và hưởng thụ, sự hy sinh, đóng góp và sự đền đáp,
cơng lao và sự thừa nhận, giữa làm và hưởng, lao động và trả công, giữa

tội ác và sự trừng phạt…
Tác giả Trần Thảo Nguyên với các cơng trình “Khái niệm cơng bằng
xã hội trong triết học phương Tây hiện đại và vấn đề bình đẳng xã hội trong
“Lý thuyết về công bằng” của J. Rawls”, Tạp chí Triết học, số 6, 2004; Triết
học kinh tế trong “Lý thuyết về công lý” Nxb Thế giới, Hà Nội, 2006. Xuất
phát từ việc tiếp cận công bằng dựa trên nền tảng triết học Phương Tây, tác
giả đã có những phân tích, luận giải vấn đề khá sâu sắc. Nhìn nhận lý
thuyết về cơng lý của J. Rawls qua lăng kính triết học mácxít, tác giả đã chỉ
rõ giá trị và khả năng vận dụng của lý thuyết này ở Việt Nam. So sánh
CBXH trong phân phối khi đối chiếu với lý luận về CBXH của C.Mác trong
“Phê phán cương lĩnh Gotha”, tác giả cho rằng lý luận công bằng trong
phân phối của J. Rawls gợi ý những chuẩn mực cho những cách thức phân
19


phối cụ thể trên thực tế...
Tóm lại, quan điểm của các nhà nghiên cứu trong nước về vấn đề
này tuy có sự khác nhau nhất định nhưng nhìn chung, khi đề cập đến nội
hàm khái niệm công bằng hay CBXH, các tác giả đều đề cập đến sự tương
xứng giữa cống hiến và hưởng thụ, giữa quyền lợi và nghĩa vụ ở từng lĩnh
vực khác nhau. Nhiều tác giả cũng chỉ ra rằng, ở các nước kém phát triển
hay đang phát triển thì nội dung quan trọng nhất của CBXH thường được
đề cập là công bằng kinh tế.
Về khái niệm công bằng và khái niệm bất công, đa số tác giả đều
thống nhất đây là hai khái niệm đối lập nhau. Nếu công bằng được hiểu với
nội hàm như đã phân tích thì bất cơng được hiểu ngược lại với trạng thái
ấy. Chúng tơi cũng nhất trí với quan điểm này.
1.1.1.3. Những nghiên cứu về vấn ề công bằng giữa các thành phần
kinh tế
Từ góc độ lý luận, đặc biệt từ phương diện tiếp cận triết học, trước

hết phải kể đến tác giả Nguyễn Duy Q với cơng trình "CBXH trong điều
kiện KTTT định hướng XHCN", Tạp chí Triết học, số 3, 2008. Tác giả đã
phân tích vấn đề thực hiện CBXH trong điều kiện phát triển nền kinh tế định
hướng XHCN ở Việt Nam hiện nay. Trên cơ sở làm rõ mối quan hệ gắn bó
giữa TTKT với tiến bộ và CBXH, thực trạng thực hiện CBXH ở Việt Nam
trước và trong những năm đổi mới, tác giả đi đến kết luận: chỉ có trên cơ sở
dựa vào CBXH để thúc đẩy TTKT, đồng thời kết hợp TTKT với tiến bộ xã
hội và CBXH ngay trong từng bước của quá trình phát triển, chúng ta mới
vừa bảo đảm được mục tiêu TTKT, vừa giữ được định hướng XHCN trong
phát triển KTTT.
Bài viết “Thực hiện CBXH giữa các thành phần kinh tế - nhìn từ góc
độ lý luận” của tác giả Nguyễn Thị Lan Hương, Tạp chí Triết học, số 7,
2014, cho rằng điểm chung nhất của quan niệm CBXH đó là quan niệm về
phân phối cơng bằng. Tác giả cũng chỉ ra thực chất, cũng như các điều kiện
để thực hiện được công bằng giữa các thành phần kinh tế (TPKT). Theo tác
giả, để thực hiện được công bằng giữa các TPKT phải giải quyết được hai
vấn đề chủ yếu, đó là thực hiện bình đẳng về cơ hội phát triển giữa các
20


TPKT và thực hiện phân phối công bằng giữa các TPKT. Tác giả cũng nêu
một số nguyên tắc phân phối để đảm bảo sự cơng bằng, cũng như tiêu chí
đánh giá công bằng giữa các TPKT.
Tác giả Phạm Thị Ngọc Trầm, trong bài viết CBXH ối với kinh tế– Vài
nét về lý luận và thực tiễn ở Việt Nam hiện nay (Hội thảo khoa học “Những
vấn đề lý luận chung về thực hiện CBXH” – Viện Triết học, 2014), cho rằng
trong mọi nền kinh tế thị trường đều đồng thời tồn tại nhiều TPKT, nhiều
hình thức sở hữu. Trên thị trường, các TPKT cạnh tranh bình đẳng trước
pháp luật, được pháp luật bảo vệ.
Tuy vậy, nền KTTT định hướng XHCN ở nước ta có đặc điểm đặc thù là

kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ ạo, nên cần nhận thức và hành động thống
nhất trong thực hiện CBXH đối với các TPKT nói riêng và sự phát triển xã
hội, nói chung. Tác giả cũng chỉ ra những nội dung cơ bản khi áp dụng
nguyên tắc CBXH vào để xem xét CBXH đối với các TPKT khác nhau trong
nền kinh tế quốc dân.
Tác giả Lương Đình Hải trong bài viết “Công bằng xã hội đối với các
thành phần kinh tế ở Việt Nam hiện nay”, (Hội thảo khoa học Những vấn ề
lý luận chung về thực hiện CBXH, Viện Triết học, 2014) cho rằng nghiên
cứu CBXH đối với các TPKT ở nước ta hiện nay là vấn đề cần thiết nhưng
cũng rất phức tạp khi cả nội hàm khái niệm công bằng lẫn khái niệm TPKT
vẫn chưa được thống nhất và nhất quán trong thực tế. Tác giả cũng chỉ ra
những mâu thuẫn khi vẫn khẳng định kinh tế nhà nước đóng vai trị chủ đạo
với chính chủ trương của Đảng và Nhà nước là: bảo đảm cho sự cạnh
tranh bình đẳng, minh bạch của doanh nghiệp thuộc mọi TPKT. Tác giả
cũng đồng thời chỉ ra hướng khắc phục mâu thuẫn đó.
Tác giả Vũ Văn Viên trong bài viết “CBXH trong nền kinh tế nhiều
thành phần ở Việt Nam hiện nay” (Hội thảo khoa học Những vấn ề lý luận
chung về thực hiện CBXH, Viện Triết học, 2014), khẳng định rằng để phát
triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa một cách bền vững, chúng
ta cần quán triệt quan điểm: cùng với sự phát triển nền kinh tế nhiều thành
phần phải ảm bảo thực hiện CBXH, vì theo tác giả, nếu chỉ chú ý đến tăng
21


trưởng kinh tế mà quên việc thực hiện CBXH tất yếu sẽ dẫn tới sự phân
hoá xã hội sâu sắc, gây bất ổn xã hội, từ đó kìm hãm sự phát triển, thậm chí
đẩy xã hội rơi vào khủng hoảng.
Tại Báo cáo đề dẫn Hội thảo quốc tế: Một số vấn ề lý luận về công
bằng kinh tế và dân chủ kinh tế, tác giả Nguyễn Tài Đông cho rằng: công
bằng kinh tế là biểu hiện đặc thù của công bằng nói chung trong lĩnh vực

đạo đức kinh doanh. Tiêu chuẩn để đánh giá công bằng kinh tế là công
bằng từ quy trình và cơng bằng phân phối. Theo tác giả, giá trị của công
bằng kinh tế được thể hiện ở 5 nguyên tắc công bằng: (1) Các bên cùng có
lợi, (2) ngun tắc trung thực, (3) ngun tắc bình đẳng,
(4) nguyên tắc trình tự và (5) nguyên tắc sửa chữa. Từ đó, tác giả cho
rằng cơng
bằng kinh tế khơng chỉ là cơng bằng phân phối, mà cịn phải nhìn nhận dưới
góc độ bình đẳng về cơ hội, bình đẳng về ngun tắc. Cơng bằng kinh tế
cịn được hiểu như là môi trường cho mọi người, mọi TPKT được tham gia
bình đẳng vào các hoạt động kinh tế, từ việc bình đẳng trước pháp luật,
cơng bằng trong việc tiếp cận chính sách, các nguồn vốn, tín dụng, đất
đai…Tiếp tục phát triển quan điểm trên, trong bài viết “Một số vấn đề về
công bằng kinh tế và công bằng kinh tế ở Việt Nam hiện nay” (Hội thảo
khoa học quốc tế “Tư tưởng của C.Mác về công bằng phân phối và ý nghĩa
thời ại của nó”), tác giả Nguyễn Tài Đơng nhấn mạnh: công bằng kinh tế là
điều kiện tất yếu để kinh tế có thể phát triển nhanh và bền vững, là tiền đề
để tăng của cải xã hội, tăng phúc lợi cho mọi người, nâng cao đời sống
nhân dân.
Tác giả Trần Văn Phịng và Ngơ Thị Nụ có bài “Vai trị của nhà nước
trong việc bảo đảm cơng bằng xã hội trong nền kinh tế thị trường” tại Hội
thảo quốc tế “Thực hiện công bằng xã hội trong iều kiện kinh tế thị trường –
kinh nghiệm quốc tế và Việt Nam” do Viện Triết học phối hợp quỹ Roza
Luxemburg tổ chức tại Ninh Bình, 7/2019. Trong đó các tác giả khẳng định:
Trong nền KTTT ở nước ta, Nhà nước là công cụ tất yếu để thực hiện
CBXH, điều này xuất phát từ bản chất của Nhà nước ta và phù hợp với đòi
hỏi khách quan của sự phát triển và tiến bộ xã hội, đáp ứng mục tiêu dân
22


giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh

Tại Hội thảo quốc tế “Tư tưởng của C. Mác về công bằng xã hội với
dân chủ và ý nghĩa hiện thời của nó”, tác giả Kim Song Bong đã có bài viết
bàn về vấn đề công bằng giữa các TPKT: “C.Mác và vấn đề công ty cổ phần
- phản tư về triển vọng kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”.
Trong bài viết này tác giả bàn về triển vọng của KTTT định hướng XHCN ở
các nước Đông Á từ quan điểm của C. Mác về vai trò của các cơng ty cổ
phần, vai trị của người quản lý…Bài viết gợi mở những vấn đề liên quan
đến việc làm thế nào để đảm bảo công bằng trong một nền KTTT định
hướng XHCN với tư cách là nền kinh tế đa sở hữu với sự tham dự của
nhiều chủ thể kinh tế.
Tác giả Kim Song Bong cịn có bài viết “Quốc hữu hóa và đồng quyết
định: nghiên cứu trường hợp xã hội hóa các phương tiện sản xuất và dân
chủ kinh tế”
trong Hội thảo quốc tế “Thực hiện công bằng xã hội trong iều kiện kinh tế thị
trường – kinh nghiệm quốc tế và Việt Nam” do Viện Triết học phối hợp với
quỹ Roza Luxemburg tổ chức tại Ninh Bình, tháng 7/2019. Trong bài viết
này tác giả bàn về vấn đề quốc hữu hóa qua kinh nghiệm của nước Anh và
đồng quyết định của nước Đức, từ đó gợi mở những cách thức cho xã hội
phương tiện sản xuất và thực hiện dân chủ kinh tế - một trong những phạm
trù gắn bó chặt chẽ với cơng bằng trong kinh tế.
Tác giả Nguyễn Minh Hồn có bài “Mơ hình “kinh tế đoàn kết” trong
thế giới đương đại và ý nghĩa đối với Việt Nam hiện nay” (Hội thảo quốc tế
Đoàn kết xã hội và sự phát triển xã hội, do Học viện Khoa học xã hội và Hội
đồng nghiên cứu Giá trị và Triết học (Mỹ) tổ chức tháng 7/2019 tại Quảng
Ninh). Trong bài viết này tác giả luận chứng về vai trị của cơng bằng trong
xây dựng mơ hình kinh tế đoàn kết -một trong những xu hướng phát triển
của nền kinh tế hiện đại. Tác giả cũng chỉ ra những điểm mà Việt Nam có
thể tham khảo từ việc thực hiện công bằng để xây dựng nền kinh tế này
trên thực tiễn.
Tác giả Arndt Hopfmann với bài “Bàn về công bằng xã hội trong kinh

23


tế chính trị học - Bốn cuộc tranh luận” tại Hội thảo quốc tế “Thực hiện công
bằng xã hội trong iều kiện kinh tế thị trường – kinh nghiệm quốc tế và Việt
Nam” do Viện Triết học phối hợp quỹ Roza Luxemburg tổ chức tại Ninh
Bình, 7/2019. Tác giả đã chỉ ra nhiều vấn đề lý luận cũng như thực tiễn liên
quan đến công bằng trong kinh tế. Tác giả cũng chỉ ra 4 cuộc tranh luận
hiện tại trong giới nghiên cứu kinh tế chính trị về cơng bằng xã hội, về tính
tất yếu của tái phân phối trong nền kinh tế tư bản chủ nghĩa (TBCN) với đặc
trưng là chiếm hữu tư nhân; về sự mở rộng của toàn cầu hóa và vai trị của
nhà nước trong nền kinh tế; và về vai trò của các phong trào xã hội cũng
như Cơng đồn trong thực hiện cơng bằng xã hội.
Tác giả Nguyễn Đình Hịa có bài “Đối xử cơng bằng - điều kiện cơ
bản để kinh tế tư nhân trở thành động lực quan trọng” tại Hội thảo quốc tế
“Thực hiện công bằng xã hội trong iều kiện kinh tế thị trường – kinh nghiệm
quốc tế và Việt Nam” do Viện Triết học phối hợp quỹ Roza Luxemburg tổ
chức tại Ninh Bình, 7/2019.
Tác giả cho rằng cần tạo ra sự công bằng giữa các thành phần kinh tế nhà
nước và tư nhân, các doanh nghiệp (DN) phải thực sự có sân chơi cơng
bằng thì lúc đó Việt Nam mới tạo được sự bứt phá TTKT như lời nhận xét
của các chuyên gia thế giới khuyến cáo Việt Nam.
1.1.2. Những nghiên cứu liên quan đến thực trạng thực hiện
công bằng giữa các thành phần kinh tế ở Việt Nam
Trong những năm qua, một số nghiên cứu của các học giả đã cố
gắng tiếp cận một số vấn đề lý luận và thực tiễn liên quan đến vấn đề này
và bước đầu cho thấy những khía cạnh nhất định trong bức tranh thực
trạng của việc thực hiện công bằng giữa các TPKT, chủ thể kinh tế trong
nền KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam hiện nay. Tiêu biểu có thể kể đến
một số tác giả và cơng trình sau:

Tác giả Lê Hữu Tầng trong các cơng trình: “Phân hóa giàu nghèo xét
từ góc độ cơng bằng và bình đẳng xã hội”, Tạp chí Triết học, số 4, 1999;
“Một số vấn đề lý luận và thực tiễn xung quanh việc thực hiện CBXH ở Việt
Nam hiện nay”, Tạp chí Triết học, số 1, 2008, đã phân tích, làm rõ nhiều vấn
24


đề lý luận, thực tiễn quan trọng. Tác giả cho rằng có lẽ nên thay khái niệm
cơng bằng về cơ hội bằng khái niệm bình ẳng về cơ hội theo nghĩa bình
đẳng trong việc tiếp cận các cơ hội. Tác giả cũng đồng thời cho rằng với
một quốc gia đang ở trình độ phát triển cịn thấp như Việt Nam thì hồn
tồn vẫn có thể thực hiện được CBXH. Từ nghiên cứu thực tiễn Việt Nam,
tác giả chỉ ra rằng, phân phối của chúng ta trong những năm qua chỉ mới là
khá công bằng mà thôi. Nếu Việt Nam không tùy vào điều kiện lịch sử cụ
thể của mình mà chỉ áp dụng một cách máy móc hoặc cứng nhắc một
ngun tắc phân phối nào đó thì khơng tránh khỏi bất công trong phân phối.
Tác giả Phạm Xuân Nam trong trong cơng trình “Cơng bằng xã hội
trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”, Tạp chí
Triết học, số 2, 2008, đã chỉ ra những thành tựu và vấn đề đặt ra trong việc
kết hợp TTKT với CBXH trong nền KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam
gần 30 năm đổi mới. Tác giả đã nêu lên một số vấn đề cịn tồn tại trong q
trình thực hiện CBXH ở Việt Nam. Theo tác giả, Việt Nam vẫn là một
nước đang phát triển với mức thu nhập
thấp, lực lượng lao động xã hội hiện tập trung trong các ngành nơng – lâm –
ngư nghiệp cịn chiếm tỷ trọng lớn, cơng nghiệp cịn nhỏ bé, dịch vụ chưa
phát triển, nền kinh tế chậm được thể chế hóa đồng bộ, chất lượng tăng
trưởng, hiệu quả và sức cạnh tranh còn yếu kém. Trong lĩnh vực phát triển
xã hội, nhiều chính sách cịn bất cập, chưa thực hiện tốt. Đời sống một bộ
phận lớn dân cư cịn rất nhiều khó khăn. Khoảng cách giàu nghèo giữa các
giai tầng xã hội, giữa miền xuôi và miền núi, giữa thành thị và nơng thơn

đang có xu hướng ngày càng tăng. Tỷ lệ lao động thất nghiệp ở thành thị và
thiếu việc làm ở nơng thơn cịn cao. Hiện tượng làm giàu bất chính từ tham
nhũng, bn lậu, đầu cơ, lừa đảo vẫn chưa được ngăn chặn, đẩy lùi…
Tác giả Nguyễn Ngọc Hà trong bài viết “Thực hiện công bằng đối với
kinh tế tư nhân: điều kiện để phát triển kinh tế thị trường ở nước ta hiện
nay” (Hội thảo khoa học “Những vấn ề lý luận chung về thực hiện CBXH”,
Viện Triết học, 2014), đã phân tích vai trị và đóng góp quan trọng của khu
vực KTTN trong sự so sánh với KTNN, từ đó chỉ ra tầm quan trọng đặc biệt
25


×