Tải bản đầy đủ (.docx) (13 trang)

TIỂU LUẬN anhchị hãy phân tích quan điểm về rối loạn tâm lý và triết lý trị liệu của tiếp cận phân tâm học và nêu rõ các luận điểm cơ bản của tiếp cận này

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (69.11 KB, 13 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

MÔN : TÂM LÝ HỌC
LÂM SÀNG ĐẠI CƯƠNG
Giảng viên: PGS-T.S Trần Thu Hương

Họ và tên : Trần Thị Hương
MSSV: 19032018

Hà Nội, tháng 11 năm 2021


Câu 1. Anh/chị hãy phân tích quan điểm về rối loạn tâm lý và triết lý trị liệu của tiếp
cận Phân tâm học và nêu rõ các luận điểm cơ bản của tiếp cận này.

Quan điểm về rối loạn tâm lý và triết lý trị liệu.

Phương pháp phân tâm học: Là phương pháp điều trị bằng đàm thoại- trò
chuyện, đi sâu vào các mối quan hệ nhằm khám phá động cơ và những xung đột
vô thức trong các chủ thể bị nhiễu tâm, lo âu do dồn nén.

Quan niệm về rối loạn tâm lý theo lý thuyết Phân Tâm học:

Mô hình phân tâm xem những vấn đề của người bệnh phát sinh do những căng
thẳng tâm lý giữa những ham muốn vơ thức hướng tới những hành động nào đó và
những ép buộc của hoàn cảnh sống của cá nhân trong quá khứ dồn nén lại. S. Freud
đã nhiều lần khẳng ddingj rằng người ta mắc bệnh là do những xung đột giữa những
yêu cầu của cuộc sống bản năng với sự chống cự xuất hiện bên trong con người
chống lại yêu cầu đó.



Triết lý trị liệu:

Mục tiêu chủ yếu của liệu pháp phân tâm là nhằm’’ bộc lộ vô thức’’. Nhiệm
vụ trọng tâm của nhà trị liệu là hiểu được bằng cách nào bệnh nhân đã sử dụng quá
trình dồn nén để giải quyết chế ngự xung đột. Biết lắng nghe người bệnh để phát hiện
nguyên nhân gì dẫn đến sự mất hài hịa.

Những triệu chứng được xem là những bức thơng điệp từ vơ thức nơi có
những lệch lạc. Nhiệm vụ của nhà phân tâm học là giúp bệnh nhân chuyển những ý
nghĩ bị dồn nén từ bình diện vơ thức để đạt được sự thấu hiểu bên trong mối liên quan
giữa triệu chứng hiện tại và những xung đột bị dồn nén trước đó. Trị liệu được diễn ra
ngay trong suốt q trình trị chuyện vơ thức và bệnh nhân dần dần hồi phục khi họ
được giải thoát khỏi sự dồn nén được thiết lập từ thời thơ ấu. Vì mục tiêu trongjtaam


của nhà trị liệu phân tâm lad hướng bệnh nhân tới sự hiểu rõ mối quan hệ giữa triệu
chứng hiện tại và nguồn gốc qua khứ nên liệu pháp phân tâm thường được gọi là
biện pháp thấu hiểu hay biện pháp giác ngộ.

Mục tiêu của phân tâm học chứa đựng nhiều tham vọng không chỉ nhằm loại
trừ tức thời các triệu chứng tâm bệnh mà còn nhằm xây dựng lại toàn bộ nhân cách .
Trường phái phân tâm cổ điển cố gắng giúp người bệnh tái thiết lập kí ức bị dồn nén
lâu ngày, từ từ trải nghiệm lại những cảm giác căng thẳng hay đau đớn hướng người
bệnh đi tới một giải pháp có hiệu quả.. Đây là loại liệu pháp tâm lý chiếm nhieuf
thời gian nhất, ít nhất cũng vài năm, kĩ thuật này cũng đòi hỏi bệnh nhân nói năng
lưu lốt, có động cơ rõ rệt, nhằm duy trì trị liệu và sẵn sàng chịu phí tổn.

Nhà phân tâm học sử dụng một số kĩ thuật chuyển xung đột bị dồn nén từ vô
thức sang ý thức và giúp bệnh nhân giải quyết xung đột đó. Một số kĩ thuật cơ bản

nhà phân tâm học thường sử dụng là: liên tưởng tự do, phân tích sự chống đối, phâ
tích giấc mơ, phân tích chuyển dịch và chuyển dịch ngược.

Câu 2. Cho trường hợp sau:


Ông B là một doanh nhân 58 tuổi, làm việc tại một cơng ty máy tính. Ơng sinh
trưởng trong một gia đình cơng nhân, là anh cả trong gia đình có 3 anh em. Khi cịn
đi học, ơng ln có kết quả học tập trung bình và mặc dù ơng chưa bao giờ gây rắc
rối cho cha mẹ mình, nhưng ông luôn nhớ rằng mình chưa bao giờ “khiến cha mẹ
mình vui lịng”. Khi cịn nhỏ, ơng ln được cha mẹ nuông chiều và bị các bạn chế
giễu là “đồ bám váy mẹ”. Ở tuổi thiếu niên ông luôn cảm thấy bị các bạn trai cùng
lớp coi thường vì ơng hơi thừa cân. Ông B cưới vợ là bạn gái học cùng lớp phổ thông
trung học. Cuộc hôn nhân của họ đã được 35 năm và họ đã có hai người con. Trong
cơng việc, ơng B có nguồn thu nhập rất cao từ việc cho thuê bất động sản và các
công việc kinh doanh mạo hiểm.


Ơng B có xu hướng tự chỉ trích bản thân mình và người khác về giá trị tài sản
và hình thức bề ngồi. Ơng thường cố tìm cách để được khen ngợi, đơi khi tìm cách
chọc tức mọi người. Vào những lúc quá nhạy cảm với chỉ trích của người khác, ông
cũng trở nên khắt khe và hay bắt bẻ người khác. Ơng ln cố gắng dành được sự u
mến của các con mình bằng tiền hay bằng các món quà, nhưng mối quan hệ giữa
ông và các con luôn ln có khoảng cách. Ơng cảm thấy rằng khi ơng muốn dạy
chúng sống cuộc đời của chúng, thì chúng lại có xu hướng chối bỏ lời khun của
ơng như chối bỏ một sự can thiệp không mong muốn.

Trong hai năm qua, ông luôn cảm thấy bồn chồn, không hạnh phúc và đặc biệt
trong một năm lại đây, ông luôn cảm thấy lo lắng. Dạ dày của ông “luôn luôn bị rối
loạn” và ơng thường “khơng thể nín thở được”. Các bác sĩ đã tiến hành thăm khám

và kết luận ông mắc chứng bệnh viêm đường ruột, một dạng rối loạn đường ruột
nguy hiểm. Một vài bác sĩ đã kê cho ông các thuốc chống lo âu hoặc chống trầm
cảm, nhưng các tác dụng phụ của thuốc khiến ông ngừng sử dụng thuốc. Lúc đó, ơng
cảm thấy bị kích động đến mức không thể ngồi yên, không thể tập trung vào cơng
việc và có những rối loạn trí nhớ.


Gần đây, chất lượng công việc bắt đầu suy giảm. Hầu như đêm nào ông cũng
thức cho tới 3 giờ sáng, với những suy nghĩ quay vịng chung quanh cơng việc và
các vấn đề về cuộc sống hơn nhân. Ơng mơ tả hơn nhân của mình là “cực kỳ căng
thẳng và không thoải mái; hai vợ chồng cố gắng né tránh nhau đến mức có thể. Họ
gặp khó khăn trong đời sống tình dục, và ơng duy trì mối quan hệ tình dục với một
đồng nghiệp từ hơn một năm nay. Ông cảm thấy rằng những dối trá để che giấu mối
quan hệ ngoài luồng này đã bắt đầu gây thiệt hại cho bản thân. Ơng cũng rất lo lắng
vì cơng ty của ơng đang bị thu hẹp lại. Ơng cho rằng chẳng bao lâu nữa là ông bị sa
thải và sẽ chẳng ai cịn muốn th ơng làm việc ở độ tuổi này. Mỗi khi nghĩ tới tương
lai, ông B càng cảm thấy chán nản và thất vọng. Thực tế, ông trở nên bị ám ảnh rằng
ông sẽ chết sớm và đơi khi ơng lại tự hỏi liệu mình có thể tự chết và đặt dấu chấm
hết cho sự khơng an tồn và nỗi lo sợ của mình khơng?


Anh/chị hãy cho biết phản ứng ban đầu của anh/chị về trường hợp này. Dựa
trên tiếp cận nhận thức – hành vi, anh/chị hãy đánh giá trường hợp của ông B, đưa
ra giả thuyết về các nguyên nhân dẫn tới vấn đề của ông B.

Bài làm

Sau khi nghe câu chuyện của Ơng B. Em có một vài nhận định như sau:

Ơng B đang có những nhận thức sai lầm. Dựa vào những niềm tin về những

sự kiện đã xảy ra trong q khứ khiến Ơng B có những nhận định lệch lạc về bản
thân, Ơng là người kém an tồn trong các mối quan hệ và ln tìm cách che giấu đi
những thiếu sót xuất phát từ thời thơ ấu. Bởi khi đó, ơng khơng được đánh giá cao về
năng lực, dù được bố mẹ yêu thương chiều chuộng nhưng lại bị xem là ‘’bám váy
mẹ, điều đó khiến ơng cảm thấy rất tự ti, khiến Ơng thu mình lại việc kết giao với
bạn bè. Cộng với việc bị bạn bè chế giễu, ông tin rằng, những điều mà ông gặp phải
xuất phát từ ngoại hình. Việc bị chế nhạo khơng hẳn xuất phát từ ình trạng thừa cân,
nhung có thể do sự kém tự tin về bản thân. Sau khi đã trưởng thành, Ơng đạt được
những sự thành cơng nhất định trong sự nghiệp kinh doanh nhưng lại mất kết nối với
những người xung quanh. Ơng khơng biết cách thể hiện tình cảm với gia đình, với vợ


con. Tiền bạc có thể khiến ơng cảm thấy an tồn và tự tin hơn, nhưng ơng lại sử dụng
nó nhằm bù đắp tình cảm với những người thân của mình . Dường như Ơng cảm thấy
rất bất lực, điều đó cũng xuất phát từ việc ơng khơng hiểu nhu cầu thực sự của các
con và cả nguyên nhân dẫn tới nhưng việc đó..

Ngun nhân của việc ơng có quan hệ ngồi luồng xuất phát từ những thiếu
sót trong q khứ, Hiện nay, Ông dù được đánh giá là một người thành đạt nhưng
những khúc mắc trong quá khư vẫn ln ảnh hưởng tới ơng. Đồng thời, Ơng cũng
đang phải đối mặt với rất nhiều những vấn đề thể chất và tinh thần m nó khiến ơng
mệt mỏi và kiệt quệ.

Ơng xem trọng tiền bạc bởi có lẽ tiền khiến ơng có cảm giác an tồn hơn, và
ơng cũng có xu hướng đánh giá người khác qua vẻ bề ngoài, Ông luôn muốn được


khen ngợi, việc được khen ngợi sẽ khiến ông cảm thấy bản thân có giá trị. Ơng nhận
định rằng, nếu khơng nhận được những lời khen, thì ơng hồn tồn không được xem
trọng, với ông, việc khen ngợi như một sự cơng nhận cho những giá trị mà ơng có.


Ơng không thể kết nối với con cái, ông muốn hướng con cái theo những giá trị và
quan điểm của ông mà khơng biết rằng, điều đó có thể khiến mối quan hệ giữa ông
và các con ngày một xa cách hơn. Việc làm của ơng có thể xuất phát từ mục địch tốt,
ông tin vào những suy nghĩ và quan điểm của mình và cho đó là cách đúng đắn khiến
các con của ơng hạnh phúc.

Ơng khơng xác định được những giá trị của bản thân mà chủ yếu dựa vào
những đánh giá từ bên ngoài, Niềm tin này rất yếu ớt và có thể sụp đổ bất cứ lúc nào,
chỉ một lời nói hoặc một sự chê bai cũng khiến ông mất niềm tin vào bản thân và rơi
vào khủng hoảng. Khi ông nhận được sự phản ứng từ chối từ bên ngồi, ơng cảm
thấy khơng hạnh phúc. Niềm tn về bản thân của ông bị sứt mẻ, điều đó khiến ơng bị
tổn thương. Thêm vào đó, ơng cịn mắc chứng bệnh dạ dày càng làm ông cảm thấy
mệt mỏi, cộng với tác dụng phụ của thuốc, sự suy giảm sức khỏe càng khiến ông nghi
ngờ về khả năng của bản thân. Việc nghi ngờ về khả năng của bản thân dẫn tới việc
ông lo lắng cho sự nghiệp của mình, mọi việc khơng theo như ơng mong muốn, điều


đó khiến ơng rất khủng hoảng và bất an, ơng khơng thích nghi được với sự thay đổi,
điều này xuất phát từ những bất an trong tâm trí. Mối quan hệ tình dục ở bên ngồi
tạm thời có thể giúp ông lánh xa nguồn cơn stress đến từ gia đình và công việc,
nhưng những sự thiếu hụt trong quá khứ khơng thể bù đắp, thiếu sự cơng nhận từ gia
đình và sự giảm sút về công việc khiến ông không thể lờ chúng đi, nếu những vấn đề
vẫn tồn tại thì ơng khơng thể né tránh chúng được, nếu muốn thực sự giải quyết
những lo lắng, bất an thì ơng cần giải quyết nguyên nhân thực sự của nó.

Nhận xét: Những sự kiện xảy ra trong quá khứ đã có tác động đến ông
B,không được coi trọng, đánh giá cao, ln ám ảnh bởi hình thức bên ngồi. Rằng
nếu bản thân khơng đủ hấp dẫn thì sẽ khơng được chấp nhận,tền bạc là một trong
những cách khiến ông cảm thấy tự tin hơn. Niềm tin được cố rằng những bất hạnh



hiện tại đều xuất phát từ việc kém cỏi , ông chưa từng khiến bố mẹ tự hào, chưa nhận
được sự đánh giá cao từ bạn bè, vì vậy, ơng ln có mong muốn được được bù đắp và
cơng nhận từ mọi người. Rằng chỉ khi ông thành đạt và giàu có, ơng mới có thể nhận
được sự tơn trọng từ người khác.,

Việc người con của Ơng B khơng nghe theo những sự sắp đặt của Ông xuất
phát từ việc họ có những trải nghiệm cá nhân khác và có những sự định hướng phù
hợp hơn, họ từ chối những định hướng của ơng khơng phải bởi vì họ khơng u
thương và tơn trọng Ơng, nhưng điều đó cũng làm ông buồn. hai vợ chồng ông dàn
có những khoảng cách, điều đó xuất phát từ những bất địng trong cuộc sống,

Những lo lắng tuổi già khiến ông bất an với sự nghiệp. Những lo lắng này
xuất phát từ việc ông mất niềm tin vào bản thân, khi mọi chuyện diễn ra khơng được
như ơng mong muốn. Tình trạng mệt mỏi của ông chủ yếu dựa trên nhận định chủ
quan, phi thực tế. Những sự kiện xảy ra càng củng cố những niềm tin của ông về sự
kém cỏi của bản thân. Cuộc sống ln có những điều tốt và xấu xảy ra đồng thời,
nhưng ơng có xu hướng chọn lọc những việc để củng cố cho những niềm tin sẵn có.


Cái việc ông nhớ chưa bao giờ làm bố mẹ hài lịng là cảm giác của riêng
ơng. Chưa bao giờ có ai từng nói với ơng rằng họ tự hào về ơng như thế nào, Chính
điều đó khiến ơng phần nào đó bị mặc cảm, tự ti. Nghĩ rằng bản thân bị coi thường
cũng xuất phát từ cảm nhận của riêng ơng. Ơng lý giải những ngun nhân đó là vì
cân nặng của ơng và vì ơng khơng có thành tích nào được ghi nhận. Ơng tin rằng
mọi chuyện đang dần tệ đ và rơi vào một tương lai tăm tối.

Hậu quả của những nhận thức sai lầm là sự bóp méo hiện thực, làm sai lệch
hiện thực dựa trên suy luận, giải thích, phán đốn chủ quan của thân chủ về thực tại.

Điều đó dẫn tới những cảm xúc tiêu cực đó là sự thất vọng, lo lắng, buồn bã, bực
bội, hối tiếc, vỡ mộng, lo âu, trầm cảm, giận dữ, tuyệt vọng, hổ thẹn, đau đớn, ghen
tị, cảm giác tội lỗi.

HẾT



×