Tải bản đầy đủ (.pdf) (14 trang)

NHỮNG BIẾN ĐỔI CỦA GIA ĐÌNH VIỆT NAM HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (260.01 KB, 14 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGÂN HÀNG HỒ CHÍ MINH
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

TIỂU LUẬN MƠN: CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC

TÊN ĐỀ TÀI: NHỮNG BIẾN ĐỔI CỦA GIA ĐÌNH VIỆT NAM
HIỆN NAY

Họ và tên sinh viên

: Nguyễn Thị Trúc Ly

Mã số sinh viên

: 030536200109

Lớp, hệ đào tạo

: MLM308_211_D01 , DHCQ

CHẤM ĐIỂM
Bằng số
Bằng chữ

TP.HỒ CHÍ MINH - NĂM 2021


MỤC LỤC
1. Những vấn đề lý luận....................................................................................... 01
1.1. Khái niệm gia đình......................................................................................01
1.2. Vị trí của gia đình trong xã hội...................................................................02


2. Thực trạng chủ đề nghiên cứu........................................................................04
2.1. Những thành tựu......................................................................................... 04
2.2. Những hạn chế cần khắc phục....................................................................06
2.3. Nguyên nhân của những hạn chế............................................................... 07
2.4. Nhận xét-đánh giá của bản thân về thực trạng đã phân tích...................... 08
3. Giải pháp........................................................................................................... 09
4. Kết luận............................................................................................................. 10
TÀI LIỆU THAM KHẢO


i
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
THCS

Trung hoc cơ sở

THPT

Trung học phổ thông

USD

Đồng đô la Mỹ


1
1. Cơ sở lý luận
1.1. Khái niệm gia đình
Gia đình là một cộng đồng người đặc biệt, có vai trị quyết định đến sự tồn tại và
phát triển của xã hội. C.Mác và Ph.Ăngghen, khi đề cập đến gia đình đã cho rằng.

“Quan hệ thứ ba tham dự ngay từ đầu vào quá trình phát triển lịch sử: hàng ngày tái
tạo ra đời sống của bản thân mình, con người bắt đầu tạo ra những người khác, sinh sôi,
nảy nở - đó là quan hệ giữa chồng và vợ, cha mẹ và con cái, đó là gia đình". Cơ sở
hình thành gia đình là hai mối quan hệ cơ bản, quan hệ hôn nhân và quan hệ huyết
thống. Những mối quan hệ này tồn tại trong sự gắn bó, liên kết ràng buộc và phụ thuộc
lẫn nhau, bởi nghĩa vụ, quyền lợi và trách nhiệm của mỗi người, được quy định bằng
pháp lý hoặc đạo lý.
Quan hệ hôn nhân là cơ sở, nền tảng hình thành nên các mối quan hệ khác trong
gia đình, là cơ sở pháp lý cho sự tồn tại của mỗi gia đình. Quan hệ huyết thống là quan
hệ giữa những người cùng một dòng máu, nảy sinh từ quan hệ hôn nhân. Đây là mối
quan hệ tự nhiên, là yếu tố mạnh mẽ nhất gắn kết các thành viên trong gia đình với
nhau.
Trong gia đình, ngoài hai mối quan hệ cơ bản là quan hệ giữa vợ và chồng, quan
hệ giữa cha mẹ với con cái, cịn có các mối quan hệ khác, quan hệ giữa ông bà với
cháu chất, giữa anh chị em với nhau, giữa cơ, dì, chú bác với cháu v.v... Ngày nay, ở
Việt Nam cũng như trên thế giới còn thừa nhận quan hệ cha mẹ nuôi với con nuôi
(được công nhận bằng thủ tục pháp lý) trong quan hệ gia đình. Dù hình thành từ hình
thức nào, trong gia đình tất yếu nảy sinh quan hệ ni dưỡng, đó là sự quan tâm chăm
sóc ni dưỡng giữa các thành viên trong gia đình cả về vật chất và tinh thần. Nó vừa
là trách nhiệm, nghĩa vụ, vừa là một quyền lợi thiêng liêng giữa các thành viên trong
gia đình. Trong xã hội hiện đại, hoạt động ni dưỡng, chăm sóc của gia đình được xã
hội quan tâm chia sẻ, xong khơng thể thay thế hồn tồn sự chăm sóc, ni dưỡng của
gia đình. Các quan hệ này có mối liên hệ chặt chẽ với nhau và biến đổi, phát triển phụ
thuộc vào trình độ phát triển kinh tế và thể chế chính trị-xã hội.
Như vậy, gia đình là một hình thức cộng đồng xã hội đặc biệt được hình thành
duy trì và củng cố chủ yếu dựa trên cơ sở hôn nhân, quan hệ huyết thống và quan hệ
nuôi dưỡng, cùng với những quy định về quyền và nghĩa vụ của các thành viên trong


2

gia đình.
1.2. Vị trí của gia đình trong xã hội
Gia đình là tế bào của xã hội.
Gia đình có vai trò quyết định đối với sự tồn tại, vận động và phát triển của xã
hội. Ph.Ăngghen đã chỉ rõ: “Theo quan điểm duy vật thì nhân tố quyết định trong lịch
sử, quy cho đến cùng, là sản xuất và tái sản xuất ra đời sống trực tiếp. Nhưng bản thân
sự sản xuất đó lại có hai loại. Một mặt là sản xuất ra tư liệu sinh hoạt: thực phẩm, quần
áo, nhà ở và những công cụ cần thiết để sản xuất ra những thứ đó; mặt khác là sự sản
xuất ra bản thân con người, là sự truyền nòi giống. Những trật tự xã hội, trong đó
những con người của một thời đại lịch sử nhất định và của một nước nhất định đang
sống, là do hai loại sản xuất quyết định: một mặt là do trình độ phát triển của lao động
và mặt khác là do trình độ phát triển của gia đình".
Với việc sản xuất ra tư liệu tiêu dùng, tư liệu sản xuất, tái sản xuất ra con người,
gia đình như một tế bào tự nhiên, là một đơn vị cơ sở để tạo nên cơ thể - xã hội. Khơng
có gia đình để tái tạo ra con người thì xã hội khơng thể tồn tại và phát triển được. Vì
vậy, muốn có một xã hội phát lành mạnh phải quan tâm xây dựng tế bảo gia đình tốt,
như chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: “… nhiều đình cộng lại mới thành xã nội, xã hội tốt
thì gia đình càng tốt, gia đình tốt thị xã hội mới tốt. Hạt nhân của xã hội chính là gia
đình.”
Tuy nhiên, mức độ tác động của gia đình đối với xã hội lại phụ thuộc vào bản
chất của từng chế độ xã hội, vào đường lối, chính sách của giai cấp cầm quyền, và phụ
thuộc vào chính bản thân mơ hình, kết cấu, đặc điểm của mỗi hình thức gia đình trong
lịch sử. Vì vậy, trong mỗi giai đoạn của lịch sử, tác động của gia đình đối với xã hội
khơng hồn tồn giống nhau. Trong các xã hội dựa trên cơ sở của chế độ tư hữu về tư
liệu sản xuất, sự bất bình đẳng trong quan hệ xã hội và quan hệ gia đình đã hạn chế rất
lớn đến sự tác động của gia đình đối với xã hội. Chỉ khi con người được yên ấm, hòa
thuận trong gia đình, thì mới có thể n tâm lao động, sáng tạo và đóng góp sức mình
cho xã hội và ngược lại. Chính vì vậy, quan tâm xây dựng quan hệ xã hội, quan hệ gia
đình bình đẳng, hạnh phúc là vấn đề hết sức quan trọng trong cách mạng xã hội chủ
nghĩa.

Gia đình là tổ ẩm, mang lại các giá trị hạnh phúc, sự hài hòa trong đời sống cá


3
nhân của mỗi thành viên.
Từ khi còn nằm trong bụng mẹ, đến lúc lọt lòng và suốt cả cuộc đời, mỗi cá nhân
đều gắn bó chặt chẽ với gia đình. Gia đình là mơi trường tốt nhất để mỗi cá nhân được
u thương, ni dưỡng, chăm sóc, trưởng thành, phát triển. Sự yên ổn, hạnh phúc của
mỗi gia đình là tiền đề, điều kiện quan trọng cho sự hình thành, phát triển nhân cách,
thế lực, trí lực để trở thành công dân tốt cho xã hội. Chỉ trong môi trường yên ấm của
gia đình, cá nhân mới cảm thấy bình yên, hạnh phúc, có động lực để phấn đấu trở
thành con người xã hội tốt.
Gia đình là cầu nối giữa cá nhân với xã hội.
Gia đình là cộng đồng xã hội đầu tiên mà mỗi cá nhân sinh sống, có ảnh hưởng
rất lớn đến sự hình thành và phát triển nhân cách của từng người. Chỉ trong gia đình
mới thể hiện được quan hệ tình cảm thiêng liêng, sâu đậm giữa vợ và chồng, cha mẹ
và con cái, anh chị em với nhau mà khơng cộng đồng nào có được và có thể thay thế
Tuy nhiên, mỗi cá nhân lại khơng thể chỉ sống trong quan hệ tình cảm gia đình, mà
cịn có nhu cầu quan hệ xã hội, quan hệ với những người khác, ngoài các thành viên
trong gia đình. Mỗi cá nhân khơng chỉ là thành viên của gia đình mà cịn là thành viên
của xã hội. Quan hệ giữa các thành viên trong gia đình đồng thời cũng là quan hệ giữa
các thành viên của xã hội. Khơng có cá nhân bên ngồi gia đình, cũng khơng thể có cá
nhân bên ngồi xã hội. Gia đình là cộng đồng xã hội đầu tiên đáp ứng nhu cầu quan hệ
xã hội của mỗi cá nhân. Gia đình cũng chính là mơi trường đầu tiên mà mỗi cá nhân
học được và thực hiện quan hệ xã hội.
Ngược lại, gia đình cũng là một trong những cộng đồng để xã hội tác động đến cá
nhân. Nhiều thông tin, hiện tượng của xã hội thơng qua lăng kính gia đình mà tác động
tích cực hoặc tiêu cực đến sự phát triển của mỗi cá nhân về tư tưởng, đạo đức, lối sống,
nhân cách vv… Xã hội nhận thức đầy đủ và toàn diện hơn về mỗi cá nhân khi xem xét
họ trong các quan hệ xã hội và quan hệ với gia đình. Có những vấn đề quản lý xã hội

phải thơng qua hoạt động của gia đình để tác động đến cá nhân. Nghĩa vụ và quyền lợi
của mỗi cá nhân thực hiện với sự hợp tác của các thành viên trong gia đình. Chính vì
vậy, ở bất cứ xã hội nào, giai cấp cầm quyền muốn quản lý xã hội theo yêu cầu của
mình, cũng đều coi trọng việc xây dựng và củng cố gia đình. Vậy nên, đặc điểm của
gia đình ở mỗi chế độ xã hội có khác nhau. Trong xã hội phong kiến, đề củng cố, duy


4
trì chế độ bóc lột, với quan hệ gia trưởng, độc đốn, chun quyền đã có những quy
định rất khắt khe đối với phụ nữ, đòi hỏi người phụ nữ phải tuyệt đối trung thành với
người chồng, người cha - những người đàn ơng trong gia đình. Trong q trình xây
dựng chủ nghĩa xã hội, để xây dựng một xã hội thật sự bình đẳng, con người được giải
phóng, giai cấp công nhân chủ trương bảo vệ chế độ hôn nhân một vợ một chồng, thực
hiện sự bình đẳng trong gia đình, giải phóng phụ nữ. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng
định: “Nếu khơng giải phóng phụ nữ là xây dựng chủ nghĩa xã hội chỉ một nửa". Vì
vậy, quan hệ gia đình trong chủ nghĩa xã hội có đặc điểm khác về chất so với chế độ
xã hội trước đó.
2. Thực trạng
2.1. Những thành tựu
Sau 35 năm đổi mới, đời sống vật chất, tinh thần của nhiều hộ gia đình khơng
ngừng được cải thiện. Theo báo cáo của Tổng cục Thống kê, tính đến ngày 01/4/2019,
cả nước có 26.870.079 hộ dân cư, tăng 4,4 triệu hộ so với ngày 01/4/2009. Điều kiện
sống và chất lượng cuộc sống của người dân khơng ngừng được nâng cao, thu nhập
bình qn đầu người tăng từ 1.331 USD năm 2010 lên khoảng 2.750 USD năm 2020.
Hầu hết hộ dân cư đang sống trong các ngôi nhà kiên cố hoặc bán kiên cố; hệ thống
thiết chế văn hóa, giáo dục, y tế được đầu tư xây dựng, 99,7% số xã đã có trường tiểu
học và mẫu giáo; 99,5% số xã có trạm y tế; 58,6% số xã có nhà văn hóa, nhờ đó góp
phần gia tăng tuổi thọ trung bình của người dân, từ 72,9 tuổi năm 2010 lên 73,7 tuổi
vào năm 2020. Đây là những điều kiện thuận lợi để mỗi thành viên trong gia đình phát
triển tồn diện, có thời gian quan tâm, chăm lo gia đình no ấm, hạnh phúc.

Bên cạnh điều kiện về mức thu nhập tăng cao thì cơ hội tiếp cận với các loại
hình dịch vụ về giáo dục, văn hóa, giải trí, du lịch của mỗi thành viên trong gia đình
cũng được mở rộng, góp phần nâng cao trình độ nhận thức, năng lực hiểu biết, kỹ năng
làm chủ cuộc sống và xử lý tốt những tình huống phức tạp nảy sinh. Cũng theo đánh
giá của Tổng cục Thống kê về tình hình chất lượng giáo dục trên tồn quốc cho thấy:
“Trình độ dân trí đã được cải thiện, tỷ lệ dân số từ 15 tuổi trở lên biết đọc biết viết tăng
mạnh; hầu hết trẻ em trong độ tuổi đi học phổ thông đang được đến trường, tỷ lệ trẻ
em ngoài nhà trường giảm mạnh trong thập kỷ qua. Tồn quốc có khoảng 91,7% dân
số trong độ tuổi đi học phổ thông hiện đang đi học. Tỷ lệ đi học chung của bậc tiểu


5
học là 101,0%, bậc THCS là 92,8%, bậc THPT là 72,3%. Cả nước có 95,8% người dân
từ 15 tuổi trở lên biết đọc biết viết, tăng 1,8 điểm phần trăm so với năm 2009”.
Đánh giá về một trong những thành tựu nổi bật trong cơng tác gia đình thời gian
qua, Đại hội XIII của Đảng nhấn mạnh: “Trong bối cảnh cách ly, giãn cách xã hội do
ảnh hưởng của đại dịch Covid-19, đã nổi bật lên giá trị văn hóa, đạo đức xã hội, truyền
thống gia đình tốt đẹp; nhiều gương người tốt, việc tốt được nhân rộng, phát huy”.
Cùng với sự phát triển của đời sống xã hội, chất lượng cuộc sống mỗi gia đình
đều được cải thiện về thu nhập, về cơ hội, điều kiện tiếp cận và thụ hưởng các loại
hình dịch vụ văn hóa, giáo dục, y tế, thể dục, thể thao, nâng cao sức khỏe, tuổi thọ. Từ
đó, mỗi thành viên trong gia đình sẽ ý thức rõ hơn về bổn phận, trách nhiệm của bản
thân, góp phần làm cho gia đình ổn định, phát triển với những giá trị văn hóa của gia
đình truyền thống được phát huy.
Trong bối cảnh giao lưu, hội nhập toàn cầu hiện nay, với sự hỗ trợ đắc lực của
công nghệ thông tin, mạng internet, những kinh nghiệm, tri thức và bài học lịch sử của
nhân loại được đăng tải rộng rãi; những nét đẹp trong văn hóa ứng xử của các mơ hình
gia đình thuộc các cộng đồng, tộc người, tôn giáo trong khu vực và quốc tế được giới
thiệu, lan tỏa; cùng với đó là những giá trị văn hóa mới được sản sinh, kiến tạo... Đó là
lượng tri thức phong phú, đồ sộ mà mỗi thành viên trong gia đình người Việt có thể dễ

dàng tiếp cận để vận dụng, soi chiếu vào hệ giá trị gia đình Việt Nam truyền thống,
qua đó thấy được những nét tương đồng và khác biệt, những giá trị độc đáo, đặc trưng
của truyền thống gia đình cần được bảo tồn, gìn giữ, phát huy; những giá trị cũ, lạc hậu
cần được nhận diện để loại trừ và đặc biệt là biết chọn lọc, tiếp biến những giá trị mới,
tiến bộ, văn minh mà các gia đình trên thế giới đang thực hiện.
Theo thống kê, hiện có khoảng 68 triệu người Việt Nam sử dụng internet, hàng
chục triệu người có tài khoản facebook với thời lượng tương tác trên không gian mạng
lớn, năng lực ngoại ngữ của giới trẻ được cải thiện. Đây là những điều kiện thuận lợi
trong việc mở rộng giao lưu, học tập những tinh hoa văn hóa nhân loại, nghiên cứu,
vận dụng và tiếp thu những giá trị thuộc về đời sống văn hóa gia đình của các nước
trong khu vực và thế giới.
Thời gian qua, cùng với sự quan tâm, chỉ đạo quyết liệt, tập trung, sâu sát của
Đảng, Nhà nước với nhiều chủ trương, nghị quyết, chiến lược, đề án và các đạo luật


6
liên quan trực tiếp đến công tác phát triển gia đình đã được tuyên truyền, phổ biến sâu
rộng đến các gia đình trên mọi vùng miền của cả nước, tạo sự chuyển biến lớn trong
nhận thức của cả hệ thống chính trị, cấp ủy đảng, chính quyền các cấp và quần chúng
nhân dân về vai trị, vị trí của cơng tác xây dựng, phát triển gia đình Việt Nam trong
thời kỳ mới. Cụ thể hóa chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước, nhiều phong trào
thi đua thiết thực được triển khai thực hiện nhằm huy động sức mạnh, sức sáng tạo của
mỗi gia đình trong việc xây dựng đời sống mới ngày càng trù phú, giàu đẹp, văn minh.
Điển hình như các phong trào: Tồn dân đồn kết xây dựng đời sống văn hóa: Tồn
dân đồn kết xây dựng nơng thơn mới, đơ thị văn minh; Ơng bà, cha mẹ mẫu mực, con
cháu thảo hiền; Nuôi con khỏe, dạy con ngoan; Gia đình, dịng họ hiếu học; Gia đình
văn hóa; Thơn văn hóa, Làng văn hóa... đã tạo ra những đợt thi đua sôi nổi, thu hút
được đông đảo các thành viên, các gia đình tham gia, góp phần xây dựng gia đình
ngày càng no ấm, bình đẳng, tiến bộ, văn minh; bảo tồn, gìn giữ và phát huy những nét
đẹp văn hóa của truyền thống gia đình, dịng họ.

2.2. Những hạn chế cần khắc phục
Tuy nhiên, bên cạnh những điều kiện thuận lợi thì việc giữ gìn, phát triển hệ giá
trị gia đình Việt Nam cũng đứng trước nhiều khó khăn, thách thức.
Thứ nhất, những tác động của mặt trái nền kinh tế thị trường và quá trình hội
nhập toàn cầu đã làm thay đổi quan niệm của nhiều người về hệ giá trị gia đình. Xu
hướng đề cao giá trị vật chất, tiền tài, danh vị xuất hiện, nhiều người sẵn sàng đánh đổi
danh dự, nhân phẩm của bản thân, gia đình, dịng họ. Tính ích kỷ, chủ nghĩa cá nhân
đã làm đảo lộn những giá trị văn hóa gia đình truyền thống. Một số vụ việc liên quan
đến quyền sở hữu đất đai, phân chia tài sản khiến một số gia đình rơi vào cảnh lao lý,
thậm chí đổ máu, gióng lên những hồi chng báo động về những lỗ hổng trong việc
giáo dục, trao truyền tri thức văn hóa, cung cách ứng xử và đạo lý làm người trong
nhiều gia đình hiện nay.
Thứ hai, mặc dù cơng nghệ truyền thơng có những tác động tích cực đối với sự
phát triển của đời sống xã hội cũng như mỗi gia đình Việt, tuy nhiên, mặt trái của nó
cũng đang tạo ra những khoảng cách giữa các thành viên, giữa các thế hệ. Mức độ
tương tác, giao lưu, chia sẻ theo phương thức truyền thống ngày càng bị giới hạn bởi
giới trẻ dành quá nhiều thời gian cho những tương tác ảo trên không gian mạng, theo


7
đuổi những đam mê, thói quen cá nhân mà lãng quên sợi dây gắn kết với các thành
viên trong gia đình và ngồi xã hội. Trong khơng gian của nhiều gia đình ở đơ thị hiện
nay, mỗi người là một thế giới riêng, khép kín dẫn đến tình trạng cha mẹ, con cái
không thông hiểu nhau, cha mẹ thiếu sự quan tâm khiến các bạn trẻ rơi vào những cạm
bẫy, cám dỗ, những hành động lầm lạc mà người lớn không thể lường trước để ngăn
chặn.
Thứ ba, trước đây, trong mơ hình gia đình truyền thống, nhiều thế hệ cùng
chung sống dưới một mái nhà, mọi người ứng xử có lễ nghi, phép tắc theo quy định về
tôn ti trật tự, thứ bậc vai vế rõ ràng; hành vi của cá nhân được điều chỉnh bằng chuẩn
mực đạo đức, dư luận cộng đồng và những quy định trong hương ước, lệ làng. Tuy

nhiên, hiện nay, cùng với q trình đơ thị hóa, nhịp sống nhanh của xã hội hiện đại và
do ảnh hưởng của sự giao lưu, tiếp xúc với văn hóa phương Tây, mơ hình gia đình
truyền thống tam, tứ đại đồng đường đang dần thu hẹp, nhường chỗ cho sự hiện diện
của gia đình hạt nhân (vợ chồng - con cái), cùng với đó là mơ hình kiến trúc nhà ở của
các gia đình cũng có sự thay đổi. Đan xen những tín hiệu tích cực thì gia đình hiện đại
cũng phải đối diện với nhiều vấn đề mới phức tạp nảy sinh như kiểu mơ hình gia đình
bố mẹ đơn thân, ly thân, kiểu gia đình đồng tính xuất hiện ngày càng nhiều, ảnh hưởng
lớn đến việc duy trì nịi giống, huyết thống và việc giáo dục, trao truyền văn hóa cho
thế hệ trẻ.
2.3. Nguyên nhân của những hạn chế
Trên không gian mạng, bên cạnh những xuất bản phẩm lành mạnh, chính thống,
các thế lực, thù địch, phản động đã phát tán hàng triệu văn hóa phẩm độc hại, cổ súy
cho lối sống nhanh, sống gấp, đề cao sự hưởng thụ, đi ngược lại những giá trị, đạo đức,
thuần phong mỹ tục. Đặc biệt, thông qua mạng xã hội, nhiều tổ chức, hội nhóm phản
động đã sử dụng những chiêu bài, phương thức hấp dẫn để dụ dỗ, lôi kéo thanh thiếu
niên, học sinh, sinh viên tham gia vào các hội nhóm có yếu tố nước ngồi, tun
truyền những loại tà đạo, hay loại hình tơn giáo lạ với những hành động kỳ quặc như
không thờ cúng tổ tiên, chối bỏ, cắt đứt mối quan hệ với người thân, gia đình. Các hiện
tượng đó tạo nên sự biến động lớn về hệ giá trị giữa truyền thống và hiện đại với
những mâu thuẫn, bất đồng đang diễn ra.


8
Do thiếu nền tảng tri thức, thiếu sự quan tâm, giáo dục sâu sát của gia đình,
cộng đồng và các cơ quan, tổ chức liên quan mà nhiều thanh thiếu niên hiện nay có lối
sống, hành động lệch chuẩn, xem nhẹ những giá trị thiêng liêng của gia đình, tình thân,
dẫn đến tình trạng tảo hơn, ly hơn, sống thử trước hôn nhân, nạn nạo phá thai, dịch vụ
đẻ thuê, vấn nạn bạo lực gia đình, nạn bn bán phụ nữ và trẻ em, nạn bạo hành, xâm
hại trẻ em... ngày càng gia tăng với những con số, vụ việc đáng báo động, gây phẫn nộ
trong cộng đồng, xã hội.

Việt Nam đang ở thời kỳ dân số vàng và bắt đầu tiệm cận với tình trạng già hóa
dân số. Nếu khơng có những kịch bản ứng phó tốt thì số người cao tuổi rơi vào trạng
thái cô đơn, không nơi nương tựa sẽ xảy ra. Một bộ phận người cao tuổi ở một số khu
đô thị, thành phố hiện nay đang phải đối diện với tình cảnh thiếu vắng sự chăm sóc,
ni nấng của con cái trong gia đình, thiếu những thiết chế văn hóa cần thiết bên ngồi
gia đình để phục vụ cho những nhu cầu về sinh hoạt, vui chơi, giải trí, nâng cao sức
khỏe và đời sống tinh thần.
2.4. Nhận xét – đánh giá của bản thân về thực trạng đã phân tích.
Trong bối cảnh đất nước khơng ngừng phát triển, hội nhập quốc tế sâu rộng,
có nhiều tác động tích cực và tiêu cực, gia đình Việt Nam đang đứng trước nhiều
thách thức: các vấn đề tiếp tục nảy sinh, truyền thống gia đình ngày càng thu hẹp,
quan hệ hơn nhân và gia đình tự do, rộng mở, ly hơn, sống độc thân, sợ có con. Với
sự bng lỏng giáo dục của gia đình, lối sống thực dụng, mưu cầu vật chất đã chi
phối thái độ, hành vi của các thành viên trong gia đình và xã hội. Văn hóa gia đình
Việt Nam được hình thành và nuôi dưỡng bởi nhiều thế hệ, đề cao đạo đức, phép tắc,
kỷ cương, nuôi dưỡng tâm hồn, rèn luyện phẩm chất, hình thành nhân cách con
người. Gia đình tốt sẽ sinh ra những người tốt, là bảo đảm cho sự tiến bộ của xã hội,
xã hội văn minh và sự phát triển bền vững của đất nước. Ở thời đại nào, văn hóa gia
đình cũng là nền tảng của văn hóa xã hội, vì vậy, làm thế nào để những giá trị này
tiếp tục thấm sâu và thực sự trở thành cội nguồn của sự phát triển gia đình trong bối
cảnh mới.
Đại dịch Covid-19 đã ảnh hưởng rất lớn đến các gia đình Việt Nam. Đây cũng
là những cơ hội để chúng ta hiểu được giá trị của cuộc sống và giá trị đặc biệt của gia
đình. Lâu nay các thành viên vì mưu sinh mà quên mất giá trị cốt lõi của gia đình, đó


9
là sự gắn bó u thương trong lịng mỗi thành viên. Sự tiến bộ của gia đình chủ yếu
thể hiện ở quan hệ gia đình, giáo dục gia đình và bình đẳng giới. Việc tăng cường
giáo dục gia đình, đề cao các giá trị hôn nhân là yêu thương, chia sẻ, bình đẳng và

đặt nền móng cho việc xây dựng hệ giá trị con người trong thời đại mới là điều cần
thiết.
3. Giải pháp
Để vun đắp và phát triển hệ giá trị gia đình trong điều kiện hiện nay, cần thực
hiện đồng bộ nhiều giải pháp, trong đó có những giải pháp cơ bản như:
Thứ nhất, các cấp ủy đảng, chính quyền và mỗi người dân cần ý thức sâu sắc về
vai trị, vị trí và ý nghĩa đặc biệt quan trọng của gia đình đối với sự hình thành nhân
cách con người và sự ổn định, phát triển của quốc gia, dân tộc.
Nâng cao nhận thức, tinh thần trách nhiệm của cả hệ thống chính trị và tồn thể
nhân dân trong việc gìn giữ, phát triển hệ giá trị tốt đẹp của gia đình, nhất là trong điều
kiện hiện nay. Đây cũng là một trong những nhiệm vụ trọng tâm mà Đại hội Đảng toàn
quốc lần thứ XIII đề ra, đó là: "Tập trung nghiên cứu, xác định và triển khai xây dựng
hệ giá trị quốc gia, hệ giá trị văn hoá và chuẩn mực con người gắn với giữ gìn, phát
triển hệ giá trị gia đình Việt Nam trong thời kỳ mới".
Thứ hai, bên cạnh việc phát huy những giá trị tích cực của hương ước, lệ làng,
quy ước cộng đồng trong giáo dục, hình thành nhân cách con người thì trong bối cảnh
hiện nay, các cơ quan ban ngành cần nghiên cứu, bổ sung cơ chế, chính sách, tạo hành
lang pháp lí đầy đủ về cơng tác gia đình.
Đổi mới nội dung, phương thức quản lý nhà nước về lĩnh vực gia đình; phát huy
vai trị của các cơ quan, đoàn thể trong việc đảm bảo quyền tiếp cận, thụ hưởng của
nhân dân cũng như tạo không gian, mơi trường thuận lợi để mỗi cá nhân có cơ hội phát
triển toàn diện. Tăng cường bổ sung nguồn nhân lực làm cơng tác gia đình, trẻ em,
đồng hành với các gia đình trong giải quyết các vấn đề xã hội. Tăng cường nguồn lực
đầu tư xây dựng các thiết chế văn hóa với những hoạt động phong phú, đa dạng thu hút
sự tham gia của các gia đình, nâng cao chất lượng đời sống văn hóa tinh thần của nhân
dân.
Tiếp tục triển khai có hiệu quả các phong trào thi đua; tơn vinh các gia đình làm
ăn kinh tế giỏi, gia đình no ấm, hạnh phúc, tiến bộ, văn minh; lồng ghép việc xây dựng



10
gia đình văn hóa trong các chương trình, mục tiêu, đề án lớn của quốc gia nhằm khẳng
định, lan tỏa những giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp của gia đình. Thực hiện tốt
những mục tiêu đề ra trong Chiến lược phát triển gia đình Việt Nam đến năm 2030, dự
báo xu hướng phát triển và những tình huống mới mà các gia đình có thể đối diện.
Đồng thời mở rộng giao lưu, hợp tác, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, gia tăng sức
mạnh và khả năng thích ứng của mỗi cá nhân, mỗi gia đình trước những biến động của
thời đại.
Thứ ba, phát huy tinh thần gương mẫu của các thế hệ đi trước, những tấm
gương sáng về đạo đức, tri thức của ông bà, cha mẹ trong giáo dục dạy bảo con cháu.
Định hướng năng lực thẩm mỹ, hướng thế hệ trẻ đến những điều tốt đẹp của chân,
thiện, mỹ thông qua các phương tiện truyền thơng, các xuất bản phẩm, các chương
trình văn hóa, văn nghệ, giáo dục đào tạo. Kiểm soát và thẩm định tốt những thơng tin,
luồng tư tưởng có nội dung xấu độc được lan truyền, phát tán trên mạng xã hội để cảnh
báo kịp thời cho người dùng. Đồng thời có những biện pháp xử lý nghiêm minh đối
với những hành vi vi phạm chuẩn mực đạo đức, pháp luật, làm tổn hại đến sự phát
triển bền vững của mỗi gia đình.
4. Kết luận
Gia đình là tế bào của xã hội, điều này chứng tỏ gia đình và xã hội có sự tương
tác, thống nhất hữu cơ. Gia đình là sự sống của xã hội, là tế bào hạnh phúc góp phần
phát triển hài hồ xã hội. Xã hội tạo điều kiện cho gia đình phát triển sự sống. Gia đình
là sản phẩm của lịch sử nhưng với tư cách là tế bào của xã hội. Ăngghen khẳng định.
“Xã hội được phát triển là do hai loại sản xuất quyết định, một một là do trình độ phát
triển của lao động, mặt khác là đo trình độ phát triển của gia đình".
Hiện nay, có rất nhiều vấn đề mà ngồi xã hội không giải quyết được, hoặc giải
quyết không hiệu quả, nhưng nếu đưa vào gia đình lại giải quyết có hiệu quả cho nên
khi nào n ấm gia đình hữu ái trong xã hội thì cá nhân mới thực sự yên tâm và sáng
tạo. Một trong những bất hạnh lớn nhất của con người là lâm vào cảnh vô gia cư, gia
đình lục đục tan nát hoặc nghèo đói khốn khổ. Chính vì những lẽ ấy, việc xây dựng gia
đình mới là một trong những sự nghiệp quan trọng, sự nghiệp cách mạng Xã hội Chủ

nghĩa ở nước ta, đặc biệt là trong q trình cơng nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước.


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2019). Giáo trình Chủ nghĩa Xã hội khoa học ( dành cho
bậc đại học-khơng chun lý luận chính trị ). Nxb Giáo dục, Hà Nội.
2. TS. Nguyễn Huy Phòng (2021). Vun đắp hệ giá trị gia đình Việt Nam hiện nay,
14/07/2021.



×